Trong mọi nền kinh tế, dù được gọi bằng những tên khác nhau thì cái đích cuối cùng mà những người làm kinh doanh muốn hướng tới chính là lợi nhuận. Cơ chế thị trường với những quy luật của nó đã trở thành động lực buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải làm ăn có hiệu quả, tức là hoạt động kinh doanh có lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả của việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất.
Công ty Dệt kim Đông Xuân ra đời trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Song với sự động viên giúp đỡ của Tổng công ty Dệt may Việt Nam và sự cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên, Công ty đã vươn lên trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong ngành dệt may. Tuy nhiên để có thể đạt được thành tích cao hơn nữa, Công ty còn phải nỗ lực rất nhiều trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Nắm bắt được ý nghĩa trên, những nghiên cứu trong chuyên đề này đề cập tới những điểm mấu chốt sau:
78 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 715 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh ngày càng khó khăn như hiện nay thì đây là điều mà công ty cần phải quan tâm giải quyết. Do được trang bị máy móc thiết bị hiện đại cũng như trình độ tay nghề công nhân cao nên Công ty chuyển sang sản xuất chủ yếu theo kiểu "mua đứt bán đoạn" và giảm dần tỷ trọng gia công hàng xuất khẩu.
Xét trên tổng thể, so với năm 2001 thì tổng doanh thu năm 2002 tăng 2.305 triệu hay 2,82 % thấp hơn nhiều so với mức tăng của năm 2001 so với năm 2000 (6,68%).
b. Do các khoản giảm trừ thay đổi:
Giảm giá hàng bán: Như đã trình bày trong phần lý luận, có 2 nguyên nhân dẫn đến giảm giá là do sự yếu kém của Công ty hoặc là biện pháp nhằm kích thích khách hàng (bớt giá, hồi khấu). Sản phẩm của Công ty Dệt kim Đông Xuân có chất lượng cao và uy tín trên thị trường trong nước cũng như quốc tế nên có thể loại trừ lý do thứ nhất. Vấn đề là phải xác định mức giảm giá hợp lý để không làm ảnh hưởng tới lợi nhuận của Công ty.
Hàng bán bị trả lại: sang năm 2002 do rút kinh nghiệm của những năm trước, công ty đẫ sản xuất theo đúng tiêu chuẩn đơn đặt hàng của khách hangf nên không còn sự cố hàng bán bị trả lại.
c. Thuế GTGT : Thuế GTGT là loại thuế gián thu, đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưu thông đến tiêu dùng . Bắt đầu từ 1/1/1999 nước ta chuyển thuế doanh thu thành thuế giá trị gia tăng (VAT). VAT chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ sau mỗi khâu luân chuyển, do đó không bị tính trùng và khắc phục được hạn chế của thuế doanh thu trước đây. Cách tính VAT:
VAT phải nộp = VAT đầu ra - VAT đầu vào.
Do không phải tính VAT cho hang hoá xuất khẩu cũng như số hàng hoá mà công ty nhận gia công cho phía nước ngoài nên trong năm 2002 vì doanh thu xuất khẩu giảm trong khi doant thu tiêu thụ trong nước lại tăng lên. Do đó VAT phẩi nộp trong năm 2002 cao hơn năm 2001 một lượng là
d. Do giá vốn hàng bán thay đổi:
Giá vốn hàng bán là một trong những nhân tố quan trọng, chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá vốn hàng bán càng thấp thì lợi nhuận càng cao và ngược lại. Tốc độ tăng của giá vốn hàng bán năm 2002 so với năm 2001 đạt 1,59%, trong khi đó tốc độ tăng của tổng doanh thu cao hơn ( 2,82%),. Theo chế độ tài chính hiện hành, giá vốn hàng bán được tổng hợp từ ba khoản mục chính: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Bảng 5: Các khoản mục chính trong giá vốn hàng bán
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
Chênh lệch
2002 / 2001
Mức
Tỷ lệ%
Mức
Tỷ lệ%
Mức
Tỷ lệ%
1. CPNVLTT
47.416
71,74
50.222
70,07
2.806
5,92
2. CPNCTT
9.278
14,04
11.706
16,33
2.428
26,17
3. CPSXC
9.402
14.22
9.751
13,6
349
3,71
4. Tổng hợp
68.8293
100
69.925
100
1.096
1,59
Nguồn: Báo cáo quyết toán 2001, 2002 - Công ty Dệt kim Đông Xuân
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: So với năm 2001, chi phí cho nguyên vật liệu năm 2002 tăng 2.806.000.000 đồng, đạt 105,92%. Xét về số tuyệt đối, đây là khoản mục tăng lớn nhất trong giá vốn hàng bán và cũng là khoản mục có tác động lớn nhất tới lợi nhuận.
Chi phí nguyên vật liệu phụ thuộc vào hai yếu tố là giá mua nguyên vật liệu và định mức tiêu hao vật liệu/sản phẩm.
Bảng giá một số nguyên vật liệu chính hầu như không biến động chứng tỏ giá nguyên vật liệu năm 2002 không thay đổi mấy so với năm 2001. Đây cũng là một lợi thế đối với Công ty Dệt kim Đông xuân bởi nguồn đầu vào tương đối ổn định.
Bảng 6: Giá mua một số nguyên vật liệu chính
Đơn vị: đồng
Nguyên vật liệu
Đ.vị
2001
2002
Chênh lệch
Mức
Tỷ lệ
1. Sợi Mitsubisi 30s/1
Kg
39.744
39.744
0
100
2. Sợi chun 40D Singapo
Kg
343.739,99
343.739,99
0
100
3. Chỉ mút
Cuộn
7.224
7.223
-1
-0,014
4. Khoá nẹp
Kg
8000
8000
0
100
5. Nhãn các loại
Cái
40,07
40,07
0
100
6. Chỉ Astra 322
Cuộn
16.455,70
16.455,75
0,05
3,038
7. Hoá chất in hoa Galakon Zold
Kg
682,98
682,90
-0,08
-0,012
Nguồn: Công ty Dệt kim Đông Xuân
Ta hãy xét định mức tiêu hao một số nguyên liệu chính trong sản phẩm của Công ty như sau:
Bảng 7: Định mức tiêu hao nguyên liệu chính
Đơn vị: gam
Mã hàng
Tiêu hao sợi
Chênh lệch
Tiêu hao chỉ
Chênh lệch
KH
TT
Mức
Tỷ lệ
KH
TT
Mức
Tỷ lệ
DR41
164,5
164
-0,5
-0,3
1,5
1,5
0
0
DR42
161,5
161,8
0,3
0,19
2,5
2,5
0
0
DC48
126,5
126,7
0,2
0,16
2,5
2,5
0
0
DC44
126
126
0
0
2,01
2
-0,01
0,5
DR16
45,1
45
-0,1
-0,22
2,98
3
0,02
0,67
DC11
169,5
170
0,5
0,29
1,5
1,5
0
0
DC12
160,5
160
-0,5
-0,31
3,48
3,5
0,02
0,57
Nguồn: Công ty Dệt kim Đông Xuân
Nhìn bảng dưới đây có thể thấy định mức tiêu hao nguyên liệu kế hoạch của Công ty tương đối sát với thực tế, chỉ chênh lệch không quá 0,7%. Điều này là do trình độ tay nghề của công nhân tương đối cao kết hợp với dàn máy móc hiện đại nên đã tiết kiệm được nguyên vật liệu.
Vì giá nguyên vật liệu chính hầu như không tăng và định mức tiêu hao nguyên vật liệu cũng sát với thực tế nên có thể kết luận rằng chi phí nguyên vật liệu tăng do nguyên nhân khách quan là sản lượng sản xuất của Công ty tăng nên cần nhiều nguyên liệu hơn,
- Chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm toàn bộ tiền lương, tiền công, tiền thưởng, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất.
Tỷ suất lợi nhuận theo lao động (LNST/Tổng chi phí tiền lương) năm 2001 là 7,44%, năm 2002 là 7,01%. Năm 2002, tốc độ tăng của quỹ lương (23,41%) nhanh hơn tốc độ tăng của giá trị sản lượng sản phẩm (7,98%). Có hai lý do để giải thích việc này: hoặc là việc quản lý và sử dụng lao động của Công ty kém hiệu quả hơn hoặc là Công ty chấp nhận giảm lợi nhuận để nâng cao đời sống người lao động.
Tiền lương bình quân của công nhân trực tiếp sản xuất năm 2002 là 965.500 đồng, như vậy là tăng 130.800 đồng tức tăng 16,46% so với năm 2001.
Cụ thể ta xem bảng sau:
Bảng 8: Tiền lương của cán bộ công nhân viên Công ty Dệt kim Đông xuân
Chỉ tiêu
Đơn vị
2001
2002
Chênh lệch
Mức
Tỷ lệ
1. Giá trị sản lượng sản phẩm
Tr. đồng
76.621
82.736
6.115
7,98
2. Số công nhân trực tiếp sản xuất
Người
1.015
1.019
4
0,39
3. Số cán bộ quản lý
Người
112
112
0
0
4. Giá trị sản lượng bình quân
Tr. đồng
86,99
92,15
5,16
5,93
5. Tiền lương bình quân của công nhân trực tiếp sản xuất
Đồng
855.700
986 500
130.800
15,28
6.Tiền lương bình quân của cán bộ quản lý
Đồng
888.000
995.500
107.500
12,15
7. Tổng quỹ lương
Tr. đồng
13.264
15.667
2.403
18,11
Nguồn: Công ty Dệt kim Đông Xuân
- Chi phí sản xuất chung: bao gồm các khoản chi phí cho hoạt động sản xuất chung ở các xí nghiệp. ở đây ta chỉ xét 2 yếu tố:
+ Tiền lương của cán bộ quản lý: Dựa vào bảng 8 ta có thể thấy rằng tiền lương của cán bộ quản lý tăng lên với tốc độ tương đối nhanh (12,15%). Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Công ty là nếu muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đạt năng suất cao, muốn giữ được các cán bộ, công nhân có trình độ cao ở lại với Công ty thì phải không ngừng nâng cao mức sống của họ. Và hiện nay thu nhập bình quân người lao động tại Công ty Dệt kim Đông xuân đứng thứ hai trong các doanh nghiệp dệt ở phía Bắc.
Vì lý do trên, Công ty đã chọn con đường giảm bớt lợi nhuận. Tuy nhiên đây không phải là một biện pháp lâu dài. Công ty cần điều chỉnh các tỷ lệ tăng trưởng một cách hợp lý để đạt hiệu quả tối ưu.
+ Khấu hao tài sản cố định: Khấu hao TSCĐ năm 2002 là 4.651.927.246 đồng; năm 2001 là 4.777.047.870, tức là giảm 125.120.624 đồng,.
e. Do chi phí nghiệp vụ kinh doanh thay đổi:
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí bán hàng năm 2002 giảm 55.000.000 đồng so với năm 2001, còn chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 144.000.000 đồng (tương đương 3,12%). Tuy chi phí nghiệp vụ kinh doanh năm 2002 tăng so với năm 2001 nhưng vẫn thấp hơn mức năm 2000. Đó đã là một nỗ lực của Công ty, tuy nhiên vẫn cần cố gắng xem xét để có thể giảm khoản mục này xuống tới mức tối thiểu.
Kết luận:
+ Doanh thu bán hàng năm 2002 so với năm 2001 tăng:
DDT = 83.080 -81.503 = 2.305 triệu đồng.
Do vậy, tổng doanh thu làm lợi nhuận tăng 2305 triệu đồng.
+ Hàng bán bị trả lại năm 2002 so với năm 2001 giảm xuống một lượng là:
DGG = 0 - 18 = -38 triệu đồng.
Do vậy làm lợi nhuận tăng : 18 triệu đồng
+ Thuế GTGT phải nộp năm 2002 tăng so với năm 2001 một lượng là:
DT = 1.118 - 1.174 = 144 triệu đồng.
làm lợi nhuận giảm: -144 triệu đồng
+ Giá vốn hàng bán năm 2002 tăng so với năm 2001 một lượng:
DGV = 69.925 - 68.829 = 1.196 triệu đồng
nên làm lợi nhuận Công ty giảm: -1.196 triệu đồng.
+ Chi phí bán hàng năm 2002 so với năm 2001 tăng:
DBH = 7.412 - 6.805= 597 triệu đồng.
Chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2002 so với năm 2001 tăng:
DQL = 4.227 - 3.977 = 370triệu đồng
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh làm lợi nhuận giảm đi: -(597 + 370) = -897 triệu đồng.
Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố tới lợi nhuận của Công ty:
- Các nhân tố làm tăng lợi nhuận:
Doanh thu tăng : 2.305 triệu đồng
Các khoản giảm trừ : 18 triệu đồng
2.323 triệu đồng
- Các nhân tố làm giảm lợi nhuận:
Do thuế GTGT: -144 triệu đồng
Do giá vốn hàng: -1.196 triệu đồng
Do chi phí nghiệp vụ kinh doanh : -897 triệu đồng
2.259 triệu đồng
- Tổng hợp các nhân tố làm tăng giảm lợi nhuận:
2.323 - 2.259= +64 triệu đồng.
2.1.1. Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu.
Lĩnh vực xuất khẩu của Công ty gồm hai hoạt động:
- Gia công hàng xuất khẩu.
- Sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu, khách hàng cung cấp toàn bộ nguyên phụ liệu, Công ty sẽ đảm nhận phần sản xuất và vận chuyển. Còn hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu chủ yếu dựa theo đơn đặt hàng của khách hàng, kết thúc hợp đồng Công ty giao hàng cho bạn hàng, không phải trực tiếp tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên hoạt động sản xuất xuất khẩu của Công ty Dệt kim Đông Xuân có một đặc điểm khác biệt với các công ty dệt may khác ở chỗ với một số đơn đặt hàng, bên đối tác cung cấp một phần phụ liệu và đảm nhận việc tiêu thụ, công việc còn lại bao gồm mua nguyên vật liệu chính và sản xuất thì do Công ty thực hiện. Hình thức này không hoàn toàn là gia công xuất khẩu hay sản xuất hàng xuất khẩu mà có thể gọi là hoạt động hợp tác.
Dưới đây là bảng phân tích lợi nhuận chung của hoạt động xuất khẩu:
Bảng 9: Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
Chênh lệch 2002/2001
Mức
Tỷ lệ %
1. Tổng doanh thu
66.650
59.682
-6.968
-10,45
2. Các khoản giảm trừ
0
0
0
0
3. Thuế GTGT
0
0
0
0
4. Doanh thu thuần
66.650
59.682
6.968
-10,45
5. Giá vốn hàng bán
58.170
52.803,71
-4.184,86
-7,37
6. Lợi nhuận gộp
8.300
7.152,29
- 147,71
-1,59
7. Chi phí nghiệp vụ kinh doanh
8.599,6
6.451,89
-147,71
- 1,75
8. Lợi nhuận lĩnh vực xuất khẩu
707
681
-26
-3,67
Nguồn: Phụ biểu báo cáo kết quả kinh doanh 2001, 2002 - Công ty Dệt kim Đông Xuân
Năm 2001, trong 100 đồng doanh thu thuần có 86,46 đồng giá vốn hàng bán; 12,23 đồng chi phí nghiệp vụ kinh doanh và 1,31 đồng lợi nhuận. Năm 2000, cứ trong 100 đồng doanh thu thuần thì giá vốn hàng bán chiếm 84,94 đồng (giảm 1,52 đồng), chi phí nghiệp vụ kinh doanh chiếm 11,7 đồng (giảm 0,53 đồng) và lợi nhuận chiếm 1,09 đồng (giảm 0,22 đồng). Như vậy so với năm 2001, năm 2002 lĩnh vực xuất khẩu của Công ty đem lại ít lợi nhuận hơn và tỷ trọng của lợi nhuận xuất khẩu trong tổng lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh giảm xuống.
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu giảm 26 triệu đồng -3,56 ) là do:
- Tổng doanh thu giảm làm lợi nhuận giảm: -4.514.570 000đồng.
- Giá vốn hàng bán giảm làm lợi nhuận tăng : 4.366.290.000 đồng.
- Chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm làm lợi nhuận tăng: -147.710.000 đồng.
Tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận hoạt động kinh doanh xuất khẩu:
- Các nhân tố làm tăng lợi nhuận:
Giá vốn hàng bán : 4.184.860.000 đồng Chi phí nghiệp vụ kinh doanh : 147.710.000 đồng
4.392.570.000 đồng - Các nhân tố làm giảm lợi nhuận:
Doanh thu : 4.518.000.000 đồng
- Tổng hợp các nhân tố làm tăng giảm lợi nhuận:
4.392.570.000 - 4.418.570.000 = -26.000.000 đồng
Như vậy, ta có thể thấy rằng lợi nhuận xuất khẩu của công ty năm 2002 so với năm 2001 giảm đi đáng kể (26 triệu đồng ).
Trên 80% giá trị hàng xuất khẩu của Công ty được xuất sang thị trường Nhật Bản, phần còn lại xuất sang thị trường EU,.. Cho đến nay Công ty đã thiết lập được quan hệ buôn bán truyền thống với các hãng Sanshin / Katakura, Ryo / Marubeni, Daiei/Sanyo (Nhật Bản), Stummer/Baum (áo/Đức). Đặc biệt với Sanshin/Katakura, Công ty đã ký hợp đồng sản xuất đầu tiên vào 5/9/1989 sau khi sản xuất thử 140.000 sản phẩm đạt tiêu chuẩn mà Nhật Bản yêu cầu. Sau khi kết thúc giai đoạn hợp tác 10 năm (1989 -1999), phía bạn tiếp tục kéo dài thoả thuận hợp tác sản xuất với Doximex thêm 10 năm nữa (đến 2009). Phía Sanshin/Katakura có nghĩa vụ cung cấp cho Đông Xuân các loại máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế ... cho công nghệ dệt - may và xử lý vải, các loại hoá chất trợ tẩy, nguyên liệu phụ và toàn bộ phụ liệu may. Riêng về nguyên liệu chính là sợi bông và một số loại hoá chất như: H2O2 50%, hoá chất trợ in, thuốc in ... phía khách hàng chấp nhận cho Công ty tự lo để chủ động trong sản xuất.
2.1.2. Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Đối với Công ty Dệt kim Đông Xuân, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước chủ yếu là theo các đơn đặt hàng nhỏ, lẻ và ngoài ra, một số hàng sản xuất để xuất khẩu nhưng không đạt chất lượng cũng được tiêu thụ nội địa.
Bảng 10: Lợi nhuận sản xuất kinh doanh trong nước.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
Chênh lệch 2002/ 2001
Mức
Tỷ lệ %
1. Tổng doanh thu
14.853
23.398
8.545
57,53
2. Các khoản giảm trừ:
- Giảm giá hàng bán
26
26
45
45
19
19
73,07
73,07
3. Thuế GTGT
1.318
1.174
-144
-10,92
4. Doanh thu thuần
13.509
22.179
8.670
64,17
5. Giá vốn hàng bán
12.144
19.812,32
6.668,32
49,63
6. Lợi nhuận gộp
1.705
2.248,68
543,68
31,88
7. Chi phí nghiệp vụ KD
1.502.4
2.017,68
515,28
34,29
8. LN tiêu thụ trong nước
200,6
306,03
105,43
52,55
Nguồn: Phụ biểu báo cáo kết quả kinh doanh 2001,2001- Công ty Dệt kim Đông Xuân
Năm 2001, trong 100 đồng doanh thu thuần có 88,6 đồng giá vốn hàng bán; 10,59 đồng chi phí nghiệp vụ kinh doanh và 1,36 đồng lợi nhuận. Năm 2002, trong 100 đồng doanh thu thuần thì giá vốn hàng bán chiếm 89,8 đồng (tăng 1,2 đồng), chi phí nghiệp vụ kinh doanh chiếm 9,14 đồng (giảm 1,45 đồng) và lợi nhuận là 1,05 đồng ( giảm 0,31 đồng). Ta có thể thấy lợi nhuận tiêu thụ trong nước tăng khá nhanh (52,55%) nhưng lợi nhuận tiêu thụ trong nước vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng lợi nhuận của Công ty (29,8% năm 2002). Điều đó có nghĩa là Công ty chưa chú trọng tới thị trường tiêu thụ sản phẩm tương đối dễ tính và giàu tiềm năng là thị trường nội địa.
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước tăng 105.430.000 đồng do ảnh hưởng của các nhân tố sau:
- Tổng doanh thu tăng làm lợi nhuận tăng: + 8.545.000.000 đồng.
- Các khoản giảm trừ tăng làm lợi nhuận giảm: -19.000.000 đồng.
- Thuế GTGT phải nộp làm lợi nhuận giảm: - 144.000.000 đồng
- Giá vốn hàng bán tăng làm lợi nhuận giảm: - 7.668.320.000 đồng.
- Chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng làm lợi nhuận giảm: - 515.280.000.
Tổng hợp ảnh hưởng các nhân tố tới lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước:
- Các nhân tố làm tăng lợi nhuận:
Tổng doanh thu: +8.545.000.000 đồng
- Các nhân tố làm giảm lợi nhuận:
Các khoản giảm trừ: - 19.000.000 đồng
Thuế GTGT phải nộp: - 144.000.000 đồng
Giá vốn hàng bán: - 7.668.320.000 đồng
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh: - 515.280.000 đồng
- 8.441.570.000 đồng
- Tổng hợp các nhân tố làm tăng giảm lợi nhuận:
8.545.000.000 - 8.441.570.000 =105.430.000 đồng.
Như vậy, trong năm 2002 lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước đã tăng 52,55% so với năm 2001. Tuy nhiên tỷ lệ chi phí nghiệp vụ kinh doanh trên doanh thu thuần tương đối lớn (22,39%). Điều này có một nguyên nhân sâu xa là do hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước của Công ty chủ yếu là sản xuất theo đơn đặt hàng nhỏ lẻ khiến những chi phí giao dịch, vận chuyển, ... tăng lên không cần thiết. Trong tương lai nếu muốn mở rộng thị trường trong nước, Công ty phải nghiên cứu để có thể giảm thiểu chi phí không cần thiết nhằm làm tăng lợi nhuận.
2.2. Đánh giá tình hình lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
2.2.1. Kết quả đạt được.
Dựa vào sự phân tích ở trên ta có thể khẳng định rằng: Năm tài chính 2002 kết thúc với kết quả tốt hơn năm 2001, tuy nhiên đà phát triển cũng như hoạt động kinh doanh ngày càng kém hiệu quả.
Thực vậy, năm 2001, lợi nhuận sau thuế của Công ty là 654 triệu đồng, bằng 109,4% so với năm 2000.
Năm 2002, lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 697 triệu đồng, bằng 106,65% so với năm 2001.
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thì lợi nhuận từ hoạt động gia công xuất khẩu giảm từ 52,39 triệu đồng năm 2001 xuống còn 18,77 triệu đồng năm 2002. Trong khi đó, lợi nhuận hoạt động xuất khẩu giảm từ 707 triệu đồng xuống 681 triệu đồng, lợi nhuận hoạt động sản xuất hàng nội địa tăng từ 202,6 triệu đồng lên 306 triệu đồng.
Xuất khẩu là lĩnh vực hoạt động chính của Công ty , tuy nhiên do có sự biến động về thị trường xuất khẩu nên năm 2002 doanh thu từ lĩnh vực xuất khẩu giảm đi rất nhiều đã làm cho lợi nhuận xuất khẩu nói riêng và lợi nhuận sản xuất của công ty nói chung giảm .
Bảng 11: Hệ thống chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2001
2002
1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = LNTT/DTT * 100%
1,02
1,23
2. Tỷ suất LNST/DTT
0,69
0,84
3. Tỷ suất lợi nhuận vốn = LN/Nguồn vốn CSH * 100%
2,1
2,53
4. Tỷ suất lợi nhuận giá thành = LNTT/Tổng giá thành * 100%
1,271
1,04
5. Doanh lợi vốn =LNTT và lãi/Tổng TS
1,03
1,17
6. Doanh lợi vốn = LNST/Tổng TS
0,69
0,79
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 1999, 2000 - Công ty Dệt kim Đông Xuân
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu năm 2002 tăng 17,07% so với năm 2001 (Tỷ suất này chỉ đứng sau hai doanh nghiệp dệt lớn là Phong Phú và Nha Trang, còn so với mức bình quân chung của Tổng công ty thì cao hơn 0,08%)Tỷ suất này phản ánh số lơị nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu.Năm 2002 tăng hơn so với năm 2001 chưng tỏ mức doanh lợi tiêu thụ sản phẩm năm 2002 tăng so với năm 2001. Năm 2002 doanh thu tiêu thụ tăng không trong khi đó chi phí tăng với tốc độ khá lớn tình hình đó dẫn tới mức độ tăng lợi nhuận sau thuế giảm sút và kết quả là chỉ tiêu doanh lợi tiêu thụ sản phẩm giảm. Để cải thiện tinh hình nay doanh nghiệp càn quan tâm tới các biện pháp hạ thấp chi phí, tăng doanh thu trong thời gian tới.
Tỷ suất lợi nhuận vốn tự có năm 2002 cũng cao hơn năm 2001(cao hơn 16,9%). Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và dược các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp.Đối với công ty thì đây là điều đáng quan tâm để khả năng sử dụng vốn CSH hiệu quả hơn.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành năm sau cũng thấp hơn năm trước với mức tăng trưởng tương ứng là 1,271% và 1,042%. Đây cũng là vấn đề mà công ty cần quan tâm,vì đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của việc bỏ ra một 100 đồng chi phí mà công ty bỏ ra thì sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận, mà rõ ràng là công ty đang gặp khó khăn trong vấn đề quản lý chi phí sao cho hoạt động của công ty có hiệu quả.
Doanh lợi tài sản = LNST/TS . Doanh lợi tài sản năm 2002 cao hơn so với năm 2001, mà nguyên nhân chính là do sự gia tăng của doanh lợi tiêu thụ sản phẩm và hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
Những chỉ tiêu trên đây cho thấy một bức tranh chung về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Hầu hết các chỉ tiêu năm 2002 đều thấp hơn so với năm 2001, điều này phần nào phản ắnh sự đi xuống của doanh nghiệp. điều này cho thấy doanh nghiệp cần có chính sách về quản lý tài chính một cách có hiệu quả hơn.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, công nhân có trình độ tay nghề cao, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm.
Doximex có thiết bị dệt đã đi trước các doanh nghiệp khác 10 năm, trang thiết bị kỹ thuật tương đối hiện đại với dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh từ dệt, xử lý hoàn tất, cắt may, in, thêu của Nhật Bản, CHLB Đức, ý, ... Các sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được yêu cầu chất lượng cao, đặc biệt là hàng dệt kim 100% cotton luôn được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng và giữ được uy tín trong suốt hơn 40 năm phát triển.
Tay nghề của công nhân đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất bởi để giữ được khách hàng thì chất lượng phải được đặt lên hàng đầu. Sản phẩm của Công ty có nhiều chi tiết hoàn toàn phải làm bằng tay đòi hỏi sự khéo léo và thành thạo trong công việc.
Cũng không thể không nói đến đóng góp của những người làm công tác quản lý của Công ty. Nhờ sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban từ việc thiết kế mẫu, ký kết hợp đồng, xây dựng giá thành ... đến theo dõi, tính toán hoạt động sản xuất của Công ty mà quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty được trôi chảy và thuận lợi.
- Tổ chức tốt hoạt động kinh doanh hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Với định hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, quy cách, mẫu mã sản phẩm đa dạng, thời hạn giao hàng nghiêm ngặt và khả năng cạnh tranh cao, Công ty đã không ngừng đầu tư về nhiều mặt để đáp ứng yêu cầu này. Hơn 10 năm qua, sản phẩm của Công ty đã khẳng định vị trí vững vàng trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là Nhật Bản, áo, Đức ... với các đơn đặt hàng có số lượng ngày càng tăng.
Tuy vậy, Công ty vẫn luôn quan tâm đến thị trường trong nước, tham gia các hội chợ triển lãm để giới thiệu sản phẩm của mình, đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Và trong nhiều năm liền, sản phẩm của Công ty Dệt kim Đông xuân được người tiêu dùng bầu chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao.
- Những đổi mới về cơ chế quản lý của Nhà nước đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh và tự do mở rộng hoạt động sản xuất của mình trong điều kiện pháp luật cho phép.
Thật vậy, với quyết định cho phép doanh nghiệp được trực tiếp ký kết hợp đồng với các đối tác trong và ngoài nước, Nhà nước đã góp phần mở rộng thị trường hoạt động cho doanh nghiệp.
Nhà nước cũng có những biện pháp nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu như ưu đãi về thuế. Tại Nghị định 54 CP ngày 28/8/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại chương IV điều 16, mục 1 khoản E đã quy định rõ " Hàng tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu không phải nộp thuế xuất khẩu khi tái xuất khẩu và được hoàn lại thuế nhập khẩu tương ứng với số hàng thực tái xuất khẩu" và "Nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, nếu thực xuất khẩu trong thời hạn nộp thuế thì không phải nộp thuế nhập khẩu tương ứng với số hàng thực tế thực xuất". Theo nghị định này, sợi, hoá chất và phụ liệu may ... của Công ty là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu do vậy sẽ được miễn nộp thuế nhập khẩu trong thời gian quy định nếu đã sử dụng hết để sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Còn trong Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng có ghi "nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu đã ký với nước ngoài" là đối tượng không chịu thuế GTGT và "hàng hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng gia công xuất khẩu" có thuế suất thuế GTGT bằng 0%.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân.
2.2.2.1 Hạn chế trong tình hình lợi nhuận của công ty.
Mặc dù hoạt động của công ty luôn mang lại lợi nhuận khá cao nhưng qua phân tích trên ta có thể thấy rằng sự gia tăng lợi nhuận của công ty có sự sụt giảm đáng kể nhất là lợi nhuận của năm 2002 so với năm 2001 chỉ tăng 64 triệu đồng. tỷ trọng Lợi nhuận/Doanh thu thuần quá nhỏ bé (năm 2000:1,23%; năm 2001: 1,298%; năm 2000: 1,082%), điều này chứng tỏ các chi phí phát sinh còn cao và đây là một hạn chế cần khắc phục để có thể tăng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận theo lao động (=LNST/Tổng chi phí tiền lương) giảm từ 7,44% năm 2001 xuống còn 7,01% năm 2002 cho thấy việc quản lý và sử dụng lao động của Công ty kém hiệu quả hơn. Mặt khác, tốc độ tăng của quỹ lương (23,41%) nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng của giá trị số lượng sản phẩm (7,98%). Đây cũng điều không có lợi đối với sự phát triển lâu dài của Công ty.
2..2.2. Nguyên nhân của việc lợi nhuận thấp so với doanh thu.
Như đã trình bày ở trên, hạn chế lớn nhất đối với lợi nhuận của Công ty đó là mức chi phí còn quá cao dẫn đến lợi nhuận bị giảm thấp đi. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến việc tổng lợi nhuận đạt được còn quá thấp so với tổng doanh thu đạt được?
Chi phí nghiệp vụ kinh doanh/Doanh thu thuần tương đối cao, năm 2001 là 13,27% và năm 2002 là 14,79%. Trong chi phí này phải nói đến khoản mục lãi vay ngân hàng. Tỷ lệ Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của 2 năm tương ứng là 66,14% và 60,04% cho thấy gánh nặng trả nợ của Công ty không phải là nhỏ và do vậy lãi vay trả hàng tháng cũng là một con số đáng kể. Ngoài ra lãi suất vay đầu tư của các Ngân hàng thời điểm Công ty thực hiện còn cao lại phải chịu chênh lệch tỷ giá hơn 30% do đầu tư bằng nguồn vốn vay thương mại đã ảnh hưởng đến hiệu quả sau đầu tư.
Tốc độ tăng của giá vốn hàng bán nhanh hơn tốc độ tăng của tổng doanh thu.
Tốc độ tăng của quỹ lương (23,41%) nhanh hơn tốc độ tăng của gía trị sản lượng sản phẩm (7,98) có nghĩa là chi phí thực tế tiền lương trong giá thành sản phẩm đã tăng. Đối với cán bộ công nhân viên của Công ty thì thu nhập được tăng nhưng đối với Công ty thì là tăng một khoản chi phí. Công ty chọn con đường giảm bớt lợi nhuận để nâng cao đời sống người lao động là một chủ trương đúng đắn nhưng không phải là biện pháp lâu dài bởi lợi nhuận bị thu hẹp có thể ảnh hưởng tới việc tái sản xuất.
VAT phải nộp năm 2002 tăng 144 triệu so với năm 2001. Như đã giải thích ở phần trên, ngoài nguyên nhân là Nhà nước ta chuyển từ thuế doanh thu sang thuế GTGT dẫn đến sự thay đổi về phương pháp tính thuế, mức thuế suất, ... phải kể đến hậu quả của những năm 80 để lại. Đó là lượng hàng xuất cho Đông Âu bị tồn đọng trị giá gần 30 tỷ đồng. Do không được khấu trừ VAT đầu vào khiến cho số VAT phải nộp tăng lên.
Và nguyên nhân khiến cho mức tăng trưởng của lợi nhuận bị chững lại là do: việc chọn phương án đảo chuyển sản xuất để giải quyết vấn đề môi trường tại cơ sở sản xuất chính cùng với việc tiếp quản phần đất Công ty Dệt 8/3 giao phải thoả thuận với Văn phòng Kiến trúc sư trưởng Thành phố về chỉ giới quy hoạch nên trong 5 năm qua chưa thể tiếp tục đầu tư để tăng về doanh thu và chất lượng sản phẩm. Đồng thời việc giải quyết các nguồn vốn ưu đãi để thực hiện các dự án đầu tư chiều sâu, giải quyết về môi trường của Công ty được Bộ công nghiệp nhẹ (trước đây) phê duyệt gặp nhiều khó khăn phải huỷ bỏ do đó đã trực tiếp hạn chế Công ty thực hiện chiến lược phát triển.
Điều quan trọng nhất trong các nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm của lợi nhuận là do giá bán sản phẩm trên thị trường giảm (đặc biệt là thị trường quốc tế) và sự sụt giảm về qui mô của thị trường xuất khẩu chủ lực là Nhật Bản (giảm cả về số lượng và kim ngạch). Và việc mất đi một số thị trường như áo, Đan Mạch . Thêm một nguyên nhân từ phía chủ quan nữa là do Hiệp định thương mại Việt Mỹ thực thi, như nhiều công ty khác trong ngành dệt may Việt Nam công ty đã chủ động sử dụng các nguồn lực, chuyển hướng sang thị trường nằy nhằm xây dựng chỗ đứng vững chắc tại đây, chính vì vậy mà thị trường Nhật và EU bị giảm.
Các nước Đông Âu trước đây vốn vận hành cơ chế phân phối, cung đáp ứng nhu cầu, mức độ hưởng thụ thấp hơn các nước tư bản. Sau khủng hoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, thị trường các nước này trở thành thị trường phi tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, nhãn hiệu, nguồn gốc, dễ dàng chấp nhận những sản phẩm có chất lượng thấp hơn. Tận dụng điều này các nước Tây á, Nam á giáp biên giới như ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Băng la đét, Trung Quốc ... đổ xô vào trong khi Việt Nam không thuận lợi về mặt địa lý, và những Công ty lớn như Doximex không thể làm như vậy được bởi độ an toàn không cao. Ngoài ra cơ chế thanh toán cũng là một trở ngại lớn đối với Công ty.
Tất cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đây đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty và căn cứ vào những nguyên nhân này để em đề ra giải pháp cũng như kiến nghị nhằm đạt được mục đích tăng lợi nhuận.
chương III: Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty Dệt kim Đông xuân
Nguyên lý kinh doanh buộc nhà kinh doanh nào cũng phải biết là: Muốn tăng lợi nhuận phải thực hiện được tăng doanh thu và giảm chi phí. Để đưa ra những giải pháp mang tính khả thi, chúng ta cần dựa trên nguyên tắc:
- Căn cứ vào chế độ tài chính kế toán: Mỗi nước đều xây dựng cho mình một hệ thống riêng phù hợp với đặc điểm tình hình phát triển kinh tế đất nước và cơ chế tài chính. Trên cơ sở đó, các đơn vị kinh tế vận dụng vào thực tế công tác tài chính kế toán của đơn vị mình. Do vậy các giải pháp hoàn thiện công tác kế toán - tài chính phải tôn trọng chế độ.
- Căn cứ vào tình hình thực tế, Công ty không thể dập khuôn áp dụng chế độ vào doanh nghiệp mình mà phải biết vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo.
- Giải pháp hoàn thiện phải xuất phát từ nhu cầu, thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người quản lý.
I Định hướng hoạt động kinh doanh và sự cần thiết phải tăng lợi nhuận ở công ty Dệt Kim Đông Xuân
1.1 Định hướng hoạt động kinh doanh trong những năm tới.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân là doanh nghiệp hàng đầu trong nghành dệt may. Vì thế không năm ngoài xu thế phát triển của toàn ngành. trong những năm tới, công ty tiếp tục mở rộng sản xuât, đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao năng suất, nhất là trong năm 2003 công ty sẽ phấn đấu đưa doanh thu lên đến 100 tỷ và lợi nhuận đạt 1,5 tỷ, tiếp tục các năm sau doanh thu sẽ tăng 8%/năm và mức tăng của lợi nhuận là 8,5%, đưa mức tăng thu nhập bình quân đâu người là 10%. Với năng lực và quyết tâm của toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty thì đây là những chỉ tiêu mà công ty có thể đật được nhưng cũng đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn công ty, cũng như sự quan tâm giúp đỡ của tổng công ty Dệt May Việt nam.
Ngoài các chỉ tiêu trên thì công ty còn cần phải tiếp tục mở rộng mạng lưới tiêu thụ nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường Mĩ, EU, NhậtTiếp tục mở rộng thị trường cả ở trong nước và nước ngoài.
12 Sự cần thiết phải gia tăng lợi nhuận ở cong ty Dệt Kim Đông Xuân.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu kinh tế là để kiếm lợi nhuận.Trong nền kinh tế thi trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Họ mong muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là để bù đắp lại những chi phí bỏ ra, ngoài ra họ còn muốn phần thừa để mở rộng và phát triển sản xuất, trả cổ tức, thưởng cho các nhà quản lý, cho công nhân viên và cho các chủ cổ phiếu - tức là họ muốn có lợi nhuận. Nếu các doanh nghiệp không thể tạo ta được lợi nhuận thì họ cũng không muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu của xã hội về các hàng hóa dịch vụ đó. Do đó, động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định sáng tạo ra sự hoạt động thắng lợi của thị trường hàng hóa dịch vụ.
Đối với công ty Dệt Kim Đôing Xuân, thì việc tìm ra các giải pháp và vận dụng các giải pháp đó một cách có hiệu quả là hết sức cần thiêt. Qua phân tích trên ta có thể tháy hàng năm công ty đều đạt doanh thu khá cao nhưng lợi nhuận mà công ty đạt được lại chưa tương xứng.
2. Giải pháp nhằm tăng doanh thu.
1.1. Đẩy mạnh tiêu thụ ở khu vực nội địa.
Do Công ty tập trung chủ yếu vào hoạt động xuất khẩu nên chưa chú trọng đến tiêu dùng nội địa. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường hàng dệt kim còn bỏ ngỏ. Với năng lực và uy tín của Công ty như hiện nay thì việc chiếm lĩnh thị trường không phải là công việc quá khó. Tuy nhiên để tăng doanh thu tiêu thụ Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng chính sách giá cả phù hợp.
Do hoạt động sản xuất trong nước của Công ty chủ yếu là theo các đơn đặt hàng nhỏ lẻ nên ngoài các mẫu do khách hàng yêu cầu, phòng kỹ thuật của Công ty cần dựa vào khả năng sản xuất cũng như nhu cầu của thị trường trong nước để tạo ra kiểu dáng sản phẩm đa dạng, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày nay không còn là ăn chắc, mặc bền mà là ăn ngon, mặc đẹp. Tính bền của sản phẩm không còn là điều kiện quan trọng nhất mà chất lượng sản phẩm phải được hiểu theo nghĩa vừa bền vừa đẹp. Yếu tố thẩm mĩ đã được đưa lên ngang tầm với chất lượng.
Ngoài ra chính sách giá cả cũng không kém phần quan trọng. Trên thị trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, giá cả hợp lý cũng sẽ là một lợi thế để giành chiến thắng. Tâm lý phổ biến của khách hàng là trung thành với sản phẩm truyền thống mà không chạy theo sản phẩm mới khi chúng có cùng mức giá. Với uy tín trên 40 năm nay, Công ty đã có một lượng khách hàng quen thuộc nhất định. Nhưng để tăng doanh thu, ban đầu Công ty có thể xây dựng giá thấp để giải quyết thị trường, sau đó nâng cao giá để thu hồi vốn rồi dần dần giảm giá xuống mức trung bình và thấp. Cơ sở tiến hành biện pháp xây dựng giá này là do sản phẩm dệt may có chu kỳ sống ngắn và theo mùa.
- Đẩy mạnh những biện pháp kích thích tiêu thụ.
Hiện nay Công ty đã có 4 gian hàng giới thiệu sản phẩm ở các phố Ngô Thì Nhậm, Hoà Mã, Khâm Thiên và Minh Khai. Tuy nhiên địa điểm của các gian hàng này không nằm ở những khu trung tâm buôn bán nên chưa thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng. Thế nhưng nếu di chuyển đến những nơi thuận lợi cho hoạt động kinh doanh thì chi phí sẽ rất cao. Do vậy các cửa hàng cần thu hút khách hàng bằng cách trưng bày sản phẩm dễ nhìn và bắt mắt, thái độ người bán hàng cần niềm nở và chu đáo. Điều này sẽ tạo cảm giác thoải mái và gây ấn tượng tốt cho người mua. Song song với điều đó, Công ty cần tiếp tục tham gia các hoạt động chung của toàn ngành như triển lãm, hội chợ thời trang để theo kịp với sự phát triển của thời đại. Ngày nay, người tiêu dùng rất ít khi mua sản phẩm của những hãng, công ty mà họ không biết đến bởi họ không được đảm bảo về chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, nếu hoạt động quảng cáo, khuếch trương được thực hiện hiệu quả thì chắc chắn việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty sẽ tiến triển hơn.
Đồng thời, các biện pháp trong tiêu thụ như giảm giá, chiết khấu phải được thực hiện một cách nhất quán nhưng vẫn linh hoạt để khuyến khích khách hàng. Thực hiện duy trì và bổ sung thêm một số hình thức thanh toán ưu đãi đối với những đơn vị có quan hệ hợp tác lâu dài, có trách nhiệm với Công ty và cả những khách hàng truyền thống.
- Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là một trong những biện pháp quan trọng để tăng doanh thu tiêu thụ của Công ty Dệt kim Đông Xuân. Hoạt động của Công ty chủ yếu dựa trên các đơn đặt hàng do khách hàng yêu cầu nên Công ty không quan tâm nhiều đến điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường hiện tại ra sao. Vì vậy, để chủ động trong cơ chế thị trường và để thu hút thêm khách hàng thì Công ty phải tiếp xúc với người tiêu dùng để nắm rõ nhu cầu, sở thích của họ. Việc nghiên cứu, tìm hiểu này cần được tiến hành một cách thường xuyên nhằm phản ánh những thông tin kịp thời.
1.2. Đẩy mạnh tiêu thụ ở khu vực xuất khẩu.
Lĩnh vực xuất khẩu của Công ty gồm hai hoạt động:
- Gia công hàng xuất khẩu.
- Sản xuất hàng xuất khẩu.
Thực tế, lợi nhuận thu được từ hoạt động gia công hàng xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng lợi nhuận kinh doanh của Công ty, còn hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu mới đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, đối với cả hai hoạt động này, để tăng doanh thu tiêu thụ Công ty cần:
- Xâm nhập thị trường mới và mở rộng thị trường đã có.
Đối với các thị trường truyền thống, Công ty vẫn tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác sản xuất, đặc biệt là với Nhật Bản. Trong quan hệ hợp tác với Nhật, Công ty thu được ba điều lợi:
+ Không phải lo thị trường đầu ra.
+ Thu được bí quyết sản xuất (know-how) của nước bạn.
+ Tận dụng được vốn lưu động, không phải đầu tư nhiều về máy móc thiết bị.
Đổi ngược lại để giữ được khách hàng và thị trường, Công ty cần đảm bảo chất lượng cũng như tiến độ giao hàng, đổi mới công nghệ và bảo vệ bí quyết công nghệ.
Đối với một số thị trường, sản phẩm xuất khẩu của Công ty lại được tái xuất sang một nước khác bởi so với những nước này, giá sản xuất ở Việt Nam vẫn là rẻ. Bởi vậy Công ty phải tìm cách để có thể trực tiếp xuất sản phẩm của mình sang những thị trường tái xuất này bởi lúc đó giá sẽ cao hơn, lợi nhuận thu về cũng nhiều hơn. Đây là con đường để Công ty thực hiện tăng doanh thu, cũng đồng thời là tăng lợi nhuận của mình.
Mục tiêu trước mắt của Công ty là khôi phục lại thị trường Châu Âu. Đối với thị trường Đông Âu, Công ty đã có quan hệ từ trước khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Đây cũng là một lợi thế của Công ty khi quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và những nước này được nối lại. Nhưng trong thời gian chờ đợi, Công ty cần tiến hành dần các hoạt động nghiên cứu nhu cầu thị trường cũng như những đối tác tiềm năng trong tương lai để có sự chuẩn bị chu đáo, đồng thời để chiếm ưu thế ngay từ đầu. Còn đối với các nước Tây Âu thì thực sự là khó khăn bởi trong hai năm gần đây, các đơn vị sản xuất phải tham gia đấu thầu hạn ngạch trong khi cung nhiều mà cầu lại ít. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt mà để thắng thầu Công ty phải có ưu thế về vốn cũng như năng lực sản xuất để đưa ra mức giá có tính cạnh tranh.
- Thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm: Để thu hút thêm khách hàng, Công ty cần nghiên cứu nhu cầu thị hiếu và sở thích của nước bạn để sản xuất các mặt hàng phù hợp, đồng thời nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh. Song song với việc mở rộng mặt hàng là việc nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác tối ưu công suất của máy móc thiết bị và nâng cao tay nghề cho công nhân.
3. Giải pháp nhằm giảm chi phí
2.1. Giảm chi phí sản xuất.
- Nguyên vật liệu.
Điều cần thiết là phải hạ thấp chi phí đầu vào của nguyên vật liệu. Hiện nay, nguyên vật liệu của ngành may mặc trong nước từ cúc, chỉ ... đến vải đều đã được cải tiến, nâng cao chất lượng nên Công ty cần tìm những nguồn hàng ngay trong nước để thay thế dần các nguồn cung cấp từ nước ngoài. Điều này sẽ làm giảm đáng kể chi phí nguyên vật liệu. Tuy nhiên để thực hiện được kế hoạch Công ty cần nhanh chóng xúc tiến hoạt động tìm hiểu, tìm kiếm các nhà phân phối, cung cấp trong nước. Cũng cần theo dõi chặt chẽ sự biến động của giá cả để có quyết định mua với số lượng bao nhiêu và vào thời điểm nào là thích hợp nhất. Với vật liệu chính cần có chính sách đấu thầu với bên bán để có được mức giá hợp lý với nguồn cung cấp ổn định, thường xuyên. Vật liệu phụ dùng ít thì mua vừa phải, tránh tình trạng ứ đọng, tiết kiệm được chi phí bảo quản. Với các nguyên vật liệu còn phải nhập thì phải có kế hoạch thu mua, dự trữ hợp lý nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, tránh tình trạng thiếu nguyên vật liệu, bị ép giá. Đồng thời, phải luôn chú ý sửa chữa, nâng cấp kho tàng, kiểm tra vật liệu trong kho tránh để ẩm mốc, chuột gặm...
Mặt khác Công ty cần xây dựng hệ thống định mức tiêu hao vật liệu cho phù hợp, tránh tình trạng thiếu, phải mua thêm với mức giá bị ép, hoặc thừa phải bán đi với giá thấp hơn giá mua vào. Điều này phụ thuộc vào công tác kế hoạch hoá vật tư của Công ty và cán bộ thực hiện nhiệm vụ này. Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý, giám sát sử dụng nguyên vật liệu, tránh tình trạng sử dụng lãng phí. Đồng thời cần tuyển dụng, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề để hạn chế những sản phẩm hỏng, tiết kiệm nguyên vật liệu đồng thời nâng cao hiêu quả sản xuất.
- Tiền lương.
Tiết kiệm chi phí tiền lương phải được hiểu theo nghĩa là tăng năng suất lao động của người công nhân. Để làm được điều này, yếu tố trước tiên phụ thuộc vào tay nghề của công nhân và do đó tất yếu liên quan đến việc tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực. Khi trình độ tay nghề nâng cao, thời gian hoàn thành sản phẩm cũng được rút bớt, chi phí do sản phẩm hỏng, không đạt yêu cầu cũng giảm xuống. Như vậy, Công ty vừa tăng được năng suất người lao động, đồng thời giảm được những khoản chi phí không cần thiết. Bên cạnh đó, nên tổ chức những cuộc thi tay nghề giỏi nhằm khuyến khích công nhân không ngừng học hỏi lẫn nhau. Đồng thời áp dụng hình thức khen thưởng đối với những cá nhân, bộ phận sản xuất làm việc có năng suất lao động cao, ít sản phẩm hỏng hoặc có những sáng kiến, cải tiến phục vụ cho hoạt động sản xuất. Đối với những công nhân bậc cao, có kinh nghiệm, Công ty cần áp dụng chính sách lương bổng, trợ cấp hợp lý để thu hút người lao động đồng thời để họ yên tâm sản xuất, tránh tình trạng bỏ đi làm ngoài. Có như vậy, Công ty vừa đỡ mất nhân lực, vừa không mất thời gian và chi phí đào tạo mới.
Đối với hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ của Công ty hiện tại được đánh giá là tương đối hiện đại, nhưng việc đầu tư đổi mới công nghệ luôn là một trong những nhân tố quan trọng để thực hiện hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm Công ty trên thị trường. Bởi vậy, một trong những biện pháp cần thiết là trích lợi nhuận thu được hàng năm để thành lập quỹ đầu tư phát triển nhằm mua sắm máy móc thiết bị mới.
2.2. Giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh.
Trong chi phí nghiệp vụ kinh doanh có chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí bán hàng năm 2002 chỉ tăng 0,097% trong khi chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 8,12%. Như vậy biện pháp cần làm đó là tuyên truyền ý thức tiết kiệm trong công nhân viên, nêu cao ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên Công ty từ việc sử dụng điện, nước, điện thoại đến đồ dùng văn phòng, ... Mặt khác, giảm chi phí quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở việc xây dựng một bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả chứ không chạy theo chỉ tiêu số lượng.
3. Một số giải pháp khác.
Mặc dù những năm qua, Công ty đã cố gắng xây dựng một bộ máy tổ chức hợp lý, phù hợp với thực tế nhưng là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, cụ thể là sản phẩm may mặc mà hoạt động Marketing của Công ty hầu như không đáng kể. Vì vậy Công ty nên thành lập một phòng Marketing chuyên đảm nhận việc quảng cáo, giới thiệu, khuếch trương sản phẩm đến mọi đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam cũng như thị trường ngoài nước. Có phòng chuyên môn này, sản phẩm của Công ty sẽ được biết đến nhiều hơn. Đồng thời đây cũng là cầu nối để Công ty nhận được thông tin phản hồi từ phía khách hàng về sản phẩm của mình. Những thông tin này sẽ giúp Công ty nhanh chóng bắt kịp với nhu cầu của thị trường để thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, ... cho phù hợp. Như vậy phòng Marketing đã gián tiếp góp phần vào việc tăng lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của Công ty.
Ngoài ra cần tăng cường công tác kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất bởi nguyên vật liệu của Công ty được mua từ nhiều nguồn khác nhau nên cần có sự giám sát chặt chẽ, cụ thể về số lượng, giá cả, chất lượng. Khi sản phẩm hoàn thành cũng cần phân loại rõ ràng, tránh bỏ sót những sản phẩm không đạt yêu cầu. Điều này sẽ giúp cho Công ty bảo vệ được uy tín của mình.
4. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra.
4.1. Kiến nghị với Nhà nước.
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước nên tất yếu không thể tránh khỏi những vấn đề mà Nhà nước cần phải giải quyết. Đó là mặt trái của cơ chế thị trường với các hoạt động tiêu cực như đầu cơ, buôn lậu, hối lộ, ... mà nếu không được xoá bỏ thì không thể tạo được môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển bền vững và đương nhiên các doanh nghiệp - với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế - cũng không thể làm ăn có hiệu quả được. Vì vậy có thể nói, tạo một môi trường kinh tế xã hội thuận lợi là Nhà nước đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trước hết Nhà nước cần sớm ban hành và thực thi một hệ thống luật pháp rõ ràng, thống nhất nhằm tạo một hành lang pháp lý, một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Cụ thể là Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật quy định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Đó là những chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thương mại ... làm nền tảng pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp. Kèm theo đó là các văn bản hướng dẫn việc tổ chức thực hiện cũng như giải quyết những vướng mắc bất lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện luật thuế GTGT và thuế xuất nhập khẩu.
Trên thị trường, hàng nhập lậu trốn thuế, hàng nhái chất lượng thấp, bán phá giá gây khó khăn cho tiêu thụ nội địa. Công ty cùng với các cơ quan ban ngành chức năng cần có biện pháp xử lý để bảo vệ uy tín của mình.
Để hàng hoá của Việt Nam làm quen với thị trường Mỹ vốn là một thị trường đầy triển vọng thì chính phủ cần tạm thời trợ giá cho các doanh nghiệp. Đây là một hình thức đầu tư trước thu về sau, còn nếu để doanh nghiệp phải chịu thuế một mình thì không có doanh nghiệp nào đủ sức chịu được mức thuế suất thuế nhập khẩu cao như hiện nay của Mỹ.
Đối với các nước bạn Đông Âu, có một khó khăn là cơ chế thanh toán kéo dài thời gian gây mất hiệu quả của đồng vốn. Cụ thể là hàng giao đi rồi, sau khi được chính phủ nước họ chấp nhận là hàng Việt Nam trả nợ thì các tổ chức tài chính Việt Nam mới giải ngân vốn. Khoảng thời gian này tương đối dài, phải mất nhiều tháng. Điều đó đồng nghĩa với việc vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng, do vậy ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất. Vậy để khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn giải quyết của các cơ quan có liên quan, thực hiện cơ chế một cửa một dấu, tránh những thủ tục hành chính phiền hà không cần thiết.
Một vai trò không thể thiếu của Chính phủ là hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp lựa chọn hướng kinh doanh thông qua những chính sách của mình và hệ thống thông tin, dự báo thị trường của Nhà nước. Trong lĩnh vực này, những thông tin của Nhà nước sẽ là quyển sách tham khảo tin cậy đối với doanh nghiệp để doanh nghiệp ra quyết định.
4.2. Kiến nghị với Tổng công ty.
Để đạt được những thành tích như ngày hôm nay không thể không nói tới sự giúp đỡ, đóng góp về mặt vật chất cũng như tinh thần của đơn vị chủ quản - Tổng công ty dệt may Việt Nam. Trong ba năm 2001 - 2003, Công ty dự kiến thực hiện xong dự án đầu tư thiết bị công nghệ và đảo chuyển địa điểm sản xuất, đưa công suất của Công ty từ 1.200 tấn/năm lên 3.000 tấn/năm. Dự án đầu tư được thực hiện chủ yếu bằng nguồn vốn vay của các Ngân hàng thương mại. Song để dự án thực sự đem lại hiệu quả tối đa, Công ty rất mong Tổng công ty tạo điều kiện để được sử dụng nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước vào các hạng mục XDCB và hỗ trợ vốn để Công ty xây dựng nhà xưởng mới nằm trong dự án đầu tư nói trên.
Kết luận
Trong mọi nền kinh tế, dù được gọi bằng những tên khác nhau thì cái đích cuối cùng mà những người làm kinh doanh muốn hướng tới chính là lợi nhuận. Cơ chế thị trường với những quy luật của nó đã trở thành động lực buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải làm ăn có hiệu quả, tức là hoạt động kinh doanh có lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả của việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất.
Công ty Dệt kim Đông Xuân ra đời trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Song với sự động viên giúp đỡ của Tổng công ty Dệt may Việt Nam và sự cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên, Công ty đã vươn lên trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong ngành dệt may. Tuy nhiên để có thể đạt được thành tích cao hơn nữa, Công ty còn phải nỗ lực rất nhiều trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Nắm bắt được ý nghĩa trên, những nghiên cứu trong chuyên đề này đề cập tới những điểm mấu chốt sau:
- Phân tích tình hình lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt kim Đông Xuân bao gồm lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu (hoạt động chính của Công ty) và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất trong nước.
- Các nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới lợi nhuận của Công ty.
- Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị với Nhà nước và Tổng công ty Dệt may Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Công ty tăng lợi nhuận.
Chuyên đề "Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Dệt kim Đông Xuân" là kết quả của quá trình thực tập, nghiên cứu và vận dụng lý luận vào tìm hiểu thực trạng lợi nhuận của Công ty. Em hy vọng rằng những giải pháp này sẽ có ích trong việc làm tăng lợi nhuận của Công ty trong thời gian tới.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Cô giáo- T.S Nguyễn Thị Thu Thảo, các cô và các anh chị trong phòng tài chính kế toán Công ty Dệt kim Đông Xuân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp.
NXB Giáo dục - 2002.
2. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Trường ĐHKTQD .
NXB Thống kê Hà Nội - 1998.
3. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Trường ĐHTC.
NXB Giáo dục - 1999.
4. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT.
NXB Tài chính Hà Nội - 1999.
5. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh.
NXB Giáo dục - 1997.
6. Phan tích báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh.
NXB Giáo dục - 1997.
7. Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
NXB Giáo dục - 1996.
8. Lịch sử các học thuyết kinh tế.
NXB Giáo dục - 1999.
9. Nghị định, thông tư hướng dẫn thực hành thuế GTGT và thuế xuất nhập khẩu.
10. Tạp chí Tài chính 2001,2002.
11. Tạp chí Dệt và May 2001,2002.
12. Báo cáo tài chính của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
Nhận xét của cơ quan thực tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH339.doc