Bước sang năm 2006, hoạt động của hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc. Sự phát triển của nền kinh tế và của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay đã làm cho môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng nói riêng và giữa các chủ thể trong nền kinh tế nói chung càng trở nên gay gắt. Trong bối cảnh đó, để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngày càng đa dạng thì việc mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác HĐV là tất yếu.
Từ nhận thức về vai trò quan trọng của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và qua quá trình thực tập tại Chi nhánh NHCTTX, với sự giúp đỡ tận tình của cán bộ Phòng khách hàng cá nhân, Phòng Khách hàng doanh nghiệp, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác HĐV ở NHCTTX.
72 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn ở Ngân hàng công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rưởng HĐV tăng cao, do đó tỷ lệ nguồn VHĐ trên cho vay được nâng lên rõ rệt (năm 2003 là 1,21 đến năm 2005 đạt 1,24). Kết qủa HĐV và chuyển dịch cơ cấu nguồn VHĐ tỷ trọng nguồn VHĐ ngắn hạn qua các năm tương đối đều và ổn định, đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngắn hạn ngày càng tăng. Nguồn VHĐ trung ,dài hạn tăng cả về giá trị và tỷ trọng để phù hợp với nhu cầu tín dụng trung, dài hạn trên địa bàn. Trong năm 2005, với nguồn VHĐ dồi dào, NHCTTX đã chủ động triển khai và mở rộng đầu tư, cho vay các dự án, cho vay các đơn vị cá nhân, doanh nghiệp, hộ gia đình…sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận và vùng lân cận. Tính đến 31/12/2005, ngân hàng đã cho vay hàng trăm khách hàng là các doanh nghiệp vay vốn lưu động và đầu tư phát triển cho các dự án sản xuất kinh doanh, tập trung vốn đầu tư cho vay phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, hộ gia đình, làng nghề, du lịch… với doanh số cho vay, thu nợ, bảo lãnh lên tới 2.000 tỷ đồng.
2.4 đánh giá công tác hđv ở nhcttx.
2.4.1 Những kết quả đạt được:
Qua phân tích về tình hình HĐV ở NHCTTX cho thấy, ngân hàng đã không ngừng cố gắng phát triển và nâng cao quy mô và chất lượng nguồn VHĐ, tạo tiền đề cho việc mở rộng đáp ứng yêu cẩu phục vụ đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong sản xuất kinh doanh và phục vụ. Những thành công của công tác HĐV góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công đề án tái cơ cấu toàn hệ thống giai đoạn 2001-2005. Những thành công của công tác HĐV được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
Nguồn VHĐ giữ nhịp độ tăng trưởng cao chứng tỏ khả năng HĐV trên địa bàn đạt hiệu quả:
Năm 2003, đạt 1.154,415 tỷ đồng,đạt 109% kế hoạch được giao.
Năm 2004, đạt 1.406,198 tỷ đồng, tăng 21,84% so với năm 2003.
Năm 2005, đạt 1.680,153 tỷ đồng, tăng 19,4% so với năm 2004.
Nguồn VHĐ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn là một
minh chứng cho thấy sự phát triển của ngân hàng về khả năng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế trên địa bàn. Điều này đã từng bước nâng cao được tỷ trọng tự cân đối vốn so với tổng dư nợ, chủ động hơn trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu mở rộng tín dụng, giảm dần tỷ trọng sử dụng nguồn hạn mức điều chỉnh của NHCTVN. Năm 2005, Chi nhánh đã tự cân đối nguồn vốn của mình, một phần chuyển về gửi tại Hội sở chính theo các kì hạn với số tiền gửi có kì hạn tại Trung ương là 275 tỷ đồng trong đó riêng USD là 215 tỷ đồng (tương đương với 13,66 triệu USD) và tiền gửi tại tài khoản trung tâm thanh toán là 50 tỷ đồng, tạo thế ổn định trong kinh doanh và năng lực hoạt động của ngân hàng.
NHCTTX cũng chú trọng đến công tác điều hành nguồn VHĐ, bằng các hình thức HĐV đa dạng, phong phú về thể loại, kì hạn, mềm dẻo trong cơ chế lãi suất, thực hiện một số chính sách linh hoạt, đặc biệt với những bạn hàng truyền thống có số tiền gửi lớn, ổn định. Nhờ đó, chất lượng nguồn VHĐ dần dần được cải thiện theo hướng:
+ Tăng nguồn tiền gửi không kì hạn của các TCKT, tạo điều kiện mở rộng các dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiết kiệm chi phí HĐV.
+ Tăng nguồn tiền gửi tiết kiệm trung, dài hạn trong khu vực dân cư tạo ra nguồn vốn ổn định để phát triển lâu dài và bền vững, giảm bớt áp lực về tính thời hạn của cơ cấu nguồn vốn.
+ Giảm nguồn VHĐ từ phát hành GTCG, tiết kiệm chi phí HĐV.
Với những kết quả đó, nguồn vốn của ngân hàng ngày càng tăng trưởng ổn định, tiết kiệm chi phí huy động, đáp ứng yêu cầu phục vụ đầu tư phát triển góp phần thắng lợi trọng công cuộc CNH-HĐH đất nước. Những kết quả trên có được là nhờ NHCTTX đã thực hiện thành công những giải pháp HĐV sau:
Thứ nhất: Xác định HĐV là công tác thường xuyên, quan trọng, là “điều kiện tiên quyết” để duy trì và phát triển hoạt động của ngân hàng. Công tác HĐV không phải là của riêng ai mà phải là nhiệm vụ của toàn bộ CBCNV các phòng, các bộ phận. Điều này được thực hiện bằng nhiều giải pháp thích hợp trong đó trọng tâm là giao kế hoạch đến từng đơn vị trong Chi nhánh.
Thứ hai: Chi nhánh luôn bám sát lãi suất thị trường trong và ngoài địa bàn để điều chỉnh cho phù hợp, áp dụng linh hoạt các hình thức trả lãi trước hoặc khuyến mãi theo hình thức tiền gửi, ưu đãi đối với khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi lớn, ổn định và luôn đảm bảo chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào tối thiểu là 2%.
Thứ ba: Tăng cường công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiếp thị khách hàng bằng nhiều hình thức, quảng bá thương hiệu, thành lập các tổ thu tiền lưu động để đáp ứng yêu cầu đến các địa điểm thu tiền khi khách hàng có nhu cầu nộp tiền, gửi tiền có số lượng lớn.
Thứ tư: Tích cực nghiên cứu đưa ra các sản phẩm huy động linh hoạt, các hình thức tiền gửi tiết kiệm dự thưởng, khung lãi suất và phương thức gửi tiền phù hợp với nhu cầu khách hàng, đảm bảo đúng sự chỉ đạo của Trung ương.
Thứ năm: Quán triệt, động viên CBCNV không ngừng đổi mới và nâng cao tác phong, phong cách giao tiếp với khách hàng, đặc biệt chú trọng tập trung tại các bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng nhằm xây dựng hình ảnh thương hiệu ICB và lòng tin đối với khách hàng.
Thứ sáu: Chi nhánh đã mở rộng mạng lưới HĐV tập trung chủ yếu ở khu đông dân cư, trung tâm buôn bán có nguồn thu nhập cao.
2.4.2 Những mặt hạn chế trong công tác HĐV
Bên cạnh những thành công, công tác HĐV còn có những hạn chế sau:
Thứ nhất: Cơ cấu nguồn VHĐ giữa đồng nội tệ và ngoại tệ chưa hợp lí.
Trong những năm qua, nguồn VHĐ bằng ngoại tệ USD giảm do ngân hàng hạ lãi suất tiền gửi. Tỷ trọng VHĐ ngoại tệ chỉ khoảng trên dưới 20% tổng nguồn VHĐ và giảm dần trong những năm về sau. Riêng năm 2005, tổng nguồn VHĐ ngoại tệ là 293.621 trđ thì gửi có kì hạn tại Trung ương là 214.522 trđ, chiếm 73% tổng nguồn VHĐ ngoại tệ ,do đó lợi nhuận thu được về từ ngoại tệ không đáng kể. Điều này là do tỷ giá tăng, lãi suất giảm và trên địa bàn không có nhiều phương án, phương thức sử dụng vốn ngoại tệ nên không cho vay được.
Nguồn tái tạo ngoại tệ phục vụ khách hàng còn nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng lớn của cơ chế tỷ giá, do vậy lãi suất cho vay ngoại tệ đã tác động đáng kể đến chi phí vay vốn của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có nhu cầu sử dụng vốn ngoại tệ lớn.
Thứ hai: Cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn và trung dài hạn còn bất cập.
Mặc dù nguồn VHĐ của ngân hàng đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đảm bảo sự an toàn trong sử dụng vốn để cho vay. Song tỷ lệ VHĐ trên dư nợ ở mức cao đặc biệt là nguồn trung, dài hạn và có xu hướng tăng (năm 2005 tỷ lệ này là hơn 1,4).
Do đó nguồn VHĐ trung, dài hạn không được tận dụng hết để cho vay, điều này làm ngân hàng phải chịu chi phí HĐV cao vì lãi suất tiền gửi loại kì hạn này cao hơn. Tuy nhiên có thể thấy nguồn VHĐ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn nguồn huy động trung, dài hạn. Điều này về lâu dài là không tốt bởi vì nhu cầu sử dụng nguồn vốn trung, dài hạn cho đầu tư, phát triển trong những năm tới tăng nhanh. Sự mất cân đối về cơ cấu thời hạn vốn tín dụng cũng như việc sử dụng vốn ngắn hạn để chovay trung, dài hạn có thể gặp nhiều rủi ro khi biến động lãi suất trên thị trường. Nguồn vốn trung, dài hạn về lâu dài có thể không đáp ứng để cho vay trung dài hạn chỉ là một giải pháp tình thế. Tuy nhiên nếu như không đảm bảo duy trì ổn định việc HĐV theo kế hoạch cũng như khả năng thu nợ không phù hợp với yêu cầu chi trả các khoản tiền gửi do chênh lệch về thời hạn có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán trên địa bàn quận khi ngày càng có nhiều các doanh nghiệp tư nhân hoạt dộng trong các ngành thủ công truyền thống, các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu du lịch… đang rất cần vố trung, dài hạn để phát triển sản xuất, đầu tư xây dựng… Vì thế khi cần giải ngân nguồn vốn trung, dài hạn có thể ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn với tỷ trọng lớn, như vậy sẽ không an toàn và mạo hiểm không đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững của ngân hàng.
2.4.3 Nguyên nhân.
2.4.3.1 Nguyên nhân khách quan.
Nền kinh tế còn chứa đựng những nhân tố bất ổn, biến động khó dự kiến về lạm phát, tỷ giá, lãi suất, phá sản… do đó tác động đến tâm lý của người gửi tiền. Việc gửi tiền của người dân chủ yếu là gửi tiền tiết kiệm có kì hạn ngắn bởi hình thức này dễ dàng chuyển đổi được mục đích sử dụng vốn sang các hình thức khác như mua vàn, ngoại tệ hay bất động sản… Vì thế việc HĐV trung, dài hạn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn và nguồn vốn không ổn định.
Do thị trường bất động sản gần đây bị “đóng băng”, nên phần lớn dân cư đầu tư vào lĩnh vực này không bán được hoặc thua lỗ, đọng vốn khiến nhu cầu gửi tiền tiết kiệm giảm đáng kể. Đây là một nguồn khó khai thác và gây lãng phí cho xã hội trong khi có nhiều dự án cần vốn đang phải chờ.
Lãi suất huy động không ngừng tăng do tác động của tỷ lệ lạm phát đã tác động đến tâm lý người gửi tiền. Mặt khác biên độ chênh lệch lãi suất giữa huy động và cho vay ngày càng thu hẹp.
2.4.2.2 Nguyên nhân chủ quan.
Chiến lược khách hàng còn nhiều bất cập. Trên thực tế hiện nay, khách hàng chủ yếu và truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước (nguồn VHĐ cũng tập trung vào đối tượng khách hàng này), nhu cầu gửi tiền chủ yếu là để thanh toán nên phần lớn là tiền gửi không kì hạn, ngân hàng không thể sử dụng được nhiều để cho vay. Tuy nhiên, đối tượng này lại đang là đích ngắm của các ngân hàng nưới ngoài. Với lợi thế về vốn, dịch vụ hiện đại và kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trong cơ chế thị trường nên các ngân hàng này chắc chắn có nhiều lợi thế hơn trong cuộc cạnh tranh lôi kéo khách hàng về phía mình. Trong khi đó ngân hàng lại chưa có một phòng ban riêng chuyên trách về nghiên cứu thị trường và khách hàng để đưa ra chiến lược thu hút khách hàng hiệu quả. Thậm chí đối với cả khách hàng truyền thống đã có quan hệ lâu dài, ngân hàng cũng chưa có biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút toàn bộ doanh số hoạt động tiền gửi của họ. Nhiều trường hợp khách hàng truyền thống của ngân hàng cũng có tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, do đó tiền gửi của khách hàng bị phân tán và nguồn huy động này bị san sẻ cho các ngân hàng khác. Dân cư, doanh nghiệp tư nhân có thu nhập cao nhưng không thường xuyên và có giá trị lớn nên không gửi tiền vào ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng chưa đáp ứng được tốc độ phát triển của thị trường. Hệ thống máy tính trong ngân hàng tuy đã được trang bị đầy đủ nhưng khả năng nối mạng ra các quỹ tiết kiệm còn yếu kém do đường truyền, dẫn đến cập nhật thông tin chưa kịp thời. Mặt khác do tốc độ phát triển của thông tin hiện nay rất nhanh nên các máy tính và thiết bị tin học nhanh chóng bị lạc hậu và lỗi thời, không đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhiều nghiệp vụ chưa có chương trình ứng dụng, hoặc chương trình đã quá lỗi thời nên vẫn phải làm theo phương pháp thủ công, nhiều nghiệp vụ phải thống kê bằng tay. Các thủ tục mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tuy có nhiều cải tiến nhưng còn nhiều hạn chế. Quan hệ gửi và lĩnh tiền của khách hàng với ngân hàng được thực hiện chủ yếu là trực tiếp.
Hình thức HĐV còn đơn giản, một số dịch vụ do ngân hàng cung cấp chưa thu hút được khách hàng. Mặc dù tăng cường các biện pháp HĐV nhưng nguồn vốn trung, dài hạn còn thấp so với nhu cầu vốn đầu tư trung, dài hạn; hình thức huy động chủ yếu là hình thức tiết kiệm truyền thống, một số công cụ tài chính cũng đang được sử dụng nhưng chủ yếu cũng chỉ là các chứng từ tiền gửi tiết kiệm dài hạn và trái phiếu. Thị trường cho việc phát hành và giao dịch các loại chứng khoán chưa phát triển nên những người có vốn không muốn đầu tư vào các GTCG dài hạn vì khó có thể chuyển đổi thành tiền mặt khi cần.
Dịch vụ ngân hàng mặc dù đã được mở rộng nhưng chưa đổi mới và thuận lợi đối với người dân nên các dịch vụ như gửi tiền một nơi, rút nhiều nơi, rút tiền bằng thẻ tự động ATM …chưa được sử dụng nhiều. Số lượng giao dịch qua ngân hàng còn hạn chế. Có nhiều trường hợp khách hàng mở tài khoản rồi để đó mà không sử dụng.
Nguồn nhân lực tại Chi nhánh còn thiếu so với nhu cầu công việc, chưa đáp ứng kịp thời do thay đổi mô hình tổ chức của các phòng ban, bố trí cán bộ để phù hợp với đề án Hiện đại hoá ngân hàng. Chi nhánh còn thiếu những cán bộ giỏi. Những nhà chuyên môn vẫn lúng túng trong xử lý công việc, thiếu tính chuyên nghiệp, đôi khi còn thiếu tính linh hoạt.
Bên cạnh đó ngân hàng còn thiếu tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển lâu dài và bền vững, thiếu những giải pháp nhạy bén và cương quyết, nhiều khi còn mang tính phiến diện dẫn đến là nhiều mảng công việc gần như bỏ trống và không có sự quan tâm thích đáng.
Tóm lại, trong những năm qua, NHCTTX đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện các nghiệp vụ và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng…Với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn bộ CBCNV trong chi nhánh, cùng với sự hỗ trợ của các cấp hữu quan, Chi nhánh đã đạt được những thành tích trong công tác nguồn vốn đặc biệt là công tác HĐV. Tuy nhiên, Chi nhánh còn nhiều hạn chế xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nguồn VHĐ, tạo ra một cơ cấu nguồn vốn ổn định và vững chắc, Chi nhánh phải nghiên cứu đề ra các biện pháp thiết thực, có tính khả thi hơn nữa để phát huy những thành công và hạn chế những tồn tại, tạo điều kiện cho sự phát triển an toàn hiệu quả.
Chương iii: giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn ở ngân hàng công thương thanh xuân.
3.1 Phương hướng hoạt động kinh doanh của NHCTTX trong năm 2006
Phương hướng chung:
Phát huy những kết quả đã đạt được trong những năm vừa qua, đồng thời
có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa để tiến tới một NHTM “hiệu quả - an toàn – phát triển bền vững” trong năm 2006, NHCTTX đã chỉ ra phương hứng hoạt động cho toàn chi nhánh như sau:
Đẩy mạnh công tác HĐV trong mọi tầng lớp dân cư và các TCKT.
Nghiên cứu và mở rộng thị phần HĐV, mạng lưới huy động của chi nhánh trên địa bàn. Trong năm 2006 tiến hành mở thêm phòng giao dịch ở những khu kinh tế trọng điểm.
Coi trọng chất lượng vốn tín dụng thông qua thâm nhập, tìm hiểu, lựa chọn khách hàng, dự án hiệu quả, phù hợp đủ điều kiện tín dụng để cho vay, phát huy tốt không có nợ quá hạn (nếu có thì đảm bảo tỉ lệ nợ quá hạn trong giới hạn Trung ương cho phép).
Bám sát mục tiêu phát triền kinh tế của quận ủy, HĐND, UBND quận để tăng khả năng phục vụ phát triển kinh tế trên địa bàn, đáp ứng nhu cầu vốn cho công cuộc CNH-HĐH của Đảng, Nhà nước và quận Thanh Xuân.
Tranh thủ sự lãnh đạo của Quận ủy, HĐNH, UBND, của NHCTVN và các ban ngành để tạo lập vị thế và tăng trưởng ổn định, phát triển vững chắc.
Thường xuyên đẩy mạnh phong trào thi đua, tăng sức mạnh đoàn kết giữa các tổ chức đoàn thể, động viên CBCNV tham ra phong trào thi đua, công tác đoàn thể. Tiếp tục phấn đấu giữ vững là đơn vị kinh doanh xuất sắc trong toàn hệ thống. Những mục tiêu phát triển được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu sau:
- Tăng trưởng tổng tài sản bình quân 20% so với 2005, đạt 4.186,6 tỷ đồng.
Tổng dư nợ tín dụng tăng 25% so với năm 2005, đạt 1.700 tỷ đồng.
Tỷ lệ nợ quá hạn chung nhỏ hơn 2%.
Dư nợ có tài sản đảm bảo hơn 65%.
Tỷ lệ dư nợ cho vay trung, dài hạn nhỏ hơn 45%.
Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh hơn 25%.
Chênh lệch thu chi vượt kế hoạch Trung ương giao 5 – 10%.
3.1.2 Kế hoạch phát triển nguồn vốn.
Khó khăn và trở ngại lớn nhất hiện nay cũng như trong các năm tới là
trong khi mạng lưới huy động còn mỏng, Chi nhánh phải cạnh tranh gay gắt với các TCTD. Với việc xác định công tác HĐV là nhiệm vụ trọng tâm, là điều kiện tiên quyết quyết định tăng trưởng và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, NHCTTX đã đề ra mục tiêu và các giải pháp sau để hoàn thành tốt kế hoạch HĐV năm 2006:
Thực hiện các giải pháp để thay đổi cơ cấu nguồn vốn phục vụ tốt hơn mục tiêu kế hoạch kinh doanh của Chi nhánh. Phấn đấu năm 2006 tăng nguồn VHĐ trung, dài hạn lên 50% trên tổng nguồn VHĐ (năm 2005 chỉ chiếm hơn 20%), nâng thị phần HĐV năm 2006 trên địa bàn lên 25%.
Duy trì và đa dạng hoá các hình thức huy động, vận dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, hợp lý với phương châm “đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và ngân hàng”.
Đồng thời với việc mở rộng mạng lưới huy động, Chi nhánh cần phát huy tốt hơn nữa tác phong giao dịch, thực hiện giao dịch hiện đại hoá, nhanh chóng, chính xác, tạo được lòng tin đối với khách hàng, trên cơ sở đó để phát triển vững chắc và ngày càng tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh.
Bảng 3.1: Kế hoạch tăng trưởng nguồn vốn năm 2006.Đơn vị: trđ.
Chỉ tiêu
Thực hiện 2005
Kế hoạch 2006
Tăng trưởng
Số tiền
%
Tổng nguồn vốn:
3.486.636
4.186.600
699.964
20
- Vốn huy động
1.680.153
2.100.000
419.847
25
- Ngắn hạn
1.095.820
1.270.600
174.180
16
- Trung, dài hạn
584.333
830.000
245.667
42
Nguồn: Phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2006
các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn.
3.2.1. Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn.
3.2.1.1. Tăng trưởng nguồn VHĐ theo hướng tăng tỷ trọng vốn trung, dài hạn.
Trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng vốn trung dài hạn trên địa bàn quận Thanh Xuân cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh là rất lớn, đấy là chưa kể nhu cầu ngày càng lớn của các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, kinh tế hộ gia đình... Do đó, NHCTTX cần nhanh chóng đưa ra những giải pháp nhằm cơ cấu lại nguồn VHĐ cho hợp lý, tăng cường và đẩy mạnh HĐV trung, dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
Để làm được điều này, NHCTTX cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thu hút tiền gửi trung, dài hạn từ các thành phần kinh tế:
Hiện nay, nguồn tiền gửi trung, dài hạn vào ngân hàng biến động không ổn định và giảm dần về tỷ trọng. Nguyên nhân là do khách hàng chưa thực sự tin tưởng để có thể gửi tiền dài hạn vào ngân hàng. Sổ tiết kiệm và các loại hình tiền gửi khác không có khả năng chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp. Chênh lệch lãi suất tiền gửi dài hạn và ngắn hạn chưa đủ sức hấp dẫn đối với người gửi tiền… Vì vậy, để thu hút tiền gửi trung dài hạn ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau:
+ Lành mạnh hoá, củng cố hệ thống ngân hàng, tạo niềm tin cho người dân để họ yên tâm gửi tiền dài hạn vào ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển HĐV trung, dài hạn - nguồn tiền rất cần thiết cho các dự án phát triển (vì nhiều khi lãi suất huy động cao cũng không thu hút được khách hàng gửi tiền vào ngân hàng do với một thời hạn dài thì rủi ro về vốn sẽ cao hơn, do đó người dân không dễ chấp nhận gửi hình thức này nếu ngân hàng không có được lòng tin của khách hàng).
+ Đa dạng hoá các hình thức gửi tiền, khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm. Riêng đối với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, áp dụng tiền gửi tiết kiệm có lãi và dự thưởng, tạo sự hấp dẫn với khách hàng. Mặt khác, ngân hàng nên áp dụng hình thức “đồng sở hữu tiết kiệm” và một số nội dung mới như cho phép chuyển nhượng sổ tiết kiệm, cho phép người gửi tiền hay chủ sở hữu sổ tiết kiệm uỷ quyền giao dịch, thế chấp sổ tiết kiệm được vay vốn với lãi suất ưu đãi…
Ngân hàng nên có biện pháp để mở rộng và “chứng khoán hoá” các loại tiền gửi trung, dài hạn, tạo tính lỏng cho các loại tiền gửi này để người sở hữu có thể chuyển đổi linh hoạt khi cần thiết.
Tăng nguồn VHĐ trung, dài hạn thông qua phát hành GTCG.
Đây được coi là giải pháp quan trọng và có tính lâu dài để tăng cường nguồn vốn trung, dài hạn cho ngân hàng. Ngân hàng nên tổ chức các đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi có kì hạn hơn 1 năm, đặc biệt là các chứng chỉ vô danh để tạo ra thị trường chứng chỉ tiền gửi thứ cấp, nhằm tăng tính thanh khoản cho loại công cụ này.
Phát hành trái phiếu dài hạn ra công chúng để tăng vốn cho ngân hàng. Mặt khác, để đảm bảo tính hấp dẫn của trái phiếu, ngân hàng nên điều chỉnh mức lãi suất cho phù hợp. Ví dụ như lãi suất của trái phiếu dài hạn có thể gồm 2 phần: (i) lãi suất cơ bản được tính theo lãi suất tiền gửi dài hạn của ngân hàng. (ii) lãi suất thưởng được trả thêm tuỳ theo tỷ suất lợi nhuận hàng năm mà ngân hàng đạt được.
Ngoài ra ngân hàng vẫn cần phải duy trì loại kì phiếu có đảm bảo bằng vàng và kì phiếu ngoại tệ. Tăng tính dễ chuyển đổi ra tiền mặt của các công cụ HĐV này để thu hút người dân.
Tuy nhiên, việc HĐV trung dài hạn thông qua phát hành GTCG phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu vốn và chi phí huy động (vì chi phí phát hành GTCG cao hơn so với các hình thức huy động khác) và cần có sự hỗ trợ từ phía NHNN, các cơ quan liên quan trong việc tạo môi trường và hành lang pháp lý cho việc phát hành công cụ HĐV này.
3.2.1.2. Tăng cường mở rộng các dịch vụ hỗ trợ huy động vốn.
Hoạt động HĐV không thể đạt hiệu quả cao nếu như không có các điều kiện hỗ trợ, đặc biệt là các dịch vụ khác của ngân hàng. Bởi vì hoạt động của ngân hàng mang tính hệ thống và có quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau phát triển. Để nâng cao hiệu quả HĐV, ngân hàng cần hoàn thiện và mở rộng các dịch vụ khác mà đặc biệt là dịch vụ thanh toán.
Việc hoàn thiện dịch vụ không chỉ làm cho ngân hàng giữ được khách hàng cũ mà còn thu hút khách hàng mới. Đối với mảng HĐV, cung cấp tốt các dịch vụ đi kèm có ý nghĩa quyết định đến quy mô và chất lượng tiền gửi của ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng nên tiếp tục phát triển và hoàn thiện các dịch vụ truyền thống như dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ… Riêng dịch vụ thanh toán phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, của nền kinh tế, đảm bảo chính xác, an toàn với tiện ích cao nhất, ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất và mở rộng các phương thức, hình thức thanh toán quốc tế hiện đại.
Cùng với việc hoàn thiện các dịch vụ hiện có, ngân hàng nên coi trọng việc phát triển các dịch vụ mới. Công tác này sẽ giúp ngân hàng thoả mãn được những nhu cầu phát sinh của khách hàng, từ đó tăng khả năng cạnh tranh, nâng vị thế, uy tín và hình ảnh của ngân hàng trên thị trường, giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ngoài các dịch vụ truyền thống như thanh toán, bảo lãnh… ngân hàng nên nghiên cứu triển khai và mở rộng các dịch vụ như tư vấn khách hàng, mở rộng hệ thống ATM…
Dịch vụ tư vấn: Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về cách thức
để xây sựng một dự án khả thi về quá trình sản xuất kinh doanh cũng như cung cấp thông tin cần thiết về lãi suất, tỷ giá, về quản lý tài chính khi khách hàng yêu cầu, qua đó giúp khách hàng giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình… Do vậy, dịch vụ tư vấn không chỉ đơn thuần là phục vụ khách hàng thanh toán mà qua nghiệp vụ này còn tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng, củng cố và tăng cưởng uy tín của ngân hàng, giúp ngân hàng HĐV hiệu qủa hơn.
Dịch vụ ATM: Trong điều kiện nền kinh tế còn sử dụng tiền mặt là chủ
yếu trong các giao dịch thanh toán thì dịch vụ này có khả năng đáp ứng nhu cầu về tiền mặt cho khách hàng mọi lúc, mọi nơi. Phát triển các loại hình thẻ giúp cho ngân hàng mở rộng đối tượng khách hàng với chi phí giao dịch thấp đồng thời khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt.
3.2.1.3 Hoàn thiện chính sách khách hàng.
Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng cũng như của khách hàng, trước hết ngân hàng cần có cơ chế, chính sách rõ ràng về khách hàng. Do đó, để mở rộng và đẩy mạnh công tác HĐV trước mắt cũng như lâu dài, NHCTTX cần có một chính sách khách hàng phù hợp. Trong thời gian tới, để xây dựng chiến lược này, NHCTTX nên chú trọng những vấn đề sau:
Phân loại khách hàng:
Việc xác định khách hàng theo từng nhóm nhằm mục tiêu quản lý, khai thác khách hàng có hiệu quả. Để chủ động trong hoạt động kinh doanh cũng như trong quản lý khai thác khách hàng, ngân hàng nên phân loại khách hàng theo nhóm sau:
Khách hàng thuộc nghiệp vụ HĐV của ngân hàng.
Khách hàng thuộc nghiệp vụ cho vay của ngân hàng.
Trong đó, khách hàng thuộc nghiệp vụ HĐV của ngân hàng bao gồm:
+ Khách hàng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ. Trong HĐV của ngân hàng, nguồn VHĐ từ các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng vì nguồn vốn này không phải trả lãi hoặc trả lãi rất thấp. Do vậy, rất có lợi cho ngân hàng khi dùng nguồn vốn này để cho vay. Mặt khác, ngân hàng còn tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong khâu thanh toán do dịch vụ ngân hàng tạo nên. Do đó, ngân hàng cần khai thác cho được các khách hàng là các doanh nghiệp đang có quan hệ với mình, phải làm cho khách hàng đó trở thành những khách hàng quen thuộc và có nguồn tiền gửi ổn định, thường xuyên.
+ Khách hàng là các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức đoàn thể trên địa bàn… Các đơn vị này có các khoản tiền gửi tại ngân hàng dưới hình thức tài khoản tiền gửi chuyên dùng và mục đích là lấy lãi. Do đó, ngân hàng cần khai thác tốt hơn nguồn vốn này và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị gửi tiền.
+ Khách hàng là các tầng lớp dân cư: Khi nền kinh tế tăng trưởng và phát triển thì nguồn thu nhập dưới hình thức tiền tệ của tầng lớp này sẽ tăng lên. Số thu nhập này phân tán trong dân cư và cũng là một nguồn vốn để ngân hàng huy động.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng.
Khách hàng vừa là người cung cấp vốn, vừa là người sử dụng vốn nên chính sách này có ý nghĩa rất quan trọng. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng giúp cho ngân hàng nắm vững được các thông tin liên quan đến khách hàng, từ đó có được các đối sách thích hợp để có thể đứng vững trong cạnh tranh. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp ngân hàng:
- Đánh giá đúng chất lượng khách hàng, tiết kiệm chi phí thẩm định kiểm tra đánh giá căn cứ vào số dư trên tài khoản của họ.
- Thu hút vốn để củng cố đầu vào nhằm mở rộng khả năng cung ứng vốn đầu ra theo đúng nhu cầu của khách hàng. Thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng có thể huy động được khối lượng lớn từ tiền gửi của khách hàng.
- Đề ra chính sách chiến lược kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kì và xu hướng biến động nguồn VHĐ trong tương lại để thích ứng với sự biến động của thị trường.
Những lợi ích của việc thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài sẽ tạo ra sự gắn bó chặt chẽ và có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng của ngân hàng. Điều này chỉ có thể đạt được khi ngân hàng xây dựng được một chính sách khách hàng hợp lý.
Thực hiện chính sách thu hút khách hàng thông qua khuyến khích
lợi ích vật chất.
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, để thu hút được nguồn vốn lớn nhàn rỗi của họ, ngân hàng phải có những ưu đãi đặc biệt khi họ mở tài khoản và sử dụng nó như cho phép họ có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán trọng một phạm vi nhất định, thường xuyên cung cấp thông tin cần thiết đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ với ngân hàng.
Hiện nay, để thu hút được tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp không phải dễ vì họ có rất nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường mà khoản lãi đem về lớn hơn khoản lãi khi họ gửi tiền vào ngân hàng. Vì vậy, muốn có được nguồn vốn này, trước hết ngân hàng cần đưa ra một chính sách lãi hấp dẫn, tạo những thuận lợi cho khách hàng khi họ có nhu cầu rút vốn trước hạn.
Trong điều kiện hiện nay, tiền gửi không kì hạn của TCKT nên trả lãi theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kì hạn và ngân hàng thu phí dịch vụ khi khách hàng có nhu cầu thanh toán. Trong tương lai, khi nghiệp vụ thanh toán phát triển, ngân hàng sẽ không trả lãi cho khoản tiền này, tuy nhiên sẽ không thu phí dịch vụ thanh toán.
Động viên, khuyến khích khu vực dân cư đẩy mạnh thanh toán thông qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.
Cung ứng đủ phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.
Cần có cơ chế chăm sóc khách hàng.
Ngân hàng cần duy trì khách hàng truyền thống, phát triển khách hàng mới về số lượng cũng nhu chất lượng. Chăm sóc khách hàng tốt có thể thu được nhiều lợi ích như: sự trung thành của khách hàng với ngân hàng nhờ được chăm sóc, khách hàng có điều kiện sử dụng được nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hơn và nâng cao hình ảnh tốt đẹp của ngân hàng.
3.2.1.4 Đa dạng hoá các kênh và hình thức huy động vốn tại chỗ.
Thực trạng hoạt động HĐV của NHCTTX hiện nay cho thấy các hình thức HĐV của ngân hàng còn rất đơn điệu. Trong thời gian tới, ngân hàng nên tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm HĐV, nâng cao hơn nữa tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài, cần đạt mục tiêu: bất kì cá nhân, tổ chức nào có nguồn tiền chưa sử dụng đều có thể tìm kiếm ở ngân hàng một loại hình hoạt động nào đó phù hợp với mong muốn của họ. Riêng đối với hình thức huy động tiết kiệm kì hạn truyền thống, cần sửa đổi theo hướng linh hoạt. Để làm phong phú thêm các loại HĐV, NHCTTX nên có những giải pháp nghiên cứu, triển khai và mở rộng các hình thức HĐV sau:
3.2.1.5 Mở rộng các hình thức tiền gửi tiết kiệm trong dân cư.
Việc mở rộng các hình thức tiền gửi tiết kiệm trong dân cư bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi sử dụng thẻ, trái phiếu, kì phiếu. Đa dạng hoá kì hạn tiền gửi tiết kiệm không kì hạn theo kiểu 3 tháng, 6 tháng, 1 năm… NHCTTX nên có giải pháp tự động chuyển số tiền gửi không kì hạn sang kì hạn bậc thang. Ví dụ như những người đã gửi tiền tiết kiệm không kì hạn ở ngân hàng từ 2 tháng trở lên thì có thể chuyển cho họ được hưởng quyền lợi của tiền gửi bậc thang. Kì hạn tiền gửi tiết kiệm có thể là 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 4 tháng… không cần theo quý, nửa năm hay 1 năm như hiện tại. Sự linh hoạt về thời hạn như vậy cũng là một sự hấp dẫn tiền gửi không kém gì việc tăng lãi suất…
áp dụng hình thức gửi tiền nhiều lần, lấy gọn một lần, tiết kiệm gửi góp, lãi suất tính theo từng lần gửi tiền. Trong hình thức này, người gửi tiền chỉ cần mở một tài khoản tại ngân hàng và có thể thường xuyên gửi tiền vào tài khoản đó khi có các khoản thu nhập muốn tích luỹ. Đây là một hình thức tương đối phù hợp với tình hình thu nhập của dân cư trên địa bàn bởi dân cư chủ yếu có thu nhập không cao, tiền tiết kiệm được hàng tháng thường là những món nhỏ, nếu gửi tiền tiết kiệm theo món như hiện nay thì không thuận lợi cho cả người gửi tiền và cho cả ngân hàng, chi phí sẽ tăng và chất lượng tiền gửi không cao. Do đó, nếu ngân hàng áp dụng các hình thức này sẽ dễ dàng hơn cho việc huy động các khoản tiết kiệm này của dân cư và cũng giúp người dân tích luỹ tiền.
- áp dụng loại tiết kiệm tuổi già và tiết kiệm tích lũy (hay tiết kiệm nhân thọ). Đây là hình thức tương tự như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Nhu cầu tiết kiệm này trong dân chúng là khá cao vì để đảm bảo được mức sống ổn định sau này thì tất nhiên phải tiết kiệm từ bây giờ. Nếu như ngân hàng triển khai và áp dụng được hình thức này thì không những tăng thêm nguồn vốn cho ngân hàng mình mà nó còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
- Hình thức tiết kiệm mua sắm, nhà ở: Những người dân có nhu cầu mua sắm, xây nhà, mua nhà nhưng nguồn tài chính có hạn, sẽ gửi tiền tích luỹ vào ngân hàng đến lúc nào đó rút ra để mua sắm, mua hoặc xây nhà. Với hình thức này, ngân hàng nên có chính sách cho vay ưu đãi đối với những người gửi tiền thường xuyên, đều đặn và có quy mô đến một độ lớn nào đó thì có thể vay thêm với lãi suất ưu đãi. Bằng cách kết hợp lợi ích của người dân với lợi ích của ngân hàng như vậy sẽ mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp cho hình thức huy động này.
- Phát huy các hình thức huy động tiết kiệm khác như gửi một nơi, rút tiền nhiều nơi, tiết kiệm bảo đảm giá trị, bảo hiểm tỷ giá nhằm tạo một cơ cấu tiền gửi tiết kiệm hoàn thiện và hiệu quả hơn trong tương lai.
3.21.6 Đa dạng hoá các loại tiền gửi của TCKT
Đối với TCKT, ngoài các loại tiền gửi truyền thống đã và đang thực hiện cần mở rộng một số hình thức khác như tài khoản vãng lai, tài khoản tiền gửi thanh toán không hưởng lãi, phát triển các loại tiền gửi vừa phong phú về tính chất, nội dung kinh tế vừa đa dạng về kì hạn và lãi suất. Ngân hàng cần tạo tiện ích tối đa để thu hút khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn và vùng lân cận có quan hệ thanh toán với ngân hàng. Đây sẽ là nguồn tiền gửi mang lại hiệu quả cao trong hoạt động thanh toán – huy động – cho vay của ngân hàng.
Tài khoản tiền gửi vãng lai cho phép khách hàng chi tiêu vượt qua số dư tiền gửi tới một hạn mức nhất định. Nó là một loại tiền gửi đồng thời là một khoản cho vay đối với khách hàng. Việc mở ra loại tài khoản này sẽ góp phần thu hút khách hàng, đặc biệt là các TCKT , làm mở rộng hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên để hạn chế rủi ro, hình thức này chỉ nên áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tiền gửi ổn định, thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng.
3.2.1.7. Mở rộng mạng lưới huy động vốn.
Trong thời gian tới, để nâng cao vị thế cạnh tranh của NHCTTX nói
chung và nâng cao hiệu quả HĐV nói riêng, ngân hàng cần nhanh chóng mở thêm phòng giao dịch ở các khu thương mại, dịch vụ, khu công nghiệp, khu thị tứ đông dân… vì nhu cầu gửi và vay vốn ở đó là rất cao.
Việc mở rộng mạng lưới một cách phù hợp nhất là ở các khu vực nói trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung ứng vốn và làm dịch vụ trọn gói cho các doanh nghiệp, do đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng và mở rộng thị phần HĐV.
Chi nhánh NHCTTX cũng nên có kế hoạch xây dựng và triển khai kế hoạch hợp tác với những tỉnh lân cận để khai thác tiềm lực về vốn ở bên ngoài nhằm mở rộng mạng lưới khả năng HĐV.
3.2.1.7. ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ huy động vốn.
Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống mạng cục bộ tại Chi nhánh.
Nghiên cứu, thiết kế và xây dựng chiến lược triển khai ứng dụng công nghệ viễn thông hiện đại, phù hợp, đảm bảo phục vụ hiệu quả việc triển khai các ứng dụng và dịch vụ ngân hàng.
ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tất cả các nghiệp vụ của
ngân hàng. Đặc biệt ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cấp và hoàn thiện dịch vụ thanh toán theo hướng hiện đại hoá ngân hàng, tạo nền tảng cơ sở kỹ thuật vững chắc nhằm nhanh chóng mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư, góp phần tăng cường số dư tiền gửi tại ngân hàng, tăng trưởng nguồn VHĐ cho ngân hàng.
Nhanh chóng tự động hệ thống kế toán khách hàng trên cơ sở tập
trung hoá tài khoản khách hàng và ứng dụng kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất nhằm phát triển các giải pháp, mở rộng các dịch vụ ngân hàng như ATM, thanh toán Séc…
Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin vững chắc cho các hoạt
động ngân hàng. Duy trì hoạt động, ổn định hệ thống thanh toán điện tử liên ngành ngân hàng với các NHTM khác trên địa bàn và trong cùng hệ thống. Ưu tiên đầu tư kinh phí cho công tác hiện đại hoá ngân hàng một cách hiệu quả cả trên phương diện nghiên cứu ứng dụng và trang thiết bị.
Nâng cao trình độ và khả năng về tin học cho đội ngũ CBCNV trong
ngân hàng để quản lý hệ thống, đảm bạo sự vận hành trôi chảy và liên tục trong hệ thống cũng như thực hiện được việc phát triển và cải tạo hệ thống một các chính xác, an toàn. Ngoài ra hệ thống quản lý ngân hàng cần có kiến thức và trình độ nhất định để khai thác và sử dụng công nghệ hiện đại, được áp dụng tại ngân hàng mình.
Con người bao giờ và ở đâu cũng giữ vai trò quan trọng nhất, quyết
định đến sự tồn tại, phát triển của bất cứ một TCKT hay một thể chế xã hội nào. NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ đầy rủi ro, với chức năng cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nên yếu tố con người ngày càng được đề cao và có ý nghĩa chiến lược sống còn. Do đó, NHCTTX cần có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực phù hợp nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ thành thạo về chuyên môn, có kiến thức tổng hợp sâu rộng, có khả năng phân tích và dự đoán xu hướng thay đổi của môi trường kinh tế, đáp ứng được nhu cầu công việc cụ thể như :
- Đào tạo tại chỗ nhằm nâng cao trình độ và nhận thức cho CBCNV để đối mới phong cánh, lề lối làm việc, năng động hơn, công nghiệp hơn và hiệu quả hơn. Đồng thời nâng cao chất lượng tuyển dụng, đảm bảo dung nạp thêm những cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực chuyên môn, nhiệt tình và có trách nhiệm trong công việc.
- Hiện nay, đội ngũ cán bộ nhân viên tại Chi nhánh nói chung và cán bộ HĐV nó riêng đều có trình độ đại học nhưng tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, thiếu sự am hiểu về các lĩnh vực kinh doanh với khách hàng. Vì thế, Chi nhánh cần thường xuyên có thêm các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu để nâng cao năng lực nghề nghiệp, có sự hiểu biết hơn về các lĩnh vực khác như Marketing, pháp luật, ngoại ngữ, tin học…
- Cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn của NHNN, NHCTVN, của Chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ… nhằm nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, điều hành cũng như nắm bắt, cập nhật văn bản pháp quy, thông tư, nghị định của các cấp có thẩm quyền. Thêm vào đó phải không ngừng khuyến khích tạo điều kiện cho CBCNV học tập ngoài giờ bằng các chính sách thiết thực như hỗ trợ học phí, cắt giảm bớt khối lượng công việc. Tuy nhiên, đào tạo cần tập trung theo trọng điểm, đào tạo một cách toàn diện, tránh đào tạo một cách tràn lan, lãng phí thời gian và năng lực.
- Thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, khuyến khích các bài tham luận về những vướng mắc khó khăn hay kinh nghiệm quý báu, thiết thực trong quá trình thực hiện nghiệp vụ HĐV, góp ý về những mặt yếu kém của Chi nhánh để từ đó lãnh đạo cập nhật được những tâm tư nguyện vọng của nhân viên, tập hợp được nhiều ý kiến đề xuất, đưa ra những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác HĐV.
- Cung cấp đầy đủ sách báo, tạp chí, nối mạng Internet để tạo điều kiện cho nhân viên đặc biệt là cán bộ HĐV mở rộng kiến thức tổng hợp về kinh tế - chính trị - xã hội. Từ đó có được cái nhìn toàn diện, khoa học, biện chứng trong công tác phân tích, thẩm định về khách hàng, về tài chính để đưa ra được những quyết định HĐV chính xác và đúng đắn nhất.
- Bố trí cán bộ hợp lý, đúng người đúng việc để CBCNV của ngân hàng có thể phát huy được những thế mạnh của mình nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh. Đặc biệt chú trọng lựa chọn và phân công chuyên môn đối với cán bộ HĐV, cán bộ kế toán để nâng cao chất lượng nguồn VHĐ.
Ban lãnh đạo NHCTTX cần có một chế độ đãi ngộ hợp lý, không chỉ trong việc tạo điều kiện nâng cao kiến thức cho CBCNV mà còn nên có cơ chế khuyến khích vật chất hợp lý hơn nhằm hỗ trợ và tạo động lực cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ HĐV nói riêng làm việc hăng say và hiệu quả hơn.
3.2.1.8. Đổi mới tác phong giao dịch, thực hiện giao dịch hiện đại hoá.
Cải tiến quy trình giao dịch
Trong quy trình giao dịch với khách hàng, ngân hàng phải có sự đổi mới rút ngắn các thủ tục thanh toán, hạn chế khách hàng qua nhiều cửa nếu muốn gửi hay rút tiền. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng ngoài mục đích tiết kiệm, an toàn và sinh lời họ cũng quan tâm đến sự đơn giản, nhanh chóng trong các thủ tục. Nếu thủ tục rườm rà, phải chờ đợi lâu sẽ gây tâm lý phiền hà khi đến giao dịch. Do đó để nâng cao hiệu quả HĐV, ngân hàng phải cải cách thủ tục rõ ràng, đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn phải đảm bảo, chính xác, an toàn và tiết kiệm thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.
Trong thời gian tới, NHCTTX cần có bước cải tiến hơn nữa trong việc lập các chứng từ, mẫu biểu sao cho dễ dàng, thuận tiện, đảm bảo tính pháp lý, an toàn tài sản cho cả ngân hàng và khách hàng
Đổi mới tác phong giao dịch.
Đội ngũ cán bộ ngân hàng là những người cung ứng trực tiếp sản phẩm dịch vụ ra thị trường đồng thời là người giải quyết các mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Do dó dưới con mắt khách hàng thì đội ngũ cán bộ này là người đại diện cho cả ngân hàng. Như vậy, đổi mới tác phong giao dịch trong HĐV là việc làm cần thiết. Các nội dung đổi mới tác phong giao dịch như:
- Cung cách phục vụ nhanh chóng, chính xác, tận tình, chu đáo, giải quyết công việc sáng tạo, nắm bắt nhanh và am hiểu khách hàng.
- Nắm vững nhiệm vụ và thao tác nghiệp vụ của bản thân mình, của bộ làm việc, cùng nhau hỗ trợ để giải quyết công việc nhanh chóng, an toàn, hiệu quả.
- Mỗi kế toán viên không chỉ thực hiện nghiệp vụ đơn lẻ mà phải biết kết hợp thực hiện nhiều công việc giao dịch để đáp ứng nhu cầu khách hàng nhanh nhất và an toàn nhất.
- Biết lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, hướng dẫn khách hàng đầy đủ các thủ tục cần thiết, không được tự động đặt ra các yêu cầu gây phiền hà cho khách hàng.
- Mỗi nhân viên là những người Marketing tốt nhất Họ là người trực tiếp giao dịch với khách hàng nên luôn tận dụng cơ hội để quảng bá, giới thiệu về ngân hàng mình, để hình ảnh của ngân hàng gắn bó hơn với khách hàng.
Mở rộng và tăng cường các hoạt động Marketing.
NHCTTX cần đẩy mạnh và phát triển hoạt động tuyên truyền, quảng bá thường xuyên, liên tục hơn nữa để công chúng có thể biết nhiều hơn về lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng so với việc cất giữ hoặc đầu từ vào các lĩnh vực khác nếu không có chuyên môn. Các hình thức quảng cáo cần được áp dụng như đài truyền hình, phát thanh, các tạp chí chuyên ngành, phát tờ rơi, báo điện tử… Ngoài ra, NHCTTX cũng nên sử dụng các hình thức khuyến mại, tác động trực tiếp vào tâm lý khách hàng, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và khách hàng.
3.3 điều kiện để thực thi các giải pháp trên.
Thành công phát triển = Vốn + Công nghệ (hợp lý +Môi trường thuận lợi.
Trong những năm qua NHCTTX đã nỗ lực cố gắng để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Để tiếp tục đảm đương và phát huy được vai trò quan trọng của mình, ngân hàng cần có một môi trường thuận lợi cho việc HĐV, môi trường đó chỉ có được từ sự hỗ trợ, tạo điều kiện từ phía Nhà nước, từ phía NHNN và hệ thống NHCTVN. Cụ thể như sau:
3.3.1 Đối với Chính phủ:
Chính phủ cần tiếp tục đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, sự nhất quán trong chính sách mở cửa với bên ngoài. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, các quy định về ngân hàng phải đồng bộ, phải phù hợp giữa văn bản pháp luật về hoạt động ngân hàng với văn bản pháp luật liên quan như luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật thuế… Chính phủ cũng cần hoàn thiện hệ thốnng các văn bản pháp lý trong nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt là hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp đến việc đổi mới nghiệp vụ cho phù hợp với quá trình cơ cấu lại ngân hàng nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh, làm nền tảng cho việc phát huy các mặt nghiệp vụ của NHTM.
Chính phủ cần chỉ đạo linh hoạt và cụ thể hơn nữa trong hoạt động nguồn vốn của NHTM. Riêng đối với nguồn vốn trung, dài hạn Chính phủ cần có những chỉ đạo và điều hành vĩ mô đảm bảo tính quy luật của lãi suất trong cơ chế thị trường để nó điều tiết quan hệ cung cầu và phản ánh cung cầu vốn trên thị trường, nhất là trong điều kiện nhu cầu vốn trung, dài hạn của nền kinh tế đang rất khẩn trương.
Bộ Tài chính nên có những giải pháp khuyến khích HĐV trung, dài hạn từ phát hành GTCG của NHTM (đặc biệt là trái phiếu dài hạn) như: cho phép các NHTM được áp dụng chế độ lãi suất bán linh hoạt (thả nổi một phần theo tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng để tăng khả năng hấp dẫn của trái phiếu hay là miễn thuế thu hấp đối với lợi tức được hưởng từ trái phiếu).
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước.
NHNN nên linh hoạt hơn nữa các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được xem xét điều chỉnh giảm. NHNN hoàn thiện và phát triển một bước thị trường tiền tệ, vận hành linh hoạt hơn thị trường mở với khối lượng linh hoạt hơn. Đây là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn nước ta trong thời gian tới cũng như tăng cường HĐV vào hệ thống NHTM.
NHNN đưa ra các giải pháp thúc đẩy hoạt động của thị trường vốn, liên kết chặt chẽ các thị trường này với nhau, cụ thể bao gồm:
- Cải cách và hoàn thiện thị trường tín dụng theo hướng đa dạng hoá hình thức gửi tiền và hình thức cho vay.
- Nâng cấp thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng tạo thêm tiềm lực về vốn bằng VNĐ cho các NHTM thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ.
- Thị trường tín phiếu – mua bán các tín phiếu kho bạc hoặc tín phiếu NHTM: NHTM có thể HĐV ngắn hạn thông qua thị trường này. NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trong điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, chỉ đạo lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc linh hoạt hơn để đưa khối lượng lớn tín phiếu kho bạc ra đấu thầu.
- Thị trường chứng khoán: đây là hình thức hoạt động cao nhất của thị trường vốn dài hạn. Trước mắt cũng như lâu dài, NHNN cần phối hợp với Uỷ ban Chứng khoán quốc gia để đưa ra những định hướng và giải pháp cho sự phát triển của thị trường này, qua đó tạo ra một kênh HĐV lớn cho các NHTM.
NHNN cũng cần có chính sách khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại, đẩy mạnh triển khai dự án hiện đại hoá công nghệ thanh toán, hoàn thành và đưa vào vận hành các tiểu dự án thuộc dự án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Nghiên cứu và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, khuyến khích các NHTM tăng cường mở rộng dịch vụ ngân hàng và khuyến khích các TCTD tăng cường HĐV trung, dài hạn.
3.3.3 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Đề nghị NHCTVN tạo điều kiện giúp đỡ Chi nhánh mở rộng mạng lưới HĐV để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng, tạo điều kiện để Chi nhánh phấn đấu trở thành doanh nghiệp hạng I.
Đề nghị NHCTVN tạo điều kiện hỗ trợ vốn trung, dài hạn để đầu tư cho vay phát triển các chương trình kinh tế lớn của Thành phố, đảm bảo phù hợp chiến lược phát triển kinh tế lâu dài.
NHCTVN cần có kế hoạch xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng cho các nghiệp vụ HĐV, tính lãi suất đầu vào, đầu ra, thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ tự động qua mạng để đảm bảo trạng thái ngoại hối của Chi nhánh.
Đề nghị NHCTVN tạo điều kiện hỗ trợ bổ sung thêm nguồn vốn nội tệ cho Chi nhánh đầu tư phục vụ các chương trình phát triển kinh tế địa phương, trong đó chú trọng nguồn vốn trung, dài hạn hay cho các dự án trọng điểm của Thành phố.
NHCTVN cần có chính sách phát triển nguồn lực, tăng cường đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, đặc biệt là lực lượng trẻ.
3.3.4 Đối với Ngân hàng Công thương Thanh Xuân
Cần có chính sách khen thưởng hợp lý, kịp thời nhằm khuyến khích CBCNV đạt kết qủa tốt trong công tác.
Tổ chức, bố trí cán bộ làm việc đúng chuyên môn, năng lực nhằm phát huy tối đa hiệu quả của từng cán bộ trong ngân hàng.
Thường xuyên chỉnh trang, nâng cấp lại trụ sở cũng như cơ sở vật chất nhằm tạo được một nơi giao dịch khang trang, sạch sẽ, lịch sự …để tạo ấn tượng tốt với khách hàng.
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng HĐV là mục tiêu, định hướng phát triển của NHCTTX, trong chương III, em đã đề ra một số biện pháp cũng như kiến nghị để góp phần mở rộng, nâng cao chất lượng nguồn VHĐ của ngân hàng. Em tin rằng nếu những giải pháp này được thực hiện tích cực, đồng bộ và có những điều kiện thực thi thì chắc chắn sẽ đem lại kết quả cao trong thực tế.
Kết Luận
Bước sang năm 2006, hoạt động của hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc. Sự phát triển của nền kinh tế và của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam hiện nay đã làm cho môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng nói riêng và giữa các chủ thể trong nền kinh tế nói chung càng trở nên gay gắt. Trong bối cảnh đó, để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngày càng đa dạng thì việc mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác HĐV là tất yếu.
Từ nhận thức về vai trò quan trọng của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và qua quá trình thực tập tại Chi nhánh NHCTTX, với sự giúp đỡ tận tình của cán bộ Phòng khách hàng cá nhân, Phòng Khách hàng doanh nghiệp, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác HĐV ở NHCTTX.
Tuy nhiên, do sự nhận thức về lý luận còn nhiều hạn chế và chưa có kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực tập nên em đã không tránh khỏi những thiếu sót trong đề tài. Em kính mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân hàng để em có thể hoàn thiện chuyên đề được tốt hơn.
Cuối cùng, em xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo, Phòng tổ chức, Phòng khách hàng cá nhân – Phòng khách hàng doanh nghiệp và các phòng ban khác của NHCTTX đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đợt thực tập. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn Nghiệp vụ ngân hàng đặc biệt là cô giáo Phạm Ngọc Huyền đã giúp đỡ em trong quá trình học tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
ý kiến nhận xét của giáo viên phản biện
Tên đề tài: Giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn tại Ngân hàng
Công thương Thanh Xuân.
Sinh viên thực hiện: Trần Diệu Thuý.
Lớp : K28C
ý nghĩa của đề tài: ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………Thành công của đề tài:
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
Hạn chế của đề tài:
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
Đánh giá chung:
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
Điểm: …………….Số:……………………Chữ:……………………………..
Ngày ……tháng……năm 2006
Giáo viên chấm
Tài liệu tham khảo
Luật các tổ chức tín dụng năm 2004.
Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại – Học viện tài chính năm 2005
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Thanh Xuân năm 2003 – 2005.
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan bản chuyên đền này là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề là trung thưc, có nguồn gốc rõ ràng và xuất phát từ tình hình thực tế tại đơn vị thực tập.
Sinh viên thực tập
Trần Diệu Thúy
Bảng chữ viết tắt
NHTM: Ngân hàng Thương mại.
NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
NHTW: Ngân hàng Trung Ương.
NHVTCD: Ngân hàng Công thương Thanh Xuân
CBCNV: Cán bộ công nhân viên.
VHĐ: VHĐ.
HĐV: HĐV.
TCTD: Tổ chức Tín dụng.
TCKT: Tổchức kinh tế.
NSNN: Ngân sách Nhà nước.
CHXHCNVN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Danh mục bảng, biểu đồ
Trang
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công
thương Thanh Xuân từ năm 2003 – 2005.
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Công thương Thanh
Xuân từ năm 2003 – 2005.
Bảng 2.3: Nguồn vốn huy động theo hình thức huy động vốn.
Bảng 2.4: Cơ cấu vốn huy động từ tiền gửi của Ngân hàng Công
Bảng 2.5: Nguồn vốn huy động do phát hành giấy tờ có giá năm
2003 – 2005.
Bảng 2.6: Nguồn vốn huy động phân loại theo thời hạn từ năm
2003 – 2005.
Bang 2.7: Nguồn vốn huy động theo loại tiền tệ
Bảng 2.8: Mối quan hệ giữa huy động vốn và cho vay theo thời hạn.
Bảng 3.1: Kế hoạch tăng trưởng nguồn vốn năm 2006
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32779.doc