Cần đổi mới cả nội dung lẫn hình thức đào tạo nhằm nâng cao năng lực XTTM cho những người làm công tác XTTM.
Nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, đảm bảo cho người được đào tạo không chỉ “học” về XTTM, nội dung đào tạo phải được chuẩn hoá về các vấn đề:
- cách thu thập, xử lý và phân tích thông tin về thị trường quốc tế
- phải có sự kết hợp giữa lý thuyết cơ bản và các bài tập tình huống thực tế đặt ra nhằm vận dụng lý thuyết đó vào thực trạng XTTM Việt Nam
- cách tổ chức một hội nghị, hội thảo về XTTM
Về hình thức đào tạo, ngoài cách thức truyền thống là tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về XTTM, các chuyến đi khảo sát thực tế nước ngoài cũng phải được coi là một loại hình đào tạo. Để tăng hiệu quả của loại hình đào tạo này, cần có một quy định bắt buộc đối với những người tham gia các chuyến đi khảo sát là phải nộp bài thu hoạch về đánh giá cơ hội và tiềm năng xuất khẩu của hàng hoá Việt nam sang thị trường mà họ đi khảo sát, nếu bài viết chất lượng họ sẽ được khuyến khích tham gia tiếp, nếu không thì cơ hội đó dành cho người khác.
83 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường asean đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Việt Nam thời gian qua phát triển cả về lượng và chất. Số lượng các hội chợ triễn lãm thương mại được tổ chức trong cả nước đến năm 2001 đã lên tới hơn 100 so với chưa tới một vài chục hội chợ một năm trong những năm đầu 1990. Những năm trước, các HCTL thương mại chủ yếu được tổ chức tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong mấy năm gần đây, hoạt động này đã được mở rộng tới nhiều tỉnh thành khác, kể cả ở các tỉnh miền núi nơi mà hoạt động kinh tế và thương mại chưa phát triển. Số các hội chợ triễn lãm thương mại hướng về thị trường ASEAN của Việt Nam cũng nằm trong quy luật chung đó.
Hội chợ triễn lãm thương mại quốc tế của Việt Nam hướng về thị trường ASEAN được tổ chức dưới nhiều hình thức. Đó có thể là các hội chợ do VIệt Nam tự tổ chức ở trong nước và mời các đoàn thương mại của các nước ASEAN tham gia để tìm hiểu về thị trường Việt Nam như Hội chợ Vietnam Expo, Hội chợ triễn lãm thương mại tại các cac khu thương mại mở ở các cửa khẩu biên giới với các nước ASEAN như ở Lao Bảo…; hoặc là các hội chợ, triễn lãm mà Việt Nam phối hợp với các cơ quan thương mại của các nước ASEAN đồng tổ chức tại các nước sở tại để giới thiệu về thị trường sản phẩm của Việt Nam và cung cấp thông tin liên quan về tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu các sản phẩm đó ở Việt Nam như Tuần lễ Việt Nam tại Lào, My-an-ma…; hoặc có thể là các hội chợ, triễn lãm thương mại mà Việt Nam cùng hợp tác với các nước, các tổ chức thuộc các nước phi thành viên ASEAN tổ chức để giới thiệu về thị trường ASEAN cho chính các nước ASEAN và cho thị trường quốc tế như các hội chợ do tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO tổ chức ở Singapore, các hội chợ hàng năm của công ty dịch vụ triễn lãm ADSALE-HONGKONG tổ chức tại các thành phố lớn của châu á- Thái Bình Dương như ở Bắc Kinh, TP.HCM, Bangkok, Kulalampur…Theo thông tin từ Cục XTTM Việt Nam, nhằm đẩy mạnh các hoạt động XTTM nói chung và trên thị trường ASEAN nói riêng, năm 2003 này Việt Nam sẽ phối hợp với Malayxia tổ chức 3 cuộc hội chợ triễn lãm quốc tế tại nước này. Đó là hội chợ quốc tế dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hội chợ quốc tế thực phẩm và đồ uống, và triễn lãm quốc tế về quà tặng. Đồng thời Cục XTTM còn tiến hành xây dựng phương án đăng cai tổ chức hội chợ ASEAN (FTA 2004). Ngoài tổ chức hội chợ Việt Nam còn tham gia tích cực các hội chợ triễn lãm quốc tế giới thiệu hàng hoá và thị trường ASEAN do các nước thành viên tổ chức hàng năm, hội chợ ASEAN…
Các hội chợ triễn lãm này là đầu mối thiết lập quan hệ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bởi nó quy tụ nhiều yếu tố cơ bản, đáp ứng yêu cầu của bên xuất và bên nhập khẩu: họ được trực tiếp kiểm nghiệm sản phẩm, thăm dò phản ứng của khách hàng và của đối thủ cạnh tranh về sản phẩm được trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, họ cũng còn có thể trực tiếp gặp gỡ nhà sản xuất, xuất khẩu sản phẩm mà họ có nhu cầu… Hội chợ triễn lãm còn thông tin về khả năng đáp ứng nhu cầu hàng hoá, về nguồn hàng và những thông tin khác như công nghệ mới, dây chuyền sản xuất nguồn hàng mới, các tiến bộ về khoa học kỹ thuật…và cả những thông tin về mặt bằng giá cả, về thị trường, môi trường đầu tư, tiềm năng của các nhà sản xuất, xuất khẩu. Việc thiết lập quan hệ cho xuất khẩu thông qua các hội chợ triễn lãm thương mại này, vì thế, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và công sức cho việc tiếp thị sản phẩm hơn là việc thiết lập quan hệ xuất khẩu bằng các hình thức khác.
Thông qua việc tổ chức và tham gia các hội chợ triễn lãm thương mại quốc tế nói trên sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận sâu hơn vào thị trường ASEAN. Đó là sự có mặt của các sản phẩm dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nhựa gia dụng…của Việt Nam ở các thị trường như Myanma, Lào, Campuchia, Malaysia…là các thị trường vốn chỉ biết đến sản phẩm xuất xứ từ Thái Lan, Indonesia. Theo thông tin từ Cục XTTM, hiện có gần 100 loại hàng của Việt Nam chiếm 80% thị phần Campuchia, đặc biệt là hàng nhựa Việt Nam không những chiếm lĩnh thị trường Campuchia mà còn vươn sang cả Thái Lan. Hiện hàng Việt Nam đã được người tiêu dùng Campuchia tín nhiệm do có chất lượng, mẫu mã tương đương với hàng Thái nhưng giá lại thấp hơn 10-20%.
Số lượng và chủng loại hàng hoá của Việt nam trên thị trường ASEAN cũng như kim ngạch trao đổi hàng hoá hai chiều Việt Nam - ASEAN tăng lên đáng kể là nhờ sự đóng góp của hình thức XTTM này.
Vì những lợi ích mà hội chợ triễn lãm thương mại đem lại, hình thức XTTM này trong thời gian gần đây được đẩy mạnh khai thác. Theo một thống kê của Bộ Thương mại, mỗi năm doanh nghiệp Việt Nam tham gia trên 80 hội chợ triễn lãm. Còn theo Thống kê sơ bộ của Cục XTTM Việt Nam thì: năm 2001 các doanh nghiệp kinh doanh hội chợ triễn lãm đăng ký tổ chức khoảng 200 hội chợ triễn lãm trong nước (trong đó thực hiện được 40-45%) và 120 HCTL ở nước ngoài (trong đó thực hiện được khoảng 30-40%). Tình trạng “lạm phát” hội chợ triễn lãm như vậy chỉ là sự lộn xộn tạm thời không thể tránh khỏi của thời kỳ đầu cởi trói và mở cửa. Sẽ không có gì đáng nói nếu hội chợ triễn lãm diễn ra theo đúng chức năng cho doanh nghiệp song đa phần doanh nghiệp tham gia hội chợ triễn lãm là xuất phát từ nhu cầu kinh doanh dịch vụ nên quy mô gian hàng Việt Nam rất hạn chế và manh mún. Các doanh nghiệp tham gia triễn lãm thường chỉ đơn thuần nhằm mục đích bán sản phẩm chứ chưa có sự đầu tư cho tiếp thị sản phẩm nhằm tìm kiếm một hợp đồng tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm ổn định và dài hạn. Trình độ và kỹ năng tham gia hội chợ triễn lãm của các doanh nghiệp còn thấp. Không ít trường hợp do thiếu thông tin về thị trường và hội chợ triễn lãm nên doanh nghiệp đã chọn sai hội chợ hoặc chuẩn bị sai hàng hoá. Nhiều đơn vị tham gia hội chợ một cách bị động không theo kế hoạch, không nghiên cứu trước thị trường, không có mục tiêu cụ thể, không chuẩn bị kỹ càng. Người được cử đi tham dự hội chợ triễn lãm ở nước ngoài nhưng không giao tiếp được bằng ngoại ngữ hoặc chỉ quan tâm đến bán lẻ hàng hoá chứ không quan tâm đến giao dịch tìm kiếm khách ký hợp đồng xuất khẩu sản phẩm ổn định.
Trình độ và kỹ năng tổ chức hội chợ triễn lãm của các doanh nghiệp Việt Nam cũng còn nhiều yếu kém. Các đơn vị tổ chức hội chợ triễn lãm của Việt Nam thường chỉ là nơi cung cấp địa điểm và phương tiện để trưng bày hàng hoá hoặc giúp thu xếp ăn ở đi lại cho những người tham gia hội chợ triễn lãm ở nước ngoài chứ chưa quan tâm và chưa có khả năng cung cấp cái mà các doanh nghiệp tham gia cần hơn cả là thông tin thị trường và bạn hàng. So sánh các hội chợ triễn lãm quốc tế do các doanh nghiệp nước ngoàI tổ chức, càng thấy rõ hơn sự yếu kém trong tổ chức hội chợ triễn lãm của doanh nghiệp Việt Nam. Quy mô của các hội chợ này không chỉ lớn về số lượng các doanh nghiệp tham gia mà ngay cả hình thức tiếp cận với doanh nghiệp của ta thông qua việc tổ chức hội thảo hay cách thức tổ chức các gian trưng bày là một bài học hữu ích cho các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể ra một số hội chợ thành công như: “Triễn lãm quốc tế thiết bị dệt may, da giày” với sự tham gia của 200 doanh nghiệp đến từ Đài Loan, Trung Quốc, Italia, Singapore, trưng bày trên 300 gian hàng, chủ yếu giới thiệu các thiết bị ngành dệt may, phụ liệu vải và da giày; triễn lãm “Gốm sứ Giang Tây” ; “Triễn lãm Kinh tế- Thương mại Hà Bắc” với hơn 100 doanh nghiệp tỉnh Hà Bắc(TQ) tập trung giới thiệu các sản phẩm thế mạnh như: dệt may, dược phẩm, linh kiện giao thông vận tải, vật liệu xây dựng...Thành công của các triễn lãm này cho thấy họ đã nghiên cứu thị trường Việt Nam rất kỹ cả nhu cầu của doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. Các kỳ hội chợ triễn lãm quốc tế bên cạnh việc tạo ra các cơ hội XTTM cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng đồng thời đưa các doanh nghiệp Việt Nam vào thế phải cạnh tranh bất lợi, nhất là khi sản phẩm các doanh nghiệp nước ngoài tỏ ra ưu thế hơn. Phải nhìn nhận rằng đây là một bài học quý về kinh nghiệm tổ chức cũng như phát hiện thị trường, XTTM và thúc đẩy xuất khẩu qua các kỳ hội chợ. Việc rút kinh nghiệm qua các kỳ hội chợ từ sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá nước ngoài để tìm cách nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá Việt Nam đồng thời cải tiến công tác tổ chức hội chợ triễn lãm cũng như XTTM của ta là một điều hết sức cần thiết. Về phía doanh nghiệp, nếu không nâng cao kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch XTTM; đặc biệt là kỹ năng xử lý thông tin và nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm thì việc tham gia triễn lãm chỉ đơn thuần là hoạt động bán lẻ, thậm chí là dịp tiêu thụ hàng tồn. Và nếu các đơn vị tổ chức triễn lãm còn coi đây là một hoạt động mang tính thương mại đơn thuần chứ không phải là cơ hội hỗ trợ XTTM đối với các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, các nhà xuất khẩu thì hoạt động hội chợ sẽ đi vào xu hướng ế ẩm, không phát huy vai trò XTTM của nó.
4. Về hoạt động quảng cáo thương mại và khuyến mại
Hoạt động quảng cáo thương mại là một hoạt động không thể thiếu của doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay. Doanh nghiệp tiến hành quảng cao sản phẩm của mình trên mọi phương tiện ở tất cả mọi thị trường. Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, có thể nói không có hoạt động quảng cáo thương mại trên thị trường nội địa. Sự phát triển của hoạt động quảng cáo thể hiện qua chi phí quảng cáo của các doanh nghiệp trong nước tăng lên nhanh chóng qua các năm. Theo ước tính của công ty nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Sofrest đăng trên báo “Đầu tư nước ngoài”: Chi phí này trong những năm trước “Đổi mới” không đáng kể, trong năm 2000 con số này đạt vào khoảng 108 triệu USD (không kể quảng cáo biển ngoài trời) và năm 2001 con số tương ứng khoảng 122 triệu USD. Chất lượng quảng cáo của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung có tiến bộ. Nhiều quảng cáo gây được ấn tượng tốt, vừa khuyếch trương được hàng hoá dịch vụ vừa khuyếch trương được truyền thống lịch sử văn hóa và hình ảnh của dân tộc như quảng cáo của BITIS hay của VIETNAM AIRLINES...
Đi kèm với hoạt động quảng cáo là khuyến mại, đây cũng là một hình thức XTTM mới ở nước ta. Thời gian qua có đến hàng chục đợt khuyến mại được các doanh nghiệp mở ra rầm rộ với các chiêu thức khác nhau và phần thưởng ngày càng lớn. Khuyến mại cũng là hoạt động thường xuyên không thể thiếu đối với hầu hết các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp quảng cáo kém hiệu quả và lãng phí. ở một số tỉnh, một số loại quảng cáo đã có ảnh hưởng xấu đến môi trường xã hội và cảnh quan. Biểu hiện cụ thể của sự yếu kém trong quảng cáo phổ biến là quảng cáo không theo kế hoạch, chiến lược XTTM, quảng cáo sai kênh và sai đối tượng khách hàng, chẳng hạn, một quảng cáo bán ga đun bếp cho đối tượng đọc chủ yếu là thương nhân nước ngoài trên tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phát hành bằng tiếng Anh. Nội dung quảng cáo không tập trung, không gây được ấn tượng, không thu hút được sự chú ý của khách hàng và thậm chí còn gây ảnh hưởng tiêu cực. Rất nhiều quảng cáo nội dung chỉ là ảnh giám đốc, ảnh trụ sở công ty và rất nhiều chữ liệt kê tới vài chục chức năng và nhiệm vụ khác nhau của công ty. Nội dung quảng cáo như vậy làm cho người đọc không chú ý hoặc có cảm giác công ty không chuyên về một lĩnh vực nào cả. Thậm chí có trường hợp quảng cáo chỉ cốt là để tiều tiền, ví dụ, có trường hợp quảng cáo cả UBND huyện trên một tạp chí tiếng Anh. Đó là chưa kể đến những quảng cáo tiêu cực đặt quảng cáo cốt để nhận được hoa hồng quảng cáo.
Một điều cần nói đến nữa là sản phẩm Việt Nam chưa được quảng cáo theo tuỳ theo đặc đIểm của từng thị trường. Không hề có một sự phân biệt nào giữa quảng cáo ở thị trường ASEAN và các thị trường Âu, Mỹ chứ chưa nói gì đến sự khác nhau về nội dung về quảng cáo giữa các thị trường là các nước thành viên ASEAN. Chính điều này làm giảm đi phần nào hiệu quả của quảng cáo Việt Nam. Điều này phần nhiều là do các doanh nghiệp không đủ chi phí trang trải song cũng không ít trường hợp là do nhận thức hạn chế của nhà sản xuất, xuất khẩu về các thị trường sản phẩm đặc thù.
5. Về các hoạt động xúc tiến thương mại khác
Ngoài các hoạt động XTTM chủ yếu trên, các hoạt động XTTM dưới hình thức các hội nghị, hội thảo và các khoá đào tạo về thương mại và đầu tư, các đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài...cũng được song song tiến hành nhằm góp phần nâng cao kỹ năng XTTM cho các đối tượng trong ngành. Các hoạt động này có thể do các tổ chức hỗ trợ thương mại tổ chức hoặc có thể do doanh nghiệp tự tiến hành.
Các hoạt động này không những giúp cho các doanh nghiệp, những người làm công tác XTTM nâng cao hiểu biết về kinh tế thị trường, thị trường quốc tế, kỹ năng XTTM, cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà còn cung cấp những thông tin về sự thay đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Để nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ về XTTM cho các doanh nghiệp Việt Nam và các cán bộ làm công tác XTTM, từ đầu năm 2002 Cục XTTM đã tổ chức 7 cuộc hội thảo về phát triển và tiếp thị XK, 8 khoá tập huấn về XTTM ở Hà Nội, TP.HCM, Nghệ An và một số tỉnh phía Nam, các cuộc hội thảo và tập huấn đều được đánh giá tốt. Cục XTTM cũng đã tích cực tham gia các hoạt động của các tổ chức hợp tác XTTM đa phương như: Trung tâm XTTM, Đầu tư và Du lịch ASEAN- Nhật Bản (AJC), Nhóm XTTM trong khuôn khổ Hợp tác kinh tế châu á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn doanh nghiệp á- Âu (AEBD), Diễn đàn XTTM châu á (ATPF).
Thị trường ASEAN tuy được đánh giá là thị trường truyền thống và gần gũi đối với Việt Nam, nhưng thông tin về từng thị trường thành viên cụ thể trong ASEAN đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì hầu như rất ít do môi trường chính trị pháp luật của các nước ASEAN rất khác biệt. Phần lớn sự tiếp xúc giữa các doanh nghiệp ASEAN với nhau là do doanh nghiệp tự tổ chức và một phần là thông qua sự kết hợp với các chuyến đi thăm chính thức của các chính phủ của các nước. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này, gần đây Bộ Thương mại Việt Nam đã phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại trong và ngoài nước tổ chức nhiều cuộc hội thảo về các thị trường thành viên ASEAN nhằm phổ biến thông tin, tăng cường và tạo diễn đàn giao lưu giữa các doanh nghiệp phục vụ cho công tác đẩy mạnh giao lưu hàng hoá trong toàn ASEAN, chủ động chuẩn bị hội nhập.
Giao dịch thương mại Việt Nam- ASEAN có nhiều khởi sắc khi nhiều đoàn doanh nghiệp Việt Nam đi khảo sát thị trường ASEAN và ngược lại, những chuyến đi này đều thu được nhiều thành công mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh doanh cho doanh nghiệp Việt Nam. Chẳng hạn, việc Bộ Thương mại Thái Lan thông qua Tham tán thương mại Thái tại Hà nội và TP.HCM đã và đang tài trợ một phần kinh phí cho việc tổ chức các đoàn buying mission sang Thái Lan gặp gỡ với các nhà xuất khẩu Thái; hội thảo “Cơ hội kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam” tại Bangkok gần đây do Thái Lan và Việt Nam cùng hợp tác kinh phí để tổ chức...đã giúp doanh nghiệp 2 bên hiểu biết lẫn nhau, hướng tới thực hiện hợp tác trong xuất khẩu ra thị trường ngoài một số mặt hàng mà 2 nước cùng có lợi thế.
Không nằm ngoài thực trạng chung của công tác XTTM Việt Nam, nhiều hội nghị, hội thảo và các khoá đào tạo về thương mại và đầu tư, các đoàn đi khảo sát thị trường ASEAN còn khiêm tốn song mang nặng tính hình thức, nội dung chồng chéo, thiếu thiết thực, lãng phí thời gian và tiền bạc của người tham dự. Hay nói cách khác là nhiều hội thảo có “hội” nhưng không có “thảo”, nhiều chuyến đi khảo sát thị trường nước ngoài có “khảo” nhưng không “sát” tình hình, nhiều chuyến đi học (study-tour) có “đi” (tour) mà không “học” (study). Có hội nghị, hội thảo được tổ chức chỉ vì lý do được tài trợ từ nước ngoài hoặc từ ngân sách. Nhiều khoá đào tạo về thương mại và XTTM rất lý thuyết hoặc không khác gì các lớp học trong trường đại học do thiếu hoặc không huy động được các chuyên gia có kinh nghiệm thực tế tham gia.
6. Đánh giá chung về XTTM Việt Nam đối với thị trường ASEAN
Hiệu quả hoạt động XTTM có hai cách nhìn nhận. Có những hoạt động XTTM thấy được ngay hiệu quả của nó như tổ chức đoàn doanh nghiệp đi khảo sát, giao dịch thương mại ở nước ngoài. Trong những chuyến đi này không ít doanh nghiệp đã ký đựơc hợp đồng làm ăn với nước ngoài. Nhưng có những hoạt động phải 4-5 năm sau mới thấy được hiệu quả của nó như: bước đầu giới thiệu tên tuổi doanh nghiệp, sản phẩm Việt nam ra nước ngoài. Hay như việc quảng bá thương hiệu, không thể nói trong một lần giao dịch sẽ mang lại hiệu quả ngay. Mà hiệu quả của nó còn phụ thuộc vào sự bền bĩ của doanh nghiệp và cả các tổ chức XTTM.
Trong những năm gần đây, cùng với đà phát triển của kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động XTTM được quan tâm, có vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta. Bởi tầm quan trọng của nó, Chính phủ đã cho ra đời cơ quan nhà nước vừa quản lý vừa tổ chức thực hiện các hoạt động XTTM, cụ thể là Cục XTTM trực thuộc Bộ Thương mại. Song song, một dự án về công tác này đã được khởi động và hoàn thành giai đoạn 1 nay đang đi vào giai đoạn chính của dự án. Bên cạnh hoạt động của cơ quan chuyên trách, hoạt động XTTM được phát triển rộng rãi, góp phần không nhỏ vào việc tăng cường hoạt động thương mại nói chung và XK nói riêng. Có thể khái quát mặt được trong hoạt động này những năm gần đây là:
- Hình thành về cơ bản một mạng lưới tổ chức hoạt động XTTM. Đó là các cơ quan chính phủ và phi chính phủ. Ngoài Cục XTTM thì ở hầu hết các địa phương đều đã có tổ chức XTTM theo mô hình trung tâm hoặc Ban thuộc Sở Thương mại. Nhiều Bộ, ngành, nhiều tổ chức phi chính phủ có cơ quan thực hiện XTTM.
- Nhận thức của các cơ quan, doanh nghiệp và đông đảo nhân dân về tầm quan trọng của hoạt động này chuyển biến mạnh mẽ. Hơn thế, nhận thức đã chuyển thành hành động cụ thể. Lần đầu tiên có quy định về một khoản chi tương đối ổn định hàng năm bằng 25% kim ngạch xuất khẩu trừ, dầu thô cho hoạt động XTTM (Thông tư 86/2002 ngày 27/9/2002).
- Từ nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động XTTM, một số ngành hàng như da giầy, thuỷ sản, dệt may đã xây dựng được chiến lược xuất khẩu, xúc tiến thương mại. Qua việc xây dựng chiến lược, các ngành hàng đã thấy được việc cần thiết như xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu Việt Nam...và đề ra các bước thực hiện; xây dựng chiến lược nguyên liệu cho ngành trên cơ sở tính toán nên lựa chọn đầu tư trong nước ở mức độ nào, sử dụng lợi thế của các nước khác thông qua nhập khẩu ra sao...
- Hoạt động XTTM đã trở thành công việc thường xuyên của Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp. Các đoàn của các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước đi thăm các nước bao giờ cũng có nội dung bản thảo về hợp tác kinh tế, ký kết các hiệp định khung, biên bản ghi nhớ, thoả thuận trong hợp tác làm ăn và trao đôỉ thương mại. Các đoàn doanh nghiệp đi theo các đoàn được gặp gỡ bạn hàng và mở ra nhiều thị trường cũng như hướng làm ăn có hiệu quả.
- Các Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp cũng thường xuyên thực hiện hoạt động tìm kiếm thị trường, bạn hàng...Đặc biệt, các hiệp hội ngành hàng doanh nghiệp ra đời ngày một nhiều đã góp phần đẩy mạnh hoạt động này thông qua việc phối hợp hành động chung. Hầu như các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp đều coi một nội dung chính trong hoạt động của mình là XTTM, là thông tin cho các thành viên.
Mặc dù đã có được những bước tiến bộ đáng kể, công tác XTTM của Việt Nam vẫn còn không ít yếu kém và bất cập. Có thể kể ra một số hạn chế của công tác XTTM Việt Nam thời gian qua như sau:
- Sự yếu kém và thiếu kinh nghiệm trong công tác XTTM. Một là, do hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nhà nước độc quyền về ngoại thương, các hoạt động ngoại thương của nước ta là do nhà nươc độc quyền, được tiến hành bởi các doanh nghiệp quốc doanh chuyên doanh ngoại thương và chủ yếu với các nước XHCN theo các hiệp định thương mại và nghị định thư trao đổi hàng hoá giữa các chính phủ. Trên thị trường nội địa hàng hoá dịch vụ được sản xuất và tiêu thụ bởi các xí nghiệp và công ty quốc doanh theo kế hoạch của nhà nước. Sự kế hoạch hoá sản xuất và thương mại như vậy tạo nên sự khan hiếm về hàng hoá dịch vụ và chính sách thay thế hàng nhập khẩu đã làm cho hoạt động phát triển và XTTM hầu như không phát triển ở mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức và mọi cấp. Hai là, phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động ở nước ta hiện nay là các vừa và nhỏ, trong đó đa số mới đựơc thành lập trong mấy năm gần đây. Hầu hết các tổ chức hỗ trợ thương mại như nêu trên cũng đều mới được thành lập. Các doanh nghiệp và tổ chức đó đều thiếu cả về kinh nghiệm, nguồn nhân lực và tài chính cho hoạt động XTTM.
- Nhận thức chưa đầy đủ về XTTM.
Hoạt động XTTM ở nước ta hiện nay thường tập trung vào việc duy trì, tìm kiếm và mở rộng thị trường để bán hàng hoá mà chưa gắn liền với hoạt động phát triển sản phẩm để có thể phát và bán hàng mà thị trường có nhu cầu với giá cả cạnh tranh...Hoạt động mở rộng thị trường chưa gắn liền với các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá. Điều này dẫn đến tình trạng thị trường ngoài nước tuy được mở rộng nhưng thâm nhập thị trường còn yếu, sự có mặt của hàng hoá Việt Nam còn mỏng, không vững chắc, trên thị trường nội điạ một số lĩnh vực bị hàng hoá nhập khẩu lấn át.
- Thiếu chiến lược và kế hoạch XTTM cụ thể
Các hoạt động XTTM, nhất là xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam hiện chủ yếu vẫn bao gồm các hoạt động tình thế, tập trung vào các lĩnh vực hội chợ triễn lãm, các đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài )đối với thị trường nước ngoài) và hội chợ triễn lãm, quảng cáo, khuyến mại ( trên thị trường trong nước). Theo khảo sát của Dự án VIE/98/021, đại đa số các tổ chức hỗ trợ thương mại cũng như các doanh nghiệp không có chiến lược và kế hoạch XTTM cụ thể. Nhiều hoạt động XTTM không có mục tiêu cụ thể, được tiến hành một cách bị động, không được chuẩn bị một cách kỹ càng, không có trọng tâm và trọng điểm hoặc chưa gắn mặt hàng cụ thể với thị trường cụ thể và hình thức xúc tiến phù hợp. Điều này làm cho hiệu quả XTTM đạt kết quả thấp.
- Sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại còn lỏng lẻo
Số các tổ chức tham gia vào hoạt động XTTM ngày càng nhiều tuy nhiên sự phối hợp giữa các tổ chức này còn yếu dẫn đến tình trạng lớn nhưng không mạnh. Có những hoạt động XTTM, nhất là hoạt động không cần nhiều vốn và chất xám, thì nhiều tổ chức làm và cạnh tranh với nhau rất quyết liệt gây lãng phí nguồn lực như các hoạt động hội chợ triễn lãm. Trong khi đó có một số hoạt động nhiều doanh nghiệp rất cần thì không có tổ chức nào làm hoặc làm không đáp ứng được yêu cầu, chẳng hạn các hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm.
- Thiếu các nguồn lực XTTM
Nguồn lực làm công tác XTTM ở tất cả các cấp đều yếu và thiếu, đặc biệt trong các lĩnh vực như: thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh quốc tế, thiếu kỹ năng lập và tổ chức các kế hoạch XTTM.
Nguồn lực về tài chính và cơ sở vật chất cho XTTM ở tất cả các cấp cũng không ngoài tình trạng về nguồn nhân lực. Nguồn tài chính cho XTTM của các doanh nghiệp là rất hạn hẹp do năng lực của bản thân doanh nghiệp và do cả sự hạn chế của Luật. Bộ Tài chính khống chế mức chi phí hợp lý cho các hoạt động lễ tân, quảng cáo, khuyến mại và các hoạt động XTTM khác không quá 3%, 5% và 7% tổng doanh thu của doanh nghiệp tuỳ theo ngành kinh doanh. Sự hỗ trợ về tài chính của chính phủ trong lĩnh vực này còn rất nhỏ giọt trong điều kiện các tổ chức hỗ trợ thương mại mới thành lập còn nhiều khó khăn về tài chính chỉ như “ muối bỏ bể”.
chương III: Một số giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá việt nam sang thị trường asean đến 2010
Những định hướng lớn về xuất khẩu hàng hóa sang thị trường ASEAN của Việt Nam
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2001-2010 và các dự báo trung và dài hạn về khả năng phát triển sản phẩm cũng như cung cầu về sản phẩm đó, các chỉ tiêu định lượng chính cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang ASEAN của Việt Nam trong thời kỳ đến 2010 được xác định như sau:
Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa cao gấp đôi mức tăng trưởng GDP của nền kinh tế, tức đạt khoảng 14,5%/ năm; đạt giá trị kim ngạch XK hàng hoá đến 2010 là 9-10 tỷ USD, chiếm khoảng 1/6 tổng kim ngạch xuất khẩu.
2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu, hướng chuyển dịch cơ cấu đến năm 2010 là: tăng tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao; giảm dần tỷ trọng hàng thô. Cụ thể như sau:
Bảng ?: Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đến 2010.
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010 (triệu USD)
Tỷ trọng
2001
2010
1. Nguyên nhiên liệu
1750
20,1
3-3,5
2. Nông sản, hải sản
8000-8600
23,3
16-17
3. Chế biến chế tạo
20000-21000
31,4
40-45
4. Công nghệ cao
7000
5,4
12-14
5. Hàng khác
12500
19,8
23-35
Tổng kim ngạch hàng hoá
48000-50000
100
Nguồn: Tự tổng hợp
Thị trường xuất khẩu
Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Thị trường châu á - Thái Bình Dương sẽ vẫn được coi là thị trường trọng điểm do vị trí địa lý gần gũi và sự gắn bó của quan hệ thương mại lâu đời. Chiến lược xuất nhập khẩu Việt Nam đến năm 2010 còn chỉ rằng ASEAN vẫn được coi là một thị trường trọng điểm. Tuy cơ cấu hàng hoá tương đồng nhưng điều đó không có nghĩa là hàng hoá Việt Nam không xuất sang được thị trường ASEAN, dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường ASEAN vẫn chiếm khoảng 1/6 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Yêu cầu đổi mới công tác XTTM của Việt Nam trong thời gian tới
Căn cứ đổi mới
Để hỗ trợ hiệu quả hơn nữa việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường ASEAN nói riêng, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống các chính sách hỗ trợ xuất khẩu bao gồm cả việc hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại. Hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại phải dựa trên một số căn cứ sau:
- Xuất phát từ vai trò ngày càng quan trọng của XTTM đối với việc mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu trong điều kiện bùng nổ thông tin và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Xuất phát từ những bất cập của công tác XTTM Việt Nam thời gian qua: công tác XTTM của Việt Nam những năm qua có sự phát triển đáng kể nhưng còn mang tính tự phát, vai trò của Nhà nước trong XTTM chưa thể hiện rõ dẫn đến sự “lạm phát” một số hoạt động XTTM trong thời gian gần đây như HCTL, quảng cáo, khuyến mại..., năng lực tổ chức thực hiện hoạt động XTTM còn yếu và thiếu kinh nghiệm.
- Xuất phát từ sự chưa coi trọng đúng mức về XTTM đối với thị trường ASEAN
2. Nội dung đổi mới
Đổi mới công tác xúc tiến thương mại đáp ứng nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động XTTM để hoạt động này có được một sự thống nhất trong nhận thức và trong hành động từ quy định về định nghĩa, phạm vi tác động điều tiết của XTTM, cơ cấu tổ chức làm việc của các tổ chức XTTM cho đến việc huy động các nguồn lực tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại cho đến việc đánh giá kết quả các hoạt động xúc tiến thương mại.
- Kiện toàn tổ chức hoạt động của các bộ phận làm XTTM để thích ứng với những thách thức của cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nâng cao chất lượng công tác thông tin phục vụ doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thông tin thương mại cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất hàng hoá sang thị trường ASEAN nói riêng.
- Nâng cao năng lực XTTM cho đội ngũ cán bộ làm công tác XTTM.
- Hoàn thiện về cơ chế hỗ trợ tài chính cho hoạt động XTTM.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện đổi mới công tác xúc tiến thương mại Việt Nam
Giải pháp về đổi mới và hoàn thiện quản lý Nhà nước về XTTM
Hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về XTTM cần phải được thực hiện theo hướng tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng và cạnh tranh bình đẳng cho các hoạt động XTTM ở tất cả các cấp. XTTM là hoạt động thường xuyên không thể thiếu của tất cả các doanh nghiệp và do doanh nghiệp tự tiến hành là chủ yếu với sự hỗ trợ của các tổ chức hỗ trợ thương mại trong đó có các tổ chức nhà nước. Do nguồn lực của nhà nước có hạn và nhà nước không thể làm thay hoạt động XTTM cho doanh nghiệp nên việc tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động XTTM, nhất là môi trường cho thị trường dịch vụ XTTM phát triển là hết sức quan trọng để góp phần phát triển bền vững cho các hoạt động XTTM ở nước ta.
Tăng cường phổ biến pháp luật và giám sát, kiểm tra và thanh tra các hoạt động XTTM: Bộ Thương mại là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực hội chợ triễn lãm thương mại và khuyến mại, Bộ Văn hoá-Thông tin là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động thông tin và quảng cáo thương mại. Do vậy, việc phổ biến pháp luật và tổ chức giám sát, kiểm tra và thanh tra trong lĩnh vực XTTM là trách nhiệm của hai bộ này. Việc phổ biến pháp luật có thể tiến hành thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua các lớp tập huấn. Các lớp tập huấn này có thể do các bộ liên quan tự tổ chức hoặc phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại đồng tổ chức. Nguồn kinh phí cho việc phổ biến luật pháp có thể từ ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn của các tổ chức hỗ trợ thương mại do doanh nghiệp tự đóng góp.
-Trong lĩnh vực thông tin thương mại:
Nhà nước cần phải có những quy định rõ ràng hơn về những loại thông tin thuộc bí mật quốc gia không được phép phổ biến để các tổ chức cung cấp thông tin và các doanh nghiệp yên tâm trong việc cung cấp thông tin, nhất là cung cấp thông tin cho các đối tác và khách hàng nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận với các nguồn thông tin trên Internet, Nhà nứơc cần thiết sớm ban hành hướng dẫn cụ thể về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và triển khai những chính sách và biện pháp phù hợp để từng bước giảm giá cước các dịch vụ truy cập và dịch vụ kết nối Internet.
Bộ Thương mại phải đóng vai trò lãnh đạo và phối hợp hoạt động của tổ chức dịch vụ thông tin (kể cả nhà nước và tư nhân) nhằm tăng cường hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức cung cấp thông tin thương mại.
-Trong lĩnh vực hội chợ triễn lãm thương mại
Luật Thương mại và các văn bản dưới Luật này cần quy định rõ các tổ chức XTTM không phải là thương nhân có được tiến hành hoạt động tổ chức XTTM hay không. Nếu có thì ranh giới giữa các tổ chức này với hoạt động kinh doanh dịch vụ hội chợ triễn lãm như thế nào, phải qui định rõ quyền và trách nhiệm bảo trợ HCTL của các tổ chức và cá nhân.
Các tổ chức XTTM của Nhà nước có thể chọn một số ít hội chợ triễn hướng về xuất khẩu để hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính bằng cách tổ chức mời các đoàn thương nhân nước ngoài vào tham gia bởi việc này không ai có thể làm hiệu quả hơn là các tổ chức XTTM của nhà nứơc và nhất là các cơ quan đại diện của nhà nước ở nước ngoài. Còn đối với các hội chợ triễn lãm trong nước thì các tổ chức XTTM của Nhà nước không nên cạnh tranh với các doanh nghiệp với tư cách là người tổ chức bởi vì việc tổ chức và tham gia các hội chợ triễn lãm này không cần nhiều đến sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Nhà nước.
Thúc đẩy thành lập Hiệp hội hội chợ triễn lãm và hỗ trợ cho hiệp hội này phát triển trở thành một diễn đàn chung của các tổ chức kinh doanh hội chợ triễn lãm cũng như các doanh nghiệp thường xuyên tham gia hội chợ triễn lãm. Sử dụng hiệp hội như một trợ thủ đắc lực của các cơ quan quản lý nhà nước về XTTM trong việc đào tạo nâng cao năng lực tổ chức và tham gia hội chợ triễn lãm, lập kế hoạch tổ chức hội chợ triễn lãm hàng năm cũng như trong việc giám sát và kiểm tra các hoạt động hội chợ triễn lãm nhằm khắc phục dần tình trạng lộn xộn hiện nay.
Tổ chức bình chọn các hội chợ triễn lãm có hiệu quả nhất hàng năm để khuyến khích các đơn vị tổ chức nâng cao chất lượng dịch vụ và qua đó hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc lựa chọn các hội chợ triễn lãm có hiệu quả để tham gia. Bộ Thương mại nên chỉ đạo cho các đại diện thương mại của nước ta ở nước ngoài lựa chọn các hội chợ triễn lãm quốc tế truyền thống hàng năm phù hợp và có hiệu quả đối với hàng xuất khẩu của nước ta để hướng dẫn cho các doanh nghiệp tham gia.
Bộ Thương mại cũng nên chỉ đạo và cấp kinh phí cho các đại diện thương mại của ta ở nước ngoài và Cục XTTM tổ chức mời các đoàn thương nhân nước ngoài vào thăm và giao dịch tại một vài hội chợ trong nứơc hướng về xuất khẩu như Hội chơ Vietnam Expo.
-Trong lĩnh vực quảng cáo thương mại:
Chính phủ và Bộ Văn hoá-Thông tin cần sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh quảng cáo. Theo pháp lệnh Quảng cáo có những quảng cáo phải xin giấy phép của Bộ Văn hoá-Thông tin hoặc Sở Văn hoá-Thông tin nhưng cũng có những quảng cáo chỉ do người quảng cáo và người kinh doanh dịch vụ quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo quyết định. Vì vậy, nếu pháp luật quy định càng cụ thể rõ ràng nhất là đối với các trường hợp cấm quảng cáo thì càng dễ cho việc thực hiện và tránh vi phạm pháp luật không chủ ý.
Bộ Tài chính cần xem xét nới lỏng mức khống chế được phép chi cho quảng cáo của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cần quảng cáo những sản phẩm dịch vụ mới và những doanh nghiệp có chương trình thiết lập nhãn hiệu thương mại của mình trên thị trường thế giới.
-Trong lĩnh vực khuyến mại:
Mục đích chủ yếu của việc quản lý các hoạt động khuyến mại là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và chống cạnh tranh không lành mạnh. Biện pháp đăng ký và cấp phép các hoạt động khuyến mại hiện nay nếu không đi kèm với biện pháp giám sát và kiểm tra có hiệu quả việc thực hiện thì chắc chắn cũng không đạt được mục đích quản lý. Do vậy, để đạt được mục đích quản lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khuyến mại, công tác quản lý nhà nước về khuyến mại cần phải được đổi mới chuyển từ tiền kiểm như hiện nay sang hậu kiểm. Nghĩa là, một mặt pháp luật về khuyến mại cần phải quy định đầy đủ và rõ ràng các điều kiện mà các hoạt động khuyến mại phải tuân theo và giảm thiểu những trường hợp phải đăng ký hoặc xin giấy phép. (một số quy định của luật hiện hành về khuyến mại có thể sẽ thành thừa sau khi ban hành luật cạnh tranh). Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước về XTTM cần phải tăng cường giám sát và kiểm tra việc thực hiện theo pháp luật của các tổ chức khuyến mại.
Để làm tốt công tác giám sát và kiểm tra, các cơ quan quản lý nhà nước về XTTM cần phải phối hợp và phát huy nguồn lực và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong đó có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người Tiêu dùng, các doanh nghiệp và bản thân người tiêu dùng. Các nhóm lợi ích này có thể vì quyền lợi của mình mà trở thành tai mắt va trợ thủ đắc lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát và kiểm tra nói trên, nhất là trong việc phát hiện những vi phạm pháp luật hoặc tiêu cực trong khuyến mại.
Nâng cao chất lượng công tác thông tin
phục vụ doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thông tin thương mại cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường ASEAN nói riêng
Để khắc phục những bất cập trong việc tiếp cận thông tin thị trường quốc tế như nêu trên thì về lâu dài cần phải giải quyết tốt mối quan hệ cung cầu về thông tin, dần dần hình thành một thị trường hoàn chỉnh về thông tin. Thông tin cần phải được coi là hàng hoá. Trước mắt cần có những biện pháp thích hợp để kích cầu, tăng cung (chủ yếu là về mặt lượng) và giảm giá thành thông tin. Việc này đòi hỏi nỗ lực và hợp tác chặt chẽ của cả khu vực doanh nghiệp và chính phủ.
Đối với khu vực doanh nghiệp:
-Các doanh nghiệp cần phải chủ động tổ chức công tác thông tin trong nội bộ doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và quy mô của doanh nghiệp như: xác định cụ thể thông tin mình cần, phân công và đào tạo cán bộ thu thập, lưu trữ và phân tích thông tin, quy trình lưu chuyển và xử lý thông tin trong nội bộ doanh nghiệp để tránh tình trạng cát cứ thông tin, bố trí nguồn tài chính cho công tác thông tin, kể cả cho việc mua các thông tin cần thiết mà doanh nghiệp không tự thu thập hoặc phân tích được.
-Các hiệp hội ngành hàng cần phải đóng vai trò tích cực hơn và quan trọng trong việc cung cấp các thông tin chuyên ngành cho các hội viên của mình. Có nhiều thông tin chuyên ngành cần chung cho tất cả các doanh nghiệp trong ngành, nhưng nếu để cho từng doanh nghiệp tự thu thập hoặc phân tích thì một là không làm được hai là tốn kém không cần thiết. Để việc cung cấp thông tin của các hiệp hội ngành hàng thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của hội viên, các doanh nghiệp hội viên cần phải sẵn sàng đóng góp kinh phí cho công tác thông tin, đồng thời có quyền và phải biết đòi hỏi hiệp hội cung cấp thông tin gì cho mình.
-Các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp thông tin phải nâng cao chất lượng thông tin nhất là cung cấp đúng thông tin mà doanh nghiệp cần, chứ không phải là cái mình có. Những khó khăn hiện nay của doanh nghiệp trong việc tiếp cận với các nguồn tin thị trường quốc tế từ nước ngoài càng làm cho vai trò trung gian cung cấp thông tin của các tổ chức dịch vụ thông tin trong nước trở nên quan trọng hơn và có điều kiện phát triển hơn nhất là trong việc cung cấp các thông tin sâu và các thông tin đã qua xử lý và phân tích.
- Các tổ chức cung ứng thông tin cần phải hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức. Nhu cầu về thông tin thị trường quốc tế rất lớn, đa dạng và thường xuyên. Không có một tổ chức riêng rẽ nào, dù đó là một tổ chức lớn của Chính phủ có thể thoả mãn được hết các nhu cầu về thông tin của các doanh nghiệp. Hợp tác giữa các tổ chức thông tin cũng là cách để các tổ chức này đi dần vào chuyên môn hoá một cách tự nguyện theo thế mạnh của từng tổ chức nhằm nâng cao chất lượng thông tin, tránh cung cấp trùng lặp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong tiếp cận thông tin. Chuyên môn hoá sẽ góp phần nâng cao chất lượng thông tin do vậy sẽ là một nhân tố quan trọng để kích cầu về thông tin. Cầu về thông tin tăng sẽ có lợi cho tất cả các tổ chức cung cấp thông tin.
Đối với Chính phủ:
Mặc dù nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp là cơ bản song sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin thị trường quốc tế là không thể thiếu. Hầu như nước nào trên thế giới cũng coi việc hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận thông tin thị trường quốc tế là hoạt động chính và quan trọng nhất trong công tác XTTM, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu. Sự hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin thị trường quốc tế thể hiện trong các lĩnh vực như tạo môi trường thuận lợi cho việc cung cấp và tiếp cận thông tin, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp và trực tiếp cung cấp thông tin nhất là những thông tin nguồn.
-Hỗ trợ tạo môi trường và cơ sở hạ tầng thuận lợi cho hoạt động thông tin
-Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực
-Hỗ trợ về tài chính
-Chính phủ hỗ trợ bằng cách trực tiếp cung cấp thông tin. Chính phủ có thể tăng cường và nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp thông qua các biện pháp sau đây:
+Hình thành một mạng lưới thông tin thương mại quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin. Chính phủ cần đóng vai trò lãnh đạo và phối hợp hoạt động của các tổ chức dịch vụ thông tin để tăng cường chất lượng thông tin cung cấp cho doanh nghiệp và khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu thông tin.
+Mở rộng và phát huy vai trò của các dại điện thương mại và ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Các đại diện thương mại ở nước ngoài cần phải được đào tạo tốt hơn, nhất là về nghiệp vụ thu thập và phân tích thông tin và nghiên cứu thị trường. Những điều kiện làm việc thuận lợi hơn, nhất là về mặt tài chính cũng rất quan trọng để họ có thể thực sự là tai mắt của chính phủ và các doanh nghiệp tại địa bàn mà họ phụ trách. Sự trao đổi thông tin giữa các đại diện thương mại ở nước ngoài và các tổ chức dịch vụ thông tin, các tổ chức XTTM và doanh nghiệp trong nước cần được mở rộng và trực tiếp hơn để tránh tình trạng tắc nghẽn thông tin ở những khâu trung gian.
+Chính phủ cần tập trung vào việc cung cấp miễn phí hoặc với giá có bù lỗ cho các thông tin nền và thông tin nguồn cũng như các thông tin về môi trường kinh doanh đáp ứng cho nhu cầu của cả cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là những thông tin có tính dự báo trung và dài hạn để định hướng cho sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế những thiệt hại cho Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức, doanh nghiệp do mất cân đối giữa cung và cầu sản phẩm.
+Đối với các thông tin sâu đòi hỏi phải có thời gian và kinh phí thu thập, xử lý và phân tích theo yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp cụ thể thì các tổ chức thông tin của Chính phủ cũng có thể cung cấp nhưng doanh nghiệp có nhu cầu phải trả tiền. Đối với loại thông tin chuyên sâu này tốt nhất là nên để cho các tổ chức như hiệp hội, ngành hàng, các công ty dịch vụ thông tin, các công ty nghiên cứu thị trường, các công ty tư vấn kinh doanh...cung cấp theo cơ chế thị trường.
+Các trung tâm thông tin thuộc các Bộ, ngành cần phải được củng cố để nâng cao chất lượng cung cấp thông tin. Về mặt thể chế, nên chuyển các tổ chức này từ các đơn vị sự nghiệp có thu thành các doanh nghiệp công ích hoạt động trong lĩnh vực thông tin để doanh nghiệp này độc lập và tự chủ hơn về tài chính và năng động hơn trong hoạt động cung cấp thông tin. Sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước cho các doanh nghiệp công ích hoạt động trong lĩnh vực thông tin nên chuyển từ doanh nghiệp bao cấp lương và một phần kinh phí hoạt động như đang áp dụng hiện nay đối với các đơn vị sự nghiệp có thu sang hỗ trợ có thời hạn và có điều kiện chủ yếu trong lĩnh vực đào tạo và thông tin nguồn như nói trên và một phần kinh phí ban đầu nhằm nâng cấp các thiết bị phục vụ cho việc xử lý thông tin hiệu quả.
3. Xây dựng mạng lưới XTTM có hiệu quả, thích ứng với những thách thức của cạnh tranh
Để khắc phục tình trạng lớn nhưng chưa mạnh do thiếu phối hợp giữa các tổ chức XTTM và hỗ trợ thương mại, nhất thiết phải có một mạng lưới XTTM hoạt động có hiệu quả. Đó phải là mạng lưới mở và tự nguyện đối với các tổ chức tham gia; chuyên môn hoá cao và hỗ trợ cho tất cả các khâu của kênh giá trị xuất khẩu từ sản xuất, cung ứng cho xuất khẩu đến việc thực hiện bán hàng xuất khẩu và dịch vụ khách hàng hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển và do một Uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế lãnh đạo; trong mạng lưới sẽ có các tổ chức nòng cốt và các tổ chức vệ tinh.
Các tổ chức nòng cốt của mạng lưới có thể là Bộ Thương mại, Cục XTTM, VCCI hay các hiệp hội ngành hàng. Các tổ chức nòng cốt này sẽ tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện, theo dõi và đánh giá, điều chỉnh các chiến lược và kế hoạch XTTM, gắn mặt hàng cụ thể với thị trường cụ thể; ngoài ra còn đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nâng cao năng lực XTTM ở các cấp.
Các tổ chức vệ tinh của mạng lưới có thể là các tổ chức XTTM nhà nước cấp tỉnh, thành phố, các chi nhánh của các hiệp hội ngành hàng và Phòng Thương mại công nghiệp, các hiệp hội kinh doanh địa phương và các tổ chức cung ứng dịch vụ XTTM dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của các tổ chức XTTM nòng cốt như nói trên.
Sự phân công chức năng nói trên là trên cơ sở tự nguyện, mang tính chất tương đối và dựa trên lợi thế so sánh của từng tổ chức. Sự phân công này không có nghĩa là các tổ chức nòng cốt không trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động XTTM cụ thể (nhất là các hoạt động ở tầm quốc gia) và các tổ chức vệ tinh không tham gia vào quá trình xây dựng và điều chỉnh chiến lược và kế hoạch.
Uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế: Để lãnh đạo và chỉ đạo mạng lưới XTTM như nói trên cần thiết phải thành lập một uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế ba bên (chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại, và doanh nghiệp). Uỷ ban này sẽ gồm 25-30 thành viên do một Phó Thủ tướng làm chủ tịch. Phó chủ tịch thường trực của Uỷ ban là Bộ trưởng Bộ Thương mại. Thứ trưởng Bộ Thương mại phụ trách công tác XTTM làm Tổng thư ký Uỷ ban. Cục XTTM thuộc Bộ Thương mại, ngoài các chức năng XTTM và quản lý nhà nước về XTTM như hiện nay, sẽ đóng thêm vai trò là Ban Thư ký của Uỷ ban. Các thành viên khác của Uỷ ban là đại diện của một số bộ ngành liên quan (cấp thứ trưởng), đại diện một số tổ chức hỗ trợ thương mại (chủ tịch phòng Thương mại và Công nghiệp, chủ tịch một số hiệp hội ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn) và đại diện của doanh nghiệp (tổng giám đốc doanh nghiêp có kim ngạch xuất khẩu lớn). Uỷ ban sẽ họp 3 hoặc 6 tháng một lần với nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
-Thảo luận và kiến nghị các chính sách và pháp luật để thúc đẩy, điều tiết và quản lý các hoạt động phát triển và xúc tiến thương mại.
-Thảo luận và thông qua các chiến lược quy hoạch chương trình và dự án phát triển và xúc tiến thương mại để định hướng, phát triển và điều tiết các hoạt động phát triển và XTTM ở cả ba cấp chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và doanh nghiệp.
-Đưa ra và thảo luận những thay đổi mới nhất của môi trường kinh doanh (các sự kiện xảy ra ngoài dự đoán) và chuẩn bị sẵn sàng để thích ứng với những thay đổi đó nhằm giúp doanh nghiệp xuất khẩu có kế hoạch biện pháp đối phó.
4. Đổi mới cơ chế hỗ trợ tài chính cho công tác XTTM
Thứ nhất, Hỗ trợ kinh phí cho XTTM phải dựa trên các chương trình hoạt động cụ thể, trong đó tập trung cho các chương trình XTTM trọng điểm. Muốn vậy, Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp quy về vấn đề này, trong đó phải có những điểm quan trọng sau:
- Xác định được tiêu chí của chương trình XTTM trọng điểm
Các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố và các hiệp hội doanh nghiệp chủ động đề xuất các chương trình xúc tiến trọng điểm quốc gia, trong đó nêu rõ nội dung chương trình, thời gian thực hiện, cơ quan chủ trì và dự toán kinh phí để gửi về Bộ Thương mại trong quý I hàng năm. Việc đề xuất các chương trình xúc tiến trọng điểm nên được tiến hành một cách chọn lọc. Với những mặt hàng đã sẳn có thị trường tiêu thụ như cà phê, gạo, dệt may, giày dép... thì công tác phát triển thị trường phải do doanh nghiệp tự làm là chính, thông qua nâng cao chất lượng và hạ giá thành. Nhà nước chỉ hỗ trợ khi mặt hàng đó cần thâm nhập một thị trường hoàn toàn mới hoặc cần giải quyết một khâu nào đó mang tính đột phá như quảng bá thương hiệu, thiết lập trung tâm thiết kế mẫu mã...Nếu đề xuất phát triển mặt hàng mới thì cần chú trọng những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, thị trường tiêu thụ lớn, ta lại có lơị thế về nhân công hoặc nguyên liệu, qua đó có thể cạnh tranh về giá cả. Điều cốt yếu là phải có khả năng phát triển lâu dài, đạt tới kim ngạch ít nhất từ 50 – 70 triệu USD/ năm (theo tính toán đề nghị của Bộ Thương mại). Tuy nhiên cần tránh việc cấp kinh phí để các tổ chức XTTM của nhà nước làm thay hoặc cạnh tranh với các doanh nghiệp trong lĩnh vực XTTM hoặc tiến hành các hoạt động có thể thực hiện được bằng các nguồn kinh phí khác
- Cách phát hiện và chấp nhận một chương trình XTTM trọng điểm
Có các tiêu chí rồi, việc xây dựng một chương trình đề xuất và cấp tiền hỗ trợ được coi là quan trọng không kém. Quy trình này cần thoả mãn các yêu cầu:
+Được đề xuất từ cơ sở lên theo các tiêu chí đánh giá
+Mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp tham gia làm xuất khẩu đều được tham gia đề xuất, kể cả các doanh nghiệp đơn lẻ, các cơ sở hoặc các tổng công ty, các hiệp hội, các địa phương
+ Khi đã có các đề án cụ thể, Bộ Thương mại sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam tổ chức hôị đồng bình chọn các chương trình xúc tiến có lợi nhất cho đất nước để trình thủ tướng chính phủ phê duyệt và thông qua.
-Công tác kiểm tra hiệu quả chi cho chương trình XTTM trọng điểm
Sau khi đã thẩm định, tuyển chọn, quá trình thực hiện cần có sự kiểm tra giám sát để có những điều chỉnh xử lý kịp thời phù hợp với những biến đổi bất thường của môi trường kinh doanh và đánh giá hiệu quả thực hiện chương trình, rút ra bài học kinh nghiệm cho những lần sau.
Thứ hai, Chính phủ đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu để sửa đổi quy định về việc khống chế mức chi phí hợp lý cho các hoạt động lễ tân, quảng cáo, khuyến mại và các hoạt động XTTM khác như giao dịch, tiếp thị không quá 3%, 5% và 7% tổng doanh thu của doanh nghiệp tuỳ theo ngành kinh doanh.
Thứ ba, Ngoài ra cần kết hợp nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, nguồn hỗ trợ quốc tế và nguồn tự đóng góp của doanh nghiệp.
5. Đào tạo nâng cao năng lực XTTM
Cần đổi mới cả nội dung lẫn hình thức đào tạo nhằm nâng cao năng lực XTTM cho những người làm công tác XTTM.
Nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, đảm bảo cho người được đào tạo không chỉ “học” về XTTM, nội dung đào tạo phải được chuẩn hoá về các vấn đề:
- cách thu thập, xử lý và phân tích thông tin về thị trường quốc tế
- phải có sự kết hợp giữa lý thuyết cơ bản và các bài tập tình huống thực tế đặt ra nhằm vận dụng lý thuyết đó vào thực trạng XTTM Việt Nam
- cách tổ chức một hội nghị, hội thảo về XTTM
Về hình thức đào tạo, ngoài cách thức truyền thống là tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về XTTM, các chuyến đi khảo sát thực tế nước ngoài cũng phải được coi là một loại hình đào tạo. Để tăng hiệu quả của loại hình đào tạo này, cần có một quy định bắt buộc đối với những người tham gia các chuyến đi khảo sát là phải nộp bài thu hoạch về đánh giá cơ hội và tiềm năng xuất khẩu của hàng hoá Việt nam sang thị trường mà họ đi khảo sát, nếu bài viết chất lượng họ sẽ được khuyến khích tham gia tiếp, nếu không thì cơ hội đó dành cho người khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0512.doc