LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
TỔNG QUAN VỀ THẺ 3
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG THANH TOÁN 3
1. Sự phát triển của hệ thống thanh toán phản ánh chức năng của tiền qua các thời kỳ 3
2.Vai trò của ngân hàng thương mại trong sự ra đời của các phương tiện thanh toán không dùng mặt 7
3. Một số phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay 9
II. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ THẺ 9
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ 9
2. Những vấn đề cơ bản về thẻ tín dụng 12
III. VAI TRÒ VÀ TIỆN ÍCH CỦA THẺ 18
1. Đối với ngân hàng 18
2. Đối với khách hàng 20
3. Đối với cơ sở chấp nhận thẻ (CSCNT) 22
4. Đối với xu hướng phát triển kinh tế xã hội 24
IV. NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ 25
1. Các chủ thể tham gia 25
2. Một số khái niệm liên quan đến hoạt động kinh doanh thẻ 29
3. Quy trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ 31
V. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NGHIỆP VỤ THANH TOÁN VÀ PHÁT HÀNH THẺ 33
1. Nhóm nhân tố khách quan 33
2. Nhóm nhân tố chủ quan 34
VI. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ Ở VIỆT NAM 37
CHƯƠNG II 40
THỰC TRẠNG CUNG ỨNG THẺ TẠI SGDI-NHCTVN TRONG 40
THỜI GIAN QUA 40
I. GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 40
1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của SGD I –NHCTVN 40
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của SGDI-NHCTVN trong 3 năm gần đây 42
II. THỰC TRẠNG VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ THẺ TẠI SGD I - NHCTVN 45
1. Quá trình xuất hiện thẻ thanh toán tại Việt Nam 45
2. Tình hình phát hành và thanh toán thẻ trong thời gian qua. 46
3.Thực trạng về cung ứng thẻ tại SGDI-NHCTVN. 50
4. Sự cần thiết phải đảy nhanh nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tại SGDI-NHCTVN 52
5. Những vấn đề chung về nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ ATM và thực trạng của nó trong thời gian qua tại SGDI-NHCTVN. 53
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CUNG ỨNG THẺ TẠI SGD I - NHCTVN 59
1. Những thuận lợi và nỗ lực của SGDI-NHCTVN trong hoạt động kinh doanh thẻ 59
2. Những khó khăn và hạn chế còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh thẻ tại SGDI-NHCTVN trong thời gian qua 67
CHƯƠNG III 74
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI SGD I – NHCTVN 74
I. TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG THẺ TẠI VIỆT NAM 74
1. Bối cảnh thuận lợi cho sự phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ trong thời gian tới 74
2. Kế hoạch mở rộng khai thác dịch vụ thẻ và ngân hàng bán lẻ của ngân hàng trên thị trường Việt nam trong giai đoạn trước mắt. 77
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HÀNH THẺ CỦA SGD I - NHCTVN 78
1. Về tổ chức 78
2. Về nghiệp vụ phát hành thẻ 79
3. Về nghiệp vụ thanh toán thẻ 79
4.Về hệ thống công nghệ, cơ chế xử lý kỹ thuật 80
III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI SGD I - NHCTVN 80
1. Định hướng mô hình tổ chức 81
2. Tăng cường đầu tư cho hệ thống trang thiết bị kỹ thuật phục vụ thanh toán thẻ 81
3. Giải pháp về hoạt động Marketing 83
4. Mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ 87
5. Quản lý rủi ro 88
6. Đào tạo nguồn nhân lực 89
7. Mở rộng quan hệ bạn hàng và các đối tác 89
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐÂY MẠNH CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI SGD I - NHCTVN 90
1. Đề xuất với NHCTVN 90
2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà Nước 91
3. Kiến nghị với Chính phủ. 95
KẾT LUẬN 98
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm thúc đẩy nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn ít.
Ở Việt nam, mọi khoản thu nhập cá nhân gồm cả lương thánh và thưởng đều được trả bằng tiền mặt. Trong khi đó, phát hành thẻ tín dụng, ATM, cashcard..căn cứ rất nhiều và việc sử dụng tài hoản cá nhân cũng như thu nhập cá nhân phản ánh trên tài khoản. Hiện tại Ngân hàng không thể xác định được thu nhập thực tế của khách hàng xin phát hành thẻ là bao nhiêu mà chủ yếu căn cứ vào khai báo của khách hàng. Đây cũng là một khó khăn cho các ngân hàng Việt nam nói chung và SGDI-NHCTVN nói riêng trong việc phát hành và thanh toán thẻ cho khách hàng cũng như việc thu nợ từ khách hàng.
· Khó khăn về đào tạo đội ngũ cán bộ.
Ở Việt nam, hiện chưa có một hoạt động tào tạo chuyên về thẻ nào dù là của NHNN. Do đó, để hoạt động tốt trong lĩnh vực này buộc NHCTVN cũng như SGDI-NHCTVN phải cung cấp chi phí cho nhân viên của mình tham gia các hoá học của các tố chức thẻ quốc tế. Tuy nhiên, kinh phí này cũng không phải là nhỏ nên việc cập nhật kiến thức, thường xuyên có phần hạn chế.
Trên đây là những hạn chế trong hoạt động kinh doanh thẻ, nó không chỉ tồn tại của riên SGDI-NHCTVN mà là của cả hệ thống ngân hàng. Trong những năm tới, để phát triển thị trường thẻ Việt nam, các NHTM cần có giải pháp hữu hiệu, cùng nhau tháo gỡ vướng mắc, tồn tại chung cản trở các giao dịch thanh toán thẻ.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI SGD I – NHCTVN
I. TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG THẺ TẠI VIỆT NAM
1. Bối cảnh thuận lợi cho sự phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ trong thời gian tới
Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, Việt nam đang trong quá trình mử rộng cánh cửa với thế giới. Việt nam sẽ gia nhập AFTA vào năm 2006; hiệp định thương mại Việt-Mỹ, các hiệp định thương mại với các nước phát triển và đang phát triển khác sẽ được thực thi và chúng ta đang phấn đấu gia nhập WTO trong tương lai gần. Để tạo điều kiện và môi trường dễ dàng cho các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, thương mại, nông nghiệp phát triển và hội nhập, hệ thống ngân hàng có vai trò tiên quyết. Vì vậy, phát triển nghiệp vụ ngân hàng hiện đại là nhu cầu tất yếu, góp phần thúc đẩy sự hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt nam trong tương lai không xa. Điển hình là dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới mẻ và mang lại những khó khăn đối với các ngân hàng. Mặc dù thế nhưng cơ hội khai thác và mở rộng dịch vụ này cũng không ít.
Nền kinh tế Việt nam hiện nay được đánh giá là khá ổn định và dần đi vào phát triển. Hệ thống ngân hàng thương mại việt nam cũng có những thay đổi đáng kể đặc biệt trong công nghệ thanh toán ngân hàng, đưa những phương thức thanh toán hiện đại của thế giới tiếp cận với thị trường việt nam, đồng thời đưa các hoạt động của ngân hàng Việt nam vào thương trường quốc tế. Bối cảnh kinh tế thuận lợi này chắc chắn sẽ tạo ra nhiều nhân tố tích cực, thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ thẻ thanh toán- một phương tiện thanh toán hiện đại, được chấp nhận rộng rãi trên thế giới và đang dần được phát triển ở thị trường Việt nam.
Trước hết, công nghệ thông tin đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt nam. Đây là một cơ sở tốt để tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ thanh toán. Nhận thức cũng như kiến thức của xã hội về công nghệ cũng sẽ thay đổi theo hướng tích cực hơn.
Theo các chuyên gia kinh tế, với đà phát triển như hiện nay, trong vài năm tới, thu nhập của dân cư sẽ tăng lên nhanh chóng. Mặc dù nước ta còn là một nước nghèo, mức thu nhập bình quân thấp, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư vẫn còn lớn nhưng chắc chắn bộ phận dân cư có mức thu nhập cao sẽ ngày càng tăng lên. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho việc phát triển dịch vụ thẻ tại Việt nam trong tương lai do số người có khả năng sử dụng sẽ tăng lên. Thêm vào đó, ngoài kiến thức xã hội về công nghệ được phát triển một cách tự nhiên cùng với quá trình hội nhập và bước tiến của khoa học, cũng có nhiều tiến bộ theo hướng thuận lợi cho ứng dụng sản phẩm mang tính công nghệ như dịch vụ thẻ thah toán. Hiện nay, dân cư các đô thị việt nam chiếm khoảng 25-30% dân số cả nước, trong đó có một tỷ lệ không nhỏ những người đang học tập và công tác ở độ tuổi dưới 45 có những kiến thức cơ bản về tin học và khả năng tiếp nhận dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Như vậy, sau 5-7 năm nữa, đối tượng có khả năng tiếp nhận những sản phẩm mới sẽ được mở rộng ra lứa tuổi dưới 50-52 tuổi và chiếm tỷ trọng lớn trong những người trong độ tuổi lao động ở thành thị. Cùng với thu nhập tăng, quỹ chi tiêu thường ngày của người dân cũng tăng tạo điều kiện cho họ dễ dàng chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân hàng và phương tiện thanh toán mới.
Môi trường thương mại cũng sẽ thay đổi tích cực hơn với sự ra đời của các trung tâm thương mại, dịch vụ, siêu thị, cá cửa hàng tự chọn sẽ làm thay đổi tập quán người tiêu dùng, tạo điều kiện để ứng dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Một nhân tố không thể thiếu là môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện hơn nên nền tảng cho việc ứng dụng các dịch vụ ngân hàg mới. Nhà nước ta có chủ trương thực hiện nhà nước pháp quyền, xây dựng hệ thống pháp luật, Chính phủ chắc chắn có những biện pháp nghiêm minh hơn về pháp luật để xây dựng hệ thống văn bản dưới luật, công khai hoá thu nhập của người dân, có giải pháp huy động, không lãng phí tiền nhàn rỗi trong dân cư. Ngân hàng Nhà nước sẽ có những chủ trương mang tính nguyên tắc mở đường cho các NHTM mạnh dạn đầu tư, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nhằm tăng tính cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và hội nhập của các NHTM. Trong điều kiện ấy, các quy chế liên quan đến tín dụng, thanh toán, quản lý ngoại hối, kế toán còn nhiều vấn đề trở ngại cho việc phát hành và thanh toán thẻ chắc chắn sẽ được bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện.
Với những điều kiện thuận lợi về mọi mặt, trong những năm tới đây, dịch vụ thẻ thanh toán sẽ có những bước chuyển biến tích cực. Đó là chưa kể đến tốc độ tăng trưởng ổn định của hoạt động kinh doanh thẻ những năm gần đây, có thể dự báo một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường thẻ tại Việt nam của SGDI-NHCTVN nói riêng và cảu các NHTM Việt nam nói chung. Thành công bước đầu trong công tác thanh toán thẻ đã vượt qua được tình trạng trì trệ làm giảm lòng tin của khách hàng, cải thiện chất lượng dịch vụ thanh toán kịp thời, an toàn, chính xác có thể sánh với nhiều nước trong khu vực.
Trong tương lai không xa, thẻ do các NHTM Việt nam phát hành sẽ phù hợp hơn với nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư. Hạn mức tín dụng và thanh toán thẻ sẽ hạ thấp hơn hiện nay để mở rộng cho chi tiêu nội địa. Thẻ thanh toán sẽ không chỉ được sử dụng để rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng khác mà còn có thể sử dụng đẻ gọi điện thoại, sử dụng như chứng minh thư nhân dân... và tiến tới phát hành loại thẻ liên kết giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp như bưu điện, xăng dầu, hàng không.
Với nhu cầu sử dụng thẻ phát triển, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ cũng sẽ mở rộng đáp ứng nhu cầu khách hàng. Thẻ sẽ được sử dụng để trả tiền dịch vụ điện nước, xăng dầu, thanh toán học phí... Dịch vụ thương mại điện tử cũng sẽ phát triển ở việt nam và sẽ là phương tiện thanh toán thuận lợi nhất trong loại hình giao dịch này. Số lượng cơ sở chấp nhận thẻ sẽ không chỉ dừng lại ở con số hàng nghìn mà sẽ đạt tới hàng trăm nghìn. Lượng giao dịch thanh toán thẻ được xử lý tự động đảm bảo an toàn vàg phòng ngừa rủi ro cho hoạt động thẻ dự báo sẽ đạt tới khoảng 90%.
Vì vậy, có thê nói rằng, thị trường thẻ Việt nam hứa hẹn sẽ là một thị trường kinh doanh đầy sức hấp dẫn đối với các ngân hàng nói chung và SGDI-NHCTVN nói riêng trong những năm tới.
2. Kế hoạch mở rộng khai thác dịch vụ thẻ và ngân hàng bán lẻ của ngân hàng trên thị trường Việt nam trong giai đoạn trước mắt.
Theo thống kê sơ bộ, cho đến nay số lượng thẻ tín dụng quốc tế được các NHTM Việt nam phát hành vào khoảng gần 34000 thẻ. Trong đó, đứng đầu là ACB với 20000 thẻ, kế đó là VCB với khoảng 11000 thẻ và EXIMBANK khoảng 12500 thẻ.Với một thị trường có hơn 80 triệu dân như Việt nam thì con số 34000 thẻ tín dụng là còn rất nỏ. Tuy nhiên các chuyên gia về thẻ tín dụng quốc tế vẫn coi đây là một trong những thị trường giàu tiềm năng nhất về loại thẻ điện tử và dự đoán ngày càng được củng cố. Theo phân tích của một chuyên gia VCB thì lượng thẻ phát hành ở việt nam trong giai đoạn 2003 từ 3 ngân hàng trên có thể đạt mức tăng trưởng từ 50-60%.
Có thể nói răng, Việc đưa các máy rút tiền tự động ATM vào hoạt động và phát hành các loại thẻ thanh toán.. là một trong những hoạt động chính của ngân hàng trong năm 2003 và các năm tiếp theo. Trong tương lai, máy rút tiền tự động ATM sẽ mở rộng ra các dịch vụ mới như chuyển tiền các nhân, nộp tiền vào tài khoản, thanh toán hoá đơn, nộp séc,in sao kê, mua các dịch vụ nhỏ... trở thành một điểm giao dịch tự phục vụ. Ngày 1/12/2002 ngân hàng ngoại thương Việt nam(VCB) đã đưa vào sử dụng máy ATM đầu tiên tại Trung thương mại Tràng Tiền. Dự kiến đến hết năm 2003 số máy này sẽ lên tới 55 máy, VCB sẽ dự kiến phát hành thêm khoảng 11.000 thẻ thanh toán.
Ngân hàng công thương (ICB) cũng không thua kém khi đã triển khai 32 máy ATM đặt tại một số trung tâm thương mại có hoạt động giao dịch lớn, và dự kiến đến hết năm 2003 sẽ tăng lên đến 37 máy. Ngoài việc phát triển hệ thống máy ATM, ICB còn một sản phẩm mới là thẻ tiền lẻ. Đây thực chất cũng là một loại thẻ thanh toán, khách hàng dùng thẻ này thay vì phải dùng tiền mặt để thanh toán các chi phí giao dịch hàng ngày đơn giản như điện nước...Đồng thời ICB kết hợp với các công nước, công ty điện lực để trang bị các loại máy thu tiền từ thẻ này cho các nhân viên thu tiền. Máy thu tiền này cũng rất nhỏ gọn, cho phép trừ trực tiếp số tiền trên thẻ theo số tiền ghi trên hoá đơn phải trả. Khách hàng sử dụng thẻ này có thể bổ sung tiền từ tài khoản vào thẻ, còn các đơn vị thu tiền sau khi kết nối các máy thu tiền với hệ thống mạng của ngân hàng thì số tiền mà khách hàng trả sẽ được chuyển trực tiếp vào tài khoản của đơn vị đó.
Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (BARD) đều đang gấp rút hoàn thiện việc kết nối hệ thống và trang bị các máy ATM của mình.BIDV tỏ ra khá nhanh nhạy khi đã triển khi việc phát hành thẻ rút tiền mặt (Cash card) với số dư tài khoản thẻ tối thiểu là 200.000 VNĐ. BARD đã phát triển hệ thống nối mạng WAN của mình ở 61 tỉnh thành trong cả nước đang được triển khai với liên doanh HYUNDAI Technology của Hàn quốc. Đây là tiền đề cho việc hội nhập các giao dịch nội bộ, tiến tới chuẩn hoá trong giao dịch quốc tế cũng như giao dịch bằng thẻ từ với những tài khoản ATM.
Tuy số lượng thẻ phát hành của EXIMBANK vẫn còn ở mức khiêm tốn (khoảng 1.000 thẻ), nhưng Ngân hàng đang có những kế hoạch mở rộng hoạt động phát hành thẻ tín dụng quốc tế cũng như tuyên bố sắp vào cuộc với các thẻ tín dụng nội địa. Ngoài ra, tham gia vào thị trường thẻ Việt nam không chỉ có các ngân hàng trong nước và còn có cả những ngân hàng nước ngoài, AZN là một ví dụ với các loại thẻ Acess Card đã được phát hành từ lâu. Các ngân hàng khác như HSBC, Citibank, Standard & charter Bank...cũng đang chuẩn bị tích cực. Theo tiến trình hội nhập, các hạn chế về mặt pháp lý sẽ bị xoá bỏ và đây là cơ hội tốt cho các ngân hàng nước ngoài nâng cao hoạt động của mình trên thị trường thẻ Việt nam.
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HÀNH THẺ CỦA SGD I - NHCTVN
Với phương châm “Sự thành công của khách hàng chính là sự thành công của Ngân hàng” đồng thời góp phần hoàn thành nhiệm vị kinh doanh chung của NHCTVN, là một chi nhánh đứng đầu trong hệ thống NHCTVN, SGDI-NHCTVN đã đề xuất với NHCTVN đưa ra các mục tiêu sau đây:
1. Về tổ chức
-Củng cố và xây dựng mô hình theo hướng khách hàng, lấy khách hàng làm trung tâm xây dựng mô hình tổ chức.
-Từng bước hình thành bộ phận chuyên trách về thẻ.
-Hướng tới thành lập trung tâm thanh toán thẻ khi nghiệp vụ thẻ Visa, Master, Cashcard ra đời, sắp tới NHCTVN sẽ thực hiện phát hành các loại thẻ này.
2. Về nghiệp vụ phát hành thẻ
* Củng cố sản phẩm hiện có, đẩy nhanh tiến độ phát hành thêm các loại thẻ mới:
Hiện nay, SGDI-NHCTVN mới chỉ phát hành thẻ ATM và dự kiến trong năm nay sẽ tăng lượng phát hành lên 2000 thẻ. Với mục đích đa dạng hoá các loại hình thẻ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, trong năm nay Ngân hàng sẽ đưa ra một số loại thẻ mới:
· Phát hành thẻ Visa, Mastercard: Đáp ứng nhu cầu hội nhập hiện nay.
· Phát hành thẻ tiền lẻ (Cashcard): Cho phép khách hàng thuận tiện trong việc thanh toán hoá đơn mua hàng, trả tiền khi đi ăn ở các nhà hàng...
* Tiếp tục phát triển các dịch vụ phụ trợ:
Ngân hàng vẫn tiếp tục tạo điều kiện mang lại những ưu đãi cho chủ thẻ những dịch vụ phụ trợ như: dịch vụ khách hàng 24/24h, thu phí từ 5 giao dịch trong ngày trở lên ( hiện nay là từ 2 giao dịch), cho phép in sao kê giao dịch trên hoá đơn, dịch vụ ngân hàng tại nhà (home- banking)...Những dịch vụ đi kèm này sẽ tạo ra sức hấp dẫn đối với khách hàng và hứa hẹ một sự phát triển đi lên của hoạt động kinh doanh thẻ tại SGDI-NHCTVN trong thời gian tới.
3. Về nghiệp vụ thanh toán thẻ
Song song với kế hoạch phát hành thẻ, ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh hoạt động thanh toán thẻ. Tiếp tục đầu tư vào chiến lược Marketing để mở rộng thị trường sử dụng và thanh toán thẻ: tăng cho phí cho Marketing để nghiên cứu phát triển loại thẻ mới, khuyến mại cho khách hàng sử dụng thẻ, tranh thủ kinh nghiệm và nguồn lực của đối tác nước ngoài.
Duy trì và phát triển các CSCNT. Đầu tư vào việc tự dộng hoá tại các điểm chấp nhận thẻ,nâng cao chất lượng phục vụ thanh toán thẻ tại các CSCNT này, tăng cường hợp tác với các ngân hàng chưa thanh toán thẻ để mở rộng mạng lưới CSCNT.
Nghiên cứu kết hợp thanh toán thẻ với các nghiệp vụ khác của Ngân hàng nhằm đảm bảo cung cấp các sản phẩm ngân hàng một cách đồng bộ và có sức cạnh tranh nhất.
4.Về hệ thống công nghệ, cơ chế xử lý kỹ thuật
-Đảm bảo hoạt động ổn định của phần mềm quản lý và xử lý cấp phép, thanh toán cũng như tăng cường phối hợp chặt chẽ với bưu điện, các đối tác nước ngoài có liên quan để khắc phục các lỗi của hệ thống gây ách tắc trong sử dụng thẻ của khách hàng, giảm các chương trình giao diện để nâng cao khả năng an toàn và ổn định của hệ thống công nghệ thẻ
- Củng cố hệ thống công nghệ và kỹ thuật hiện.
- Đầu tư thiết bị và công nghệ mới.
- Bảo hành, bảo dưỡng thiết bị.
- Xây dựng hệ thống xử lý sự cố.
- Đề xuất với NHCT tăng số máy ATM lắp đặt.
Với mục tiêu là tăng sức cạnh và hiệu quả hoạt động của ATM-NHCTVN và tạo ra thương hiệu, uy tín của nó trên thị trường. Căn cứ vào những mục tiêu trên để nhanh chóng thực hiện nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ SGDI-NHCTVN cần phải có những giải pháp và kiến nghị với NHCTVN, NHNNVN, Chính phủ...
III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI SGD I - NHCTVN
Phát hành và thanh toán thẻ hiện nay chưa phải là nghiệp vụ lớn tại SGDI-NHCTVN, nếu so sánh doanh số và lợi nhuận thu được từ hoạt động này với toàn ngân hàng thì chúng ta sẽ thấy rõ điều này. Tuy nhiên, trong chiến lược phát triển của ngân hàng, ban lãnh đạo vẫn coi đây là một trong những nghiệp vụ quan trọng. Trong những năm trước mắt, phát hành và thanh toán thẻ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt là ngân hàng sẽ dụng phần lớn số phí thu được và số dư tài khoản thẻ để tái đầu tư và đầu tư nhằm mục đích sinh lời. Để làm được điều đó và thực hiện các mục tiêu đã đề ra, SGDI-NHCTVN đã có những giải pháp như sau:
1. Định hướng mô hình tổ chức
-Xây dựng mô hình theo định hướng khách hàng tức là:
+ Lấy khách hàng làm trung tâm xây dựng mô hình tổ chức
+Đảm bảo chuyên môn hoá cao trong phục vụ khách hàng nâng cao tính tập trung trong quản lý hệ thống và phân quyền trong quản lý thiết bị, tác nghiệp và thực hiện marketing, dịch vụ khách hàng.
+Đảm bảo “ quản lý sản phẩm theo chiều dọc, quản lý khách hàng theo chiều ngang” nhằm phục vụ khách hàng theo phương thức giao dịch “một cửa” với phương châm “Nhanh chóng- Chính xác- An toàn- Thuận tiện” tạo ra lợi thế cạnh tranh và sự khác biệt về dịch vụ của SGDI-NHCTVN.
Các công việc cần làm liên quan đến tổ chức dựa trên công thức.
Dịch vụ= Công nghệ + Con người
Chúng ta biết công nghệ là một thành phần không thể thiếu trong dịch vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, con người lại có vai trò quyết đối với sự thành bại trong hoạt động kinh doanh, với kinh doanh thẻ, một lĩnh vực tương đối mới thì nhân tố này đóng vai trò càng quan trọng hơn.ở đây, cần phải có một đội ngũ nhân sự chuyên về thẻ, vì vậy, SGDI-NHCTVN đã tập trung vào phát triển các bộ phận tạo ra năng lực cạnh tranh cho dịch vụ thẻ, chẳng hạn như: Bộ phận Marketing và phát triển sản phẩm, Bộ phận hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ khách hàng, Phát triển trọng điểm các kênh phân phối ATM nhằm phát triển nhanh theo chiều rộng và chiều sâu dịch vụ ATM.
2. Tăng cường đầu tư cho hệ thống trang thiết bị kỹ thuật phục vụ thanh toán thẻ
- Đẩy mạnh nhanh tiến độ hiện đại hoá ngân hàng, vận dụng hệ thống tài khoản không chữ ký.
- Tăng cường phối hợp với NHCTVN để lắp đặt thêm các trạm Mosaic tại những khu vực chưa có máy ATM tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển tiền và rút tiền. Nhanh chóng lắp đặt các máy ATM và cho ra đời sản phẩm thẻ rút tiền mặt (Cashcard), thẻ Visa và Master vốn đã được đưa vào kế hoạch mở rộng sản phẩm của Trung tâm thẻ NHCTVN.Tuy nhiên, khi lắp đặt các trạm Mosaic và các máy ATM, ngân hàng cần phải nghiên cứu, đầu tư sao cho có hiệu quả, nhất là khi nhu cầu trong dân cư cho các loại thẻ là chưa lớn, trình độ dân trí chưa cao...Do vậy, máy ATM của Ngân hàng cần được đặt ở những trung tâm thương mại, những trục đường số chính, những toà nhà cao ốc có nhiều trụ sở, văn phòng đại diện của các công ty lớn, ở các khu danh lam thắng cảnh, khu du lịch...Tránh tình trạng khách hàng có thẻ mà không có sẵn máy để rút tiền. Trong tương lai, ATM sẽ mang lại khá nhiều lợi ích cho ngân hàng và khách hàng khi hệ thống ATM dần được xã hội hoá. Để khai thác tốt các dịch vụ thẻ ATM, Cashcard ngân hàng cần khuyến khích hơn nữa việc mở tài khoản cá nhân tại Ngân hàng cũng như thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác với các đơn vị cung cấp điện, nước, viễn thông... Trong một tương lai không xa, các cơ quan, công ty, nhà máy, xí nghiệp có thể sẽ trả lương qua tài khoản của nhân viên mình ở SGDI –NHCTVN để họ tự lĩnh tại các máy ATM của ngân hàng. Cũng theo đó, các khoản phí cần thiết như điện nước, điện thoại... có thể được trả trực tiếp vào tài khoản của nhà máy nước, nhà máy điện, bưu điện.. thông qua hệ thống máy ATM của Ngân hàng.
- Công nghệ phát hành thẻ và chất lượng thẻ là hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, một công nghệ hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẻ phát hành và thanh toán thẻ. Chính vì thế bất cứ một sự hỏng hóc nào dù là nhỏ xảy ra thì thiệt hại về mặt kinh tế cũng như uy tín của Ngân hàng là rất lớn. Vì vậy, Ngân hàng cần có những biện pháp giảm thiểu những sự cố xảy ra, tăng thời gian phục vụ cho khách hàng. Đảm bảo công nghệ phuc vụ, phát triển các chức năng mới cho thẻ, đầu tư công nghệ theo hướng đón đầu. Thực hiện bảo dưỡng tất cả các máy ATM trước khi hết hợp đồng bảo hành.
- Phát triển các ứng dụng để đảm bảo tính tích hợp thẻ chíp trong tương lai.
- Phát triển các chức năng mới như; bán thẻ điện thoại, tích hợp thẻ ATM với thẻ Visa, Master thẻ Cashcard với thẻ tín dụng để phục vụ cho seagame 22.
- Xây dựng các chương trình quảng cáo trên thẻ.
Ngoài ra, mẫu thẻ cũng cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn của tổ chức quốc tế, hơn nữa còn phải đảm bảo các yếu tố thẩm mỹ, sáng tạo, sang trọng, và khả năng chống giả mạo. Điều này không những giúp cho ngân hàng lựa chọn được một kiểu dáng thẻ thích hợp mà còn khuyến khích được những chủ thẻ tiềm năng trong tương lai và họ sẽ giúp Ngân hàng phổ biến những kiến thức về thẻ trong dân cư.
3. Giải pháp về hoạt động Marketing
Đối với đông đảo người dân Việt nam hiện nay thì thẻ thanh toán vẫn là một cái gì đó rất mới mẻ. Nó chỉ biết đến trong số ít bộ phận dân cư, chủ yếu là các cán bộ ngân hàng, các quan chức Nhà nước, Chính phủ, những người có thu nhập cao hoặc hay phải đi công tác nước ngoài. Vì vậy, để phát triển được thị trường thẻ tại Việt nam thì không thẻ bỏ qua chính sách marketing, quảng cáo sản phẩm rộng rãi đến các tầng lớp dân cư. Trong việc mở rộng khai thác dịch vụ thẻ, SGDI-NHCTVN cần xác định chiến lược của mình là đi từ khẩu hiệu của Marketing truyền thống bán những cái mình có sang khẩu hiệu của Marketing của ngân hàng hiện đại bán những cái thị trường cần. Trên thực tế, giải pháp Marketing của ngân hàng không có tính tách biệt mà vốn nó đã được lồng ghép với một số các giải pháp khác trong quá trình thực hiện, bao gồm các loại sau:
3.1. Lựa chọn thị trường mục tiêu từ đó đưa những chính sách phù hợp
Hoạt động Marketing về thẻ ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh phức tạp giữa các ngân hàng, trở ngại về thu nhập và tâm lý ưa chuộng tiền mặt do đó SGDI-NHCTVN cần phải chú trọng phục vụ đối tượng nào và như thế nào là rất cần thiết. Việc lựa chọn khách hàng mục tiêu là một bước quan trọng trong hoạt động kinh doanh của tất cả các nghành kinh doanh. Khi xác định đúng khách hàng mục tiêu, người ta dễ dàng hơn trong việc đưa ra những đối sách kinh doanh phù hợp nhằm phục vụ tốt nhu cầu của nhóm khách hàng đã chọn. Công tác phát hành và thanh toán thẻ tại SGDI-NHCTVN cũng là một trong những hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó ngân hàng không thể thụ động trông chờ khách hàng tự tìm đến mà ngân hàng phải chủ động lựa chọn và tìm ra giải pháp thu hút khách hàng mà mình mong muốn được phục vụ. Vậy ai sẽ là khách hàng mục tiêu của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Thẻ là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, biểu hiện của một nền công nghiệp hiện đại. Việt nam là một nước chậm phát triển, một trong 10 nước nghèo nhất thế giới. Khoảng 75% dân số sống ở nông thôn và gần 80% lao động trong nông nghiệp. Thu nhập của nhóm dân cư này đa phần là thấp và không ổn định, đa phần là dân trí thấp, họ còn chưa hiểu, chưa hình dung khái niệm thẻ là như thế nào huống chi là nói đến việc sử dụng nó. Vì vậy trong điều kiện hiện nay, hệ thống NHCTVN nói chung, SGDI-NHCTVN nói riêng không nên tập trung chú ý hướng dịch vụ thẻ vào phục vụ đối tượng này.
Trong số nhân khẩu thành thị thì có nhiều đối tượng khác nhau nhưng phần đông là những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, người làm dịch vụ nội trợ, giáo viên, công nhân, cán bộ và nhân viên trong các cơ quan hành chính nhà nước, lực lượng vũ trang... Với mức thu nhập và các khoản phụ cấp bình quân chưa tới 1 triệu đ/ người / tháng trong khi đó thẻ Visa có giá trị thấp nhất là 10 triệu đồng. Việc mua sắm hàng hoá, và chi trả dịch vụ ... Những khoản nhỏ lẻ, ít tiền tại các chợ, cửa hàng ven phố. Mua các đồ dùng đắt tiền, đến các siêu thị phải tính đến hàng tháng, hàng năm mới dài được một lần. Trong số họ cũng có người đi du lịch bằng máy bay, ăn nghỉ tại khách sạn...Song đó là kết quả của cả một quá trình tích luỹ, tiết kiệm lâu dài, hay một khoản tài chính đột xuất như quà biếu, tiền lương không phải thương xuyên. Do vậy, phát hành thẻ cho đối tượng này hoàn toàn không kinh tế và tiện lợi chút nào cho cả người sử dụng, phát hành và CSCNT.
Một số lượng khác chiếm tỷ lệ không lớn so với tổng dân số song khá đông đảo là những viên chức nhà nước ... có nhu cầu thường xuyên đi công tác băng máy bay nghỉ tại khách sạn, ăn tại nàh hàng... nhưng những chi tiêu đó đều là tiền lương của cơ quan, cơ quan chi và thanh toán... nên đương nhiên chúng ta không thể trông chờ vào đối tượng này. Và cũng thật phi lý như cơ quan hay Doanh nghiệp cấp thẻ tín dụng hay thẻ thanh toán cho sử dụng trong nước trừ khi họ đi công tác nước ngoài. Tất nhiên có thể nghiên cứu khai thác được khía cạnh họ chi tiêu và sử dụng trong nước gắn liền với quy chế về tài chính chặt chẽ chế độ hoá đơn chứng từ cụ thể có liên quan.
Một bộ phận dân cư khá đông đảo khác là những người làm việc trong các cơ quan nước ngoài, cơ sở liên doanh đầu tư nước ngoài, một số nghành có thu nhập cao như: đầu khí, ngân hàng, bưu điện, hàng không...chủ Doanh nghiệp tư nhân và Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là những người có thu nhập khá và ổn định, có nhu cầu hay có điều kiện thường xuyên đến các siêu thị, nghỉ tại khách sạn, đi máy bay, đi du lịch...Rõ ràng đây là đối tượng chính đầy tiềm năng và có xu hướng tăng lên trong việc phát hành thẻ mà chúng ta đang cần tập trung khai thác.
Đối tượng cuối cùng là người nước ngoài, bao gồm cả người cư trú và người đầu tư nước ngoài vào Việt nam, chuyên gia của các tổ chức ở Việt nam... Những người không cư trú: Việt kiều về thăm tổ quốc, khách du lịch, thương gia nước ngoài đến tìm hiểu thị trường Việt nam và người nước ngoài làm việc ngắn ngày. Đối tượng này có nhu cầu sử dụng thẻ thực sự và khá đông đảo, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm. Nhóm này hay sử dụng thẻ của nước ngoài phát hành. Mặc dù vậy, ngân hàng vẫn luôn quan tâm đến nhóm khách hàng này để đẩy mạnh hoạt động triển khai các CSCNT và công tác thanh toán thẻ trong nước, sẽ phần nào thu hút họ sử dụng thẻ do ngân hàng phát hành.
Nói tóm lại SGDI-NHCTVN cần phân tích chi tiết cụ thể các tầng lớp dân cư và các đối tượng nước ngoài cư trú và không cư trú đề tìm ra những nhóm khách hàng tiềm năng và từ đó có những biện pháp đẩy mạnh marketing phù hợp để những khách hàng tiềm năng thực sự trở thành khách hàng của ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế, các ngân hàng không thể thoả mãn tất cả các nhu cầu của khách hàng tiềm năng, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán thẻ.
3.2. Thành lập một bộ phận marketing chuyên về thẻ.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động Marketing ngân hàng. Ngân hàng nên thành lập một bộ phận Marketing chuyên nghiệp về thẻ thanh toán. Các cán bộ, nhân viên của bộ phận marketing này ngoài nghiệp vụ ngân hàng và nghiệp vụ thẻ vững vàng còn phải có những kiến thức xã hội tổng hợp, có khả năng thống kê, dự báo, phân tích một cách lô gíc và khoa học để có thể đưa những chiến lược marketing về thẻ phù hợp nhất.Sau đó, các chiến lược này sẽ phổ biến đến các phòng giao dịch để cùng phối hợp thực hiện, tránh tình trạng hiện nay là việc ai người ấy làm đang diễn ra không chỉ ở SGDI-NHCTVN mà còn ở tất cả NHTM Việt nam khác. Việc phối hợp giữa bộ phận marketing về thẻ và các bộ phận tác nghiệp khác của ngân hàng sẽ đảm bảo tính hệ thống, thống nhất trong chỉ đạo và triển khai thực hiện những kế hoạch khuyến trương, phát triển dịch vụ thẻ thanh toán, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của thẻ SGDI-NHCTVN nói riêng và của NHCTVN nói chung.
3.3. Thực hiện các hoạt dộng khuyếch trương, quảng cáo rộng rãi để thu hút khách hàng đến với dịch vụ thẻ
Đây là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, và càng quan trọng hơn đối với thẻ, một sản phẩm còn rất mờ ảo chưa đi vào nhận thức của đại đa số người dân Việt nam , thông qua các hình thức sau:
Thứ nhất, để khai thác nhóm khách hàng mục tiêu, ngân hàng có thể sử dụng một số biện pháp như: tổ chức các chương trình giới thiệu và gửi thư mời một cách trang trọng đến từng cá nhân hoặc tổ chức. Khi bắt đầu triển khai những sản phẩm thẻ mới, Ngân hàng có thể cử nhân viên của phòng thẻ đến tận các doanh nghiệp, các công ty lớn, các quán sứ để tiếp thị, giới thiệu và hướng dẫn các thủ tục cần thiết cho khách hàng. Đội ngũ nhân viên này cần phải được tập huấn kỹ càng, am hiểu về nghệ thuật marketing để việc giới thiệu mang tính thuyết phục cao.
Thứ hai, đẩy mạnh việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, truyền hình... chi phí cho mỗi lần quảng cáo không phải là nhỏ, nên để giảm chi phí này SGDI-NHCTVN có thể liên kết với các đại lý chấp nhận thẻ lớn của ngân hàng để quảng cáo chung, vừa giới thiệu cho dịch vụ thẻ NHCTVN, vừa quảng bá thương hiệu cho các đại lý mà hai bên đều tiết kiệm được chi phí quảng cáo của mình.
Thứ ba, Ngân hàng nên sử dụng các pano, áp phích quảng cáo trên đường phố và các khu vực công cộng, các nơi vui chơi; phát tờ rơi giới thiệu các sản phẩm dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, trong đó có dịch vụ thẻ.
Thứ tư, SGDI-NHCTVN có thể hợp tác với một số trường đại học để tổ chức các cuộc hội thảo, các buổi toạ đàm hỏi đáp về thẻ thanh toán cho sinh viên. Họ là tầng lớp trí thức trẻ của đất nước dễ tiếp thu những cái mới, hiện đại và có thể những là khách hàng tương lai của ngân hàng. Sinh viên cũng là cầu nối đưa những kiến thức về thẻ đến nhiều tầng lớp khác.
3.4. Khuyến khích mở tài khoản cá nhân và tiền gửi tại Ngân hàng.
Hiện nay các tài khoản mở tại Ngân hàng phần lớn là các công ty, tài khoản cá nhân tương đối ít. Trong khi việc mở tài khoản ngân hàng là một trong những điều kiện tiên quyết đẻ thực hiện việc sử dụng thẻ nói chung và thẻ tín dụng quốc tế nói riêng. Chính vì vậy, SGDI-NHCTVN cần có những biện pháp khuyến khích về mặt kinh tế để tăng số tài khoản cá nhân tại Ngân hàng như: Ngân hàng cần linh hoạt hơn nữa trong việc áp dụng mức lãi suất ưu đãi cho các khoản tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi có dịch vụ thanh toán hoá đơn tự động... cũng như phát triển các dịch vụ phụ trợ kèm theo và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng khả năng cạnh tranh đối với các NHTM khác. Đối với một số khách hàng quen biết lâu năm và có uy tín, Ngân hàng nên xem xét việc bỏ yêu cầu đảm bảo số dư tối thiểu khi mở tài khoản tại Ngân hàng cho khách hàng.
4. Mở rộng mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ
CSCNT là một chủ thể quan trọng trong quy trình thanh toán thẻ. Số lượng CSCNT là một trong những yếu tố quan trọng nhằm đẩy mạnh doanh số thanh toán theo hình thức này. Vì thẻ còn được sử dụng quá ít ở Việt nam nên các CSCNT hoàn toàn chưa thấy được những lợi ích mà họ có thể nhận được từ việc thanh toán thẻ.
Để mở rộng các CSCNT, trước tiên ngân hàng phải làm cho các CSCNT cần đến ngân hàng. Ngân hàng nên dành cho các CSCNT những ưu đãi trong hoạt động giao dịch khác với Ngân hàng như ưu đãi trong hoạt động cho vay, thanh toán... Khi những ưu đãi này đem lại lợi ích thiết thực cho các CSCNT thì nhiều CSCNT sẽ muốn gia nhập mạng lưới này.
Mặt khác, Ngân hàng cũng cần phải tăng cường hoạt động tiếp thị đối với CSCNT, phải cho họ thấy rõ được những lợi ích của việc chấp nhận thanh toán thẻ. Đồng thời có những chính sách khuyến khích các CSCNT thanh toán thẻ bằng cách giảm phí cho những CSCNT có doanh số thanh toán thẻ lớn trong tháng. Như vậy, để giảm được chi phí các CSCNT sẽ tìm cách khuyến khích khách hàng thanh toán bằng thẻ.
5. Quản lý rủi ro
Hiện any rủi ro xảy ra ở SGDI-NHCTVN là thấp bởi số lượng thẻ cũng như loại thẻ được phát hành là quá ít, doanh số thanh toán cũng chưa cao. Nhưng với trình đọ công nghệ còn thấp cộng với khả năng trong lĩnh vực thẻ còn non nớt thì nguy cỏ xảy ra rủi ro ở Ngân hàng là không thể không có. Do vậy, SGDI-NHCTVN cần phải xây dựng chiến lược quản lý rủi ro trong mọi nghiệp vụ thì mới đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh thẻ. Cụ thể:
5.1.Trong hoạt động phát hành
· Kiểm tra chính xác các thông tin trong hồ sơ xin phát hành thẻ để đảm bảo rằng các thông tin đó là thật và chính xác trước khi xem xét duyệt phát hành thẻ cho khách hàng.
· Tuân thủ các quy trình phát hành và thanh toán thẻ của NHCTVN và NHNNVN.
· Khi giao thẻ cho khách hàng, SGDI-NHCTVN phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, giữ bí mật số Pin, đảm bảo chủ thẻ nhận được thẻ. Ngân hàng chỉ giao cho chủ thẻ số Pin khi chủ thẻ xác nhận đã nhận đựoc thẻ đẻ tránh trường hợp thẻ bị lợi dụng do thất lạc.
· Hướng dẫn đầy đủ , kỹ càng cho khách hàng về cách sử dụng thẻ và lưu giữ hoá đơn; cách bảo quản, bảo mật thẻ; thủ tục liên hệ với Ngân hàng khi thẻ bị mất cắp, thất lạc hay bị lộ số Pin hoặc khi có sự thay đổi về địa chỉ liên hệ; thủ tục giải quyết cá tranh chấp , khiếu nại và các quy định khác.
5.2 Trong hoạt động thanh toán.
· Thẩm định các đưon vị cung cấp hàng hoá- dịch vụ hay nhận ứng rút tiền mặt trước khi ký kết hợp đồng thanh toán thẻ. Khi ký kết hợp đồng Ngân hàng phải hướng dẫn kỹ càng cho các đại lý cách thức phân biệt thẻ thật và thẻ giả; cách sử dụng bảng tin cảnh giác; thủ tục lập, lưu giữ, nộp hoá đơn và thanhtoná với Ngân hàng; thủ tục giải quyết tra soát, khiếu nại cùng các quy đinh khác.
· Gửi đầy đủ và kịp thời các danh sách thẻ cấm lưu hành cho đại lý chấp nhận thẻ.
· Hướng dẫn đại lý sử dụng và bảo quản thiết bị EDC và máy cà thẻ, yêu cầu CSCNT thông báo ngay mọi hỏng hóc của máy móc thiết bị cho Ngân hàng.
6. Đào tạo nguồn nhân lực
Con người luôn là chủ thể không thể thay thế được của mọi quá trình phát triển, là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh.Vì thế, SGDI-NHCTVN cần tích cực đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để phù hợp với yêu cầu kinh doanh trong thời gian tới như:
· Đề nghị với NHCTVN phối hợp với NHNN tổ chức những lớp học, những khoá huấn luyện về thẻ.
· Phổ biến và trang bị kiến thức cơ bản cần thiết về dự án đổi mới công nghệ ngân hàng cho nhân viên toàn ngân hàng nói chung và nhân viên phòng thẻ nói riêng để khi dự án đựoc triển khai rộng khắp thì họ có khả năng tiếp nhận ngay và vận hành những công nghệ ngân hàng mới.
· Định kỳ tiến hành thăm dò nội bộ về mức độ hài lòng của nhân viên thẻ về lương, thưởng, điều kiện làm việc cũng như mục đích, định hướng cảu họ trong tương lai, để giúo cho cán bộ lãnh đạo có một cái nhìn chính xác về nhân viên của mình.
· Gây dựng tinh thần đoàn kết giữa các nhân viên, phối hợp chặt chẽ hoạt động giữa bộ phận thẻ và các cán bộ khác có liên quan trong Ngân hàng để học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành tốt nhất công việc.
7. Mở rộng quan hệ bạn hàng và các đối tác
Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực thẻ, việc mở rộng quan hệ với bạn hàng và đối tác là rất cần thiết. Do đó, SGDI-NHCTVN cần chú trọng đến những đối tác và bạn hàng lớn, có uy tín đồng thời qua đó học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong phía họ.
Ngày nay, với xu thế mở cửa hội nhập cơ hội quan hệ với bạn hàng và đối tác cho các ngân hàng là rất lớn. Tuy nhiên, để duy trì mối quan hệ thường xuyên và lâu dài cũng không phải là vấn đề đơn giản điều này còn phụ thuộc phần lớn vào sức mạnh và uy tín của Ngân hàng trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. do vậy, đòi hỏi SGDI-NHCTVN phải có những chiến lược phù hợp trong việc mở rộng quan hệ bạn hàng và đối tác.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐÂY MẠNH CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI SGD I - NHCTVN
1. Đề xuất với NHCTVN
SGDI-NHCTVN là một trong những chi nhánh đủ điều kiện được Tổng giám đốc ngân hàng công thương uỷ quyền làm đại lý phát hành và thanh toán thẻ. Do vậy, hoạt động kinh doanh thẻ tại Sở hầu như đều phải tuân theo các quy định và hướng dẫn của NHCTVN. Theo quyết định số 522 ngày 11/09/2000 của Tổng giám đốc NHCTVN, Sở sẽ có quyền kiến nghị với NHCTVN trong phạm vi quyền hạn của mình mà chủ yếu là về mặt kỹ thuật và những văn bản hướng dẫn thi hành nghiệp vụ, cụ thể SGDI-NHCTVN đã đề xuất một số vấn đề trọng tâm sau:
1.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy vận hành nghiệp vụ thẻ
Sửa đổi bổ sung một số tài khoản kế toán, quy trình hạch toán phát hành và thanh toán thẻ ATM.
Sửa đổi và bổ sung văn bản cho phép in sao kê giao dịch, in số dư đầu, số dư cuối trên hoá đơn, phí/ giao dịch.
Xây dựng văn bản hướng dẫn về hoạt động marketing về dịch vụ khách hàng.
1.2 .Tích luỹ và tập trung vốn cho việc xây dựng cơ sở kỹ thuật về công nghệ thông tin ngân hàng hiện đại, đủ sức tiếp cận với thực tế và trong tương lai với sự phát triển của khoa học công nghệ mới, cụ thể:
- Xây dựng văn bản hướng dẫn vận hành và khắc phục trục trặc kỹ thuật hệ thống ATM.
Đầu tư các máy ATM đa chức năng.
Ký kết hợp đồng bảo trì cho các thiết bị đảm bảo phát hành và thanh toán thẻ.
1.3 Kết nối mạng các máy ATM của các hệ thống ngân hàng khác nhau.
Bằng mô hình SALOP, một cán bộ thuộc Trung tâm công nghệ thông tin NHCTVN đã lý giải được lợi ích của tính tương thích giữa các mạng ATM, đây là một trong những mô hình cạnh trạnh độc quyền thông dụng nhất, coi phí giao thông là nguyên nhât dẫn đến sự khác biệt giữa các sản phẩm khác nhau để giải đáp câu hỏi “liệu sự cạnh tranh tự do giữa các ngân hàng có dẫn đến sự hợp tác giữa các mạng ATM”. Việc chứng minh cũng rất cụ thể và không kém sự phức tạp vì vậy, em xin đưa ra kết quả sau đây:
Khi các máy ATM hoàn toàn không tương thích sẽ đem lại lợi nhuận thấp hơn khi có sự tương thích một phần giữa các ATM của các ngân hàng khác nhau. Như vậy ngay cả khi không có sự ép buộc từ bên ngoài thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ làm cho mạng ATM của các ngân hàng trở nên tương thích với nhau một cách không tự giác. Tuy nhiên, ở Việt nam hiện nay vẫn chưa triển khai được việc kết nối mạng ATM của các hệ thống ngân hàng khác nhau mặc dù nó vẫn nằm trong kế hoạch của các ngân hàng, bởi để thực hiện được việc này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà bản thân một ngân hàng không thể làm được. Đây là một trong những tồn tại lớn trong quá trình khai thác và phát triển dịch vụ thẻ tại Việt nam nói chung và SGDI-NHCTVN nói riêng. Các ngân hàng nên sớm phối hợp triển khai để hạn chế tình trạng chủ thẻ phải đến ngân hàng nơi mở tài khoản để xin chuyển tiền từ tài khoản sang tiền mặt để tiện chi tiêu mặc dù cầm tiền trong tay là không an toàn.
2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà Nước
2.1.Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ
Hoàn chỉnh môi trường pháp lý là vấn đề cần thiết để thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong xã hội. Cần có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện, đầy đủ cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. ở Việt nam hiện nay mới chỉ có duy nhất một Quy chế của Ngân hàng Nhà nước về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Đó chỉ là một văn bản có tính hướng dẫn chung còn về quy trình cụ thể thì lại do từng ngân hàng tự đề ra, chứ lại không có sự thống nhất chung. Một khi thẻ đã sử dụng phổ biến và trở thành phương tiện thanh toán hữu hiệu thì rất cần có một pháp lệnh về thẻ thanh toán với những điều khoản chặt chẽ, thống nhất với các văn bản có liên quan đến quản lý ngoại hối, tín dụng chung.
Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các CSCNT nhưng chưa có phần đề cập đến hạn mức thanh toán và tín dụng của thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Chính sách quản lý ngoại hối cần phải có quy định riêng cho thẻ thanh toán, nhất là thẻ tín dụng quốc tế nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ nhưng phải vừa tạo điều kiện cho phát hành thẻ của ngân hàng và sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế ở mức độ nào đó.
Chính sách tín dụng phải có quy định riêng cho tín dụng thẻ – một loại hình tín dụng mới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, đảm bảo tín dụng cho khách hàng của mình, giảm khó khăn phiền hà cho khách hàng để tăng lượng khách hàng sử dụng thẻ. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng – chủ thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản vay thông thường mà có thể nới rộng hơn và lưu tâm hơn đến khả năng thanh toán của khách hàng căn cứ vào tính ổn định thường xuyên của thu nhập.
Ngoài ra, cũng cần quy định rõ vấn đề liên quan đến dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro cho chủ thẻ và ngân hàng.
2.2. Hoạch định các chiến lược chung về thẻ cho toàn hệ thống NHTM để phát triển cạnh tranh lành mạnh.
Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện dịch vụ thẻ để tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ trong cả nước. Cùng với ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt nam ra đời có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt nam.
Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ thường xuyên làm việc với NHNN và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức thẻ quốc tế nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nghiệp vụ thẻ ở Việt nam. Hội cũng đã thu hút gần hết các ngân hàng thực hiện dịch vụ thẻ ở Việt nam tham gia, thống nhất mức phí, áp dụng chính sách chung nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các ngân hàng và thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Hội cũng nắm bắt được những khó khăn, thuận lợi của ngân hàng trong hiệp hội về phát hành và thanh toán thẻ để cùng nhau đề ra các giải pháp khắc phục, bước đầu thực hiện tiêu chí “ diễn đàn hợp tác, trao đổi kinh nghiệm của các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt nam”. Tuy vậy, hoạt động của hội cũng cần mạnh mẽ có hiệu quả hơn, có những quy định nghiêm khắc về chế tài, đóng góp tích cực hơn cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt nam. Hội cần tiếp tục là nòng cốt, đi đầu trong việc cải tiến hình thức, phương thức hoạt động kinh doanh thẻ.
Thông qua Hiệp hội, NHNN có thể áp dụng những chính sách chung của mình cho hoạt động thẻ như: hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy việc phát hành, thanh toán thẻ, ứng dụng công nghệ thẻ đã, đang và sẽ phát triển trên thị trường thế giới và khu vực.
2.3. Thành lập trung tâm thanh toán liên hàng về thẻ.
Thực tế hiện nay, các ngân hàng quản lý việc phát hành và thanh toán thẻ theo mạng riêng của mình, điều này có lợi là phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh, kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng. Nhưng qua kinh nghiệm của nước ngoài, chúng ta cũng nên thành lập một trung tâm chuyển mạch,thanh toán liên hàng về thẻ. Trung tâm sẽ xử lý các giao dịch, thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành nhằm khuyến khích các ngân hàng phát hành thẻ nội địa trên cơ sở đầu tư mạng thanh toán trực tuyến trong nội bộ từng ngân hàng và tạo điều kiện giảm chi phí thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Trung tâm này là đầu mối xử lý các giao dịch cấp phép, thanh toán, tra soát giao dịch thẻ của các NHTM Việt nam, đảm bảo các loại thẻ do các NHTM khác nhau phát hành có thể thanh toán tại bất cứ CSCNT nào trong toàn hệ thống. Các giao dịch thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành thực hiện tại các CSCNT trong nước sẽ được trung tâm này xử lý cấp phép và trao đổi của các Tổ chức thẻ quốc tế.
Điều này sẽ làm giảm tính phức tạp về hình thức thanh toán các giao dịch nội bộ trong nước, tăng tốc độ thanh toán, giải quyết được vấn đề chênh lệch về tỷ giá, tiết kiệm khoản chi phí phải thanh toán cho các tổ chức thẻ quóc tế và thống nhất chủ trương giao dịch thẻ ở Việt nam chỉ dùng VNĐ...đồng thời qua trung tâm đó, các thành viên sẽ có mối quan hệ chặt chẽ hơn trong mọi lĩnh vực: Cập nhật nhanh nhất các thông tin về thẻ giả mạo tránh thất thoát cho các thành viên, kết hợp in ấn danh sách thẻ cấm lưu hành, thông nhất về đồng tiền thanh toán, phí, tỷ giá.
2.4. Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh thẻ.
Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng không ngại đầu tư mở rộng dịch vụ thẻ bằng việc trợ giúp các ngân hàng trong nước trong việc phát triển nghiệp vụ thẻ để tạo điều kiện cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đồng thời có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế trong hoạt động thẻ.
Ngân hàng Nhà nước cần cho phép các NHTM thành lập quỹ dự phòng rủi ro cho nghiệp vụ thẻ, thành lập bộ phận quản lý phòng ngừa rủi ro chung cho các NHPH, NHTT thẻ nằm trong trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNN.
NHNN thường xuyên tổ chức các khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thẻ cho các NHTM cùng tham gia; thới thiệu để các NHTM thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ, cùng các NHTM trao đổi kinh nghiệm, giải quyết khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện.
Cho phép các NHTM Việt nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định để đảm bảo tính cạnh tranh của các loại thẻ của các ngân hàng nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành.
NHNN cần giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các đề án, tính toán hiệu quả kinh tế và vốn đầu tư để trên cơ sở đó huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực thẻ.
3. Kiến nghị với Chính phủ.
3.1. Ban hành những văn bản pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực thẻ.
Chính phủ sớm ban hành các văn bản pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các ngân hàng kinh doanh thẻ, các CSCNT và chủ thẻ, mặt khác làm căn cứ cho các cơ quan hành pháp, bảo vệ pháp luật, luận tội và xử phạt các tổ chức tội phạm giả mạo giả tìn dụng cũng như các cá nhân có hành vi lừa đảo thông qua thẻ tín dụng để chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, hiện nay, số tội phạm liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. Vì vậy Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng pháp luật, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành, bộ luật hình sự nước ta cần sớm đưa ra các khung hình phạt cho các tội phạm liên quan đến thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số.
Ngoài ra, các cơ quan liên quan như: Bộ công an, cảnh sát kinh tế, cảnh sát quốc tế cũng cần có những biện pháp phối hợp với các ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trong lĩnh vực này.
3.2. Đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không phải chỉ là vấn đề riêng của ngành ngân hàng mà là của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển của cả nước. Do vậy, nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng.
Riêng với lĩnh vực thẻ Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ mà nếu chỉ có ngành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi. Bởi vì như chúng ta đã biết công nghệ thẻ là công nghệ hoàn toàn mới mẻ ở Việt nam, máy móc thiết bị đều là những máy móc hiện đại mà Việt nam chưa thể sản xuất được thậm chí ngay cả những linh kiện thay thế cũng chưa có ở Việt nam. Việc giao nhận sửa chữa thiết bị hiện nay chưa được tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng buộc các ngân hàng phải tăng chi phí mua sắm thiết bị và dự phòng rất tốn kém. Do đó, Nhà nước nên xem xét giảm thuế nhập khẩu cho những máy móc phục vụ công nghệ thẻ ở Việt nam hiện nay chí ít cũng tạo điều kiện dễ dàng cho các hoạt động nhập khẩu này.
3.3. Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích cho hoạt động kinh doanh thẻ phát triển tại Việt nam.
Thẻ là một phương tiện thanh toán cần được khuyến khích sử dụng tại Việt nam để giảm lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế. Ở các mặt hàng khác khi Nhà nước khuyến khích tiêu dùng thường có chính sách giảm thuế. Đối với thẻ thanh toán hiện nay, Nhà nước đánh GTGT 10 %. Mức thuế này dường như không hợp lý, bởi đây là một dịch vụ mới, chi phí cho hoạt động thanh toán thẻ là rất tốn kém, vì thế giá thành dịch vụ cũng đã rất cao. Nếu Nhà nước tiếp tục giữ mức thuế cao như hiện nay thì khó có thể khuyến khích được người dân trong nước sử dụng dịch vụ này. Vì thế, Nhà nước nên có chính sách thuế thoả đáng hơn đối với mặt hàng thẻ, tốt nhất là nên hạ mức thuế xuống còn khoảng 5%, điều này sẽ tạo cơ hội cho các ngân hàng thực hiện việc giảm giá thành dịch vụ thẻ, đẩy nhanh tốc độ phát triển thẻ thanh toán tại Việt nam.
Bên cạnh đó, Nhà nước có thể khuyến khích người dân trong nước sử dụng thẻ qua việc mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng (vì đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện việc thanh toán qua ngân hàng). Trước hết Nhà nước có thể thực hiện việc chi trả lương cho các cán bộ công nhân viên thông qua hệ thống tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng.
3.4. Tạo môi trường pháp lý ổn định.
Một môi trường kinh tế- xã hội ổn định luôn là nền tảng vững chắc cho mọi sự phát triển. Phát triển thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kinh tế xã hội có ổn định và phát triển bền vững thì đời sống của người dân mới được cải thiện, quan hệ quốc tế mới được mở rộng, mới có điều kiện tiếp xúc với công nghệ thanh toán của ngân hàng. Kinh tế xã hội có phát triển thì ngân hàng mới có thể mở rộng được đối tượng phục vụ của mình.
3.5. Đầu tư cho hệ thống giáo dục
Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này nằm trong chiến lược phát triển chung của một quốc gia. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất thế giới như ngân hàng thì cần có một đường lối chỉ đạo của Nhà nước. Nhà nước cần khuyến khích các trương đại học mở ra các ngành học chuyên môn về thẻ ngân hàng, công nghệ thẻ nằm trong khối kinh tế chung.
Ngoài ra, Nhà nước cần có những biện pháp phổ cập các kiến thức và sự hiểu biết đến mọi tầng lớp dân cư trong việc sử dụng thẻ làm phương tiện thanh toán, bằng các phương tiện thông tin đại chúng khác nhau để người dân thấy rõ ưu việt, thuận lợi, tác dụng và lợi ích của việc sử dụng thẻ trong thanh toán dịch vụ.
Tóm lại: Sự giúp đỡ của Nhà nước là một vấn đề quan trọng đối với mọi ngành mọi cấp. Nếu có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ về cính sách thuế, quy định về luật pháp... Để các NHTM có định hướng phát triển khai thác dịch vụ thẻ thanh toán góp phần phát triển kinh tế xã hội lâu dài thì nhất định dịch vụ này sẽ thu được kết quả khả quan.
KẾT LUẬN
Thẻ tín dụng là một phương tiện hữu hiệu để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm mục đích hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông, thu hút tiền gửi của các tầng lớp dân cư vào ngân hàng, tăng nhanh tốc độ chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho tầng lớp dân cư được hưởng dịch vụ ngân hàng. Ngoài ra, nó còn hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách ngoại hối, chính sách thuế của Nhà nước, góp phần phát triển kinh tế xã hội Việt nam.
Vì vậy, dịch vụ thẻ là một hoạt động không thể thiếu đối với một dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm góp phần làm tăng thu nhập và làm phong phú thêm các loại hình dịch vụ của ngân hàng.
Hiện nay, tại SGDI-NHCTVN, hoạt động kinh doanh thẻ tuy còn tồn tại một số khó khăn, nhưng trong tương lai với một chiến lược kinh doanh đúng đắn cùng nỗ lực của đội ngũ cán bộ của ngân hàng và kinh nghiệm tích luỹ được, hoạt động kinh doanh thẻ của SGDI-NHCTVN sẽ đạt được những kết quả ngày càng to lớn, nhằm giữ vững thị phần và nâng cao vị thế của mình trên thị trường thẻ Việt nam và xa hơn nữa là trong khu vực và trên thế giới.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 66.doc