Các cơ quan quản lý của tỉnh cần có sự phối hợp nhịp nhàng để giúp DNVVN NQD tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN NQN phát triển.
Đối với Phòng đăng ký GDBĐ nên nghiên cứu để giải quyết linh hoạt nhu cầu đăng ký GDBĐ cho các DN, nên tăng số ngày giải quyết để DN không phải mất thời gian chờ đợi.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định khoản vay;
- Ký kết HĐTD, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm;
- Giải ngân
- Kiểm tra, giám sát khoản vay;
- Thu nợ lãi, gốc và xử lý những phát sinh;
- Thanh lý HĐTD, hợp đồng bảo đảm tiềnvay;
- Giải chấp tài sản bảo đảm;
- Lưu giữ hồ sơ tín dụng và hồ sơ bảo đảm tiền vay.
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải lập hồ sơ vay vốn. Hồ sơ vay vốn thường gồm:
- Giấy đề nghị vay vốn;
- Tài liệu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, trách nhiệm dân sự; đối với các DNNQD gồm cả pháp nhân và DN tư nhân thì các tài liệu cần cung cấp cho Ngân hàng gồm: quyết định thành lập, Giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề, điều lệ tổ chức và hoạt động quyết định thành lập, bổ nhiệm người điều hành và kế toán trưởng, nghị quyết của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên giao quyền cho giám đốc ký kết các tài liệu, thủ tục liên quan đến việc vay vốn, cầm cố, thế chấp cho Ngân hàng...
- Tài liệu, các báo cáo vế tình hình sản xuất - kinh doanh, dịch vụ đời sống, khả năng tài chính của khách hàng: báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ ít nhất hai năm gần nhất đối với khách hàng là pháp nhân; tài liệu hoặc bản thuyết trình khả năng tài chính đối với DN tư nhân...
- Dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất - kinh doanh và các tài liệu khác liên quan.
- Các tài liệu chứng minh tính hợp pháp và giá trị của các tài sản bảo đảm nợ vay như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản...
2.2.3. Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD tại chi nhánh NHCT Hưng Yên
2.2.3.1. Phương thức cho vay
Trong những năm qua, đa số các khoản tín dụng mà NHCT Hưng Yên cung ứng cho nền kinh tế được cấp theo phương thức cho vay từng lần; có một số DN được cấp hạn mức tín dụng như: Công ty cổ phần Thương mại dịch vụ Hưng Yên, Công ty cổ phần Vật tư tổng hợp, Công ty cổ phần Nhựa Hưng Yên...tuy nhiên các DN này đều là các DNNN đã cổ phần hoá; còn lại có một số DN được cấp tín dụng theo phương thức cho vay theo dự án đầu tư.
2.2.3.2. Xu hướng dịch chuyển cơ cấu khách hàng
Trong giai đoạn 2000 - 2005, cùng với cả nước, Hưng Yên cũng đã đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá, số DNNN được cổ phần hoá tăng lên; vì vậy số lượng DNNQD đã tăng lên đáng kể.
Trong số DN là khách hàng của NHCT Hưng Yên thì các khách hàng là DNNQD đều có quy mô vừa và nhỏ; vì vậy các chỉ tiêu liên quan đến DNVVN NQD đều chính là các chỉ tiêu về DNNQD.
Bảng phân loại khách hàng là DN theo thành phần kinh tế(bảng 6)
Loại hình DN
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số DN
Tỷ trọng (%)
Số DN
Tỷ trọng (%)
Số DN
Tỷ trọng (%)
DNQD
23
74,2
17
44,7
12
22.6
DNNQD
8
25,8
21
55,3
41
77,4
Tổng số
31
100
38
100
53
100
Qua bảng trên có thể thấy sự dịch chuyển về cơ cấu đáng ghi nhận.; nguyên nhân của tình trạng này là do trong năm 2003 và 2004 là năm mà hoạt động cổ phần hoá (CPH) diễn ra mạnh mẽ, nhiều DNNN đang tiến hành CPH và sau khi CPH vẫn tiếp tục là khách hàng của NHCT Hưng Yên. Nếu như năm 2003, khách hàng là DNQD của NHCT Hưng Yên chiếm tỷ lệ vượt trội và gần gấp 3 lần so với tỷ lệ DNNQD thì đến năm 2004, tỷ lệ giữa khách hàng là các DNQD và khách hàng là DNNQD đã gần như tương đương và khách hàng là DNNQD đã chiếm tỷ lệ vượt trội hơn so với DNQD; năm 2005 thì tỷ lệ tham gia giữa DNQD và DNNQD đã hoàn toàn đảo ngược so với năm 2003; các DNNQD đã chiếm tỷ lệ vượt trội, gấp gần 3,5 lần so với số lượng khách hàng là DNQD.
2.2.3.3. Quy mô và cơ cấu cho vay
Trong 5 năm qua, tư duy kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hưng Yên đã có nhiều chuyển biến tích cực; quan điểm cho vay, đầu tư vào khu vực kinh tế các DNVVN NQD đã thực sự có sự thay đổi. Chi nhánh đã bám sát thị trường, phân loại và lựa chọn khách hàng, mở rộng hướng đầu tư cho các DNVVN, DNNQD.
Bảng cơ cấu cho vay phân theo thành phần kinh tế (bảng 7)
Đơn vị: Triệu đồng
Loại hình DN
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
1. Ngắn hạn
319.119
100
450.489
100
529.625
100
- DNQD
162.613
50,96
139.180
30,90
78.406
14,80
- DNNQD
156.506
49,04
311.309
69,10
451.219
85,20
2. Trung-dài hạn
27.896
100
30.168
100
121.017
100
- DNQD
10.492
37,61
3.662
12,14
0
0
- DNNQD
17.404
62,39
26.506
87,86
121.017
100
Tổng cộng
347.015
480.657
650.642
Nhình vào bảng trên có thể thấy sự thay đổi rõ rệt về cơ cấu cho vay giữa các DNQD và các DNNQD; điều đó thể hiện như sau:
- Năm 2003 thì cho vay đối với DNQD chiếm tỷ trọng cao hơn cho vay DNNQD cả về ngắn hạn và trung - dài hạn; tuy nhiên, sự chênh lệch trong cho vay ngắn hạn giữa 2 đối tượng này không đáng kể, chênh lệch về tỷ trọng cho vay trung và dài hạn giữa 2 đối tượng này cũng khá lớn và bắt đầu thấy được sự dịch chuyển về cơ cấu đầu tư của Ngân hàng. Điều này là do năm 2003 là năm mà hoạt động CPH vẫn đang trong giai đoạn "khởi động" nên số DNNN vẫn còn tương đối nhiều.
- Trong năm 2004 thì sự dịch chuyển về cơ cấu cho vay đã có sự chuyển biến đáng mừng với sự tăng lên đáng kể của hoạt động cho vay ngắn hạn; cho vay ngắn hạn đối với DNNQD đã lớn hơn gấp hơn 2 lần cho vay ngắn hạn đối với DNQD còn cho vay trung - dài hạn đối với DNNQD đã vượt trội hơn hẳn.
- Năm 2005 vừa qua là năm mà hoạt động cho vay đối với DNNQD đã thực sự chiếm ưu thế áp đảo với việc cho vay trung - dài hạn đối với DNNQD đã chiếm tỷ trọng tuyệt đối (100%) còn cho vay ngắn hạn đối với DNNQD cũng chiếm tỷ trọng cao gấp hơn 5 lần so với cho vay đối với DNQD.
2.2.3.4. Quy mô và cơ cấu thu nợ
Bảng cơ cấu thu nợ phân theo thành phần kinh tế (bảng 8)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
1. Ngắn hạn
265.150
100
362.653
100
451.342
100
- DNQD
140.572
53,02
149.162
41,13
135.137
29,94
- DNNQD
124.578
46,98
213.491
58,87
316.205
70,06
2. Trung-dài hạn
35.041
100
36.310
100
123.948
100
- DNQD
13.078
37,32
21.291
58,64
101.103
81,57
- DNNQD
21.963
62,68
15.019
41,36
22.845
18,43
Tổng cộng
300.191
398.963
575.290
Trong 3 năm: từ 2003-2005 ta thấy một điều rất khác lạ; đó là tình hình thu nợ diễn ra theo chiều hướng khác nhau giữa 2 thành phần khách hàng trong ngắn hạn và trong trung - dài hạn:
- Nếu như tình hình thu nợ ngắn hạn diễn ra nhanh và tăng đều qua các năm ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì ở khu vực kinh tế Nhà nước lại diễn ra chậm và giảm liên tục trong 3 năm vừa qua.
- Mặt khác, trái lại với tình hình thu nợ ngắn hạn, tình hình thu nợ trung - dài hạn lại diễn ra tình trạng hoàn toàn ngược lại, đó là thu nợ đối với khu vực kinh tế Nhà nước lại diễn ra nhanh hơn; điều này có thể được lý giải là do trong giai đoạn này các DNNN đang tích cực đẩy mạnh tiến trình CPH và đến năm 2005 là năm mà có rất nhiều DNNN CPH đã xong nên tích cực trả nợ Ngân hàng trước khi chuyển sang hình thức Công ty cổ phần.
2.2.3.5. Quy mô và cơ cấu dư nợ
Bảng cơ cấu dư nợ phân theo thành phần kinh tế (bảng 9)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
1. Ngắn hạn
154.060
100
241.896
100
320.179
100
- DNQD
72.865
47,30
62.883
26,00
6.152
1,92
- DNNQD
81.195
52,70
179.013
74,00
314.027
98,08
2. Trung-dài hạn
171.760
100
135.617
100
132.686
100
- DNQD
119.216
69,41
101.586
74,91
483
0,36
- DNNQD
22.544
30,59
34.031
25,09
132.203
99,66
Tổng cộng
325.820
377.513
452.865
Trong tổng dư nợ của 3 năm gần đây, tỷ trọng dư nợ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang ngày càng chiếm tỷ trọng áp đảo; điều này thể hiện rất rõ thông qua bảng số liệu trên.
- Năm 2003, dư nợ ngắn hạn đối với DNQD chiếm trọng gần ngang bằng so với DNNQD còn dư nợ trung - dài hạn cao gấp hơn 2 lần.
- Sang năm 2004, dư nợ ngắn hạn của DNNQD đã giảm đáng kể, chỉ bằng 1/3 so với DNNQD song dư nợ trung và dài hạn lại tăng lên, điều này là do tốc độ thu nợ trung - dài hạn của khu vực DNNQD năm 2004 không cao.
- Tuy nhiên, năm 2005 lại là một sự thay đổi bất ngờ: Tỷ tọng dư nợ của DNQD giảm mạnh (dư nợ ngắn hạn chỉ chiếm 1,92%, dư nợ trung - dài hạn chỉ còn 0,36% do năm 2005 Ngân hàng không cho vay trung và dài hạn đối với DNQD)
2.2.3.6.Quy mô nợ quá hạn
Bảng cơ cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế (bảng 7)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
1. Ngắn hạn
647
100
1.206
100
77
100
- DNQD
0
0
1.049
86,98
0
0
- DNNQD
647
100
157
13,02
77
100
2. Trung-dài hạn
450
100
171
100
56
100
- DNQD
0
0
0
0
0
0
- DNNQD
450
100
171
100
56
100
Tổng cộng
1.077
1.377
133
Qua bảng trên có thể thấy tình hình nợ quá hạn nói chung của NHCT Hưng Yên đang có chiều hướng chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng giảm nợ quá hạn; trong đó, điếu đáng mừng là nợ quá hạn của khu vực DNNN đã hoàn toàn được kiểm soát, nưm 2005 không có nợ quá hạn của DNNN, nợ quá hạn của khu vực DNNQD cũng giảm đáng kể, nếu như năm 2003, nợ quá hạn của các DNNQD là 1.097 triệu đồng thì đến năm 2004 đã giảm xuống còn 328 triệu đồng và năm 2005 là 133 triệu đồng .
.
2.2.4. Đánh giá về hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD của NHCT Hưng Yên
2.2.4.1. Những thành tựu đạt được
Với sự đổi mới tư duy trong công tác đầu tư, cho vay đốivới thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong những năm vừa qua, NHCT Hưng Yên đã có sự đầu tư ngày một lớn vào các DNVVN NQD (mà thựcchất là các DNNQD vì hầu hết các DNNQD trên địa bàn tỉnh đều có quy mô vừa và nhỏ, trừ một vài công ty cổ phần do DNNN mới chuyển đổi).
Như đã phân tích ở trên, qua bảng 7 có thể thấy dược sự dịch chuyển về cơ cấu cho vay của Ngân hàng trong 3 năm qua; Ngân hàng đã có sự đầu tư ngày một lớn vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chuyển dần sự quan tâm vè phía các khách hàng là các DNNQD; điển hình như việc dành 100% khoản cho vay trung và dài hạn năm 2005 cho các DNNQD; ngoài ra, cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD cũng chiếm tỷ trọng ngày một lớn và có chiều hướng tiếp tục tăng trong các năm sau, khi một số DNNN khác tiếp tục hoàn thành CPH.
Bảng tỷ trọng cho vay đối với DNNQD phân theo thời gian (bảng 8)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
156.506
90
311.309
92,15
451.219
78,85
Trung-dài hạn
17.404
10
26.506
7,85
121.017
21,15
Tổng cộng
173.910
100
337.815
100
572.236
100
Mặt khác, nhìn vào bảng 8 có thể thấy Chi nhánh đang có sự đầu tư dài hạn vào các DNNQD để các DN này đầu tư vào máy móc, thiết bị, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ nhằm cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế; doanh số cho vay trung và dài hạn đang có chiều hướng tăng lên và năm 2005 đã tăng lên đáng kể; tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn cũng có chiều hướng gia tăng (điều này chứng tỏ Chi nhánh đã quan tâm tới việc đầu tư cho vay đối với các DN để họ tiến hành đầu tư mở rộng sản xuất theo chiều sâu, có nghĩa là Ngân hàng đã ngày một chú trọng và thấy được tiềm năng phát triển của việc đầu tư cho các DNVVN NQD).
Ngoài ra, để thấy được tốc độ phát triển của hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD chúng ta hãy nhìn vào tốc đọ tăng trưởng của DS cho vay trong 3 năm gần đây.
Bảng doanh số cho vay đối với DNNQD năm 2003 - 2005 (bảng 9)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
% tăng - giảm
2004/2003
2005/2004
Ngắn hạn
156.506
311.309
451.219
98,91
44,94
Trung - dài hạn
17.404
26.506
121.017
52,30
356,56
Tổng cộng
173.910
337.815
572.236
94,25
69,39
Nhận xét:
- Năm 2003 là một năm mà tốc độ tăng trưởng của DS cho vay đối với các DNNQD tăng khá cao; tuy nhiên năm 2005 mới thực sự là năm mà tốc độ tăng trưởng thực sự đáng "kinh ngạc" khi mà tốc độ tăng trưởng của DS cho vay trung - dài hạn tăng tới 356,56%, đó là do các DN tập trung vay vốn để đầu tư vào tài sản cố định, bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng của DS cho vay ngắn hạn cũng tăng 44,94%, tuy có thấp hơn so với năm 2004.
- Tuy nhiên, một tốc độ tăng trưởng vượt bậc chưa chắc đã là một điều tốt nếu như nó không đi kèm với việc nâng cao khả năng thu hồi.
Bảng cơ cấu dư nợ đối với DNNQD phân theo thời gian (bảng 10)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
81.195
78,27
179.013
84,03
314.027
70,37
Trung-dài hạn
22.544
21,73
34.031
16,97
132.203
29,63
Tổng cộng
103.739
100
213.044
100
446.230
100
Nhìn vào bảng trên có thể thấy dư nợ đối với DNNQD hàng năm đều tăng lên đáng kể, năm 2004 tăng gấp 2 lần so với năm 2003 và năm 2005 tăng gấp 2 lần so với năm 2004, điều này cho thấy việc mở rộng tín dụng của NHCT Hưng Yên đối với DNNQD trong những năm qua.
Tuy nhiên, chỉ tiêu dư nợ chỉ phản ánh được số dư nợ đối với các DNNQD cho đến thời điểm cuối năm, khi Ngân hàng lập bảng cân đối vốn kinh doanh vì:
Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ + DS cho vay - DS thu nợ
Như vậy, Dư nợ cuối kỳ phụ thuộc vào DS cho vay trong kỳ và DS thu nợ trong kỳ, nếu DS cho vay trong kỳ thấp hơn DS thu nợ trog kỳ thì Dư nợ cuối kỳ sẽ cao hơn Dư nợ đầu kỳ nên chún ta cần phải quan tâm đến cả DS cho vay và DS thu nợ trong kỳ.
2.2.4.2. Hạn chế
Phần trên chúng ta đã phân tích về những thành tựu mà NHCT Hưng Yên đạt được trong thời gian qua, đó là sự tăng trưởng không ngừng của chỉ tiêu DS cho vay và chỉ tiêu Dư nợ, song cũng đã đề cập tới sự phụthuộc của Dưn ợ cuối kỳ vào DS thu nợ và DS cho vay. Vậy, thực chất của việc Dư nợ của khu vực DNNQD tăng lên đáng kể hàng năm là do đâu? Không thể phủ nhận sự tăng trưởng không ngừng của DS cho vay hằng năm song cũng có môt thực tế là tình hình thu nợ đối với các DNNQD trong những năm qua tuy có nhiều thay đổi tích cực bởi Chi nhánh đã có nhiều biện pháp thu nợ song vẫn hiệu quả chưa cao, DS thu nợ thấp hơn nhiều so với DS cho vay (nhất là DS thu nợ trung - dài hạn), đặc biệt trong năm 2005, DS cho vay đạt 572.236 triệu đồng song DS thu nợ chỉ đạt có 339.050 triệu đồng, trong đó DS cho vay trung - dài hạn đạt 121 tỷ đồng song DS thu nợ chỉ đạt gần 23 tỷ đồng; tuy nhiên cũng phải đánh giá một cách khách quan là do có nhiều khoản cho vay trung - dài hạn có thời hạn cho vay dài, chưa tới thời hạn trả nợ nên tốc độ thu nợ của Chi nhánh còn thấp.
Bảng tỷ trọng thu nợ đối với DNNQD phân theo thời gian (bảng 11)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
124.578
85,01
213.491
93,43
316.205
93,26
Trung-dài hạn
21.963
14,99
15.019
6,57
22.845
6,74
Tổng cộng
146.541
100
228.510
100
339.050
100
Ngoài những hạn chế về DS thu nợ, Chi nhánh còn có hạn chế về nợ quá hạn.
Bảng tỷ trọng nợ quá hạn đối với DNNQD phân theo thời gian (bảng 12)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
647
58,98
157
47,87
77
57,89
Trung-dài hạn
450
41,02
171
52,13
56
42,11
Tổng cộng
1.097
100
328
100
133
100
Nếu như trên chúng ta đã phân tích thấy một thành tích đáng ghi nhận của Chi nhánh là tỷ lệ nợ quá hạn đang có chiều hướng giảm, nhất là khu vực kinh tế Nhà nước; tuy nhiên bảng trên lại cho thấy một thực tế là trong tổng nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang chiếm tỷ trọng cao, trong đó nợ quá hạn trong cho vay trung - dài hạn giảm trong năm 2004 nhưng lại có chiều hướg gia tăng trong năm 2005; điều này được lý giải là do năm 2005 vừa qua có khá nhiều biến động bất lợi của nền kinh tế thế giới có tác động tới tình hình kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra, một hạn chế nữa mà NHCT Hưng Yên gặp phải là chưa đa dạng hoá các hình thức cho vay, hiên tại chi nhánh mới chỉ tập trung cho vay từng lần, phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là một phương thức giuóp giảm bớt thủ tục mỗi lần cho vay đối với DN song mới chỉ được áp dụng đối một số ít DN, mà hầu hết đều là DNNN mới chuyển đổi thành Công ty cổ phần bởi trình độ thẩm định để xem xét hạn mức đối với các DNNQD của CBTD hiện nay còn hạn chế do chưa có cán bộ chuyên thẩm định; mặt khác, do nhiều DN còn e ngai cung cấp thông tin chính xác về tình hình DN mình nên gây không ít khó khăn cho Ngân hàng.
2.2.4.3. Nguyên nhân
2.2.4.3.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng
a. Chất lượng thẩm định tín dụng
Tại NHCT Hưng Yên, do chưa có phòng thẩm định riêng nên CBTD vẫn phải thực hiện công việc này, do đó các quy trình nghiệp vụ vẫn chưa được chuyên môn hoá, mất thời gian cho công tác thẩm định và công tác giải ngân.
Nội dung thẩm định của NHCTHwng Yên tuy đã tương đối đầy đủ nhưng vẫn còn mang nhiều tình hình thức, chưa thực sự khoa học và linh hoạt. Tuy quy trình thẩm định đã được NHCT Việt Nam quy định rõ ràng trong sổ tay tín dụng, cần tuân thủ những nguyên tắc đó song mỗi dự án đều có những đặc điểm, với những khó khăn và thuận lợi riêng nên công tác thẩm định cần có sự linh hoạt, đối với mỗi dự án thuộc những ngành nghề khác nhau, do các chủ đầu tư khác nhau thì nên tập trung vào những chỉ tiêu khác nhau để phân tích để có thể đưa ra kết quả thẩm định tốt nhất.
NHCT Hưng Yên vẫn chưa xây dựng được phương pháp thẩm định cụ thể đối với từng ngành nghề, từng lĩnh vực khác nhau nên đôi khi CBTD tuân thủ cứng nhắc những hướng dẫn chung của NHCT Việt Nam, hoặc đôi khi CBTD tự đưa ra một phương pháp thẩm định riêng nên không thể tránh khỏi sự chủ quan, đôi khi dẫn tới sai lầm trong kết quả thẩm định.
b. Quy chế đảm bảo tiền vay
Các DNVVN NQD do có quy mô kinh doanh nhỏ, nguồn lực vốn và tài sản tự thân hạn chế nên rất khó tiếp cận với vốn tín dụng Ngân hàng, cần đi vay nhưng lại không có đủ tài sản bảo đảm theo quy định của Ngân hàng, ngoài ra còn phải kể đến không ít những nhiêu khê khác nữa; thủ tục, giấy tờ, thời gian giải quyết món vay tuy đã được Ngân hàng tích cực cải tiến nhưng trong con mắt khách hàng vẫn còn rườm rà, phức tạp, chậm chạp so với nhu cầu vốn của DN vì kinh doanh trên thương trường yêu cầu phải có tính tức thời, đơn giản, linh hoạt.
Việc thẩm định, đánh giá điều kiện tài sản đảm bảo tiền vay như: chất lượng tài sản, thời gian sử dụng và tính hợp pháp của việc sở hữu, giao dịch, mua bán, chuyển nhượng tài sản trên thị trường, đăng ký giao dịch bảo đảm, mua bảo hiểm tài sản trong thời gian hợp đồng bảo đảm nợ vay... vẫn còn nhiều rắc rối, chưa tìm ra một cơ chế đủ thông thoáng, tích cực, hữu hiệu từ các ngành chức năng liên quan để giúp Ngân hàng vừa thực hiện đúng pháp luật, vừa đẩy nhanh quá trình thẩm định, hoàn tất thủ tục bảo đảm tiền vay.
Luật đất đai mới ra đời ngày 01/7/2004 coi quyền sử dụng đất là hành hoá nên yếu tố giá cả của nó cũng tuân theo quy luật thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động giá cả của đất đai rất đa dạng, nhạy cảm, như: vị trí của miếng đất, khả năng chuyển nhượng, sự đầu cơ, yếu tố tâm lý...thậm chí xét riêng mỗi yếu tố thì cách đáng giá của mỗi người cũng không giống nhau; đây chính là sự khó khăn của Ngân hàng khi đánh giá giá trị của các loại tài sản nói chung và đất đai nói riêng khi dùng để làm tài sản bảo đảm tiền vay.
c. Chất lượng nguồn nhân lực
Để đạt được những thành công kể trên, đội ngũ cán bộ, nhân viên của NHCT Hưng Yên đã nỗ lực hết mình vì sự thành công và lớn mạnh của Ngân hàng. Ngân hàng có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ ban Giám đốc đến đội ngũ lãnh đạo các phòng rất năng động, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và rất tâm huyết với nghề.
Đồng thời Ngân hàng đã xây dựng một chiến lược kinh doanh trong đó định hướng cho từng cán bộ, nhân viên nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm bằng việc đổi mới thái độ phục vụ, phong cách giao dịch hoà nhã với khách hàng. Bên cạnh đó, mỗi nhân viên đều tự trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao khả năng tự xử trí công việc một cách độc lập, sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo đúng quy chế, chế độ. Đội ngũ cán bộ, nhân viên của Ngân hàng rất gắn bó với nghề, các phòng - ban đều có sự liên hệ trong công tác chung của Ngân hàng, công tác đoàn kết nội bộ được tăng cường. Ban giám đốc Ngân hàng cùng với các nhân viên trong Ngân hàng đã cố gắng xây dựng một tập thể gắn bó, đoàn kết, cùng vì mục đích chung của Ngân hàng.
Trong khâu tổ chức, bố trí cán bộ đã có những bước đột phá, với mục tiêu trẻ hoá đội ngũ cán bộ, từ cán bộ lãnh đạo cấp trưởng, phó phòng đến các cán bộ nghiệp vụ tại các phòng, Chi nhánh đã mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ, thực sự có năng lực, phẩm chất và bản lĩnh vào những vị trí chủ chốt. Đối với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, tác nghiệp, Chi nhánh đã cử đi đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức thị trường, am hiểu sâu về pháp luật; đồng thời, Chi nhánh đã sắp xếp, bố trí đúng người, đúng việc kịp thời điều chỉnh nguồn nhân lực khi cần thiết.
Tuy nhiên, những hạn chế nêu trên của Chi nhánh một phần bắt nguồn từ chất lượng nguồn nhân lực. Do điều kiện còn hạn chế nên Chi nhánh chưa thể lập một phòng thẩm định riêng; vì vậy, công tác thẩm định vẫn do CBTD thực hiện, chính điều này dẫn tới hiệu quả công tác thẩm định chưa được như mong muốn, đôi khi còn chậm, làm cho công tác phê duyệt gặp khó khăn. Tuy mỗi CBTD đã được phân công theo dõi một số DN song bên cạnh việc cho vay đốivới các DN, mỗi cán bộ còn phải theo dõi các khoản cho vay khác như: cho vay lương đối với CBCNV, cho vay tư nhân, cá thể, hộ gia đình... nên không thể chuyên tâm vào việc theo dõi tình hình hoạt động của DN mà mình theo dõi; đôi khi có cán bộ chỉ quan tâm đến các thông tin do DN cung cấp và một phần thông tin do mình tự tìm hiểu nên không tránh khỏi tình trạng thiếu khách quan, điều này cũng một phần do tình trạng trao đổi thông tin giữa các NH chưa được cập nhật, chất lượng thông tin từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin chưa cao.
Chất lượng cán bộ chưa cao còn thể hiện ở việc đa số CBTD đều thiếu kiến thức về tin học, về ngoại ngữ, có CBTD có trình độ đại học song trình độ tiếng Anh vẫn còn nhiều hạn chế, nên công tác lập hồ sở tín dụng còn chậm, với những khoản vay của các DN có quan hệ làm ăn với nước ngoài (đặc biệt là các khách hàng nằm trong khu công nghiệp Như Quỳnh, có rất nhiều DN có quan hệ xuất - nhập khẩu), thường mất nhiều thời gian để thẩm định dự án.
Mặt khác, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa thực sự được quan tâm; phòng kiểm soát hiện nay đang thiếu cán bộ, khối lượng công việc nhiều; bên cạnh đó có một số cán bộ lại chỉ kiểm soát trên giấy tờ và qua mạng thông tin nội bộ nên không tránh khỏi sự thiếu khách quan và đôi khi còn gâyra sai sót.
2.2.4.3.2. Nguyên nhân khác
a. Nguyên nhân từ phía khách hàng là các DNVVN NQD
Trong quá trình cho vay đối với các DNVVN NQD, Chi nhánh NHCT Hưng Yên gặp không ít khó khăn từ phía các DNVVN NQD.
Khó khăn đầu tiên mà Ngân hàng gặp phải là do sự hạn chế về trình độ xây dựng dự án của các DN; đây cũng là hạn chế chung của các DNVVN NQD nói chunh trên địa bàn cả nước. Chính do trình độ xây dựng dự án của các DN nên các CBTD mất rất nhiều thời gian để hướng dẫn các DN lập lại dự án, do đó thời gian giải quyết cho vay kéo dài; mặc dùcó thể dự án của DN mang tính khả thi và hiệu quả dự tính cao. Ngoài ra, DN còn chưa thông thạo các thủ tục vay vốn mặc dù CBTD đã phải mất thời gian để giải thích cho DN hiểu rằng phải cung cấp những tài liệu gì trong hồ sơ vay vốn và quy trình lập hồ sơ vay vốn đã được Ngân hàng niêm yết rõ ràng.
Một nguyên nhân khác khiến cho Ngân hàng còn e ngại khi cho vay đối với các DNVVN NQD đó là do một số DN không muốn cung cấp các thông tin chính xác cho Ngân hàng, các báo cáo tài chính thường được xây dựng nhằm đối phó với cơ quan thuế, mang tính không chính thức nên đã gây không ít khó khăn cho công tác thẩm định của Ngân hàng. Các DN, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh vẫn luôn ngần ngại cung cấp thông tin tài chính, không thực hiên đúng chế độ thống kê kế toán, hệ thống báo cáo ghi chép và theo dõi hoạt động kinh doanh không có hoặc thiếu, các DN thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hoá đơn bán hàng, trong khi hoạt động kiểm toán hiện nay còn thiếu và yếu.
Chính những đặc điểm trên đã khiên cho Ngân hàng rất e ngại khi cho vay đối với DNVVN NQD.
b. Môi trường kinh tế - xã hội và pháp luật
Trong những năm gần đây, nhất là trong giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn phát triển vượt bậc của kinh tế Việt Nam, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để ngành Ngân hàng có những bước phát riển đáng ghi nhận, trong đó có sự đóng góp to lớn cho tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm (trên 8%) với việc đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế những năm gần đây có những biến động rất lớn; điển hình là cuộc khủng hoảng năng lượng khi giá dầu liên tục tăng tới mức giá kỷ lục trong năm 2004 và 2005 do cuộc chiến mà Mỹ phát động ở Irăc, cuộc khủng hoảng chính trị ở một số nước có trữ lượng dầu lơn trên thế giới và là nguồn cung cấp dầu mỏ chính cho thế giới hay cuộc khủng hoảng trong quan hệ giữa Mỹ, Anh... với Triều Tiên, Iran xung quanh việc hai nước này đang làm giàu Uranium...Tất cả các biến động này không chỉ tác động tới các nước trực tiếp tham gia mà còn làm cho các nước khác trên thế giới cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng. Là một nước xuất khẩu dầu mỏ song Việt Nam chỉ xuất khẩu dầu thô và lại phải nhập khẩu các sản phẩm chiết xuất từ dầu mỏ nên giá xăng, gas...trong nước cũng đã tăng trong những năm qua với nhiều lần điều chỉnh lên, sự tăng giá của các loại nguyên liệu này ảnh hưởng tới các ngành kinh tế quan trọng trong nước tế như: giao thông vận tải, điện...Đặc biệt năm 2005 là năm mà Việt Nam phải chịu các biến động bất lợi không nhỏ của thời tiết như: hạn hán, lũ lụt, bão lớn...nên nước ta đã lâm vào tình trạng thiếu điện trầm trọng, điều này đã dẫn tới sự tăng giá của các ngành khác. Ngoài ra, nước ta cũng phải đấu tranh với dịch cúm ở gia cầm và dịch cúm ở người nên cũng gặp không ít khó khăn.
Chính những biến động lớn của tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới trong những năm qua đã tác động không nhỏ tới sự ổn định kinh tế của Việt Nam; vì vậy, các DN cũng không dám mạo hiểm trong các dự án đầu tư trong tình hình nền kinh tế có nhiều biến động như vậy, cũng chính vì vậy mà ngành Ngân hàng nói chung và NHCT Hưng Yên nói riêng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN.
Mặt khác, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NHTM trong khi hệ thống pháp luật còn đang trong quá trình hoàn thiện, còn thiếu tính ổn định và còn nhiều điểm chồng chéo nên gây không ít khó khăn cho các DN khi giao dịch với các cơ quan hành chính và các NHTM khi giải quyết nhu cầu vay vốn (cụ thể như ở Thị xã Hưng Yên hiện nay, khi khách hàng muốn đăng ký GDBĐ thì phải chờ đến ngày thứ 5 hàng tuần nên đôi khi gây sự chậm trễ trong giải quyết nhu cầu vay vốn cho DN, do phòng đăng ký GDBĐ chỉ làm một ngày trong tuần nên khối lượng hồ sơ xin đăng ký trong cả tuần dồn lại dẫn tới việc giải quyết nhu cầu xin đăng ký GDBĐ rất phức tạp).
Đã 3 năm kể từ ngày Chính phủ ra Nghị định 90/NĐ-CP về việc trợ giúp phát triển DNVVN và Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ban hành về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN song Hưng Yên vẫn chưa thnành lập được; điều này là do sự phối hợp giữa các cấp, các ngành các điạ phương còn chậm chạp, chưa hiệu quả.
Chương III- Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD tại chi nhánh NHCT Hưng Yên
3.1. Phương hướng phát triển hoạt động tín dụng của NHCT Hưng Yên trong thời gian tới
3.2. Một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại chi nhánh NHCT Hưng Yên
3.2.1. Tăng cường huy động vốn để mở rộng cho vay
Nhìn lại bảng cân đối vốn kinh doanh của NHCT năm 2005 có thể thấy sự tăng trưởng đáng kể của hoạt động huy động vốn song trên thực tế, nguồn vốn huy động vẫn hạn chế, Chi nhánh vẫn phải nhận nguồn vốn điều hoà từ trụ sở chính nên hạn chế khả năng mở rộng tín dụng, nhất là tín dụng trung và dài hạn; vì vậy, trong năm 2006 này, Ngân hàng cần tăng cường hoạt động huy động vốn bằng cách đa dạng hóa các hình thức huy động như: khuyến khích mở tài khoản cá nhân để hạn chế thói quen để tiền trong nhà, mở rộng à đa dạng hoá các hình thức gửi tiền (tiết kiệm hỗn hợp, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng...), làm tốt các nghiệp vụ thu hộ, kiểm đếm, phát triển hệ thống máy rút tiền tự động, thu hút nguồn tiền gửi của các DN trên địa bàn (đây là nguồn vốn có nhiều ưu điểm là rẻ, khối lượng lớn, có thể thu hút băng cách giảm phí thanh toán cho các DN có tiền gửi tại Chi nhánh hoặc giảm lãi suấtkhi DN vay vốn, thực hiện một số dịch vụ tư vấn miễn phí )...
Ngoài ra, cần triển khai mạnh mẽ hình thức gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi, để làm được việc này không chỉ yêu cầu Chi nhánh cần mở mạng lưới kinh doanh mà còn cần có sự tăng cường hợp tác với các NHTM trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó cần mở rộng hoạt động phát hành Giấy tờ có giá (GTCG), nhất là GTCG trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn trong thời gian tới.
3.2.2. Xây dựng chính sách phân loại khách hàng phù hợp
ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo Ngân hàng tuy đã bắt đầu quan tâm tới chiến lược khách hàng nhưng tư tưởng này vẫn chưa được thể hiện rõ nét trong chién lược hoạt động kinh doanh.
Trong chiến lược kinh doanh, mỗi Ngân hàng cần theo đuổi một chiến lược khách hàng phù hợp với điều kiện các nguồn lực riêng của mình, đặt trong điều kiện chung của nền kinh tế và môi trường hoạt động của mình. Vì vậy, Ngân hàng cần xác điịnh thị trường cụ thể của mình (tức là tiến hành phân đoạn thị trường - PĐTT); đó là việc xác định: đâu là thị trường phục vụ, đối tượng khách hàng của Ngân hàng (họ là ai, họ cần gì, trong DN ai là người quyết định mua sản phẩm của Ngân hàng, làm thế nào để phục vụ họ tốt nhất). Ngân hàng nên chọn cho mình một đoạn thị trường rõ ràng (tính có thể đo lường và xác định được) và tính khả thi (có thể tiếp cận được và thu được lợi nhuận đáng kể).
Với các khách hàng là DN thì Ngân hàng nên tập trung vào các khách hàng là các DNVVN vì các DN này đã, đang và sẽ ngày phát triển và phát sinh những nhu cầu đa dạng, nếu Ngân hàng có thể thu hút được đối tượng này, không chỉ đáp ứng các nhu cầu vay vốn mà còn đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ tư vấn tài chính cho các DN thì thu nhập sẽ ngày càng cao, không chỉ qua việc thu lãi từ các khoản cho vay mà còn tăng các khoản thu từ phí dịch vụ, qua đó chuyển đổi cơ cấu thu nhập theo hướng hiện đại.
Ngoài ra, trong các DNVVN NQD, đa số là các DN thuộc lĩnh vực dệt may, cơ khí - điện tử, chế biến lương thực - thực phẩm; vì vậy, Chi nhánh cần chú trọng hơn tới các DN này, cần xây dựng một chiến lược khách hàng phù hợp trong đó đặc biệt chú ý tới nhóm khách hàng chiến lược này vì trong thời gian tới, các lĩnh vực này sẽ ngày càng phát triển và các DN thuộc các lĩnh vực này sẽ rất cần vốn để thực hiện tái đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh.
3.2.3. Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt
Một mức lãi suất hợp lý cho phép DN tính toán được lợi nhuận thu về từ các dự án khả thi, nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đồng thời DN sẽ có lợi nhuận sau khi đã trừ đi chi phí lãi vay, do đó sẽ kích thích DN đầu tư mở rộng sản xuất.
- Một mức lãi suất cho vay quá cao đến mức bất hợp lý sẽ làm cho DN không muốn vay Ngân hàng, nhiều dự án hiệu quả không được thực hiện, nhiều cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ và Ngân hàng thì bị ứ đọng vốn dẫn tới lợi nhuận giảm, thậm chí thua lỗ.
- Một mức lãi suất quá thấp thì DN sẽ vay vốn dễ dàng, thậm chí sử dụng không đúng mục đích, sử dụng lãng phí, không hiệu quả và rủi ro của DN sẽ là tiền đề dẫn tới rủi ro của Ngân hàng và ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển nói chung của nền kinh tế. Mặt khác, đôi khi sự mở rộng tín dụng do giảm lãi suất cho vay không đủ để bù đắp chi phí mà Ngân hàng bỏ ra.
Vì vậy, một mức lãi suất hợp lý đối với Ngân hàng cần phải đảm bảo duy trì sự hoạt động và phát triển của Ngân hàng, đồng thời bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh, không nên có một bảng lãi suất cho vay cố định cho tất cả các khách hàng bởi tuy điều này giúp giản tiện cho việc cho vay song không thu hút được những khách hàng làm ăn hiệu quả. Một khách hàng làm ăn hiệu quả sẽ mang lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận lớn nên có thể được áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn những khách hàng khác, còn những khách hàng làm ăn kém thì phải chịu mức lãi suất cao hơn để hạn chế và ngăn ngừa rủi ro.
Trong thời gian tới, Ngân hàng cần xây dựng một chính sách lãi suất linh hoạt. Có rất nhiều phương pháp xác định lãi suất của các khoản cho vay,như: xác định lãi suất cho vay theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập, phương pháp xác định lãi dựa trên lãi suất cơ bản...Tuỳ từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng chọn các phương pháp tính lãi khác nhau, vừa giúp cho DN có thể tiếp cận với nguồn vốn của Ngân hàng, vừa đủ để Ngân hàng có lợi nhuận. Với các DNVVN, Ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất cho vay cho từng đối tượng khách hàng (phương pháp định giá cá biệt), với các DN là khách hàng truyền thống, có quan hệ tín dụng tốt trong thời gian qua thì nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi vì đối với các DN này, Ngân hàng giảm được chi phí thẩm định và giảm thiểu rủi ro do thường xuyên nắm các thông tin về DN qua các khoản cho vay trước đó; bên cạnh đó, Ngân hàng có thể có những tư vấn giúp khách hàng thực hiện tốt hơn dự án của mình, qua đó sẽ nhanh chóng thu hồi vốn để trả nợ Ngân hàng, đồng thời tạo mối quan hệ gắn bó giữa Ngân hàng và DN; để thực hiện được điều này đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên nắm bắt, cập nhất thông tin về các DNVVN hoạt động trên địa bàn.
3.2.4. Đổi mới, cải tiến quy chế cho vay, xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, không chỉ là sự cạnh tranh giữa các NHTM mà còn có sự cạnh tranh của các tố chức tài chính phi Ngân hàng và của thị trường phi tài chính thì sự khẳng định về uy tín, chất lượng phục vụ có tầm quan trọng rất lớn; vì vậy, đổi mới, cải tiến quy chế cho vay là một yêu cầu cần thiết trong thời gian tới, cần đơn giản hoá thủ tục cho vay sao cho vừa bảo đảm yêu cầu hạn chế rủi ro, vừa có thể giữ được khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm những khách hàng mới.
Trong phạm vi hoạt động, chi nhánh có thể thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, thẩm định dự án, lập quy trình kinh doanh “một cửa”: Một trong những yếu tố quyết định sự thu hút khách hàng đến giao dịch là sự hoàn thiện dần quy trình kinh doanh “một cửa”, đặc biệt đối với khách hàng là DNVVN NQD, nếu quy trình càng phức tạp, nhiều cửa thì càng khó thu hút khách hàng và càng khó cạnh tranh với các Ngân hàng khác trên địa bàn. Khách hàng là DN nói chung và DNVVN NQD nói riêng luôn mong muốn được giải quyết đề nghị vay vốn một cách nhanh chóng vì các dự án, phương án sản xuất - kinh doanh thường yêu cầu tính thời điểm rất cao, nếu không đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời thì sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh; vì vậy, từng bộ phận của chi nhánh cần xây dựng một quy trình giao dịch “một cửa”, nếu không đồng ý cho vay thì cần giải thích thoả đáng cho khách hàng lý do và để khách hàng dù không vay được vẫn thấy thoải mái; mặt khác, nếu thấy dự án, phương án sản xuất - kinh doanh mà khách hàng xây dựng chưa hợp lý nhưng dự án, phương án ấy có tính khả thi cao thì nên tư vấn, hướng dẫn khách hàng xây dựng lại cho hợp lý hơn.
Tại chi nhánh đã có một quy trình thống nhất được ban hành song cần nghiên cứu để xây dựng một quy trình có tính cụ thể, sát với thực tế khách hàng hơn nữa; trong đó cần chú trọng đến việc hướng dẫn cụ thể, chi tiết các chế độ, thể lệ tín dụng cho khách.
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của Ngân hàng; với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, chính sách này được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và cho toàn thể nhân viên Ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách tín dụng của NHCT Việt Nam bao gồm hệ thống các quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư, do Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ban hành phù hợp với chiến lược phát triển của NHCT Việt Nam và những quy định pháp lý hiện hành.
NHCT Việt Nam tiến hành các hoạt động tín dụng và đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu hợp lý của khách hàng. Các chính sách tín dụng của NHCT Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu cân bằng giữa tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng và đầu tư an toàn, hiệu quả, đúng định hướng và chiến lược của NHCT Việt Nam.
Tuy nhiên, chính sách tín dụng của NHCT Việt Nam quy định:
- Hạn chế cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản.
- NHCT Việt Nam không khuyến khích cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản.
- Hằng năm, Hội đồng tín dụng cơ sở của từng chi nhánh đề xuất cấp mức tín dụng không có bảo đẩm bằng tài sản đối với một khách hàng và tỷ trọng cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản trong tổng cơ cấu tín dụng trình Hội đồng tín dụng trụ sở chính phê duyệt; đề xuất được xây dựng trên nguyên tắc: mức tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản đối với một khách hàng và tổng số cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản của chi nhánh chỉ được chiếm tỷ trọng nhỏ ở mức bảo đảm không có ảnh hướng lớn đến sự ổn định của chi nhánh khi có rủi ro đối với các khoản tín dụng không có tài sản bảo đảm.
Trong hạn mức tín dụng không có tài sản đảm bảo đã được NHCT Việt Nam phê duyệt hằng năm, NHCT Hưng Yên cũng cần có sự chủ động, xây dựng một chính sách mềm dẻo, linh hoạt để không bỏ lỡ những dự án, phương án sản xuất - kinh doanh có khả năng tạo nên lợi nhuận. Trong một số trường hợp, đối với các khách hàng truyền thống, có quan hệ tín dụng tốt từ trước thì Chi nhánh nên tạo điều kiện để DN vay vốn không có tài sản đảm bảo hoặc giảm tỷ lệ tài sản đảm bảo, hoặc cho phép DN dùng tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, cần mở rộng tín dụng một cách thận trọng, đảm bảo phát triển bền vững và hiệu quả, đầu tư vào các trọng điểm trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế của địa phương để mở rộng đầu tư vốn đối với mọi thành phần kinh tế; sàng lọc, lựa chọn khách hàng, chỉ đầu tư đối với các khách hàng có đủ điều kiện tín dụng, có phương án, dự án có tính khả thi cao, hạn chế và giảm đầu tư không có tài sản đảm bảo, nhất là đối với DN chưa có uy tín trên thị trường, chưa có quan hệ tín dụng với Chi nhánh và với các TCTD khác.
Đồng thời, đối với các DN thường xuyên có quan hệ tín dụng với Chi nhánh, đặc biệt là các DN được cấp hạn mức tín dụng thì Ngân hàng cần thường xuyên phân tích về năng lực điều hành, tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng, kịp thời nắm bắt các thông tin, đặc biệt là thông tin về những biến động của ngành hàng, giá cả thị trường để có chính sách tín dụng hợp lý.
3.2.5. Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
Trong nền kinh tế đang vận động không ngừng thì nhu cầu của khách hàng cũng đang thay đổi tương ứng với trình độ phát triển của nhân loại. Nhu cầu của con người luôn vận động theo trình tự từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Ngày nay, chất lượng cuộc sống đã và đang ngày càng biến đổi mạnh mẽ, nhu cầu và thị hiếu cũng đa dạng hơn rất nhiều; vì vậy, muốn tồn tại và phát triển được trên thị trường thì Ngân hàng phải tiến hành đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, dịch vụ với chất lượng ngày một tốt hơn. Triết lý kinh doanh đòi hỏi Ngân hàng phải tìm hiểu về nhu cầu của khách hàng để thoả mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng với phương châm "bán những gì khách hàng cần chứ không phải bán những gì mình có".
Bên cạnh các sản phẩm truyền thống là cho vay, Ngân hàng có thể mở rộng sang các sản phẩm mang tính chất tư vấn cho khách hàng vì đặc điểm chung của các DNVVN NQD là khả năng tiếp cận và cập nhật thông tin kém, kỹ năng lập dự án, phương án đầu tư thấp, khả năng quản lý DN chưa cao; thông qua các dịch vụ tư vấn, Ngân hàng có thể thu được những khoản phí cao.
3.2.6. Tăng cường công tác Marketing
Ngày nay, cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NHTM, nhất là khi chúng ta đang tiến tới việc gia nhập WTO là sự giảm sút hiệu quả của hoạt động tín dụng đối với DNNN do các DNNN làm ăn hiệu quả ngày càng ít và cũng do một thực tế là không ít DNNN làm ăn thua lỗ, nợ quá hạn của khu vực kinh tế Nhà nước đang chiếm tỷ trọng lớn thì Ngân hàng cần chuyển đổi sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó DNVVN chiếm tỷ trọng lớn. Một tất yếu hiện nay là các Ngân hàng đang dần chuyển hướng quan tâm của mình tới đối tượng là các DNVVN NQD do các khoản cho vay đối với các DNVVN NQD có những đặc điểm rất thuận lợi:
- Đa số các món vay có quy mô vừa và nhỏ nên độ rủi ro không lớn
- Đây là nghiệp vụ kinh doanh bán lẻ, địa bàn hoạt động của các DN lớn, dàn trải, số lượng khách hàng đông nên phân tán rủi ro
Đẻ có thể thu hút khách hàng là các DNVVN NQD, để các DN tiếp cận dễ hơn đối với tín dụng Ngân hàng, Chi nhánh cần tăng cường công tác Marketing, như:
- Chủ động tìm kiếm khách hàng: để có thể tìm kiếm khách hàng trước hết Ngân hàng cần có thông tin về khách hàng (tức là Ngân hàng chủ động thẩm định khách hàng trước rồi tìm cách kéo khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của mình; việc chủ động thẩm định khách hàng trước cũng mang lại lợi thế là kết quả thẩm định sẽ đáng tin cậy hơn). Tuy nhiên, với những DNVVN NQD, khi mà họ đã có dự án khả thi thì không chỉ có Ngân hàng mà nhiều Ngân hàng khác cũng muốn họ trở thành khách hàng của mình nên Chi nhánh cần có những ưu đãi cho khách hàng như: giảm bớt thủ tục, giảm bớt thời gian xét duyệt, cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc có phương thức cho vay, phương thức trả nợ phù hợp với điều kiện của khách hàng.
- Quảng cáo về các sản phẩm dịch vụ của chi nhánh: mỗi cán bộ, nhân viên của chi nhánh là một tuyên truyền viên tích cực cho Ngân hàng. Trong quan hệ giao dịch với khách hàng, ngoài việc giúp khách hàng làm các thủ tục cần thiết để vay vốn thì nhân viên cần qua đó giớ thiệu về các sản phẩm khác của Ngân hàng.
- Chính phong cách giao dịch là những điều tuy rất nhỏ song lại có hiệu quả đáng kể để Ngân hàng giới thiệu với khách hàng về mình; vì vậy cần xây dựng tác phong văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng.
- Ngoài việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng thì hàng năm Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, đặc biệt là các hội thảo giới thiệu vè các sản phẩm mới; thông qua hội nghị, Ngân hàng cần giải đáp những thắc mắc của khách hàng và cũng qua đó hiểu thêm về những vướng mắc của khách hàng để nghiên cứu hướng giải quyết.
3.2.7. Nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực
Khi hoạt động trên thị trường tức là Ngân hàng đã tự nguyện chấp nhận cạnh tranh quyết liệt từ các đối thủ; trong cuộc cạnh tranh đó, ai nhanh nhạy nắm bắt cơ hội và huy động các tiềm năng, có chiến lược đúng đắn sẽ thắng. Hoạt động Ngân hàng mang tính cạnh tranh rất cao do quá trình hội nhập, bất cứ sản phẩm nào mới tung ra thì gần như ngay sau đó đã mất quyền sở hữu riêng để trở thành sản phẩm chung, bất cứ ai cũng có quyền nghiên cứu, cải tiến để hưởng lợi, bất cứ sản phẩm mới nào ra đời nhằm tăng cường ưu thế cạnh tranh đều nhanh chóng bị bắt trước và ưu thế bị triệt tiêu. Vì vậy, nguồn lực để tạo ưu thế cạnh tranh hiện nay hính là xây dựng một đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp, lành nghề chuyên khai thác thông tin và đổi mới kịp thời trước đối thủ cạnh tranh.
Để xây dựng một đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ CBTD có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có trình độ, năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm và có hiểu biết về pháp luật thì Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa tới công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ.
Chi nhánh đã phân công mỗi cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm theo dõi một số khách hàng, song do nhiều DN hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề mà khi Việt Nam gia nhập vào WTO thì các DN này sẽ chịu tác động rất lớn, một số CBTD chưa thể theo kịp được với những biến động phức tạp của các lĩnh vực này; (điển hình như các DN thuộc lĩnh vực dệt may, cơ khí - điện tử, khi mà Việt Nam sắp gia nhập WTO thì các DN này vẫn chưa có sự chuẩn bị tích cực, vì vậy khi Việt Nam gia nhập vào WTO sẽ là một thử thách rất lớn đối với các DN này), nếu như các CBTD không tích cực trau dồi các kiến thức pháp luật, đặc biệt là các kiến thức về luật pháp quốc tế thì sẽ không thể tư vấn cho các DN được. Vì vậy, trong thời gian tới, mỗi CBTD phải tự trang bị cho mình những kiến thức pháp luật cần thiết và Chi nhánh cần có sự hỗ trợ đắc lực cho các CBTD; đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, cần nâng cao hiểu biết để đưa ra những quyết định đúng đắn; cần chú trọng hơn nữa tới công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với NHNN
NHNN Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và Ngân hàng; một trong những chức năng của NHNN là đảm bảo sự an toàn của toàn hệ thống, vì vậy, NHNN cần nghiên cứu xây dựng các quy ché, quy định hợp lý, vừa chặt chẽ song cũng phải tạo sự thông thoáng cho các Ngân hàng có thể tự chịu trách nhiệm về hoạt động vủa mình.
NHNN cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xây dựng hệ thống thanh tra, kiểm tra đủ mạnh về cả chất lượng và số lượng; đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác kiểm soát độ an toàn của hệ thống.
Đồng thời, NHNN cần tăng cường hơn nữa hiệuquả hoạt động của Trung tâm thông tin Ngân hàng để giúp các Ngân hàng có được những thông tin hữu ích, phục vụ cho công tác thẩm định của Ngân hàng.
3.3.2. Đối với NHCT Việt Nam
Để khai thác hiệu quả hơn nữa tiềm năng của nhóm đối tượng khách hàng là các DNVVN NQD, ngoài nỗ lực của bản thân chi nhánh còn cần có sự giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp vụ của Hội sở chính; Hội sở chính cần thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo chuyên sâu đối với công tác thẩm định, đánh giá thực trạng kinh doanh, giúp các chi nhánh có những quyết định đúng đắn trong quá trình thẩm định dự án và không để lỡ cơ hội đầu tư.
3.3.3. Đối với các cơ quan quản lý
a. Đối với cơ quan điều hành vĩ mô
Đại đa số DNVVN NQD có quy mô vốn khá khiêm tốn, tài sản bảo đảm khá nhỏ so với nhu cầu vốn và quy mô phát triển dự án; mặc dù Nhà nước đã cho phép các NH nhận thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, song DN vẫn gặp nhiều khó khăn do thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm còn khá phiền phức, mất nhiều thời gian; mặt khác, thủ tục cấp quyền sở hữu và quyền sử dụng đất cũng rất phức tạp, trong khi cho vay tín chấp còn gặp nhiều trở ngại đối với DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng.
Quy định hiện nay về cho vay tín chấp là: bắt buộc phải có lãi trong 2 năm liên tục, trong khi các DNVVN mới được đầu tư mới hoặc mới mở rộng sản xuất, điều này gây khó khăn cho NH khi quyết định cho vay mặc dù phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có khả năng thành công cao. Vì vậy, cần nới rộng và cụ thể các quy định cho vay tín chấp đối với DNVVN theo hướng cho phép các NH được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên cơ sở xem xét, đánh giá thời gian quan hệ, uy tín trong giao dịch với NH. Nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình và có giá trị bằng tiền; vì vậy, Pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị thương hiệu nhằm hỗ trợ cho NH an tâm đầu tư vào DNVVN.
Cần thúc đẩy sự hình thành và hoạt động của các quý bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN nhằm bổ sung cho mức độ tín chấp của NH.
Cần thúc đẩy sự lành mạnh hoá quan hệ tín dụng, nâng cao trình độ quản trị: các báo cáo quyết toán của các DNVVN thường không đủ độ tin cậy, gây khó khăn cho NH khi thẩm định. Bên cạnh đó, trình độ và năng lực quản lý của DN còn tương đối yếu kém, chưa tương xứng với quy mô hoạt động kinh doanh; để khai thông các kênh đầu tư cho DNVVN, đặc biệt là kênh tín dụng Ngân hàng, Nhà nước cần hoàn thiện các hành lang pháp lý và đưa ra các chính sách nhất quán và cụ thể hoá nhằm khuyến khích các DN này tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật; cụ thể là cơ quan Tài chính, Thuế nên hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành hoạt động kinh doanh thông qua hoạt động nộp thuế trên tinh thần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DN.
Với mức rủi ro tín dụng cao khi đầu tư cho các DNVVN NQD, Nhà nước cần có chính sách cụ thể, rõ ràng nhằm bảo vệ quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NH, hạn chế hình sự hoá các vụ tranh chấp dân sự giữa Ngân hàng và khách hàng khi có rủi ro xảy ra. Gần đây các phương tiện thông tin đại chúng đã nhắc lại tình trạng hình sự hoá các quy định trong lĩnh vực tín dụng đã tước đi tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng, để các Ngân hàng thừa vốn mà không thể cho vay. Thực tế, có nhiều phương án kinh doanh, dự án đầu tư chắc chắn, an toàn, có khả năng thu được hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt song do sự chói buộc ngặt nghèo của cơ chế, thể lệ mà các Ngân hàng buộc phải từ chối.
Đây chính là sự mâu thuẫn giữa Ngân hàng và DN mà để giải quyết mâu thuẫn này không chỉ cần tới thiện chí của Ngân hàng và khách hàng mà còn cần tới sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan trong việc tạo sự thông thoáng trong quá trình giải quyết các thủ tục về bảo đảm tiền vay và việc đảm bảo thực hiện đúng quy chế về bảo đảm tiền vay.
b. Đối với cơ quan quản lý của tỉnh
Các cơ quan quản lý của tỉnh cần có sự phối hợp nhịp nhàng để giúp DNVVN NQD tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN NQN phát triển.
Đối với Phòng đăng ký GDBĐ nên nghiên cứu để giải quyết linh hoạt nhu cầu đăng ký GDBĐ cho các DN, nên tăng số ngày giải quyết để DN không phải mất thời gian chờ đợi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32715.doc