Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong giai đoạn sau cổ phần hoá

Vốn kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn hầu hết là vốn tự có nên rất nhỏ hẹp và hạn chế. Công ty mới chỉ cổ phần hóa 3 năm gần đây nên việc huy động vốn từ các cổ đông vẫn chưa diễn ra mạnh mẽ và có hiệu quả. Công ty cần huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn. Muốn vậy, ban lãnh đạo cần phân tích một cách tỉ mỉ và hoạch định tài chính một cách cụ thể cho từng công việc theo thời gian, đồng thời tìm các nguồn cung ứng vốn. Công ty cần phải tính toán cẩn thận để huy động và sử dụng vốn mang lại hiệu quả cao nhất và tránh rủi ro. Nguồn vốn kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn bao gồm: vốn tự có, vốn vay và vốn từ ngân sách Nhà nước, trong đó chủ yếu là vốn vay và vốn tự có. Đối với nguồn vốn tự có, Công ty cần có những giải pháp để làm tăng vốn tự có của mình một cách hợp lý, có thể bằng lợi nhuận để lại để tái đầu tư hoặc phát hành cổ phiếu. Với tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả và uy tín của Công ty như hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn có thể huy động vốn vay từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cũng rất thuận tiện, hoặc Công ty cũng có thể tăng nguồn vốn vay bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Tuy nhiên, Công ty cần xác định một cơ cấu nguồn vốn hợp lý, cân đối giữa nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn, giữa vốn tự có và vốn vay.

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong giai đoạn sau cổ phần hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0% - 65% thị phần. Tại địa bàn tỉnh Sơn La: Thị trường tiêu thụ xi măng Bỉm sơn tại khu vực này bao gồm tỉnh Hoà Bình và một số tỉnh thuộc vùng Tây Bắc là Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Chiếm từ 35% - 40% thị phần, sản lượng tiêu thụ của vùng tăng dần hàng năm, điều đó chứng tỏ nhu cầu sử dụng xi măng ngày một tăng, thể hiện kinh tế của vùng đang phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều hơn. Mặc dù chịu sự chi đạo phân phối cung cấp sản phẩm từ Tổng công ty xi măng Việt Nam nhưng với thị phần hiện có, Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn đang không ngừng phát triển và dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Không những thế, hiện nay Công ty đang dần mở rộng thị phần của mình ra các tỉnh miền Trung và miền Nam,... nhằm củng cố thêm vị trí, hình ảnh của mình trên thị trường đồng thời cũng chứng tỏ sự phát triển cũng như năng lực cạnh tranh của Công ty. 1.3. Giá cả: Giá cả tác động mạnh mẽ tới doanh thu, do đó tới thị phần của doanh nghiệp sản xuất xi măng. Giá cả còn là yếu tố tác động tới quá trình ra quyết định mua của khách hàng. Đồng thời, giá cả là yếu tố tác động tới hành vi cạnh tranh của đối thủ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Do đó, giá cả là yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của CTCP xi măng Bỉm Sơn. Chính sách giá cả của CTCP xi măng Bỉm Sơn phụ thuộc vào sự điều hành, quản lý của Tổng công ty xi măng Việt Nam nên mọi quyết định thay đổi về giá, đều phải chịu sự cho phép của Tổng, bất kể thời điểm đó hiệu quả kinh doanh của Công ty có bị thua lỗ hay không. Và giá bán thì được quy định nhiều mức giá tại các địa bàn tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Như năm 2008, là một năm tình hình giá cả biến động ở mức khó lường do khủng hoảng kinh tế. Khi giá cả tăng cao, kéo theo mọi chi phí về sản xuất và tiêu thụ cũng tăng lên, chính vì vậy việc tăng giá bán sản phẩm là hoàn toàn hợp lý. CTCP xi măng Bỉm Sơn cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó, trong quý IV năm 2008, do sự quyết định chậm chạp về thay đổi giá bán cho sản phẩm của Công ty từ phía Tổng mà hiệu quả kinh doanh của Công ty không tốt, đã bị lỗ. Do vậy, sự thiếu linh động, phụ thuộc của giá bán vào quyết định từ Tổng công ty đã ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Khu vực phía Bắc là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp xi măng, chiếm hơn một nửa về số lượng (56,6%) và tổng công suất toàn ngành (53,47%), do đó để duy trì và phát triển CTCP xi măng Bỉm Sơn vừa phải duy trì thị phần ở khu vực này vừa phải mở rộng thị trường ở miền Trung và miền Nam. Để cạnh tranh trên thị trường khu vực phía bắc, Công ty phải giải quyết nhiều vấn đề trong đó kiểm soát chi phí nhằm giảm giá thành sản phẩm và chi phí vận chuyển có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, cạnh tranh bằng giá cả trên thị trường xi măng đối với CTCP xi măng Bỉm Sơn đóng vai trò rất quan trọng. 1.4. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ của Công ty: Sản xuất xi măng là ngành sản xuất ra sản phẩm, vật chất nên chất lượng của nó phải được kiểm định theo những tiêu chuẩn đánh giá rõ ràng. Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001-2000 nên sản lượng được sản xuất với chất lượng khá tốt. Sản phẩm xi măng pooclăng hỗn hợp PCB 30 và PCB 40 với đặc trưng về màu sắc hợp thị hiếu, ổn định về chất lượng và thể tích. Đặc biệt xi măng có độ đư mác cao, đảm bao an toàn trong vận chuyển và lưu kho bãi, cường độ phát triển đồng đều và ổn định rất phù hợp với việc thi công các cấu kiện bê tông có kích thước lớn. Hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn vẫn đang tiếp tục cải tiến và khắc phục kịp thời các điểm chưa phù hợp để hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001 - 2000 nên chất lượng xi măng xuất xưởng và chất lượng clinker luôn đảm bảo đạt chỉ số quy định của tiêu chuẩn Việt Nam. 1.5. Uy tín của Công ty trên thị trường: Công ty là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành xi măng, với bề dầy hoạt động gần 30 năm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xi măng, sản phẩm đã có uy tín lâu năm trên thị trường. Thương hiệu Xi măng Bỉm Sơn đã được đông đo người tiêu dùng chấp nhận và tin cậy. Công ty đã nhận được nhiều bằng khen, danh hiệu cao quý của Nhà nước trao tặng, nhiều giải thưởng, như: năm 1998, được cấp dấu chất lượng Nhà nước; năm 1994, được cấp Chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn; đạt giải Vàng “Chất Lượng Việt Nam” năm 2000 và 2004; được tặng Giải thưởng “Quả Cầu Vàng” năm 2003, Cúp Vàng “Vì sự phát triển Cộng đồng” năm 2004; 2006, Thương hiệu mạnh năm 2006, “Cúp Sen Vàng Việt Nam” năm 2004; được cấp chứng nhận hệ thống Quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000; được người tiêu dùng bình chọn “Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao” từ năm 1997 đến nay; được Nhà nước tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lao động” trong thời kỳ đổi mới. Ngoài ra, CTCP xi măng Bỉm Sơn cũng được coi là doanh nghiệp đầu tiên thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam thực hiện lên sàn chứng khoán. Với uy tín của mình, CTCP xi măng Bỉm Sơn đã tạo được tính thanh khoản tốt cho cổ phiếu. Đồng thời góp phần quảng bá rộng rãi thương hiệu Xi măng Bỉm Sơn trên thị trường trong nước và khu vực. 2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong giai đoạn 2003 – 2008: 2.1. Điểm mạnh: Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất xi măng ở nước. Sau gần 30 năm tồn tại và phát triển, Công ty đã dần dần dần tích lũy được nhiều lợi thế cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trong ngành. Cụ thể, đó là: Trong những năm qua, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính của Công ty không ngừng tăng lên. Trong quá trình hoạt động, Công ty đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, tạo dựng được niềm tin với khách hàng, xây dựng được uy tín, thương hiệu và hình ảnh trên thị trường trong và ngoài nước. Hơn nữa, Công ty còn có mối quan hệ bạn hàng truyền thống với các công ty thành viên của Tổng công ty xi măng Việt Nam, có mối quan hệ lâu năm với nhiều nhà cung ứng. Đây là những điểm mạnh trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của Công ty. Bên cạnh đó, chất lượng hàng hóa sản phẩm của Công ty tốt với chính sách giá hợp lý, thị phần của Công ty trong ngành cũng rất cao, nên Công ty vẫn chiếm được thị trường chủ yếu trong địa bàn cung cấp của mình. Hơn nữa, từ khi thay đổi hình thức phân phối bán hàng từ các chi nhánh thành văn phòng đại diện, Công ty đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí, dễ quản lý hơn và hiệu quả kinh doanh cao hơn. Ngoài ra, Công ty đã có một tổng thể các phòng ban đảm nhận các chức năng nhiệm vụ khác nhau, bộ máy quản lý ổn định, ban lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm. Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong Công ty là những người đã làm việc lâu năm và rất gắn bó với Công ty. Họ có trình độ, có phẩm chất tốt và có nhiều kinh nghiệm trong quản lý cũng như trong lĩnh vực hoạt động của Công ty. Vì vậy, họ nắm rõ và rất hiểu biết về Công ty mình, về quá trình hình thành và phát triển, về mọi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty đã xây dựng được đội ngũ lao động, cán bộ công nhân viên rất có tổ chức, có trình độ chuyên môn, phẩm chất tốt. Đây chính là điểm mạnh của Công ty để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình. Tổ chức công đoàn của Công ty hoạt động rất có hiệu quả, rất quan tâm, vàchăm lo đến đời sống của cán bộ công nhân viên cả về vật chất lẫn tinh thần, nên đã tạo động lực thúc đẩy cho nhân viên Công ty hăng say làm việc, góp phần nâng cao được năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Tất cả những điểm nổi bật trên đã tạo được lợi thế cạnh tranh cho CTCP xi măng Bỉm Sơn, đồng thời cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trên thị trường. 2.2. Điểm yếu: Bên cạnh những điểm mạnh trong năng lực cạnh tranh thì CTCP xi măng Bỉm Sơn cũng có những điểm yếu cần sớm khắc phục. Chính những điểm yếu này đã làm hạn chế năng lực cạnh tranh của Công ty: Công ty vẫn chưa nhận biết được tầm quan trọng của hoạt động Marketing nên chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu là các mối quan hệ có sẵn, lâu năm, khép kín. Phần lớn khách hàng của Công ty tự tìm đến, Công ty chưa chủ động tìm kiếm khách hàng trong kinh doanh. Với việc ỷ lại lại vào Tổng công ty và thụ động trong kinh doanh như thế này thì Công ty sẽ dễ bị đối thủ cạnh tranh giành mát thị trường. Hơn nữa, hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty chưa được tổ chức một cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính. Công ty còn rất hạn chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin, công cụ toán học, thống kê trong nghiên cứu thị trường. Ngoài ra, việc xác định thị trường mục tiêu là rất cần thiết trong mỗi giai đoạn phát triển thì vẫn chưa được Công ty thực hiện một cách đúng đắn và nghiêm túc. Mặt khác, vốn kinh doanh của Công ty phần lớn là vốn tự có và còn hạn hẹp, nên Công ty bị hạn chế rất nhiều trong việc nâng cao cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, máy móc hiện đại và đầu tư cho các dự án nghiên cứu thị trường mới. Trong những năm qua, Công ty đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện vẫn còn tồn tại đan xen các loại thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra. Hơn nữa, đội ngũ nhân viên của Công ty vẫn chưa được phân bổ hợp lý, nhiều vị trí, nhiệm vụ vừa thừa, vừa thiếu. Công ty cũng chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên công tác lâu năm khi các cơ chế, chính sách, phương thức, luật của nước ta đã được sửa đổi, nên rất dễ dẫn đến tình trạng hiểu sai, làm sai của một số cán bộ công nhân viên. Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn có nhiều lợi thế cạnh tranh trong ngành sản xuất và kinh doanh xi măng, có năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này cao. Song, vẫn còn một số những tồn tại, hạn chế. Công ty cần phải phát huy hơn nữa lợi thế cạnh tranh của mình, nhanh chóng khắc phục những điểm yếu, tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và phấn đấu đạt được các mục tiêu mà Công ty đã đặt ra. Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn sau cổ phần hóa I – PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN SAU CỔ PHẦN HÓA: 1. Cơ hội và thách thức của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn sau cổ phần hóa: Từ phân tích môi trường vĩ mô tác động đế CTCP xi măng Bỉm Sơn, có thể vạch ra được những cơ hội và thách thức trên con đường phát triển của Công ty trong thời gian tới như sau: 1.1. Cơ hội: Nhu cầu tiêu dùng xã hội ở nước ta ngày càng cao. Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu xây dựng phát triển các ngành công nghiệp và nền kinh tế nói chung đều rất lớn, ước tính nhu cầu xây dựng bình quân trong giai đoạn 2001 – 2010 có giá trị khoảng 17 – 21 tỷ USU/ năm. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp về bên xây dựng như xi măng, sắt, thép,… đầu tư đổi mới, phát triển và mở rộng sản xuất. Sự phát triển của ngành công nghiệp xi măng ở nước ta trong tương lai là một cơ hội rất lớn cho CTCP xi măng Bỉm Sơn ngày một phát triển. Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp xi măng của nước ta đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 là đáp ứng đầy đủ nhu cầu xi măng trong nước và dành một phần để xuất khẩu; nhanh chóng đưa ngành công nghiệp xi măng trở thành ngành công nghiệp phát triển mạnh, đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Theo dự báo nhu cầu xi măng trong nước đến năm 2015 là 63 triệu tấn/ năm và năm 2020 là 70 triệu tấn/ năm. Với công suất hiện tại và đáp ứng đuợc nhu cầu này thì đến năm 2010 chúng ta phải xây dựng thêm 12 nhà máy xi măng loại 2 triệu tấn/ năm và 40 nhà máy đến năm 2020. Như vậy, với tiềm năng còn rất lớn của thị trường xi măng trong nước, cùng với chiến lược phát triển mở rộng, nâng cao công suất nhà máy lên 3,8 triệu tấn/năm, Công ty Xi măng Bỉm Sơn tự tin sẽ vững bước phát triển, giành được sự tin cậy của khách hàng, giữ vững và nâng cao được thị phần, xứng đáng là một trong những lá cờ đầu của ngành xi măng, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa, việc hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới cũng tạo cho nước ta nói chung và các doanh nghiệp nói riêng có cơ hội để học hỏi và phát triển. Nước ta đã là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn lớn trên thế giới như: WTO, ASEAN, APEC, AFTA,… Nó sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tranh thủ đầu tư và học hỏi kinh nghiệm trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng nước ta vẫn có một môi trường kinh tế ổn định, tăng trưởng tuy giảm so với năm trước nhưng với mức tăng trung bình đạt gần 7% đúng theo kế hoạch đã đề ra cũng là một mức tăng trưởng cao. Phấn đấu trong giai đoạn 2006 – 2010 hoàn thành mức tăng trung bình đạt 8%. Hơn nữa, nước ta còn có một môi trường kinh doanh an toàn và ổn định, điều đó sẽ kích thích và thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy cạnh tranh và tạo đà cho sự phát triển của mọi ngành nghề trong đó có ngành sản xuất kinh doanh xi măng. Bên cạnh đó là sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, sự bùng nổ của khoa học hiện nay đã tạo ra nhiều phương thức sản xuất kinh doanh mới, linh hoạt hơn, tiết kiệm được chi phí hơn mà chất lượng sản phẩm lại cao hơn. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ thông tin và ứng dụng nó vào các ngành nghề đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình sản xuất, đồng thời rút ngắn thời gian khấu hao của các máy móc thiết bị. Chính vì vậy, việc biết nắm bắt được khoa học kỹ thuật và trình độ công nghệ thông tin vào các quá trình sản xuất kinh doanh cũng như quản lý sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường. 1.2. Thách thức: Thách thức và cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với CTCP xi măng Bỉm Sơn trong thời điểm sau cổ phần hóa hiện nay chính là sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp trong cùng nghành sản xuất xi măng cả trong và ngoài nước. Hiện nay, đã có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài xây dựng nhà máy và lắp đặt dây chuyền sản xuất tại Việt Nam, sự cạnh tranh về giá cả và chất lượng từ các công ty này là rất lớn. Không chỉ các doanh nghiệp nước ngoài, Công ty cũng chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các công ty, nhà máy sản xuất xi măng rất lớn trong nước... Nhiều Công ty với tiềm lực kinh tế mạnh để chiếm lĩnh thị trường thường áp dụng chính sách khuyến mại và quảng cáo lớn kéo dài nhiều ngày nhiều kỳ, giảm giá bán liên tục gây ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Hơn nữa, hiện nay ở nước ta việc trốn thuế, gian lận trong kinh doanh vẫn chưa được ngăn chặn triệt để, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Đồng thời, nguồn than Công ty được cung cấp trong thời gian tới sẽ gặp rất nhiều khó khăn và giá cả luôn bị động vì ngành than nhiều lần yêu cầu tăng giá. Giá nhập khẩu thạch cao, clinker liên tục tăng, cộng với khó khăn về vận tải và cước phí tăng cao. Tất cả những điều này là một thách thức rất lớn cho sự phát triển của CTCP xi măng Bỉm Sơn trong thời gian tới. Bên cạnh sự cạnh tranh trong ngành, CTCP xi măng Bỉm Sơn còn chịu áp lực từ quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực mang lại. Đó là, sự lạc hậu về trình độ khoa học kỹ thuật so với thế giới, nguy cơ mất hàng rào bảo hộ cũng như sự hỗ trợ từ Nhà nước và cuối cùng là sự cạnh tranh mang tính sống còn ngày càng gay gắt hơn. 2. Điểm mạnh và điểm yếu của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn sau cổ phần hóa: Qua phân tích năng lực hiện tại trong nội bộ Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn, có thể rút ra một số các điểm mạnh và điểm yếu cơ bản như sau: 2.1. Điểm mạnh: CTCP xi măng bỉm Sơn đã áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại, đã thiết lập được hệ thống phân phối hàng hóa đến đại lý và người tiêu dùng cuối dùng. Đã áp dụng thương mại điện tử trong quá trình kinh doanh, hầu hết máy tính trong Công ty đã được nối mạng internet. Ngoài ra, Công ty cũng đã đầu tư rất nhiều vào công tác quảng cáo như phát trên kênh VTV1, VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam, trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam và trên các bano quảng cáo ngoài trời dọc quốc lộ 1A,… Điều đó, đã tạo cho Công ty có một lợi thế cạnh tranh rất lớn khi để cho người tiêu dùng dễ dàng biết đến sản phẩm xi măng nhãn hiệu “Con Voi” của mình. Công ty cũng rất chú trọng tới chiến lược nguồn nhân lực để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh trong tình hình mới. Nên hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn có đội ngũ cán bộ, kỹ sư, kỹ thuật nhiều kinh nghiệm, đội ngũ công nhân lành nghề, có tay nghề cao. Mạng lưới tiêu thụ rộng khắp, đội ngũ nhân viên nhạy bén, nhiệt tình đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Đồng thời, đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ cũng đang được trẻ hóa, nhằm đáp ứng được phần nào sự nhạy bén của thị trường, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty. Hơn nữa, Công ty là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành xi măng, với bề dầy hoạt động gần 30 năm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xi măng, sản phẩm đã có uy tín lâu năm trên thị trường. Thương hiệu Xi măng Bỉm Sơn đã được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận và tin cậy. Công ty còn có một lợi thế là một trong những thành viên hàng đầu của Tổng công ty xi măng Việt Nam, nên đã được sự ưu ái cũng như giúp đỡ rất lớn về công tác sản xuất, kinh doanh hay quản lý. Đó là một trong những lợi thế mà CTCP xi măng Bỉm Sơn có được trong quá trình cạnh tranh để khẳng định vị thế của mình trên thị trường so với các đối thủ. 2.2. Điểm yếu: Trong giai đoạn này, CTCP xi măng Bỉm Sơn vẫn đang trong quá trình hoàn thiện công tác cổ phần hóa nên việc sắp xếp, bố trí lại các vị trí nhân sự vẫn chưa thực sự đúng đắn, nhiều vị trí chưa phát huy hết được chức năng và nhiệm vụ công tác của mình. Việc cổ phần hóa đối với Công ty vẫn chỉ mang tính chất “bình cũ rượu mới”. Trong nội bộ Công ty, bộ máy tổ chức quản lý còn quá cồng kềnh so với doanh nghiệp ngoài Nhà nước, nhiều ban, bệ, nhiều thủ tục hành chính rườm rà chưa được sửa đổi đã làm cho Công ty không thể năng động, linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thấp, hạn chế trong tiếp cận với những kiến thức và phong cách quản lý hiện đại. Một số cán bộ còn có cách làm việc theo kiểu quan liêu bao cấp, gây khó khăn cho việc giải quyết các công việc cũng như sự phát triển của Công ty. Bên cạnh đó, CTCP xi măng Bỉm Sơn cũng không tránh khỏi thực trạng như các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa ở nước ta hiện nay, đó là: năng lực marketing còn rất yếu kém, hoạt động nghiên cứu thị trường chưa được đầu tư đúng mức và đúng cách, chưa tổ chức nghiên cứu thị trường một cách khoa học. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty đặc biệt trên thị trường “mở” như hiện nay. Trong những năm qua, CTCP xi măng Bỉm Sơn đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản,.... Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện trong Công ty vẫn còn tồn tại đan xen các loại thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra. Công tác đầu tư xây dựng cơ bản còn dây dưa, chưa dứt điểm, dẫn đến sự hoang phí và tốn kém nguồn lực của Công ty. II – MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG GIAI ĐOẠN SAU CỔ PHẦN HÓA: 1. Nhóm các giải pháp nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm: 1.1. Đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc và nhà xưởng nhằm nâng cao năng lực sản xuất của Công ty: Với hiện trạng công nghệ và thiết bị sản xuất lạc hậu như hiện nay của CTCP xi măng Bỉm Sơn đã dẫn tới tình trạng định mức tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dưỡng. Do đó, trước mắt cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu hao nhiều năng lượng. Tuy nhiên, trong điều kiện đang còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị thì Công ty cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với các Công ty khác. Sự hợp tác liên kết giữa Công ty với các Công ty như khai thác than, khai thác đá,… sẽ giúp Công ty giảm thiểu những khó khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trường... và đẩy mạnh nội lực phát triển cho Công ty. CTCP xi măng Bỉm Sơn cần xây dựng chiến lược đổi mới trang thiết bị, công nghệ một cách toàn diện và lâu dài, phù hợp với chiến lược phát triển của Công ty. Phải liên tục nắm bắt thị trường công nghệ thế giới, đồng thời thực hiện phương châm đi tắt đón đầu của Nhà nước nhằm tiếp cận công nghệ hiện đại và chọn lựa được công nghệ phù hợp với mình nhất. Song song với việc đầu tư mua sắm trang thiết bị mới, Công ty cần phối hợp với phòng tổ chức lao động và tiền lương trong việc chuẩn bị bộ phận lao động có trình độ cao. Bộ phận này ngoài nhiệm vụ phụ trách việc nắm bắt, tiếp thu các dây chuyền công nghệ hiện đại mới mà còn phải có hiểu biết thật sâu về các trang thiết bị mới, nắm bắt được các bí kíp về công nghệ. Trang thiết bị và công nghệ là một trong các yếu tố quan trọng để có thể tạo ra được bước nhảy vọt trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc thực hiện thành công các giải pháp về đổi mới công nghệ và hiện đại hóa máy móc, thiết bị không những làm tăng năng lực cạnh tranh trong lâu dài mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự tăng trưởng của Công ty. 1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Con người là chủ thể trong mọi hoạt động nói chung cũng như hoạt động kinh doanh nói riêng. Chính vì vậy, mọi quốc gia hay tổ chức trên khắp thế giới cũng đều nhận thức được nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất và là nguồn tài nguyên không bị cạn kiệt. Nguồn nhân lực là yếu tố đảm bảo cho năng lực cạnh tranh lâu dài của Công ty. Do đó, để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, CTCP xi măng Bỉm Sơn cần tập trung thực hiện các giải pháp sau: Trước hết, Công ty cần phải có một kế hoạch chiến lược và quy hoạch nguồn nhân lực hợp lý. Nguồn nhân lực của Công ty hiện nay vừa thiếu lại vừa thừa, do đó cần phải dựa vào các mục tiêu phát triển lâu dài và kế hoạch chiến lược về đầu tư máy móc, thiết bị, yêu cầu thực tế của săn xuất để Công ty có thể dự kiến được nhu cầu sử dụng lao động ở mỗi bộ phận, mỗi phòng ban trong từng giai đoạn phát triển. Từ đó, so sánh với nguồn nhân lực hiện có để xác định số lượng lao động cần tuyển dụng và đào tạo lại. Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có trong Công ty. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực của họ. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đặc biệt là các kỹ sư cơ khí, chế tạo máy, hiện đang rất thiếu trong Công ty; đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng. Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với Công ty bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của Công ty . Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ Công ty. Biện pháp này sẽ giúp CTCP xi măng Bỉm Sơn có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động. Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong Công ty. Ở mỗi vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Đồng thời, áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường trong nước cũng như thế giới và các luật lệ về buôn bán quốc tế. Để có đội ngũ người lao động có tay nghề cao, doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo và giữ người tài. Để nâng cao năng suất lao động và tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo Công ty phải có chiến lược đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu của mình. Song song với đó là phải có những quy định rõ ràng về việc giữ lại họ sau khi đào tạo. Công ty có thể áp dụng việc quy địng số năm làm việc tối thiểu của với Công ty hoặc phải hoàn trả công dào tạo cho Công ty nếu người được đào tạo chuyển chỗ làm. Lựa chọn đối tượng đào tạo kỹ càng, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư sai con người. Đồng thời, Công ty cần chú trọng xây dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương, thưởng hợp lý, cũng như tạo không khí làm việc thoải mái, hăng say, đoàn kết, tin tưởng cho người lao động, để giữ ổn định lực lượng lao động của mình, nhất là với những lao động giỏi. 1.3. Đầu tư công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới: Công ty cần tập trung vào những sản phẩm thế mạnh của mình như xi măng bao PCB30 và PCB40 để nâng cao chất lượng sản phẩm và thời gian sản xuất. Nhu cầu xi măng trong thời gian tới là rất lớn, chính vì vậy, thời gian sản xuất nhanh chóng sẽ giúp Công ty tiết kiệm được các chi phí sản xuất và có thời gian để sản xuất các sản phẩm khác. Công ty cũng cần học hỏi kinh nghiệm từ các dây chuyền sản xuất khác, để có thể có những áp dụng tích cực trong quá trình sản xuất của Công ty mình. Hơn nữa, cũng cần tăng thêm chi phí cho công tác nghiên cứu phát triển các dây chuyền sản xuất mới cũng như sản phẩm mới. Không chỉ dừng lại ở những sản phẩm truyền thống mà Công ty cần chủ động trong khâu sản xuất để tạo ra nhiều loại sản phẩm hơn. Do đó, Công ty cần tuyển thêm những cán bộ, chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh nghiệm, thành lập một ban để chuyên nghiên cứu kỹ thuật mới. 2. Giải pháp nhằm giảm chi phí sản xuất: Trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, các đối thủ cạnh tranh đã có những chuẩn bị tích cực cho công tác đầu tư đổi mới trang thiết bị nhằm tạo được ưu thế trên thị trường về sản phẩm cũng như giá cả. Do đó, để tạo được sự cạnh tranh so với các đối thủ bằng cách làm sao giảm được giá thành của sản phẩm đòi hỏi CTCP xi măng Bỉm Sơn cần phải có những điều chỉnh thích hợp và đồng bộ. Giảm chi phí không có nghĩa là cắt giảm các chi phí về đào tạo nhân lực, quảng bá sản phẩm, hay cắt giảm chi phí đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ cho sản xuất. Mà giảm chi phí bao gồm chi phí lưu kho, vận chuyển, mua ngoài nguyên vật liệu, chi phí phát sinh trong công tác giao dịch, chi phí hao hụt nguyên vật liệu,… Muốn vậy, trước hết Công ty cần có một kế hoạch tài chính dài hạn, toàn diện, phải phù hợp với kế hoạch về phát triển nguồn nhân lực và hiện đại hóa nhằm phát triển bền vững. Sau đó, muốn giảm chi phí sản xuất, Công ty cần tận dụng kinh nghiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động để làm tăng năng suất, tăng chất lượng, tiết kiệm được nguyên nhiên vật liệu và giảm thiểu những sai sót trong sản xuất. Để được như vậy, Công ty cần phải có những chính sách quan tâm, ủng hộ, khích lệ, động viên như tổ chức các cuộc thi, tổ chức văn nghệ,… có những khen thưởng đúng lúc, kịp thời. Và hơn hết là cần bố trí sản xuất kết hợp những người có kinh nghiệm, tay nghề cao với những lao động mới để có thể kèm cặp, truyền đạt kinh nghiệm trong quá trình sản xuất. Cần làm tốt công tác quản lý vật tư, hàng hóa cả về mặt giá trị và hiện vật. Cuối cùng là phải thường xuyên rà soát lại các chi phí, xem xét cắt giảm những chi phí không cần thiết, lãng phí hoặc không mang lại hiệu quả thiết thực. Bên cạnh đó, Công ty cần nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý Công ty ... Ngoài ra, từng thành viên trong Công ty , đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề của mình. 3. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hệ thống quản lý 3.1. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý đội ngũ lãnh đạo, quản trị trong Công ty: Cơ cấu tổ chức hoàn thiện cho phép đảm bảo sự thích nghi của tổ chức với các chiến lược kinh doanh đã lập. Trong cơ cấu tổ chức, CTCP xi măng Bỉm Sơn cần xác định rõ các mối tương quan chiến lược, bao gồm cấu trúc bộ máy Công ty, phân quyền và giao quyền, tạo ra các mối liên hệ mật thiết với nhau trong cơ cấu. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của Công ty, cần có sự phân biệt tương đối về tính chất, công việc của các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong Công ty một cách nhịp nhàng. Cần cấu trúc lại hệ thống quản lý và tổ chức của Công ty. Hệ thống tổ chức nên gọn nhẹ, ít cấp và linh hoạt hơn trong môi trường kinh doanh biến động như hiện nay. Hiện nay công tác marketing trong CTCP xi măng Bỉm Sơn còn rất kém, chủ yếu là hình thức marketing đơn lẻ, chưa có một kế hoạch đồng bộ. Do đó, cần thành lập bộ phận marketing để tìm hiểu và nghiên cứu xu hướng thay đổi của thị trường, tiếp cận được xu hướng mới nhằm đáp ứng kịp thời được nhu cầu của thị hiếu khách hàng. Để bộ phận marketing hoạt động có hiệu quả thì việc quy định một khoản tài chính cho các hoạt động marketing như điều tra, thu thập thông tin, quảng cáo, tổ chức các sự kiện quảng bá sản phẩm,… là một việc làm cần thiết và hợp lý. 3.2. Đảm bảo thông tin trong nội bộ Công ty: CTCP xi măng Bỉm Sơn nên điều chỉnh hợp lý giữa tầm và hạn quản trị cho phù hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý trong Công ty với xây dựng mạng lưới thông tin, xác định các quyết định để đưa ra một cách chính xác và có hiệu quả. Việc đảm bảo thông tin trong nội bộ Công ty là điều kiện quyết định sự tồn tại của không chỉ CTCP xi măng Bỉm Sơn mà còn với bất kỳ tổ chức nào. Đảm bảo thông tin sẽ làm cho mọi thành viên hiểu rõ được mục đích của tổ chức, có thể đạt được sự thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích của tập thể. Tổ chức thông tin trong nội bộ Công ty phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Thứ nhất, các kênh thông tin phải được hiểu, biết một cách cụ thể. Thông tin tương ứng phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi thành viên, mọi cấp bậc trong Công ty được biết rõ ràng. Tiếp đó, các tuyến thông tin cần trực tiếp và ngắn gọn. Tuyến thông tin càng ngắn thì khả năng truyền đạt thông tin càng nhanh, và khi đó việc giải quyết các tình huống bất ngờ sẽ được thực hiện kịp thời, không bị chậm trễ. Và cần duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống thông tin một cách thường xuyên, không bị gián đoạn hay ngắt quãng. Hơn nữa, mọi thông tin cung cấp, truyền đạt phải xác thực. Điều này có nghĩa là người truyền đạt thông tin phải thực sự là người nắm chức vụ và quyền hạn liên quan đến thông tin được truyền đạt. Ngoài ra để đảm bảo cho việc tổ chức truyền đạt thông tin đáp ứng những yêu cầu của công tác quản lý, CTCP xi măng Bỉm Sơn cần trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, sử dụng các phương tiện truyền tin tiên tiến như sử dụng mạng internet, máy fax,… Đồng thời cần giảm bớt việc sử dụng các phương tiện như văn bản, thư tín, các cuộc họp để truyền tin. Cuối cùng, để duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các bộ phận trong Công ty. Lãnh đạo CTCP xi măng Bỉm Sơn cần quan tâm đến việc duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các bộ phận, phòng ban trong Công ty, để hoạt động của các bộ phận được phối hợp ăn ý với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung của Công ty. 3.3. Hoàn thiện phương pháp quản lý và cơ chế phối hợp: Hoạt động quản trị trong CTCP xi măng Bỉm Sơn nên là hoạt động quản lý chất lượng và hoạt động quản lý theo quy trình. Quản lý chất lượng cần bao trùm mọi phòng ban chức năng. Các phòng ban của Công ty hoạt động có chất lượng thì sản phẩm tạo ra mới đảm bảo chất lượng. Đồng thời, Công ty cũng nên quản lý theo quy trình sản xuất. Quy trình sản xuất bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, các giai đoạn này có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau. Công ty quản lý hiệu quả biểu hiện ở năng suất ngày một tăng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ tốt, lợi nhuận tăng theo các năm, phát triển bền vững và góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 4. Các giải pháp nghiên cứu và mở rộng phát triển thị trường tiêu thụ mới: 4.1. Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp: 4.1.1. Thành lập phòng Marketing: Công ty nên thành lập một bộ phận hay phòng ban marketing chuyên nghiệp, đảm nhận mọi hoạt động marketing của Công ty, trong đó cần chú trọng rất nhiều vào công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến hỗn hợp. Hoạt động Marketing là hoạt động trung tâm của mọi hoạt động chức năng, liên kết các hoạt động chức năng với nhau và gắn kết doanh nghiệp với thị trường. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường mở cửa như hiện nay thì hoạt động marketing càng đóng vai trò quan trọng, tácđộng rất lớn đến kết quả, cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do có vai trò quan trọng như vậy, nên CTCP xi măng Bỉm Sơn cần có sự quan tâm và đầu tư đúng mức với hoạt động marketing. Hiện nay, mặc dù có quy mô không nhỏ nhưng CTCP xi măng Bỉm Sơn vẫn chưa có phòng Marketing riêng, hoạt động Marketing được thực hiện rải rác ở các phòng ban, nhất là trong phòng Kinh tế kế hoạch. Việc nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin chưa được thực hiện một cách hợp lý, thiếu đồng bộ và không được chuyên sâu. Hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu là các mối quan hệ khép kín, có sẵn nên Công ty chưa chủ động tìm kiếm khách hàng. Với áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay nếu Công ty không thực hiện tốt hoạt động marketing thì sẽ rất dễ để mất dần thị trường và khách hàng của mình. Chính vì vậy, việc thành lập một phòng Marketing riêng, đảm nhận chuyên sâu, chuyên nghiệp tất cả các hoạt động marketing như nghiên cứu thị trường, các chính sách về giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp,… đang là vấn đề cấp thiết của CTCP xi măng Bỉm Sơn. 4.1.2. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên không chỉ đối với CTCP xi măng Bỉm Sơn mà còn đối vời bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các thông tin chính xác về thị trường. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, Công ty sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà Công ty đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với Công ty. Khi làm tốt công tácnghiên cứu thị trường, Công ty sẽ xác định được thị truờng, khách hàng mục tiêu của Công ty, từ đó sẽ đưa ra những giải pháp thích hợp, những hoạt động trọng tâm phù hợp với thị trường này. 4.1.3. Hoàn thiện chiến lược sản phẩm của Công ty: Công ty cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và nâng cao của xã hội. Đồng thời, CTCP xi măng Bỉm Sơn cũng cần quan tâm đến chiến lược thích ứng hóa sản phẩm nhằm thoả mãn cao nhất nhu cầu thị trường. Trong chiến lược kinh doanh, Công ty còn phải tính đến việc phát triển các sản phẩm mới, phải xem xét thái độ đối với sản phẩm của người tiêu dùng để kịp thời đưa ra các giải pháp cần thiết. 4.1.4. Hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức mạng lưới bán hàng Hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn vẫn đang sử dụng kênh phân phối gián tiếp tức là qua các trung gian, các đại lý bán buôn, bán lẻ nên đã giảm được chi phí cũng như nhân lực rất lớn khi để cho Công ty tự tổ chức cung cấp. Các nhà bán buôn, bán lẻ sẽ thay mặt CTCP xi măng Bỉm Sơn thực hiện việc giao dịch bán với khách hàng. Với hệ thống phân phối như hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các kênh phân phối nhằm sử dụng được hiệu quả nhất các kênh phân phối, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, 4.1.5. Tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiên bán hàng và các loại dịch vụ để kích thích sức mua của thị trường: Hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn đã thực hiện quảng cáo trên các kênh truyền hình lớn của Trung ương cũng như địa phương như trên đài VTV3, VTV1 của Đài truyền hình Việt Nam, trên sóng của Đài tiếng nói Việt Nam, trên kênh truyền hình của tỉnh Thanh Hóa và trên các tạp chí chuyên ngành. Ngoài ra, Công ty còn áp dụng quảng cáo trên các bano ngoài trời trên tuyến đường QL-1A. Công ty cũng có trang Web riêng để ngày ngày đưa hình ảnh của mình đến với công chúng. Tuy nhiên, do chi phí quảng cáo rất đắt đỏ, nên việc thực hiện quảng cáo không diễn ra thường xuyên, nên hiệu quả cũng chưa được cao. Hơn nữa, nội dung quảng cáo cho Công ty còn rất hạn chế, nhạt nhẽo, hình ảnh không ấn tượng nên không gây được nhiều sự chú ý của người xem. Để hoạt động quảng cáo có hiệu quả cao, Công ty cần nắm chắc các nội dung cơ bản của quá trình truyền thông và ra các quyết định kịp thời đảm bảo hoạt động quảng cáo theo một quy trình thống nhất. Những quyết định cơ bản trong hoạt động quảng cáo là xác định mục tiêu quảng cáo, xác định ngân sách quảng cáo, quyết định nội dung truyền đạt, quyết định phương tiện quảng cáo và đánh giá chương trình quảng cáo. Như vậy, thông qua quảng cáo Công ty có thể truyền tải được mọi thông tin cũng như hình cảnh của Công ty mình đến khách hàng một cách thuận tiện, chi tiết, cụ thể, đầy đủ, kịp thời và chính xác nhất. Ngoài ra, Công ty cũng có thể tham gia các hội chợ, triển lãm chuyên ngành,… để quảng bá hình ảnh, đồng thời tìm kiếm khách hàng cũng như nhà cung cấp tốt nhất cho Công ty. 4.2. Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp: Uy tín, thương hiệu của một doanh nghiệp là yếu tố mang tính tổng hợp , được hình thành không phải trong chốc lát mà bằng cả quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn của mình. Uy tín, danh tiếng của Công ty được hình thành từ các yếu tố sau: chất lượng đội ngũ nhân sự, chất lượng hệ thống quản lý, chất lượng đội ngũ nhân sự, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hoạt động marketing quảng cáo,… CTCP xi măng Bỉm Sơn là một công ty lâu năm và có uy tín trong hoạt động sản xuất kinh doanh xi măng. Uy tín, thương hiệu của Công ty sẽ được củng cố và tăng cường khi Công ty thực hiện tốt quản lý nhân lực, chất lượng dịch vụ, tăng cường hoạt động marketing và quảng cáo, giữ vững và mở rộng được thị phần của mình,…Đồng thời, Công ty cũng phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình và nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Khi đã thực hiện tốt được tất cả các yếu tố trên thì giải pháp về uy tín, danh tiếng của Công ty cũng được thực hiện. 5. Nhóm các biện pháp sử dụng vốn hiệu quả, đảm bảo năng lực tài chính lành mạnh: Tài chính của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng đảm bảo cho các hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện một cách trôi chảy, đúng kế hoạch và tiến độ. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều nhằm thực hiện mục tiêu là: tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, tăng trưởng và phát triển bền vững. Vốn kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn hầu hết là vốn tự có nên rất nhỏ hẹp và hạn chế. Công ty mới chỉ cổ phần hóa 3 năm gần đây nên việc huy động vốn từ các cổ đông vẫn chưa diễn ra mạnh mẽ và có hiệu quả. Công ty cần huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn. Muốn vậy, ban lãnh đạo cần phân tích một cách tỉ mỉ và hoạch định tài chính một cách cụ thể cho từng công việc theo thời gian, đồng thời tìm các nguồn cung ứng vốn. Công ty cần phải tính toán cẩn thận để huy động và sử dụng vốn mang lại hiệu quả cao nhất và tránh rủi ro. Nguồn vốn kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn bao gồm: vốn tự có, vốn vay và vốn từ ngân sách Nhà nước, trong đó chủ yếu là vốn vay và vốn tự có. Đối với nguồn vốn tự có, Công ty cần có những giải pháp để làm tăng vốn tự có của mình một cách hợp lý, có thể bằng lợi nhuận để lại để tái đầu tư hoặc phát hành cổ phiếu. Với tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả và uy tín của Công ty như hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn có thể huy động vốn vay từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cũng rất thuận tiện, hoặc Công ty cũng có thể tăng nguồn vốn vay bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Tuy nhiên, Công ty cần xác định một cơ cấu nguồn vốn hợp lý, cân đối giữa nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn, giữa vốn tự có và vốn vay. CTCP xi măng Bỉm Sơn cần phải xây dựng một kế hoạch tài chính rõ ràng cho từng khoản đầu tư, cho các phương án đầu tư và cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để đảm bảo có vốn hoạt động, trả nợ được các khoản vay và lãi vay, đem lại hiệu quả hoạt động kinh doanh cao với mức lợi nhuận lớn nhất. CTCP xi măng Bỉm Sơn có năng lực tài chính mạnh, năng lực cạnh tranh cao khi Công ty có nguồn vốn dồi dào bằng cách đa dạng hóa nguồn cung vốn, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết và có nguồn vốn huy động hợp lý. Bên cạnh đó, Công ty phải có các kế hoạch sử dụng đồng vốn có hiệu quả để phát triển và thu được lợi nhuận cao. Cuối cùng, CTCP xi măng Bỉm Sơn phải hạch toán chi phí rõ ràng để có thể xác định được hiệu quả sử dụng vốn một cách chính xác. CTCP xi măng Bỉm Sơn cần thực hiện các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn như sau: * Thứ nhất, Công ty cần phải quản lý chặt chẽ các khoản thu chi trong quá trình hoạt động của mình, thực hiện kiểm toán thường xuyên, tránh tình trạng bị ứ đọng hay sử dụng lãng phí vốn. Công ty cần thực hiện giảm chi cho chi phí xăng dầu xe, cho các khoản tiếp khách, ngoại giao,... Đồng thời, tăng cường sự giám sát đối với các hoạt động giao nhận, thanh toán tiền hàng, nâng cao ý thức trách nhiệm tiết kiệm đối với mọi thành viên trong Công ty. Cần có những hình thức sử phạt nghiêm túc, đúng người, đúng tội đối với những hành vi gian lận, xâm phạm, chiếm dụng tài sản của Công ty. * Thứ hai, CTCP xi măng Bỉm Sơn cần nhanh chóng giải quyết tình trạng nợ đọng và chiếm dụng vốn lớn. Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, việc để cho khách hàng thanh toán chậm là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên nếu bị tồn đọng quá lâu sẽ ảnh hưởng xấu tới tình hình tài chính của Công ty. Hơn nữa, vốn bị chiếm dụng lớn sẽ làm giảm khả năng quay vòng vốn, khi đó sẽ có ảnh hưởng nhất định đến khả năng đầu tư phát triển cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Do vậy, Công ty cần phải thường xuyên nhắc nhở, cũng như yêu cầu khách hàng thanh toán nợ đúng hạn như đã cam kết trong hợp đồng. * Cuối cùng, CTCP xi măng Bỉm Sơn cần thực hiện đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải, gây lãng phí. Cần thực hiện phân bổ nguồn vốn cho các khoản mục đầu tư một cách hợp lý, nhất là trong các gói thầu cũng như công tác đầu tư xây dựng cơ bản mà hiện nay Công ty đang thực hiện. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1. Một số kiến nghị với các cơ quan Nhà nước: Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước cần phải tạo dựng một nền kinh tế vĩ mô ổn định, lâu dài, có các chính sách hỗ trợ để bình ổn nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển. Cần phải tăng cường năng lực tự chủ tài chính, thông qua việc tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước; và có chế độ cho vay thương mại ưu đãi nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư nhanh chóng hiện nay của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng giáo dục, tập trung đầu tư mở các trường dạy nghề có trình độ chuyên môn cao để nhằm giảm tình trạng “thầy nhiều hơn thợ” của nước ta hiện nay. Nhà nước đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm tạo chỗ dựa cho các doanh nghiệp khi tham gia thị trường quốc tế. Xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Bên cạnh đó, còn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp thu, học hỏi và phát huy được khả năng của mình. Hơn nữa, Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin đầy đủ và đúng đắn cho các doanh nghiệp. Thông tin là yếu tố đầu vào tất yếu của quá trình kinh doanh, doanh nghiệp nào có thông tin nhanh nhất thì doanh nghiệp đó có cơ hội giành chiến thắng. Có đầy đủ thông tin và xử lý đúng đắn các thông tin là công cụ quan trọng để doanh nghiệp nâng năng lực cạnh tranh, vì nó là căn cứ để đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tiếp cận với thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu, các nguồn thông tin lại có độ chính xác không cao, phân tán và không hệ thống. Vì vậy, nếu Nhà nước đứng ra cung cấp thông tin ban đầu thì sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí đáng kể cho các doanh nghiệp cũng như ngân sách của Quốc gia. Ngoài ra, Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các chính sách thuế và công cụ thuế của chúng ta. Thuế là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để duy trì sự hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước và thực hiện các hoạt động phúc lợi xã hội. Còn đối với các doanh nghiệp thì thuế là một khoản chi phí lớn, nó ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận, tỷ lệ đầu tư,… và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nếu chính sách thuế không ổn định, thay đổi thất thường thì sẽ làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc lên kế hoạch sản xuất kinh doanh. Hiện nay, chính sách thuế của Việt Nam đang là vấn đề rất đáng quan tâm của cả Nhà nước và các doanh nghiệp. Nhà nước nên tích cực cải cách hệ thống thuế và phí để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, đảm bảo tính minh bạch của hệ thống thuế nước ta hiện nay. 2. Kiến nghị với Tổng công ty xi măng Việt Nam: Cần bổ nhiệm các cán bộ có trình độ, có năng lực lãnh đạo. phẩm chất đạo đức tốt cho Công ty. Cần có cơ chế tuyển người một cách minh bạch, đúng đắn tránh tình trạng “con em cháu cha”. Thường xuyên kiểm tra, kỉểm soát hoạt động của Công ty thông qua các báo cáo, các chỉ tiêu kế hoạch. Tổ chức đào tạo, mở lớp bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về quản lý, chuyên môn cũng như các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cho các nhân viên trong toàn Tổng công ty. Quan tâm hơn nữa đến đời sống của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty xi măng Việt Nam nói chung và CTCP xi măng Bỉm Sơn nói riêng. Xây dựng chế độ lương, thưởng cao hơn và hợp lý hơn tùy theo đóng góp của mỗi cá nhân đối với Công ty. Đảm bảo chế độ công bằng, khuyến khích các cá nhân lao động giỏi và xây dựng cơ chế thuyên chuyển cán bộ hợp lý, để nhân viên trong Công ty lấy đó làm động lực để phấn đấu và phát triển lâu dài. KẾT LUẬN Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong giai đoạn sau cổ phần hóa là đòi hỏi khách quan và cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang phát triển, mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như trong nước phát triển, làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Trước yêu cầu bức thiết đó em đã lựa chọn đề tài này. Trong thời gian thực tập, qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về Công ty nhằm đưa ra được một số các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong thời kỳ sau cổ phần hóa. Đề tài đã tập trung giải quyết được những vấn đề được nêu ở phần Mở đầu, có những đóng góp nhất định trong việc tìm tòi nghiên cứu, khái quát hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp, phân tích, đánh giá khá toàn diện về thực trạng năng lực cạnh tranh trong Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn và 5 nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trong giai đoạn sau cổ phần hóa. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu đề tài này, em xin cảm ơn cô giáo hướng dẫn thực tập và các cô chú, anh chị trong phòng Kinh tế Kế hoạch của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn đã giúp đỡ, hướng dẫn tận tình để em hoàn thành Đề tài của mình. Tuy vậy, với vốn kiến thức còn hạn hẹp và thời gian thực tập chưa đủ dài để em có thể nghiên cứu một cách sâu sắc, tỉ mỉ hơn, nên trong Đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Rất mong những góp ý, sửa chữa của cô giáo và các cô chú, anh chị để bài viết của em được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng, Phan Thị Nhiệm - Giáo trình chiến lược kinh doanh, NXB Thống Kê, Hà Nội (1999). Ths. Bùi Đức Tuân - Giáo trình kế hoạch kinh doanh, NXB LĐ - XH (2006). TS. Vũ Trọng Lâm - Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị - Quốc gia, Hà Nội (2005). Trần Sửu - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa, NXB Lao động, Hà Nội ( 2005). Các bản báo cáo Báo cáo tổng kết tình hình sản xuất kinh doanh, công tác tổ chức lao động, tiền lương và các công tác khác của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn qua các năm từ 2003 – 2008. Báo cáo thi đua các năm 2003 – 2008. Các báo cáo kế hoạch Ngân sách của Công ty qua các năm 2003 – 2008. Các trang web: www.scc.gov.vn www.hapi.gov.vn www.ximangbimson.com.vn economics.vnu.edu.vn vneconomy.vn www.cpv.org.vn ......

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22081.doc
Tài liệu liên quan