Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO

Thị trường Mỹ đa chủng tộc, đa văn hóa với dân số trên 300 triệu dân, thu nhập bình quân vào khoảng 42.000USD/năm luôn là một thị trường đầy tiềm năng với các sản phẩm tiêu dùng nói chung và với mặt hàng điều nói riêng. Tuy nhiên đây cũng là thị trường đòi hỏi cao về chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là điều cần lưu ý không chỉ đối với công ty Long Sơn mà cả với các doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam khác. Mặt hàng điều là mặt hàng rất có lợi thế cạnh tranh trong hoàn cảnh hiện nay- khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO do đây là mặt hàng Việt Nam tự trồng, tự chế biến điều, giá nhân công lao động rẻ, vốn nhiều năm đã không được trợ cấp của Nhà nước. Cái khó của ngành này đó là nguồn nguyên liệu bấp bênh, thiếu các vùng trồng điều được quy hoạch khoa học, thiếu giống cây tốt. Nhà nước cần xem xét và hỗ trợ vấn đề này để ổn định nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh cho điều xuất khẩu. Với những thành tựu đã và đang đạt được, tương lai phát triển thị trường Mỹ là rất có triển vọng. Thế mạnh đặc biệt của mặt hàng điều của công ty đó là thương hiệu điều mà rất nhiều các tên tuổi xuất khẩu điều ở Việt Nam không có được. Phương châm “Chữ tín hàng đầu” giúp công ty vượt qua bao thăng trầm trong 7 năm qua. Tuy nhiên mặt hàng điều xuất khẩu của công ty Long Sơn nói riêng và ngành điều Việt nói chung vẫn chỉ là những mặt hàng ít giá trị gia tăng, dễ bị biến động giá cả. Trong thời gian thực tập ở công ty, em đã tìm hiểu, thu thập thông tin, tài liệu về thực trạng xuất khẩu hạt điều của công ty và của Việt Nam qua đó đánh giá điểm mạnh, điểm yếu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ. Do kinh nghiệm, trình độ còn có hạn nên chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong ban lãnh đạo công ty, các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn.

doc89 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1734 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lớn. Hàng năm người Mỹ tiêu thụ khoảng 50% sản lượng điều thế giới. Năm 2007 vừa qua thị trường Mỹ nhập khẩu tổng cộng 126.665 tấn điều trong đó khối lượng điều nhập khẩu từ Việt Nam là lớn nhất: 35,98% vượt cả Ấn Độ. Thị trường Mỹ là thị trường quan trọng với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu điều, trong đó có công ty cổ phần Long Sơn. Bảng 2.6 cho thấy từ năm 2004 đến năm 2006 thị phần công ty tăng liên tục. Xu thế tăng này phản ánh sự ưa thích của khách hàng với sản phẩm điều của công ty. Cần phải nói thêm, năm 2005 và 2006 là những năm ngành điều Việt Nam rơi vào khủng hoảng, rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Năm 2004, điều Việt Nam được mùa, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thắng lớn. Tuy nhiên trong năm này nhiều công ty xuất khẩu Việt Nam đã không thực hiện hơp đồng làm các nhà nhập khẩu Mỹ chịu lỗ 20.000-30.000 đô/công te nơ. Rút kinh nghiêm, năm 2005 các nhà nhập khẩu Mỹ chỉ ký hợp đồng với những doanh nghiệp có uy tín, đồng thời họ cho xây những kho hàng lớn tại NewYork và Rottecdam. Nếu có sự cố các nhà xuất khẩu điều Việt Nam không chịu giao hàng thì họ vẫn có nguồn hàng cung cấp cho các công ty chiên điều từ 3- 5tháng, không phải mua với giá cao. Nhiều doanh nghiệp điều Việt Nam theo như cách làm cũ đã phải mua điều nguyên liệu trong nước với giá cao và hi vọng với giá xuất khẩu cao thì vẫn có lãi. Tuy nhiên do các nhà nhập khẩu đã chuẩn bị trước nên họ không chấp nhận giá điều cao. Nhiều nhà xuất khẩu điều Việt Nam không có uy tín đã phải bán với giá thấp hơn giá thành. Bảng 2.6. Doanh thu và thị phần qua các năm của công ty Long Sơn trên thị trường Mỹ Năm Doanh thu công ty Doanh thu toàn thị trường (triệu USD) Thị phần so với toàn thị trường (‰) Doanh thu các công ty Việt Nam (triệu USD) Thị phần so với các công ty Việt Nam (%) 2004 2,756 552,752 4,985 167,459 1,645 2005 2,783 551,292 5,048 152,484 1,825 2006 3,213 510,678 6,292 151,916 2,115 2007 3,325 567,122 5,860 197,594 1,682 Nguồn: Phòng kinh doanh điều, www.usitc.gov . Năm 2005 lượng hàng tiêu thụ ở thị trường Mỹ cũng không nhiều do tồn của năm 2004 là 300.000 đến 500.000 thùng.Tình hình tiêu thụ khó khăn hơn do các nhà bán lẻ tăng giá bán điều nhân và quả thực khối lượng điều nhập khẩu năm 2005 cũng giảm hơn so với năm 2004 hơn 17.000 tấn.Trong hoàn cảnh đó, thị phần của công ty trên thị trường tăng lên là điều rất đáng nể. Năm 2006, nhu cầu tiêu thụ trên thị trường Mỹ không có nhiều đột biến, so với các loại hạt khác như hạt dẻ cười có giá 4 đô/pound, hạnh nhân 3,5 đô/pound thì hạt điều có sức cạnh tranh về giá (2,1 đô/pound). Năm 2007, công ty tập trung phát triển thị trường Úc vì vậy nguồn lực bị phân bố không thể tập trung vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên một điểm hạn chế là điều nhân của công ty chỉ mới chiểm khoảng 2% tổng khối lượng điều Việt Nam xuất sang thị trường này, chưa tương xứng với vị trí một trong 18 doanh nghiệp điều lớn nhất Việt Nam. 2.3.2.2. Số lượng khách hàng Như đã trình bày ở các phần trước đây, do sản phẩm điều của công ty xuất sang thị trường Mỹ là điều nhân nên khách hàng của công ty là các nhà nhập khẩu. Theo thống kê của Hiệp hội cây điều Việt Nam thì có 21 nhà nhập khẩu trên thị trường Mỹ. Hiện nay công ty Long Sơn có 2 khách hàng trên thị trường Mỹ, đó là công ty Red River Food và công ty SLD Commodity. Công ty không có khách hàng tiêu dùng trực tiếp, số lượng khách hàng không nhiều, không đa dạng về thành phần dẫn đến hạn chế trong năng lực cạnh tranh sản phẩm. Công ty đang tìm cách tiếp cận các siêu thị, các nhà chiên điều để giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu, quảng bá cho sản phẩm. Hiện nay công ty đã thành công trong việc xuất khẩu sản phẩm điều chiên sang thị trường Úc và trong tương lai công ty sẽ đưa sản phẩm này vào thị trường Mỹ. Để làm được điều này công ty sẽ cần quảng bá tên tuổi của mình với người tiêu dùng cũng như với các nhà bán lẻ, đây là công việc khó khăn đòi hỏi nhiều nỗ lực và chi phí. 2.3.2.3. Hình ảnh công ty Mặc dù công ty Long Sơn chỉ hợp tác kinh doanh với 2 nhà nhập khẩu nhưng các nhà nhập khẩu khác cũng đã biết đến tên tuổi Long Sơn. Giữa các công ty của Mỹ luôn có sự trao đổi thông tin. Nếu một công ty làm ăn không uy tín thì sẽ bị mất tín nhiệm không chỉ với nhà nhập khẩu của mình mà còn với các nhà nhập khẩu khác và ngược lại. Công ty Long Sơn với phương châm "Chữ tín hàng đầu" đã định vị được trong các nhà nhập khẩu Mỹ như là một công ty chế biến điều Việt Nam có uy tín lâu năm. Mặt hàng điều bán lẻ trên thị trường Mỹ phần lớn dưới dạng chiên. Điều nhân được chế biến thành điều chiên thông qua các nhà chiên điều hoặc các siêu thị. Nhưng những doanh nghiệp này không mua điều nhân trực tiếp từ những công ty chế biến điều Việt Nam mà qua các nhà nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu mua điều từ Việt Nam với giá khác nhau theo từng hợp đồng nhưng lại bán điều nhân cho các nhà chiên điều với giá cố định trong một thời gian dài. Nhà nhập khẩu có trách nhiệm đảm bảo thực hiện hợp đồng, chịu trách nhiệm về điều nhân bất kể sự biến động của thị trường điều. Thậm chí khi một lô điều nhân nào chất lượng không tốt, khi chiên bị chua hoặc có lẫn tạp chất độc hại, những nhà nhập khẩu phải lấy lô hàng khác để thay thế. Như vậy trách nhiệm của nhà nhập khẩu là rất lớn và đòi hỏi có sự tin tưởng lẫn nhau.Với uy tín của mình, công ty Long Sơn hiện đang tìm cách tiếp cận với các nhà chiên điều để có thể trực tiếp cung cấp cung cấp điều nhân cho họ. Nếu việc này thành công, chắc chắn thương hiệu điều nhân của công ty và hình ảnh công ty sẽ được cải thiện hơn nữa. 2.4. NHỮNG BIỆN PHÁP CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN Đà THỰC HIỆN ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ Trong những năm vừa qua, tỷ lệ hàng mà công ty xuất khẩu vào thị trường Mỹ chưa được cao nếu so sánh với những công ty khác cùng năng lực. Từ thực trạng cạnh tranh gay gắt và càng khó khăn của công ty trên thị trường Mỹ thì việc làm thế nào để củng cố và đẩy mạnh hoạt động may mặc vào thị trường này là vấn đề mà công ty rất quan tâm. Hiện tại công ty đã thực hiện một số biện pháp để khắc phục những tồn tại. Các biện pháp này chủ yếu tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, đa dạng hoá sản phẩm, quảng bá sản phẩm công ty và giữ uy tín với bạn hàng. Sản phẩm có tính cạnh tranh cao phải thoả mãn các yêu cầu của khách hàng. Hạt điều được xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định do Hiệp hội các ngành công nghiệp thực phẩm (AFI) quy định. Năm 2007 vừa qua AFI đã thay đổi một số tiêu chuẩn theo hướng khắt khe hơn như: độ ẩm cho phép từ 5% xuống 3%, tỷ lệ nhân điều bể 10%, và các điều kiện khác về vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay rất nhiều lô hàng của Việt Nam bị trả về vì nhiều lý do: sâu sống, sâu chết, lẫn tạp chất, có mùi chua. Mặc dù chưa có lô hàng nào của Long Sơn như vậy nhưng tâm lý e ngại của các nhà nhập khẩu là khó tránh khỏi. Để nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Mỹ, công ty đã sửa sang nhà xưởng, thực hiện các yêu cầu của khách hàng trong chế biến. Cụ thể là: - Lắp lưới chống côn trùng, chim chóc cho tất cà nhà xưởng; các loại đèn được bao bằng mica để tránh bóng đèn có vỡ thì cũng không bị rơi vào sản phẩm; không lắp vách nhôm kính trong nhà xưởng loại trừ khả năng thủy tinh rơi vào sản phẩm. Hiện giờ đã có máy dò kim loại nhưng chưa máy nào phát hiện được thuỷ tinh, vì vậy rất nguy hiểm nếu lẫn thuỷ tinh vào điều. - Hạn chế công nhân đeo nhẫn, vòng kim loại và vòng đá,.. - Đóng điều nhân vào các thùng các-tông cứng để tránh bị đổ khi công nhân xếp điều vào tấm nâng hàng. Bên cạnh đó công ty cũng rất quan tâm đến chất lượng điều thô. Đối với nguồn điều mua trong nước, công ty cử nhân viên có kinh nghiệm đến tận các điểm thu mua hoặc các nông trại. Các phương thức thu mua của công ty giúp gắn kết lợi ích của người trồng điều với công ty, hạn chế việc khan hàng và mua phải hàng kém chất lượng. Chỉ những hạt điều đạt tiêu chuẩn, không bị non mới được chấp nhận. Lượng điều nhập khẩu từ châu Phi của công ty khá nhiều, do đó để đảm bảo chất lượng, công ty đã cử người sang châu Phi vào vụ mùa thu mua trong một thời gian dài. Để hạ giá thành sản phẩm công ty đã mở rộng quy mô sản xuất:mở thêm 4 nhà máy mới để tận dụng lợi thế theo quy mô. Đồng thời các nhà máy mới được đặt tại các vùng miền núi, chi phí lao động rẻ, lại gần vùng nguyên liệu, tiết kiệm được nhiều chi chí. Hiện nay công ty đang nghiên cứu đa dạng hoá sản phẩm. Trong tương lai công ty sẽ tung ra sản phẩm bánh bột điều và kẹo nhân điều. Đồng thời sản phẩm điều chiên cũng thường xuyên được cải tiến bao bì, mẫu mã, phù hợp với nhiều mục đích tiêu dùng. Công ty đã mở chiến dịch tiếp thị sản phẩm điều nhân tới hai nhà nhập khẩu lớn của Mỹ là American Eagle Food và Kraft Foods. Bên cạnh đó , công ty đã tham sự Hội chợ nông sản thế giới tại Florida vào năm 2007 để quảng bá tên tuổi trên thị trường Mỹ. Đối với những khách hàng lâu năm công ty luôn giữ uy tín và giữ mối quan hệ hợp tác. 2.5. ĐÁNH GIÁ VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẨN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 2.5.1. Những ưu điểm của công ty trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều trên thị trường Mỹ Trong quá trình xuất khẩu điều sang thị trường Mỹ, công ty đã phải cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ trên thị trường này. Là một doanh nghiệp tư nhân trẻ, công ty không chỉ cạnh tranh với những doanh nghiệp quốc doanh trong nước mà còn với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu điều lâu năm ở Ấn Độ và Brazil. Mặc dù có nhiều hạn chế nhưng sản phẩm của công ty vẫn có những điểm mạnh và đã khẳng định được vị trí trên thị trường Mỹ. Công ty đã tạo dựng được niềm tin cho khách hàng về chất lượng sản phẩm, đảm bảo giao hàng, được bạn hàng tín nhiệm. Không chỉ các khách hàng hiện tại biết đến sản phẩm của công ty mà còn nhiều công ty nhập khẩu Mỹ khác.Các khách hàng chưa bao giờ phải phàn nàn vì chất lượng điều Long Sơn kém chất lượng. Trong những năm qua doanh thu mặt hàng điều từ thị trường Mỹ có xu hướng tăng, đồng thời chiếm thị phần ngày càng lớn. Những năm qua là những năm khó khăn của ngành điều. Năm 2005, tổng cộng các doanh nghiệp ngành điều lỗ 1000 tỷ đồng. Năm 2006 ngành điều lỗ 500 tỷ đồng. Rất nhiều doanh nghiệp điều Việt Nam đã phải phá sản, điêu đứng.Năm 2006, giá điều thế giới lại suy giảm. Trong hoàn cảnh đó, thị phần của công ty tăng lên là điều rất đáng nể, chứng tỏ sức cạnh tranh cao của hàng hoá. Nhờ các phương thức mua nguyên vật liệu linh hoạt, chất lượng sản phẩm của công ty được đảm bảo, không phải mua điều thô với giá cao ngay cả khi có sốt giá điều trong nước. Điều này làm cho giá cả công ty ổn định, giảm giá thành. Trong những năm qua công ty đã xây dựng các nhà máy mới tại Gia Lai nhăm mục đích tận dụng lợi thế theo quy mô, sử dụng nguồn nhân công rẻ để giảm giá thành sản phẩm. Mặc dù sản phẩm công ty trên thị trường Mỹ chưa đa dạng nhưng công ty đã nhận thức được tiềm năng thị trường về những mặt hàng có giá trị gia tăng cao và đang tiến hành thử nghiệm đa dạng hoá sản phẩm. 2.5.2. Những hạn chế của công ty trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều trên thị trường Mỹ Mặc dù quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhưng sản phẩm của công ty vẫn chưa đạt được chứng chỉ HACCP, ISO. Đây là điểm thiếu cạnh tranh của sản phẩm công ty. Nếu muốn có được các khách hàng mới thì phải lấy được lòng tin của họ, với những chứng chỉ quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hiện tại rất nhiều doanh nghiệp đối thủ trong đó có cả các doanh nghiệp Việt Nam đã có được chứng chỉ HACCP, ISO,.. Khi mà xu thế cạnh tranh hàng thực phẩm trên thế giới là vệ sinh an toàn thực phẩm thì đây là điểm hạn chế lớn. Giá cả điều nhân của Long Sơn loại hàng trắng cao cấp (W240, W320,W420,..) còn cao so với các đối thủ khác còn cao. Đa phần điều nhân cùa Long Sơn xuất sang Mỹ là các loại vỡ đôi (DW,DS,..) có giá trị thấp hơn. Công ty chỉ mới xuất được sang Mỹ sản phẩm điều nhân, còn sản phẩm điều chiên mặc dù đã thành công trên thị trường Úc vẫn chưa thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Điều chiên có giá trị ổn định, cao hơn điều nhân, công nghệ chế biến không phải là quá khó khăn sẽ có lợi thế hơn điều nhân có giá cả biến động thất thường. Số lượng khách hàng còn hạn chế, chưa tiếp xúc được với người tiêu dùng. Do chưa thâm nhập sâu vào các kênh phân phối trên thị trường. Trong năm 2007 thị phần có xu hướng giảm là điểm đáng lo ngại về năng lực cạnh tranh của sản phẩm, công ty cần phải có những biện pháp khắc phục. Như vậy, qua các phần trình bày trên có thể đánh giá năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ giai đoạn 2004-2007 như sau: Trong những năm 2004-2006 năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty đã tăng lên trên thị trường Mỹ biếu hiện qua chỉ số thị phần trên thị trường Mỹ cũng như so với các công ty Việt Nam khác tăng lên, đồng thời công ty cũng xây dựng được hình ảnh tốt, thương hiệu uy tín trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên tốc độ tăng còn chậm: thị phần trên toàn thị trường tăng khoảng 0,13%/năm, thị phần so với các doanh nghiệp điều Việt Nam tăng khoảng 0,2%/năm. Đồng thời trong suốt 4 năm qua công ty chưa có thêm được khách hàng mới. Năm 2007 vừa qua thị phần toàn thị trường của công ty có chiều hướng giảm khoảng 0,04% so với năm 2007 mặc dù doanh thu tăng hơn năm trước, thị phần so với các công ty điều Việt cũng giảm khoảng 0,04%. So với tốc độ tăng của những năm trước thì tốc độ giảm này là không nhỏ. Để cạnh tranh trên thị trường Mỹ, công ty đã chú trọng năng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu, luôn giữ uy tín với khách hàng- đây là điều không dễ thực hiện với các doanh nghiệp điều Việt Nam. Có thể nói công ty đã sử dụng tốt hai công cụ cạnh tranh là chất lượng và thương hiệu. Tuy nhiên, giá cả của công ty chưa thực sự cạnh tranh so với các doanh nghiệp Việt Nam khác, và không có gì nổi bật về độ đa dạng sản phẩm khi chỉ xuất điều nhân vào thị trường này, chưa thâm nhập được sâu vào kênh phân phối sản phẩm trên thị trường Mỹ. Đây chính là điểm bất cập khi công ty hoàn toàn có khả năng sử dung tốt hơn những công cụ cạnh tranh này. 2.5.3. Nguyên nhân các hạn chế của việc nâng cao năng lực canh tranh mặt hàng điều của công ty Cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ 2.5.3.1. Nguyên nhân từ phía công ty Những năm qua công ty đã tập trung vào các thị trường khác, đặc biệt là thị trường Úc, nơi chấp nhận mức giá bán cao hơn, mà không chú trọng phát triển thị trường Mỹ. Trong khoảng thời gian 2004-2007 có nhiều sự biến động trong ngành điều Việt Nam, năm 2007 đánh dấu sự khôi phục của ngành điều sau khoảng thời gian dài khủng hoảng, kéo theo sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp điều Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng công ty không có sự điều chỉnh chiến lược một cách phù hợp, giá sản phẩm kém cạnh tranh dẫn đến năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty giảm. Thêm vào đó, cũng như nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam khác, công tác nghiên cứu thị trường chưa được quan tâm đúng mực. Chính vì không nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của người tiêu dùng nên sản phẩm của công ty không thể thâm nhập sâu vào kênh phân phối. Cũng vì thiếu thông tin về thị trường mà công ty không kịp thời thay đổi chiến lược, công cụ cạnh tranh cho phù hợp với tình hình mới. Hơn nữa, công ty chưa có một bộ phận Marketing chuyên nghiệp để đánh giá nhu cầu, thị hiếu, phân tích thông tin một cách sâu và chuyên nghiệp. Các chiến dịch xúc tiến thương mại được tiến hành chưa đồng bộ nên hình ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp chưa được nhiều khách hàng cũng như người tiêu dùng biết đến. Là một doanh nghiệp tư nhân trẻ, tự trưởng thành với số vốn ít ỏi, đa phần vốn kinh doanh của công ty là vốn vay ngân hàng. Sự hạn chế về vốn khiến công ty chưa thể đổi mới nhà xưởng theo các tiêu chuẩn quốc tế như HACCP, ISO,.. đồng thời các nhà máy vẫn ở quy mô vừa và nhỏ. Thêm vào đó công ty vẫn chưa có cán bộ chuyên ngành công nghiệp thực phẩm khiến việc quản lý kỹ thuật và chất lượng sản phẩm càng thêm khó khăn. Thêm vào đó, việc nghiên cứu sản phẩm mới chưa được tiến hành một cách chuyên nghiệp, chưa có hướng đi tạo sự khác biệt. Công nghệ sản xuất điều tại công ty còn dùng nhiều lao động thủ công, do đó này sinh nhiều vấn đề về quản lý. Đặc biệt những năm gần đây hiện tượng thiếu lao động trong ngành điều là vấn đề nan giản với nhiều doanh nghiệp trong ngành này. Hiện nay, ngành điều phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là ngành may mặc về lao động. Rất nhiều lao động ngành điều đã chuyển thành công nhân may, công nhân cạo mủ cao su,... Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc đảm bảo xuất hàng đúng thời hạn và phẩm chất. 2.5.3.2. Nguyên nhân từ phía Hiệp hội điều Việt Nam Hiệp hội cây điều Việt Nam (VINACAS) được thành lập theo quyết định số 346/NN-TCCB/QĐ ngày 29/11/1990 của Bộ nội vụ. Đây là một trong những tổ chức ngành nghề kinh doanh nông sản hình thành sớm nhất của nước ta. Những nguyên nhân xuất phát từ phía Hiệp hội điều Việt Nam làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh mặt hàng điều công ty Long Sơn nói riêng và mặt hàng điều Việt Nam nói chung là: Hoạt động của Hiệp hội còn thiếu sự thống nhất và đồng thuận của các hội viên ở khâu xác định giá mua hạt điều và giá xuất khẩu hạt điều, nên xảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán, thậm chí đã có biểu hiện gian lận thương mại, dẫn đến khiếu kiện, ảnh hưởng đến uy tín "thương hiệu" điều Việt Nam. Hai nội dung được xem là quan trọng và có tính chiến lược trong hoạt động của Hiệp hội là: thông tin (thị trường, kỹ thuật-công nghệ) và xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm từ điều tuy có hoạt động, song kết quả chưa cao. Vai trò của Hiệp hội trong việc nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá chế biến đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế được các hội viên quan tâm đúng mức. Mục tiêu số một của Hiệp hội cây điều Việt Nam là gia tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá chế biến từ điều ở thị trường thế giới và trong nước, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của các hội viên; song thực tế sau gần 17 năm hoạt động, các chương trình, nội dung, phương pháp hoạt động để mục tiêu này thành hiên thực còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là chưa tạo quan tâm đến lợi ích của người trồng điều để xảy ra tình trạng điều kém chất lượng, thiếu nguyên liệu. 2.5.3.3. Nguyên nhân từ phía các chính sách của Nhà nước Vùng nguyên liệu để cung cấp cho sản xuất và xuất khẩu hạt điều chưa được quy hoạch một cách hợp lý, nhiều bất cập và lãng phí. Hiện nay,diện tích điều trồng bằng hạt theo phương thức quảng canh còn khá lớn: 304.809 hecta, chiếm tới 70,31% là điều giống cũ nên sản lượng và chất lượng không cao. Trong tổng số 128.737 hecta điều trồng giống mới cũng có hơn 50% số cây điều kém chất lượng hoặc trồng ở nơi ít thích hợp. Việc trồng điều tràn lan, không tiến hành chuyên canh, quản lý chặt chẽ từ khâu sản xuất, thu mua đến chế biến cũng làm giá thu mua điều thô ở nhiều nơi trong nước tăng, giảm không ổn định, làm cả người trồng điều lẫn doanh nghiệp xuất khẩu điêu đứng. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nghiên cứu thị trường của các công ty còn nhiều hạn chế. Vấn đề khá lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu điều hiện nay thiếu vốn kinh doanh dẫn tới khó khăn khi thu mua nguyên liệu, đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến xuất khẩu hay đổi mới công nghệ sản xuất. Mặt khác, những thông tin hỗ trợ xuất khẩu hạt điều của Bộ công thương cho các doanh nghiệp còn rất chung chung, không hướng vào phân tích, nghiên cứu sâu từng thị trường. Điều này cũng khiến các doanh nghiệp khó khăn hơn khi tiến hành mở rộng thị trường xuất khẩu. Đồng thời sự giám sát của nhà nước đối với chất lượng điều cũng như việc thực hiện đúng các quy trình sản xuất tiêu chuẩn quốc tế con yếu, chưa có một quy chế xử phạt rõ ràng. Sự thiếu sót này làm ảnh hưởng đến chất lượng điều Việt Nam xuất khẩu cũng như giảm uy tín thương hiệu điều Việt Nam. Các công trình nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật đã được Nhà nước thực hiện nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Vấn đề khuyến nông, chăm lo lợi ích của người trồng điều chưa được quan tâm đúng mức. Thuế suất nhập khẩu hạt điều (thô và chế biến) của Việt Nam khá cao (30%), nhưng nếu chế biến để xuất khẩu thì doanh nghiệp sẽ được hoàn thuế sau 275 ngày. Đa phần hạt điều của các doanh nghiệp Việt Nam chế biến là dành cho xuất khẩu (94%-98%), và sản lượng điều Việt Nam cũng không phải là nhỏ. Không doanh nghiệp nào dại gì nhập điều thô bán trong nước để chịu thuế. Như vậy dường như mức thuế này là vô nghĩa với Nhà nước khi không thu được đồng nào, đã vậy còn làm ứ đọng vốn của các doanh nghiệp. Do đó, vô hình, thuế quan trở thành rào cản cản trở quay vòng vốn của các doanh nghiệp điều dẫn đến thiếu vốn đầu tư công nghệ, nhà xưởng, mua nguyên liệu. Tóm lại, chương II đã trình bày khái quát về công ty cổ phần Long Sơn và phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng điều của công ty Cổ phần Long Sơn đồng thời cũng tìm hiểu những nguyên nhân làm hạn chế năng lực cạnh tranh mặt hàng này cùa công ty trên thị trường Mỹ. Vậy các giải pháp nào để khác phục những hạn chế này? Chương III tiếp theo sẽ trả lời câu hỏi này. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY 10 SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1.1. Dự báo nhu cầu nhập khẩu mặt hàng điều của thị trường Mỹ Mỹ một thị trường tiêu thụ điều lớn, và vẫn có tiềm năng phát triển. Điều được coi là loại thực phẩm xa xỉ do mức giá cao của nó, do vậy không có chuyện cung vượt cầu. Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng điều phụ thuộc vào thu nhập của người Mỹ. Đồng thời giá điều càng rẻ thì nhu cầu càng nhiều. Trong những năm gần đây mặc dù nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái nhưng Mỹ vẫn là nền kinh tế hàng đâu thế giới, thu nhập trung bình của người dân Mỹ vẫn duy trì trên 48.000USD/năm. Trong nhiều năm, nước Mỹ là nước nhập khẩu điều lớn nhất thế giới chiếm hơn 50% sản lượng điều toàn cầu. Trong khoảng thời gian 1988- 1991 chi tiêu của người Mỹ cho hạt điều tăng trung bình 22,8%/năm. Hiện nay, người Mỹ tiêu thụ điều nhiều thứ nhì thế giới chỉ sau Hà Lan. Bảng 3.1. Khối lượng tiêu thụ điều nhân trung bình của các nước tiêu thụ điều nhiều nhất thế giới Thứ hạng Nước Khối lượng tiêu dùng trung bình ( gram/người/năm) 1 Hà Lan 230 2 Mỹ 215 3 Anh 75 4 Đức 50 Nguồn: VINACAS Như vậy trung bình một người Mỹ tiêu thụ 215 gram điều trong một năm. Nước Mỹ với dân số hơn 300 triệu người và tốc độ tăng 1%/ năm do sinh đẻ và nhập cư là một thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng lồ của thế giới. Do vậy đây là thị trường tiềm năng với rất nhiều sản phẩm, trong đó có các sản phẩm về điều. Người Mỹ ngày càng ưa thích các sản phẩm làm từ điều, một phần do hương vị đặc biệt của nó và một phần vì hạt điều là thực phẩm có lợi cho sức khoẻ. Hiện nay, khoảng một phần tư dân số Mỹ bị béo phì, ung thư chiếm 25% trường hợp chết do mọi nguyên nhân, tỷ lệ người mắc các bệnh về tim mạch, tiểu đường cũng tăng cao. Nguyên nhân chủ yếu là do chế độ dinh dưỡng nhiều chất béo, choleteron, chất đường, chất hoá học.. có hại cho sức khoẻ. Điều này kiến người dân Mỹ càng quan tâm đến sức khoẻ và khó tính hơn trong việc lựa chọn thực phẩm. Các loại thức ăn nhẹ (snack food) rất được người Mỹ ưa thích, đa phần là các loại khoai tây chiên, bánh quy, kẹo,..Nhưng theo các nhà khoa học đó lại là nguyên nhân gây ra các bệnh tim mạch, ung thư, béo phì, tiểu đường. Chính vì thế, người Mỹ chuyển sang ưa thích các loại hạt như đậu Hà Lan, hạt óc chó, lạc, walnut, hạt hạnh nhân, hạt bồ đào,.và cả hạt điều. Những loại hạt này mặc dù có giá cao hơn các thức ăn nhẹ khác có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch, tiểu đường và hạn chế béo phì. Hạt điều với giá trị dinh dưỡng cao đã được quốc tế thừa nhận và đinh hướng tiêu dùng của nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ. Những nước này khuyến khích người dân sử dụng hạt điều bởi trong nhân điều có chứa hàm lượng protêtin cao (có hầu hết các loại aminoaxit cần thiết)(21%), betacarotene, nhiều khoáng chất,…rất tốt cho người cần phục hồi sức khoẻ nhanh: phụ nữ sau khi mang thai, người vận động thể thao, trẻ em, người già,..Hơn nữa so với các hạt hạnh nhân, bồ đào, hạt dẻ,...hạt điều có mức giá cạnh tranh hơn. Hạt điều ở thị trường Mỹ chủ yếu được bán dưới dạng chiên, nhưng bên cạnh đó cũng có thể chế biến thành bánh kẹo, cho vào làm phụ gia thức ăn. Chính vì vậy mà khối lượng hạt điều tiêu thụ trên thị trường Mỹ có xu hướng ngày càng tăng trong những năm qua và được FDA dự đoán sẽ tăng với mức 4%/năm. VINACAS dự báo năm 2008 giá điều trên quốc tế sẽ tiếp tục đứng vững do lượng dự trữ toàn cầu thấp, diện tích canh tác nhiều nước (Ấn Độ, Brazil) bị thu hẹp trong khi nhu cầu thế giới đang đứng ở mức cao. Theo biểu đồ sau, khối lượng nhập khẩu điều vào thị trường Mỹ liên tục tăng trong những năm gần đây: Hình 3.1. Kim ngạch và khối lượng điều nhập khẩu vào thị trường Mỹ qua các năm Nguồn: www. usitc.gov Thị trường Mỹ không phải là thị trường khó tính nhưng họ rất quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhiều lô hàng xuất từ Việt Nam có lẫn giấy báo gói bã thuốc hun trùng, mẩu nhựa, thuỷ tinh, thậm chí có chứa hàm lượng thuốc trừ sâu không cho phép. Đó là những điều nhà nhập khẩu e ngại khi nhập điều Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không cải thiên điểm yếu này thì khó có thể cạnh tranh lâu dài trên thị trường Mỹ. 3.1.2. Dự báo tình hình cạnh tranh và đối thủ cạnh tranh đến năm 2010 Thị trường Mỹ với sức mua lớn, hàng năm tiêu thụ đến hơn một nửa sản lượng điều thế giới, lại dễ tính hơn thị trường Úc, Châu Âu luôn có sức hấp dẫn với các nước xuất khẩu điều. Theo số liệu của tổ chức nông lương Liên hợp quốc (FAO) ngành điều thế giới được ghi nhận có từ năm 1900. Hiện có hơn 50 quốc gia vùng nhiệt đới trồng điều với diện tích thu hoạch năm 2003 là: 3,17 triệu ha, trong đó Ấn Độ 0,853 triệu ha, Brazin: 0,699 triệu ha. Trong những năm 2005 về trước Ấn Độ luôn là nước dẫn đầu thế giới về diện tích, sản lượng hạt (0,5 triệu tấn/năm) và nhân điều xuất khẩu (0,09 triệu tấn/năm). Tuy nhiên từ năm 2005 trở lại đây, Việt Nam mặc dù phát triền ngành điều muộn hơn đã vượt mặt Ấn Độ trở thành nước có lượng điều nhân xuất khẩu lớn nhất thế giới với 117.000 tấn xuất khẩu vào năm 2005, 127.000 tấn vào năm 2006, 152.000 tấn vào năm 2007. Đồng thời thị trường Mỹ luôn là thị trường chủ lực của điều Việt Nam qua các năm. Hình 3.2. Thị trường xuất khẩu điều Việt Nam Nguồn: VINACAS Trong những năm qua điều Việt Nam ngày càng có thị phần lớn trên thị trường Mỹ, lấn át cả thị phần của Ấn Độ và Brazil. Năm 2007, khối lượng điều Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ chiếm 36% tổng khối lượng điều nhập khẩu vào Mỹ trong khi Ấn Độ là 33,43% và Brazil là 25,86%. Có được điều này cũng là do điều Việt Nam vừa rẻ hơn lại vừa có chất lượng hơn hẳn điều của hai nước đó. Trong tương lai điều Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với điều châu Phi và xa hơn là điều Campuchia. Trong tương lai tổ chức FAO sẽ hỗ trợ giúp một số nước Châu Phi phát triển điều và Campuchia cũng có quỹ đất lớn thích hợp cho phát triển sản cuất điều sẽ cạnh tranh với Việt Nam. Tuy nhiên đối thủ cạnh tranhmạnh nhất vẫn là Ấn Độ và Brazil. Theo như xu thế hiện nay thì điều Việt Nam cũng như sản phẩm điều của công ty Long Sơn sẽ vẫn tiếp tục được ưa thích trên thị trường Mỹ, nhất là khi người tiêu dùng cũng như các nhà nhập khẩu trở nên nhạy cảm về giá hơn. Đây là sản phẩm tốt cho sức khoẻ nên sẽ luôn có nhu cầu cho sản phẩm này. 3.1.3. Dự báo khả năng xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Long Sơn sang thị trường Mỹ Hiện nay công ty Long Sơn đã mở rộng quy mô sản xuất với 4 nhà máy ở Gia Lai và 3 công ty chế biến thành viên. Tổng công suất của toàn bộ hệ thống gần 50.000 tấn/ năm hoàn toàn có khả năng đáp ứng nhiều đơn đặt hàng không chỉ ở thị trường Mỹ mà còn từ các thị trường lớn khác. Với địa điểm đặt các nhà máy ở Gia Lai, công ty giảm thiểu tình trạng thiếu lao động, lao động bỏ việc. Qua 8 năm hoạt động, công ty đã xây dựng được các mối quan hệ tốt với nhiều đầu mối cung cấp điều thô, các nông trại, đảm bảo nguồn hàng cung cấp. Bên cạnh đó với sự năng động của ban quản trị, công ty đã tìm kiếm và có nguồn điều thô nhập khẩu từ châu Phi ổn định với chất lượng tốt. Nếu công ty đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng thì chắc chắn sức cạnh tranh sản phẩm của công ty sẽ được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó việc đa dạng hoá sản phẩm cũng không nằm ngoài khả năng của công ty. Không giống như các loại nông sản khác, thuế nhập khẩu điều vào thị trường Mỹ đã băng 0% trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Chính vì vậy, khối lượng mặt hàng này xuất sang Mỹ sẽ không có chuyển biến đáng kể nếu không có những biện pháp kích cầu tích cực. Chuyến xúc tiến thương mại vừa qua (4/2007) đã quảng bá hình ảnh công ty và có thêm nhiều cơ hội hợp tác mới. Dự kiến năm 2010 khối lượng điều xuất khẩu điều nhân của công ty sẽ tăng 30% so với năm 2007 và đạt kim ngạch xuất khẩu là 7,12 triệu USD. Đồng thời trong năm 2010 công ty sẽ đưa sản phẩm điều chiên đã thành công trên thị trường Úc của mình thâm nhập vào thị trường Mỹ. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG ĐIỀU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN LONG SƠN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 3.2.1. Các giải pháp từ phía công ty 3.3.1.1. Điều chỉnh chiến lược xuất khẩu phù hợp với tình hình mới Thị trường Mỹ những năm gần đây có những biến động khá phức tạp. Nền kinh tế Mỹ suy thoái làm ảnh hưởng phần nào đến sức mua những loại thực phẩm xa xỉ như hạt điều. Mặc dù chính sách miến thuế nhập khẩu hạt điều của nước Mỹ mang lại nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng đây cũng là điểm thu hút nhiều đối thủ cạnh tranh vào thị trường này. Các doanh nghiệp Châu Phi đang dần tiến tới xuất khẩu điều nhân với chiến lược sản xuất bằng phương pháp sạch (phương pháp sinh học, tối thiểu việc dùng hoá chất), đồng thời do vị trí địa lý gần châu Mỹ hơn, tiết kiệm chi phí vận chuyển nên điều nhân của các quốc gia này sẽ rất có sức cạnh tranh. Chính sách định giá cao của công ty đã làm hạn chế khối lượng hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ và ít thích hợp khi nền kinh tế Mỹ đang trong thời kỳ khó khăn, các nhà nhập khẩu rất quan tâm đến giá cả. Rất nhiều doanh nghiệp có uy tín khác đã xuất được hàng sang Mỹ với mức giá thấp hơn. Khi môi trường cạnh tranh thay đổi thì chiến lược của doanh nghiệp cũng cấn phải được điều chỉnh cho phù hợp thì mới có được những biện pháp để hạn chế bất lợi và phát huy lợi thế của mình, qua đó duy trì, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Như vậy, với năng lực cạnh tranh mặt hàng điều trên thị trường Mỹ giảm trong năm 2007 vừa qua, công ty cần ngay lập tức thay đổi chiến lược cạnh tranh của mình. Hội đồng quản trị, ban giám đốc cần bàn bạc xây dựng lại chiến lược cạnh tranh của công ty trên thị trường Mỹ. Đó có thể là chiến lược cạnh tranh bằng giá, giảm giá bán sản phẩm trên thị trường hoặc cạnh tranh bằng kênh phân phối: tiếp cận trực tiếp với các siêu thị, các nhà chiên điều để từng bước tiến đến gần hơn với người tiêu dùng. Việc giảm bớt các khâu trung gian sẽ giúp giảm bớt chi phí cũng như sự phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu. Thêm vào đó công ty cũng gần hơn với khách hàng, nắm bắt được nhu cầu để có thay đổi phù hợp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 3.3.1.2. Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường Mỹ Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của một cách hiệu quả phải tạo ra được những sản phẩm khác biệt, nổi trội và đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Công ty chỉ có thể làm được điều đó trên cơ sở nắm vững những đặc điểm của thị trường và phân tích, đánh giá, dự báo về thị trường trong tương lai, công ty có thể đưa ra quyết định cạnh tranh bằng công cụ, chiến lược nào. Trong thời gian qua do cả yếu tố về vốn, bộ máy và con người mà công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu nói chung và thị trường Mỹ nói riêng của công ty còn chưa được quan tâm thích đáng. Vì vậy, thời gian tới công ty cần chú trọng hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, cụ thể là: Trong năm nay (2008) cũng như những năm sau công ty cần tăng thêm kinh phí để hỗ trợ việc nghiên cứu thị trường hiệu quả hơn. Thông qua sự tư vấn của các công ty nghiên cứu thị trường uy tín để đa dạng hoá sản phẩm, thâm nhập sâu hơn vào các kênh phân phối. Bên cạnh đó, công ty có thể đầu tư cho việc đào tạo cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Thành lập phòng Marketing riêng hoặc có chuyên viên chuyên nghiên cứu thị trường riêng biệt. Việc này sẽ khiến cho công tác nghiên cứu thị trường được chuyên sâu và bài bản hơn, hơn nữa tránh được tình trạng phòng Kế hoạch thị trường phải làm quá nhiều công việc nên kém hiệu quả hay sự trùng lặp trong nghiên cứu giữa các phòng nghiệp vụ với nhau. 3.2.1.3. Nâng cao chất lượng mặt hàng điều xuất khẩu Chất lượng sản phẩm luôn là một yếu tố hàng đầu được các khách hàng quan tâm khi chọn mua sản phẩm, đối với mặt hàng nông sản như hạt điều thì điều đó càng quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ con người. Để nâng cao chất lượng của các sản phẩm điều, việc trước tiên cần làm là đảm bảo có nguồn nguyên liệu sạch, đáp ứng nhu cầu sản xuất. Vì thế, công ty cần chủ động phối hợp xây dựng vùng nguyên liệu sạch, năng suất cao. Hiện nay để ổn định nguồn nguyên liệu công ty chỉ mới dừng lại ở việc ứng trước vốn cho nông dân, các hộ trồng điều mà chưa thực sự chủ trọng đến việc xây dựng nguồn nguyên liệu sạch theo tiêu chuẩn GAP. Đó là nguyên nhân khiến chất lượng sản phẩm của công ty không đồng đều, hàm lượng thuốc trừ sâu còn cao so với điều châu Phi.Hiện nay có rất nhiều tiến bộ trong nông nghiệp giúp tăng sản lượng, năng suất cây điều, phòng trừ sâu bệnh mà không tốn quá nhiều chi phí. Công ty nên phối hợp với các địa phương, các ban ngành, các hộ trồng điều tuyên truyền, hướng dẫn về những phương pháp mới này. Mặc dù sản phẩm của công ty chưa xảy ra tình trạng có tạp chất, ngâm nước hoặc dư lượng thuốc trừ sâu vượt qua mức cho phép, nhưng để có nguồn nguyên liệu sạch nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh lâu dài khi mà thị trường Mỹ ngày càng khó tính hơn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như cạnh tranh với đối thủ tiềm ẩn Châu Phi trong tương lai. Bên cạnh đó, một giải pháp giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm điều mà Hiệp hội điều Việt Nam cũng như các chuyên gia kinh tế nông nghiệp đã nêu ra là doanh nghiệp cần tập trung đổi mới trang thiết bị, nhà xưởng sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, đảm vảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, HACCP, GMP,.. Hiện nay chỉ có 14 trong tổng số 164 doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam có được chứng chỉ này. Những công ty này sản xuất ra bao nhiêu hàng tiêu thụ hết bấy nhiêu. Đây là điều Long Sơn cần học tập nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều trên thị trường Mỹ. 3.2.1.4. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu Bên cạnh chất lượng thì chủng loại sản phẩm cũng cần được công ty lưu tâm hơn. Hiện nay sản phẩm của công ty xuất sang thị trường Mỹ mới chỉ là điều nhân- sản phẩm có giá thường xuyên biến động, nhiều rủi ro. Các sản phẩm điều chế biến có giá cao, không chịu nhiều sự biến động của giá điều thế giới lại dễ làm sẽ là những mặt hàng có tính cạnh tranh cao, mag lại nhiều lợi nhuận nếu được công ty quan tâm thích đáng. Các sản phẩm ăn liền được chế biến từ điều rất đa dạng ví dụ như điều rang muối, điều trộn đậu phộng, kẹo hạt điều, kẹo nhân điều thập cẩm, nhân điều wasabi, nhân điều hương tỏi,..Vì vậy, trong những năm tới công ty nên chú ý việc đa dạng hoá sản phẩm, tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm nhằm tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình. 3.2.1.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động kinh doanh trong đó có xuất khẩu của công ty. Để thực hiện tốt các nội dung của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu như nghiên cứu thị trường, đàm phán, ký kết hợp đồng, ra quyết định… đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải có trình độ cao cả về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm và nhạy bén trước sự thay đổi của thị trường. Công ty hiện nay cần bổ sung thêm cán bộ quản lý về công nghiệp thực phẩm cũng như nhân viên marketing quốc tế. Đồng thời công ty cũng nên tạo điều kiện cho nhân viên học tập nâng cao các kỹ năng làm việc cũng như trình độ ngoại ngữ. Với công nhân, nên phát động các cuộc thi tay nghề, thi đua năng suất. Để tạo được lòng trung thành cũng như trách nhiệm với công việc, công ty nên nhanh chóng tiến hành bán cổ phần cho đội ngũ lao động. 3.2.2. Các kiến nghị với Hiệp hội điều Việt Nam- VINACAS Xu thế các doanh nghiệp trong cùng môt ngành hiện nay là liên kết với nhau trong các hiệp hội. Hiệp hội sẽ là người bảo vệ quyền lợi chung của các doanh nghiệp, là cầu nối giữa các doanh nghiệp với nhau. Là một thành viên trong Hiệp hội điều Việt Nam, những hoạt động của Hiệp hội ngày càng có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty Long Sơn. Hiệp hội điều trong những năm qua còn nhiều bất cập, nhiều chuyện xích mích đáng tiếc, làm ảnh hưởng đến uy tín cũng như hiệu quả của hội. Do vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của điều Việt Nam, Hiệp hội cần nâng cao vai trò, chất lượng và hiệu quả của mình, trước hết là những nhiệm vụ sau: Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực quản lý điều hành, thiết lập quan hệ gắn bó với các Bộ, Ngành, địa phưong để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hội viên, tiếp tục đưa sản phẩm điều Việt Nam có vị trí xứng đáng trên thị trường Mỹ cũng như thế giới. Hiệp hội phải tạo ra sự đồng thuận cao giữa các hội viên trong việc tổ chức thu mua, nhập khẩu hạt điều, tăng cường thông tin, nâng cao hiệu quả hoạt động, dự báo thị trường và xúc tiến thương mại, hội thảo khoa học ứng dụng công nghệ và kỹ thuật mới vào chế biến, tổ chức hội thi tay nghê cho công nhân chế biến điều,...Những hoạt động này phần nào sẽ quảng bá cho sản phẩm điều Việt Nam và giảm giá thành sản phẩm. Hiệp hội phải trở thành tổ chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của các hội viên, để các doanh nghiệp có thể yên tâm kinh doanh một cách lành mạnh, tránh được những thiệt hại do cạnh tranh không lành mạnh. Đối với những doanh nghiệp thường xuyên không thực hiện hợp đồng, Hiệp hội có thể cho đăng tên vào “ danh sách đen” trên trang web của hội thông báo cho toàn thể các nhà nhập khẩu. Từ đó giúp củng cố thương hiệu điều Việt Nam. 3.2.3. Các kiến nghị với Nhà nước 3.2.3.1. Điều chỉnh chính sách đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều phù hợp hơn với thực tế Quy hoạch nguồn nguyên liệu trong nước cho sản xuất, chế biến điều Công suất thiết kế 731.700 tấn, có 245 cơ sỏ chế biến điều, diện tích hiện nay có 433.546 ha Cây điều là một loại cây tương đối dễ trồng và có giá trị kinh tế cao. Trong thời gian qua, Nhà nước đã triển khai đề án 120/TTg để phát triển vùng nguyên liệu điều phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên đề án này còn những bất cập, ví dụ như: Đề án ưu tiên phát triển điều ở duyên hải miền Trung nhưng thực tế đây lại là nơi không hoặc ít thích hợp với sinh thái cây điều, lại gặp thiên tai nên tỷ lệ đậu quả thấp, hạt và nhân điều nhỏ. Việc phát triển trồng điều tràn lan không căn cứ vào các dự báo, xu hướng biến động thị trường cũng khiến ngành điều lao đao. Theo các chuyên gia nghiên cứu về thực trạng và xu hướng phát triển của xuất khẩu điều Việt Nam thì để ngành điều phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh thời hội nhập thì việc quy hoạch, tổ chức lại vùng sản xuất nguyên liệu điều cần được điều chỉnh lại. Theo đó, nên thu hẹp lại những vùng trồng điều không phù hợp, tiến hành tập trung thâm canh cho diện tích 400.000 – 440.000 ha thay vì 500.000 ha vào năm 2010 như đề án đề ra. Giảm thuế nhập khẩu điều thô nguyên liệu xuống 0% Do sản lượng trong nước không đáp ứng đủ công suất chế biến, mỗi năm sản lượng chỉ khoảng 350.000-400.000 tấn, thiếu 150.000-200.000 tấn điều thô, phải nhập khẩu từ bên ngoài. Như vậy, việc nhập khẩu điều thô của ngành điều là bắt buộc. Chính sách thuế áp dụng cho hạt điều thô nhập khâu hiện nay là 5%-7.5% nhưng được hưởng ân hạn về thuế trong vòng 275 ngày (được hoàn thuế nếu xuất khẩu sau 275 ngày). Mặc dù vậy, doanh nghiệp nhập khẩu, trong đó có công ty Long Sơn lại vướng mắc nhiều về cơ chế Hải quan trong việc kiểm tra định mức xuất khẩu. Bên cạnh đó, Ấn Độ đã áp mức thuế 0% cho điều thô nhập khẩu. Để đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngành điều Việt Nam phù hợp với cam kết WTO, Nhà nước cần thống nhất chủ trương và xây dựng đề án tăng cường nhập khẩu nguyên liệu điều thô phục vị chế biến tái xuất với mức thuế nhập nhẩu hợp lý. Đây là giải pháp để giải quyết vướng mắc về cơ chế chính sách khi quyết toán vói ngành Hải quan; tạo điều kiện pháp lý thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí snả xuất, tăng khả năng cạnh tranh. 3.2.3.2. Thay đổi chính sách thuế VAT với các sản phẩm điều Hiện nay có đến 99% điều xuất khẩu của Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng điều nhân (chưa rang muối, chiên chao hay làm bánh kẹo điều). Trên thực tế, các doanh nghiệp mua bán điều thô và nhân điều trong nước đều chịu mức thuế VAT là 5% , nhưng vì là mặt hàng xuất khẩu nên thuế xuất khẩu nhân điều là 0%, vì vậy các doanh nghiệp được hoàn thuế VAT nếu có đủ hồ sơ hợp lệ trình cơ quan thuế. Cơ chế này đã kiến những doanh nghiệp điều bị kẹt vốn do phải trả laĩ vay ngân hàng trong thời gian chờ đợi cơ quan thuế thẩm định, chưa kể đến việc tăng chi phí sản xuất. Ấn Độ, đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam đã và đang áp dụng mức thuế 0% với hạt điều thô và nhân điều sơ chế. Với lý do trên, để tiết kiệm chi phí và đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn dẫn đến giảm chi phí và hạn chế tình trạng thiếu vốn đầu tư vào công nghệ của các doanh nghiệp điều Việt Nam, Chính phủ nên thống nhất chủ trương và sớm xây dựng đề án đưa thuế VAT xuống 0% đối với điều thô và nhân điều sơ chế. 3.2.3.3. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ người trồng điều Mặc dù ngành điều có sự phát triển rất nhanh (năm 2008, với sản lượng dự kiến 400.000 tấn, giá trị sản xuất hàng hoá nguyên liệu ngành điều Việt Nam khoảng 5.000-5.500 tỷ đồng ) nhưng chứa đựng nhiều rủi ro, không bền vững do Nhà nước thiếu chính sách hỗ trợ đối với người trồng điều. Theo cam kết WTO, Chính phủ được phép hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất nông nghiệp bằng 12% giá trị ngành hàng. Vấn đề về giống,kỹ thuật trồng, phòng trừ sâu bệnh và các yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu… quyết định chủ yếu đến năng suất, chất lượng cây điều. Hiện nay các vùng nguyên liệu nước ta đã chuyển đổi trên 30% thành giống mới cao sản với sản lượng bình quân trên 1tấn/ha. Nếu đầu tư có chiều sâu, nghiên cứu giống mới, chuyển giao tiến bộ và tăng cường công tác khuyến nông thì sản lượng bình quân toàn quốc đạt 2 tấn/ha. Chính vì những lý do trên, Nhà nước nên có kế hoạch hỗ trợ trực tiếp cho người trông điều 50-60 tỷ đồng để xây dựng các viện nghiên cứu cây điều, tăng cường công tác khuyến nông và bảo vệ thực vật ở vùng trồng điều và đầu tư xây dựng tiêu chuẩn GAP nhằm mục tiêu xây dựng nguồn nguyên liệu điều theo hướng canh tác sạch. Việc thực hiện những công tác này sẽ trực tiếp hỗ trợ nông dân trồng điều các địa phương. Việc xây dựng tiêu chuẩn GAP, xây dựng vùng nguyên liệu theo hướng canh tác sạch góp phần phục vụ đắc lực cho công nghiệp chế biến, là”giấy thông hành” cho các mặt hàng điều chất lượng cao của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong tương lai một cách bền vững cũng như nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu cho những mặt hàng này. 3.2.3.4. Sửa đổi tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về điều nhân Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có tiêu chuẩn TCVN4850-1998 về nhân điều và điều thô. Tiêu chuẩn này được ban hành từ lâu mà không có sửa đổi bổ sung nên đã lạc hậu so với nhiều tiêu chuẩn khác về điều nhân thế giới. Hiện nay các nhà xuất khẩu Việt Nam đều phải ký hợp đồng bán nhân không chỉ với nhà nhập khẩu Mỹ mà còn cả các nước khác dựa trên tiêu chuẩn điều nhân của AFI. Nếu không tiến hành sửa đổi TCVN4850-1998, không xây dựng TCVN về điều thô và xây dựng GAP thì lợi thế canh tranh về giá của điều Việt Nam sẽ thấp hơn các nước khác trên thế giới. 3.2.3.5.Nhà nước nên có các ưu đãi về tín dụng và vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu điều Vốn là một trong những vấn đề nan giải trong những năm gần đây đối với các doanh nghiệp nói chung. Đặc biệt do đặc thù của mình, ngành điều cần một khối lượng vốn rất lớn. Thường thì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp điều chỉ có từ 10-30% là vốn tự có, còn lại là vốn vay. Các doanh nghiệp thường dùng vốn vay để mua điều thô, chế biến xuất khẩu rồi lấy tiền xuất hàng trả các khoản vay và lãi. Nhu cầu vốn hàng năm của ngành điều Việt Nam khoảng 5.000 tỷ, những năm gần đây lượng điều thô nhập khẩu ngày càng tăng, khiến nhu cầu về vốn vay ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng tiếp tục cho vay như những năm trước: đồng loạt cho vay ngắn hạn khối lượng tiền lớn vào thời gian thu hoạch điều thì tình trạng “sốt giá ảo” là không thể tránh khỏi. Rất nhiều doanh nghiệp điều muốn vay vốn để mở rộng nhà xưởng, cải tiến công nghệ theo các tiêu chuẩn quốc tế nhưng với lãi suất cao như hiện nay (1,5%/tháng) thì khó có thể thực hiện được. Muốn giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu điều trong thời gian tới thì Ngành ngân hàng và các ngành hữu quan cần xem xét và có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu điều các ưu đãi về tín dụng và vốn để đầu tư máy móc, công nghệ. Để làm được việc này Nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, thời gian cho vay hợp lý, không giải ngân chậm, thúc nợ sớm... Có như vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu hạt điều mới có điều kiện đầu tư vốn cho mua nguyên liệu, nghiên cứu thị trường, cải tiến công nghệ chế biến… góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều. 3.2.3.6. Cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp điều về thị trường Mỹ và hỗ trợ xúc tiến thương mại mặt hàng này trên thị trường Mỹ Tình trạng thiếu thông tin về thị trường khiến các doanh nghiệp khó khăn cho việc tiếp cận các kênh phân phối cũng như tiếp cận người tiêu dùng. Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ nên quan tâm giúp đỡ các doanh nghiệp điều trong việc cung cấp thông tin về thị trường tiêu dùng các sản phẩm từ điều. Qua đó các doanh nghiệp sẽ mạnh dạn hơn trong việc đưa các sản phẩm có giá trị gia tăng cao vào thị trường này. Các sản phẩm này muốn có sức cạnh tranh mạnh thì phải phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời tạo được sự khác biệt với các sản phẩm cùng loại. Muốn làm được điều đó nhất thiết phải phân tích các thông tin về thị trường tiêu dùng hiện tại. Việc xây dựng thương hiệu điều Việt Nam trên thị trường Mỹ có ý nghĩa chiến lược trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng điều. Qua đây, hình ảnh các sản phẩm điều Việt Nam sẽ đến được với các nhà chiên điều, các siêu thị cũng như người tiêu dùng, tạo điều kiện cho cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào kênh phân phối. 3.2.3.7. Tăng cường sự hỗ trợ và giám sát của Nhà nước với ngành điều Hiện nay cây điều không chỉ là loại cây xoá đói giảm nghèo mà còn là loại cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao, có sức cạnh tranh, hứa hẹn đem lại nhiều ngoại tệ trong đất nước. Tuy nhiên, nhà nước chưa có sự quan tâm thích đáng đến ngành này,số lượng các đề tài nghiên cứu về cây điều còn ít. Hiện nay các giống điều cho năng suất cao đều là do nhân dân tạo ra, việc nghiên cứu máy móc thiết bị cho ngành điều chưa được sự hỗ trợ của nhà nước dẫn đến thiếu kinh phí. Ngành điều là ngành rất có tiềm năng, không đòi hỏi đầu tư nhiều, Nhà nước nên quan tâm đầu tư và phát triển. Bên cạnh đó, do yêu cầu ngày của thị trường Mỹ ngày càng khát khe về vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng trong khi hiểu biết của các doanh nghiệp còn hạn chế. Chính vì vậy, Nhà nước nên hỗ trợ và chỉ đạo doanh nghiệp xây dựng lộ trình quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO, HACCP, GMP và giám sát việc thực hiện nhãn hiệu đã đăng ký. Bên cạnh đó, việc tăng cường hoạt động quản lý thị trường, không để xảy ra gian lận thương mại xử nghiêm nếu vi phạm cũng rất quan trọng trong việc tạo điều kiện nâng cao thương hiệu điều Việt Nam cũng như phát triển ngành một cách ổn định. KẾT LUẬN Thị trường Mỹ đa chủng tộc, đa văn hóa với dân số trên 300 triệu dân, thu nhập bình quân vào khoảng 42.000USD/năm luôn là một thị trường đầy tiềm năng với các sản phẩm tiêu dùng nói chung và với mặt hàng điều nói riêng. Tuy nhiên đây cũng là thị trường đòi hỏi cao về chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là điều cần lưu ý không chỉ đối với công ty Long Sơn mà cả với các doanh nghiệp xuất khẩu điều Việt Nam khác. Mặt hàng điều là mặt hàng rất có lợi thế cạnh tranh trong hoàn cảnh hiện nay- khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO do đây là mặt hàng Việt Nam tự trồng, tự chế biến điều, giá nhân công lao động rẻ, vốn nhiều năm đã không được trợ cấp của Nhà nước. Cái khó của ngành này đó là nguồn nguyên liệu bấp bênh, thiếu các vùng trồng điều được quy hoạch khoa học, thiếu giống cây tốt. Nhà nước cần xem xét và hỗ trợ vấn đề này để ổn định nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh cho điều xuất khẩu. Với những thành tựu đã và đang đạt được, tương lai phát triển thị trường Mỹ là rất có triển vọng. Thế mạnh đặc biệt của mặt hàng điều của công ty đó là thương hiệu điều mà rất nhiều các tên tuổi xuất khẩu điều ở Việt Nam không có được. Phương châm “Chữ tín hàng đầu” giúp công ty vượt qua bao thăng trầm trong 7 năm qua. Tuy nhiên mặt hàng điều xuất khẩu của công ty Long Sơn nói riêng và ngành điều Việt nói chung vẫn chỉ là những mặt hàng ít giá trị gia tăng, dễ bị biến động giá cả. Trong thời gian thực tập ở công ty, em đã tìm hiểu, thu thập thông tin, tài liệu về thực trạng xuất khẩu hạt điều của công ty và của Việt Nam qua đó đánh giá điểm mạnh, điểm yếu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mặt hàng điều của công ty cổ phần Long Sơn trên thị trường Mỹ. Do kinh nghiệm, trình độ còn có hạn nên chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong ban lãnh đạo công ty, các thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26427.doc
Tài liệu liên quan