Đối vơi cả nước nói chung và các địa phương nói riêng và tỉnh Cao Bằng, để phát triển kinh tế đến các xã nghèo, các xã thuộc vùng sâu vùng xa, thực hiện điện khí hóa nông thôn thì việc đầu tiên là phải phát triển mạng lưới điện tới các xã này. Với những mục tiêu đặt ra của toàn tỉnh cũng như cho các xã nghèo này trong giai đoạn 2010-2015 thực sự không dễ dàng, muốn thực hiện tốt đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự cố gắng của cả Điện lực Cao Bằng, Tổng công ty điện lực miền Bắc và cả sự phối hợp cao giữa các ngành các cấp của chính quyền địa phương. Chỉ có như vậy thì mới có thể thực hiện tốt kế hoạch đưa điện về nông thôn , góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn của tỉnh Cao Bằng.
Nội dung bài viết về phát triển điện ở các xã nghèo ở tỉnh Cao Bằng là rất phức tạp, trong nghiên cứu trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên không thể xem xét vấn đề một cách cụ thể và toàn diện của vấn đề, đồng thời cũng không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự hướng dẫn đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cũng như ý kiến góp ý của cac bạn.
60 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển hệ thống lưới điện đến các xã nghèo tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g được thực hiện. Bên cạnh đó do sự phát triển của dân cư mà nhiều tuyến thiết kế cũ đường dây nhiều lần vượt ra khỏi đường bộ vượt qua ao hồ, vườn của người dân gây khó khăn cho nhân dân khi sống và làm việc, ngoài ra một số đường dây sử dụng loại dây trần kiểu cũ không bọc cách điện cũng không đảm bảo an toàn cho người dân sinh sống nơi đây.
Đường dây hạ áp tại các xã được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau chủ yếu là do dân tự đóng góp do đó không đảm bảo kỹ thuật trong quá trình vận hành, nhiều tuyến đường đã cũ nát. Dây dẫn trần loại AC-50, AC-35, AC-25, AC-10 được sử dụng chủ yếu ở các xã đa số đều đã tã, đứt các sợi. Mức độ an toàn của hệ thống và thiết bị sử dụng bị ảnh hưởng nhiều do lưới điện quá cũ nát nên không đảm bảo tính chất cũng như yêu cầu của nhiệm vụ của đường dây. Các trục 3 pha AC-50, AC – 35 có chiều dài rất ngắn, còn lại dây dẫn hạ thế do dân tự đầu tư gồm cột tre gỗ dày không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, dễ bị hư hỏng thời gian sử dụng ngắn.
Còn cần phải nói thêm ở trung tâm các xã tuy đã có điện nhưng đang phải sử dụng hệ thống công tơ điện không đồng bộ thiếu chính xác đang rất cần được thay thế, để có thể đáp ứng được nhu cầu và xóa bỏ những khúc mắc của một số người dân trong thời gian qua.
Các xã nghèo có địa bàn rộng, dân cư phân bố không tập trung do vậy mà ở các xã có đường dây dẫn điện tới thì chiều dài của đường dây này là quá sức đối với cấp quản lý điện lực của xã, thường các xã thành lập các tổ sửa chữa điện gồm một vài thành viên nên không thể đảm đương hết toàn bộ số đường dây qua xã, mặt khác sự thiếu năng lực của các cơ sở này cũng là một phần khiến cho hệ thống đường dây truyền tải điện ở các xã này xuống dốc trầm trọng, hầu hết các cột điện đều lâu ngày không được cải tạo nâng cấp, các trạm biến áp đã xuống cấp, không có người quản lý dẫn tới tình trạng nhiều nơi có đường dây điện tới xã nhưng không có điện hoặc điện quá yếu không đủ để thắp sáng.
Mặt khác ở các xã này hàng năm xảy ra nhiều thiên tai bão lũ nên đường dây điện hàng năm dễ bị hỏng, bị phá hủy, đặc biệt vào mùa mưa. Cứ sau mỗi trận mưa lớn là hàng loạt các công trình đường dây điện lại cần sửa chữa, chi phí sửa chữa thì không ít mà các xã thì không thể tìm đâu ra kinh phí cho các hoạt động này nên đành bỏ đấy.
2.1.2.Chất lượng và hiệu suất của hệ thống lưới điện
Bán kính cấp điện các hộ khá lớn, chiều dài từ trạm biến áp đến các hộ trung bình từ 2-3km trong khi dây dẫn nhỏ, phi kỹ thuật nên tổn thất điện áp lớn, 90-95% số hộ được cấp điện không sử dụng hết nhu cầu thực tế do chất lượng điện không đảm bảo, bên cạnh đó việc quản lý do hợp tác xã hoặc ủy ban nhân dân xã quản lý trên cơ sở giao khoán với giá mua điện đầu vào tại trạm với giá 429đ/kwh và giá bán trên cơ sở điện cung cấp do vậy mà khả năng đầu tư tái tạo nâng cấp và quản lý yếu, giá bán điện cao thường lớn hơn 800đ/kwh có nơi lên đến 2400đ/kwh, trong khi ở thành phố và các doanh nghiệp lớn sẽ do điện lực tỉnh cung cấp với giá thấp hơn nhiều.
Với tình trạng hệ thống lưới điện xuống cấp của các xã như trên cùng với sự thiếu quan tâm của các đơn vị trực thuộc khiến cho các xã nghèo ở tỉnh Cao Bằng là một trong các xã có tổn thất điện năng lớn trong nước, tỷ lệ tổn thất điện năng luôn ở mức trên 25% có xã lên đến hơn 30%.Trong khi đó tỷ lệ tổn thất điện năng ở thị xã Cao Bằng là 8.48%, trong toàn tỉnh là 9,35% và toàn quốc là 5-7% tốc độ giảm tỷ lệ tổn thất điện năng ở các xã nghèo tương đối lớn nhưng là do tỷ lệ tổn thất điện năng quá cao, tóm lại các xã nghèo tỉnh Cao Bằng đang được sử dụng chất lượng điện không đảm bảo với một giá thành cao điều này đang dần tạo ra những bất lợi cho sự phát triển của các xã và sự phát triển chung của toàn tỉnh Cao Bằng.
Bảng 2: Tỷ lệ tổn thất điện năng.
Năm 2000
Năm 2005
Tốc độ giảm
Các xã nghèo tỉnh Cao Bằng
32.6
25.7
-16%
Thị xã Cao Bằng
9.36
8.48
-18%
Vùng trung du và miền núi phía Bắc
11.2
8
-14%
Cả nước
7.32
5.7
-16%
Với tỷ lệ tổn thất điện năng ở mức cao như trên đã làm lãng phí không ít tiền của ngành điện cũng như giảm sút chất lượng điện dành cho các xã nghèo đặc biệt là các xã cuối nguồn, chính vì vậy mà hàng năm ngành điện lực vẫn phải trích ra một khoản tiền không nhỏ để cải tạo lại hệ thống điện giảm tổn thất điện năng hay nói cách khác là mang lại lợi nhuận và uy tín của ngành điện một cách lâu dài.
Nhiều năm gần đây theo sự phát triển của cuộc sống đời sống nhân dân các xã đã có chút thay đổi, số lượng dịch vụ cũng như việc sử dụng nguồn năng lượng điện đã bắt đầu xuất hiện với nhu cầu ngày càng tăng, và thực tế đang chỉ rõ rằng lượng điện được cung cấp cho các xã không đủ đáp ứng với nhu cầu phát triển của các xã được dự báo dưới đây.
Bảng 3: Nhu cầu điện ở một số công trình công nghiệp và dịch vụ ở các xã nghèo
Công nghiệp
Stt
Cơ sở
Đơn vị
Định mức
2002
2005
2010
1
Xay xát
kw/cơ sở
5
5
7
2
Chế biến nông sản
nt
5
5
7
3
Cơ khí
nt
5
5
10
4
Tiểu công nghiệp
nt
5
5
7
Dịch vụ
Stt
Hạng mục
Đơn vị
Định mức
2002
2005
2010
1
Trường học
kw/phòng
0.1
0.1
0.2
2
Chợ
kw/m2
0.02
0.02
0.03
3
Nhà văn hóa
kw/m2
0.02
0.028
0.03
4
Trạm xá
kw/giường
0.5
0.75
0.8
5
Cơ sở báo chí
kw/m2
0.04
0.048
0.05
6
Bưu điện
kw/m2
0.08
0.1
0.11
Các cơ sở sử dụng điện theo thời gian lượng điện sử dụng ngày càng tăng cao trong khi đó lượng điện cung cấp của ngành điện cho các xã nơi đây vẫn chỉ dừng lại ở khoảng 2kwh/ ngày không đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất của các hộ gia đình, hạn chế khả năng phát triển sản xuất của hộ gia đình .
Trong mười năm qua chất lượng dịch vụ điện đã được nâng cao rất nhiều nó được thể hiện ở sự tăng tiến về số hộ, số xã được sử dụng điện hàng năm doanh thu của điện lực Cao Bằng. Doanh thu điện thành phẩm của điện lực tỉnh luôn đạt chỉ tiêu và vượt mức, tăng từ 22.4 tỷ đồng năm 2000 lên 60.374 tỷ năm 2006, dịch vụ cơ bản cung cấp cho các khách hàng đã đáng tin cậy hơn rõ rệt đặc biệt là khách hàng ở thành thị và khu vực xung quanh, còn khu vực nông thôn có biến chuyển nhưng chưa thật nhiều. Hiện thiếu hẳn một sự giám sát có hệ thống sử dụng phương pháp thống kê về cắt điện và mức sụt điện áp theo vùng phục vụ và mức điện áp đạt được. Phải nói rằng mặc dù đã có những cải thiện tổng thể về chất lượng dịch vụ trong vài năm gần đây nhưng vẫn cần tiếp tục quá trình hoàn thiện. Trong điều tra gần đây của World Bank về môi trường đầu tư ở Việt Nam nói chung và các tỉnh nói riêng cho thấy 19% các công ty sản xuất được khảo sát, mặc dù đã nối lưới điện nhưng vẫn cho rằng cung cấp điện là một trong những trở ngại lớn đối với việc kinh doanh của hộ. Họ phàn nàn về giá điện, tuy nhiên gần một nửa các công ty khác đánh giá cung cấp điện là một trở ngại thì lý do chính là chất lượng điện cung cấp từ lươi điện không đảm bảo. Các công ty được khảo sát cho biết rằng trung bình hàng năm có khoảng 12 lần mất điện hoặc tăng đột ngột, đối Đối với vùng nông thôn thì chất lượng điện còn ở mức tồi tệ hơn, trong năm tình trạng cắt điện đột ngột yếu điện vẫn thường xảy ra, nhiều tháng trong năm các xã thuộc những khu vực này thay nhau cắt điện luân phiên . Điều này cho thấy sự cần thiết phải có những nỗ lực lớn và mang tính hệ thống cho giám sát chất lượng dịch vụ và nâng cao chất lượng điện năng cung cấp đảm bảo để mọi người dân kể cả thành thị và nông thôn đặc biệt là các xã nghèo được tiếp cận và sử dụng dịch vụ điện tốt và công bằng.
Một loạt các tác động chủ quan lẫn khách quan đang đặt ra sự cấp thiết cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ tích cực và có hiệu quả của nhà nước để đồng bào nơi đây có cơ hội tiếp cận với điện một trong những năng lượng cơ bản và không thể thiếu trong sự phát triển của con người.
2.1.3.Tình hình sử dụng điện tại các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
Đến cuối năm 2005 toàn quốc đạt 94.6% xã được sử dụng điện tổng số hộ được sử dụng lên tới 88%, toàn tỉnh Cao Bằng cũng đã cố gắng và đạt được thành tích đáng khen 168/177 xã có điện về đến trung tâm chiếm 94.9% số xã trong toàn tỉnh, tổng số hộ có điện cũng lên tới 80% tuy nhiên những con số này của tỉnh Cao Bằng vẫn còn rất thấp so với cả nước cũng như là với các tỉnh thành khác, cùng thời điểm này các tỉnh thuộc đồng bằng sông cửu long số hộ dân được sử dụng điện trung bình lên tới 94% trong đó số hộ dân ở vùng nông thôn được sử dụng điện lên tới 83.39%, điều này cho thấy tốc độ điện khí hóa nông thôn ở tỉnh Cao Bằng còn chậm và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các xã nghèo tỉnh Cao Bằng mà cụ thể là những người dân nơi đây. Hiện tại các xã nghèo tỉnh Cao Bằng hầu như không có điện để sử dụng, một số xã có điện thì số hộ dân được sử dụng điện đạt dưới 60% số hộ trong xã, thực tế cho thấy các xã nghèo tỉnh Cao Bằng đang phải sống gần như cô lập với cuộc sống bên ngoài, những cơ sở vật chất chủ yếu như điện cho phát triển nông nghiệp cũng như tiểu thủ công nghiệp gần như chưa được quan tâm đúng mức, với hiện trạng dưới số hộ có điện chỉ chiếm khoảng 5% số hộ trong các xã nghèo như hiện nay thì khó mà tránh khỏi sự xuống cấp của hệ thống điện nơi đây.
Ở các xã nghèo hiện nay lượng điện mà các hộ sử dụng khá khiêm tốn trung bình dưới mức 500kwh/hộ/năm điều này có nghĩa mỗi ngày các hộ sử dụng không quá 2kwh, lượng điện chủ yếu dùng để thắp sáng và chạy quạt, lượng điện sử dụng cho các đồ dùng tiện ích khác trong nhà gần như không có tuy rằng tại các xã này có tới 8% số hộ có tivi, nhìn chung tại các xã phụ tải dành cho tiêu dùng và sinh hoạt trong gia đình chiếm phần lớn trong khi phụ tải dành cho sản xuất công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ lệ nhỏ(<10%). Điều này khiến cho các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và xây dựng ở đây khó phát triển, trong khi mức độ điện khí hóa ở nơi đây còn chưa cao thì chất lượng điện lại có phần bị giảm sút càng làm cho cuộc sống của nhân dân nơi đây vẫn chưa thực sự thoát khỏi cái nghèo cái tối tăm.
Cũng phải nói rằng tình trạng trên diễn ra với chiều hướng xấu như vậy là do chất lượng điện còn thấp, với tỷ lệ tổn thất điện năng lên tới hơn 25% ở các xã nghèo như hiện nay thì các hộ sử dụng điện ở cuối nguồn có mức tiêu thụ điện năng thấp, năng lượng điện không đủ để phục vụ cho những nhu cầu cơ bản của người dân là điều tất yếu. Quá trình sản xuất bị đình trệ, cuộc sống bị xáo trộn khiến cho nhiều gia đình tuy có lưới điện đến tận nhà nhưng vẫn phải sử dụng máy phát điện hay sử dụng năng lượng mặt trời để phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày và sản xuất.
2.2.Đánh giá thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng
2.2.1.Đánh giá chung.
Trong những năm vừa qua điện lực tỉnh Cao Bằng đã có những bước chuyển biến tích cực, sự chủ động trong việc cung cấp nguồn điện cũng như tận dụng các nguồn vốn để mở rộng mạng lưới cung cấp điện trên toàn tỉnh thực sự đáng khen ngợi. Nhờ những thành công như thế mà các xã vùng sâu vùng xa vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh đang dần được tiếp cận với dịch vụ điện, số hộ được sử dụng điện ngày càng tăng trong toàn tỉnh cũng như các xã nghèo, số xã nghèo và số xã được sử dụng điện đang diễn biến với chiều hướng tích cực tuy rằng để 5% số hộ cuối cùng trong toàn tỉnh cụ thể là ở các xã nghèo trong tỉnh được tiếp cận dịch vụ điện là vô cùng khó khăn.
Đa số các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng đều nằm trong chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia do vậy mà ở tất cả các xã đều nhận được sự hỗ trợ quan tâm của chính phủ trong việc nâng cấp sửa chữa cũng như xây mới điện đường trường trạm, một số xã nghèo đã có đường điện dẫn tới trung tâm xã, tới từng hộ dân trong xã. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là chất lượng hệ thống lưới điện còn ở mức thấp và chưa được quan tâm đúng mức, những đường dây điện ở các xã hầu như đều xuống cấp tuy rằng được xây dựng và lắp đặt chưa lâu, tỷ lệ hao phí điện năng trên hệ thống đường dây tải điện ở mức cao đang gây lãng phí và gây bức xúc cho nhiều hộ dân ở cuối nguồn, các hộ dân được sử dụng ít điện với chất lượng không cao nhưng phải trả với giá ngang bằng thậm chí lớn hơn ở thành thị. Nhiều nơi chủ yếu sử dụng máy nổ để phục vụ sản xuất còn dùng điện từ đường dây để phục vụ sinh hoạt, khiến cho chi phí của người dân tăng trong khi ngành điện lại thất thu do phụ tải cho sinh hoạt chiếm tỷ trọng quá lớn. Rõ ràng cần phải có sự điều chỉnh kịp thời và cấp bách để phục vụ người dân tốt hơn, đặc biệt là người dân nghèo, dân tộc thiểu số. Điện là cơ sở để phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp thay đổi đời sống văn hóa của nhân dân mặt khác còn có thể thu hút tập trung dân cư định canh định cư, tăng lòng tin của đồng bào nơi đây vào đảng nhà nước nếu nó được sử dụng hiệu quả, với vai trò quan trọng như vậy mà chúng ta bỏ qua thì thực sự là thiếu sót nghiêm trọng.
Với số xã được nêu tên ở trên theo tính toán của các chuyên gia ngành điện muốn xây dựng hệ thống mạng lưới điện để đáp ứng sự phát triển của đời sống của hơn 2300 hộ dân nơi đây trong thời gian tới cũng như để phát triển sản xuất thì cần phải có một số vốn tương đối lớn khoảng 170 tỷ VNĐ bao gồm 2 phần trung áp và hạ áp, trong đó phần trung áp cần phải đầu tư xây dựng 329,725km đường dây cấp điện áp 35kv với 84 trạm biến áp với tổng trị giá lên đến hơn 93 tỷ VNĐ, phần hạ áp sẽ bao gồm 313,630km và 14710 công tơ điện để phục vụ người dân với tổng giá trị là 77 tỷ VNĐ, muốn có được như vậy thì cần một kế hoạch phát triển cụ thể và hiệu quả, về nguồn vốn không thể chỉ chờ vào nguồn vốn cấp do ngành điện mà còn cần phải huy động vốn từ bên ngoài mà chủ yếu là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và trong thời điểm như hiện nay khi mà Việt Nam vẫn nhận được hỗ trợ này từ các nước phát triển thì đó sẽ là nguồn vốn chính và chủ yếu để xây dựng hệ thống điện nói trên. Bên cạnh đó cần phải có kế hoạch quản lý môi trường nhằm tránh được những tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân trong quá trình tiền chuẩn bị, triển khai và vận hành, tiến hành rà soát đoạn đường sẽ tiến hành lắp đặt, những tình huống xấu có thể xảy ra để có biện pháp phòng trừ và giảm thiểu, ngoài ra cần tạo điều kiện để nhân dân địa phương được tham gia ý kiến đặc biệt là người dân tộc thiểu số để đảm bảo quá trình triển khai được đúng thời hạn và đạt hiệu quả cao nhận được sự hỗ trợ tích cực của địa phương. do vậy mà cần phải tổ chức các lớp đào tạo cho nhân dân đặc biệt là người dân tộc thiểu số về phương pháp và cách thức tham gia vào việc lên kế hoạch cho các dự án sẽ được triển khai.
Để giải quyết được vấn đề đó cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn linh hoạt và sáng tạo của cơ quan chính quyền đại phương, ngành điện và sự hỗ trợ của chính phủ, nhưng nhìn những kết quả ở trên thì có thể thấy sự kết hợp này chưa thật sự tốt, bởi lẽ còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu là do những nguyên nhân được kể tới sau đây.
2.2.2.Nguyên nhân.
2.2.2.1.Chủ quan.
Ngành điện:
Để phát triển hệ thống lưới điện tới được các xã nghèo nơi đây cần có một lượng vốn lớn cần huy động, dù rằng đã nhận được nguồn viện trợ ODA hàng năm từ phía các tổ chức quốc tế cũng thông qua chính phủ nhưng từng đó là chưa đủ thậm chí còn khá khiêm tốn, trong khi các tổ chức quốc tế sẵn sàng chi trả hoặc viện trợ với lãi suất thấp cho các nước đang phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng, việc thiếu chuyên nghiệp, chậm trong khâu triển khai và báo cáo cho các nhà tài trợ đã khiến cho nhiều dự án được đưa ra nhưng lại không thể được giải ngân. Ngoài ra việc thiếu linh hoạt trong huy động nguồn vốn cũng là một điểm yếu cần khắc phục, hầu hết các dự án đầu tư lưới điện cho các xã vùng cao đều dựa vào nguồn vốn từ nước ngoài trong khi đó nguồn vốn được trích ra từ ngành điện cho các dự án này còn khiêm tốn, mặt khác chưa kích thích được sự hỗ trợ nguồn vốn từ chính quyền địa phương.
Năng lực của các đơn vị ngành điện là một nguyên nhân đáng lưu tâm, các đơn vị có năng lực làm việc không đồng bộ, nhiều đơn vị còn hạn chế đặc biệt trong quá trình triển khai dự án. Nhiều dự án được sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế được thực hiện chậm trễ, quá trình xây dựng lắp đặt và sửa chữa dài hơn dự kiến gây mất lòng tin vào các nhà tài trợ, không những thế việc các dự án hoàn thành chậm so với tiến độ khiến cuộc sống của nhân dân trong vùng dự án bị tác động, bởi lẽ việc triển khai dự án ít nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường trong vùng dự án, gây tiếng ồn, đường dây thiết kế không cẩn thận đi qua nhà dân, làm mất một phần diện tích đất của người dân. Nếu không được tính đến một cách kỹ càng trước khi triển khai và thỏa thuận trước với người dân thì rất dễ có xung đột giữa người dân và đơn vị thi công dự án. Ở nhiều xã lực lượng sửa chữa điện cấp cở sở còn thiếu khiến hệ thống đường dây không được bảo dưỡng kịp thời, khó khăn của nhân dân trong quá trình sử dụng điện cũng không được giải đáp hay hướng dẫn dễ xảy ra tai nạn không đáng có, dễ gây tâm lý hoang mang để rồi người dân không dám sử dụng điện.
Thiếu sự phối hợp giữa ngành điện và các ngành khác trong quá trình xây dựng đường dây, trên các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng thường có nhiều dự án cùng được triển khai một lúc nhưng do thiếu sự phối hợp mà các dự án đều bị chậm tiến độ, nơi làm điện thì thiếu đường không thể xây dựng, nơi xây dựng cơ sở hạ tầng văn hóa cho các xã thì không thể vận hành do không có điện, vấn đề này đã gây ra lãng phí không ít thời gian và tiền của do vậy mà cần có biện pháp chỉnh đốn kịp thời.
Ở Điện lực tỉnh máy móc thiết bị công nghệ chưa cao, đầu tư cơ sở vật chất cho điện lực các tỉnh còn hạn chế khiến cho khi triển khai các dự án điện lực các tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa, hải đảo có đặc điểm tự nhiên và địa hình phức tạp cần nhiều thiết bị hiện đại để hỗ trợ nhưng các tỉnh lại thiếu. Sự chênh lệch giữa công cụ trong tay và nhiệm vụ cần hoàn thành cũng đang là vấn đề khiến điện lực tỉnh đau đầu.
Hệ thống quản lý điện ở nhiều xã còn rất nhiều hạn chế, tình trạng sửa chữa qua loa thiếu an toàn, sử dụng đường dây điện trần gây nguy hiểm cho người dân, nhiều nơi thiết kế đường dây không đúng tiêu chuẩn gây tăng tỷ lệ tổn thất điện năng, thiếu đồng bộ với hệ thống lưới điện đã có hoặc sửa chữa nâng cấp mà không tính tới sự phát triển của hệ thống điện trong thời gian tới cũng làm tạo ra sự khập khễnh thiếu đồng bộ giữa các khu vực.
Về giá thành bán điện cho các xã nghèo tuy đã giảm so với giai đoạn trước đây nhưng vẫn cao do việc tổn thất điện năng cao và việc cung cấp điện cho nhân dân nơi đây không trực tiếp từ lưới điện mà phải gián tiếp qua nguồn điện của các nhà máy, các xí nghiệp hay qua các hợp tác xã nên giá thành cao vì qua trung gian và chị giá điện sản xuất.
Chính quyền địa phương.
Sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và ngành điện còn thiếu linh hoạt và nhuần nhuyễn, trong quá trình triển khai các dự án điện trên địa bàn tỉnh tất yếu tỉnh phải dành một quỹ đất riêng để ngành điện xây dựng đường dây, các trạm biến áp hạ thế và trung thế cùng với hệ thống cột điện ở khắp các làng xóm thôn bản, một số dự án còn cần phải di dời một số hộ dân bởi nơi đặt trạm biến áp lại ngay trên nơi cư ngụ của dân, mặt khác đối với các dân tộc vùng cao cần đưa các hộ dân tập trung lại để vừa định canh định cư vừa tạo ra một khu vực dân cư đông đúc tiết kiệm chi phí đường dây tải điện, tăng khả năng trao đổi mua bán của người dân , tạo cơ sở để phát triển kinh tế xã hội nơi đây. Thế nhưng công tác này hiện nay ở Tỉnh Cao Bằng vẫn chưa thật sự tốt, quá trình thuyết phục người dân, công tác đền bù còn gặp khó khăn gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chung của dự án, mất đi cơ hội phát triển của tỉnh nói riêng và toàn bộ dự án nói chung.
Năng lực cán bộ ở cấp tỉnh còn hạn chế, ở các tỉnh vẫn thường xây dựng quy hoạch kinh tế xã hội cho toàn tỉnh trong một khoảng thời gian dài, quy hoạch này có tính tới sự phát triển chung của toàn tỉnh và đặt ra sự phát triển của hệ thống lưới điện cần có trong tỉnh, thế nhưng trong quá trình triển khai các tỉnh thường xuyên có công văn thay đổi sơ đồ quy hoạch hệ thống đường dây điện này, rõ ràng là khả năng dự báo của tỉnh còn gặp nhiều sai sót và thiếu tính thực tế khiến cho việc lập kế hoạch của ngành điện cũng bị ảnh hưởng theo, ngành điện buộc phải sửa đổi lại quy hoạch cũng như các dự án dự định triển khai tại các tỉnh.
2.2.2.2.Khách quan
Do địa hình khó khăn nên việc di chuyển đường dây, kéo điện rất khó khăn đặc biệt là khi tiến hành công tác sửa chữa lớn hàng năm. Việc thay đổi các trạm biến áp đa số phải thực hiện một cách thủ công việc di chuyển và vận chuyển. Một số nơi rất khó để đưa phương tiện vận tải chuyên dụng vào tiến hành công tác sửa chữa.
Khí hậu của tỉnh Cao Bằng thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến á nhiệt đới, bao gồm mùa mưa và mùa khô, lượng mưa hàng năm tương đối thấp trung bình dao động 1500-2000mm. Tuy nhiên Cao Bằng lại là tỉnh có hệ thống sông ngòi dày đặc và đa dạng, đặc biệt các xã nghèo lại tập trung ở vùng sát biên giới nơi có nhiều núi đá vôi có độ cao trung bình lớn, điều đó khiến cho hệ thống cột điện tới các xã dễ bị hư hỏng do xói mòn đất, hàng năm tại địa phận một số xã nghèo ở huyện Bảo Lâm, Bảo Lạc cũng thường xuyên xảy ra lũ quét gây ra nhiều hư hỏng trên khu vực đường dây tải điện, ảnh hưởng tới việc cung cấp điện cho bà con nơi đây đặc biệt vào mùa mưa.
Một số đường dây được xây dựng từ lâu ở một số xã đã cũ và lạc hậu sử dụng đường dây lưới điện không còn phù hợp, hay nhiều công tơ điện cũ thiếu chính xác cũng là những nguyên do ảnh hưởng tới việc phát triển lưới điện tại các xã nghèo tại tỉnh .
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG LƯỚI ĐIỆN CHO CÁC XÃ NGHÈO TỈNH CAO BẰNG TRONG GIAI ĐOẠN 2010-2015
1.Căn cứ xây dựng giải pháp phát triển hệ thống mạng lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
1.1.Một số quan điểm chỉ đạo.
Thứ nhất, việc phát triển mạng lưới điện tại các xã nghèo tỉnh Cao Bằng nói riêng và ở các khu vực nông thôn nói chung vẫn dựa trên quan điểm chung của Đảng và Nhà nước là “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đây là một quan điểm chủ đạo từ trước tới nay của nước ta đối với phát triển điện ở nông thôn, hiện nay quan điểm này vẫn luôn được thực hiện không chỉ trong việc phát triển điện ở các vùng sâu vùng xa mà còn trong nhiều lĩnh vực khác.
Thứ hai, phát triển mạng lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành Điện lực, mà nó phải bao gồn cả sự tham gia của các cơ quan, hữu quan ban ngành của tỉnh( Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở giao thông vận tải, Sở tài nguyên và môi trường, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn..) cùng thực hiện đi kèm với sự giám sát của chính người dân thì mới đảm bảo cho quá trình xây dựng và thực hiện các dự án phát triển thực sự mang lại hiệu quả cao và đạt đúng tiến độ đề ra.
Thứ ba, việc phát triển mạng lưới điện ở các xã này không chỉ ở các xã chưa có điện mà đồng thời phải phát triển mạng lưới điện ở những khu vực đã có điện nhưng hiện tại đang bị xuống cấp (có thể thay thế, nâng cấp đường dây trạm điện..) để cho mạng lưới điện ở các xã cũng như toàn tình được phát triển một cách đồng bộ.
Thứ tư, việc đưa điện về các xã được tiến hành xây dựng theo thứ tự ưu tiên thông qua các tiêu chuẩn xét chọn để có thể xác định nơi nào đưa điện về trước, xã nào đưa điện về sau, ở đâu cần phải xây dựng và cải tạo lưới điện là cần thiết. Ví dụ ưu tiên các xã có tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, người dân trong xã sẵn sàng đóng góp một phần vào dự án cung cấp lưới điện… Vì vậy cần phải tạo điều kiện để phát triển các tiềm năng này trước. Thông thường các xã được lựa chọn cần đạt được những yêu cầu sau:
1.Tự nguyện tham gia dự án, chấp nhận các quy định của các nhà tài trợ cũng như của chính phủ, ngành điện trong khi thực hiện dự án.
2.Các xã có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế
3.Các xã có tỷ lệ thu hồi vốn chấp nhận được
4.Sẵn sàng chuyển đổi mô hình quản lý điện thành đơn vị phân phối địa phương hợp pháp để quản lý lưới điện hạ áp.
5.Doanh thu từ việc kinh doanh điện có thể bù đắp được chi phí quản lý , vận hành.
Đối với các xã cần cải tạo:
6.Tổn thất điện năng lớn hơn 20%, lưới điện được xây dựng đang xuống cấp cần phải cải tạo lại.
7.Nhu cầu điện năng đủ lớn( lớn hơn 500 hộ)
8.Nhu cầu sử dụng điện năng cho sản xuất đủ lớn (hơn 20%)
9.Số hộ nối lưới trên 80%
10.Tỷ lệ tiêu thụ điện trung bình của mỗi hộ đủ lớn trung bình 500kw/hộ/năm.
Đối với các xã nối lưới:
6.Số nối lưới trong tỉnh thấp(khoảng 60%)
7.Hộ tiêu thụ có đủ khả năng chi trả chi phí đầu nối sau công tơ và chi trả tiền điện.
8.Các xã có tiềm năng phát triển nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cần được điện khí hóa để phát triển tiềm năng của mình.
9.Các xã nằm trong danh sách các xã nghèo nhất
10.Các xã sẵn sàng chuyển đổi mô hình quản lý điện.
Thứ năm, điện lực cũng như chính quyền địa phương phải chủ động bỏ vốn để thực hiện điện khí hóa đối với các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi có kế hoạch đầu tư đặc biệt để phát triển cơ sở hạ tầng và một số ngành kinh tế dân sinh khác nằm trong khu quy hoạch và chiến lược của quốc gia và của tỉnh hay các xã nằm trong các khu vực có chính sách ưu tiên về xã hội của chính phủ như: các xã có nhiều đóng góp trong hai cuộc chiến tranh chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và cần được giúp đỡ thì việc phát triển mạng lưới điện ở các khu vực này cần phải kêu gọi sự hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức quốc tế.
1.2.Căn cứ để xây dựng giải pháp phát triển mạng lưới điện tại các xã nghèo ở tỉnh Cao Bằng.
1.2.1.Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010-2015 có liên quan tới các xã nghèo.
Trong khoảng thời gian 5 năm tới thì việc phát triển ở nông thôn tỉnh Cao Bằng sẽ có nhiều sự biến đổi. Đầu tiên là phát triển các hàng hóa nông nghiệp trên cơ sở xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến đối với các mặt hàng nông sản chủ lực. Lựa chọn những cây trồng thích hợp với địa hình vùng cao, có giá trị kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, chú trọng vùng nghèo, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc ít người; chuyển đổi mạnh cơ cấu giữa trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ theo hướng nâng cao giá trị, tích cực ứng dụng công nghệ thích hợp nhằm tạo ra giá trị hàng hoá lớn trên một đơn vị diện tích và bảo đảm phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững. Nhịp độ phát triển giai đoạn 2010-2020 phải đạt 4.9%.
Trong giai đoạn 2010-2015 sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn sẽ phát triển theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đối với trồng trọt sẽ tăng cường đưa máy móc vào sản xuất. Một số loại máy móc chủ yếu như máy bơm dự kiến sẽ tăng lên 15000 chiếc tăng hơn 5000 chiếc so với hiện nay, máy bơm tăng nhiều do cần có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề thủy lợi, đầu tư xây dựng nhỏ để giải quyết vấn đề thủy lợi cho các vùng miền núi, chú trọng phát triển các sản phẩm chủ lực như mía, đậu tương, thuốc lá, tạo điều kiện xây dựng vành đai thực phẩm các loại rau quả đậu theo hướng sạch cho các thị xã, khu công nghiệp như lê, mận bưởi, hồng không hạt trên cơ sở giống mới và gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đối với chăn nuôi cần phát triển chăn nuôi hàng hóa có giá trị kinh tế cao trên cơ sở tận dụng ưu thế của tỉnh miền núi; tập trung phát triển đàn bò lấy thịt theo hướng bán công nghiệp; phát triển chăn nuôi trâu, dê, chăn nuôi lợn hướng nạc, gia cầm theo quy mô trang trại, hộ gia đình; tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp, đến năm 2010 chiếm 40,8% và đến năm 2020 chiếm 46,3%.
Đối với dịch vụ sản xuất nông nghiệp : phát triển tất cả các loại hình dịch vụ mua bán máy móc sản xuất, dịch vụ cung cấp giống cây con có năng suất chất lượng cao, dịch vụ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dịch vụ tư vấn sản xuất..Trong thời gian tới cần áp dụng các công nghệ kỹ thuật mới trong các loại hình dịch vụ này xuống tận cấp xã để nhằm tạo thành một hệ thống dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng và có hiệu quả kích thích quá trình sản xuất. Trong trồng trọt cũng như trong chăn nuôi luôn chú ý lai tạo và đưa vào áp dụng các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thời gian sinh trưởng ngắn đồng thời cần áp dụng các quy trình công nghệ hiện đại có kết hợp với quy trình công nghệ truyền thống để đảm bảo nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, sản phẩm sản xuất ra giá thành hạ, có giá trị hàng xuất khẩu cả về số lượng và chất lượng.
Đối với các vấn đề xã hội trong thời gian tới ở vùng nông thôn đặc biệt là các xã nghèo của tỉnh phấn đấu để tăng để nâng cao dân trí ở khu vực nông thôn, phát triển mạng lưới giáo dục kể cả các trường dân lập và bán công, chú trọng đào tạo nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế; đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng dạy và học trong tình hình mới; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2008; đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học phổ thông vào năm 2020; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 26% vào năm 2010 và đạt 38% vào năm 2015. Bên cạnh đó tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy, đào tạo đội ngũ giáo viên có chất lượng cao. Về văn hóa y tế, phấn đấu 85% gia đình đạt chuẩn văn hóa, 95% số xã có nhà văn hóa. Đảm bảo được 70% số hộ được xem truyền hình và được nghe đài tiếng nói. Thực hiện chỉ tiêu giảm tỷ lệ trẻ em bị tử vong xuống còn 28‰, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống còn dưới 20%.
1.2.2.Căn cứ vào kế hoạch phát triển mạng lưới điện của tổng công ty điện lực miền miền bắc.
Bảng 4: Dự án năng lượng nông thôn II ở một số tỉnh phía Bắc
Tỉnh
Số xã thuộc dự án
Vốn đầu tư
(triệu đồng)
Lào Cai
19
63
Cao Bằng
24
75.953
Yên Bái
33
69.331
Phú Thọ
53
81.84
Thái Nguyên
30
49.2
Vĩnh Phúc
70
46.543
Bắc Giang
34
45.791
Hà Tây
19
20.144
Hải Dương
60
55.054
Hưng yên
26
7.737
Thái Bình
46
43.82
Hà Nam
21
17.159
Lai Châu
10
48.195
Hòa Bình
20
9.027.157
Thanh Hóa
49
74.017
Nghệ An
46
67.871
Hà Tĩnh
89
84.77
Điện Biên
11
62.098
Mục đích của dự án năng lượng nông thôn 2 là cấp điện cho khoảng 2,5 triệu hộ gia đình của 30 tỉnh ở giai đoạn 2004-2010 của Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN), thông qua kế hoạch điện khí hóa nông thôn với trọng tâm là cấp điện cho các xã miền núi xa xôi, cải tạo và nâng cấp mở rộng hệ thống lưới điện nông thôn đáp ứng nhu cầu cấp điện phục vụ quá trình phát triển kinh tế xã hội trong tương lai từ đó cải thiện phúc lợi, giúp tăng trưởng thu nhập và giảm đói nghèo, thành lập cơ cấu và thể chế chiến lược cho điện khí hóa nông thôn Việt Nam.
Riêng đối với miền bắc thuộc tổng công ty điện lực miền bắc quản lý có 27 tỉnh với 5423 xã và 6.3 triệu hộ gia đình đã có điện chiếm 88% . Mặc dù tỷ lệ có điện ở khu vực này tương đương với tỷ lệ bình quân trong toàn quốc, nhưng sự phân bố của khu vực này thường không đồng đều giữa các tỉnh và ngay trong nội bộ mỗi tỉnh, ở thành thị và Đồng bằng sông hồng tỷ lệ này cao nhưng ở miền núi và cao nguyên phía Bắc thì tỷ lệ này là thấp 80% số xã và nhỏ hơn 60% số hộ gia đình có điện.
Kế hoạch của tổng công ty điện lực miền Bắc giao cho Điện lực Cao Bằng là đến năm 2010 là 90% số xã có điện và đến năm 2020 là 100% số xã trong tỉnh, đồng thời tăng số hộ sử dụng điện lên 85% và phải giảm được lượng điện tổn thất ở khu vực nông thôn đảm bảo dưới 10%.
2.Giải pháp phát triển hệ thống lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
2.1.Mục tiêu
Bảng5:Một số mục tiêu về điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng
giai đoạn 2010-2015.
Năm mục tiêu
2011
2012
2013
2014
2015
số xã có điện lưới
168
170
172
175
177
Tỷ lệ xã có điện
95%
96%
97%
99%
100%
Tỷ lệ phần trăm số hộ có điện
83
85
86
87
87
Điện thương phẩm(Tr.Kwh)
3.7
4
4.2
4.3
4.3
Mục tiêu đối với các xã nghèo tỉnh Cao Bằng là đến năm 2015 phải đạt được 100% số xã trong tỉnh phải được cung cấp lưới điện quốc gia. Phải hoàn thành kế hoạch đưa điện về cho 9 xã còn lại chưa có điện trong giai đoạn 2010-2015 của các huyện chưa kể 25 xã đang thực hiện điện khí hóa dự tính được cung cấp điện vào năm 2011.
Đối với nguồn điện cung cấp cho khu vực các xã nghèo vẫn chủ yếu do các nhà máy thủy điện Suối Củn và nhà máy thủy điện Nà Lòa ở huyện Phục Hòa công suất 6000kw là chủ yếu, những xã tạm thời chưa được cấp điện sẽ sử dụng năng lượng tái táo như pin mặt trời, máy nổ để không làm anh hưởng đến quá trình sản xuất và sinh hoạt của người dân. Ngoài ra sau khi mắc lưới điện về đến các hộ gia đình thì lưới điện còn được cung cấp điện từ các đường dây truyền tải điện từ Bắc Mê – Hà Giang tới Bảo Lâm và Thất Khê(Lạng sơn) đến Đông Khê (Cao Bằng). Khi những công trình này hoạt động, điện lực Cao Bằng sẽ đảm bảo cung cấp đủ an toàn và liên tục cho khách hàng, phục vụ tốt nhu cầu sản xuất- kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân nơi đây.
Về lưới điện sẽ tập trung phát triển mạng lưới trung áp 35kv và hệ thống mạng lưới hạ áp 0.4kv, trong giai đoạn 2010-2015 sẽ được thực hiện như sau
Năm 2011 sẽ xây dựng hoàn tất 329,73km đường dây 35kv xây mới 6 trạm biến áp mới, kéo thêm 302.6km đường dây hạ thế đồng thời lắp đặt thêm công tơ điện ước tính tổng cộng 14710 cái.
Đến năm 2015 để đạt được mục tiêu trên cần xây dựng thêm đường dây trung áp với tổng chiều dài là 392.12km và 10 trạm biến áp mới, cùng với 30.5 km đường dây hạ thế 0.4kv và 91 công tơ mới.
Bảng6: Mục tiêu xây dựng và cải tạo lưới điện tại các xã nghèo
tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010-2015.
2011
2012
2013
2014
2015
Đường dây trung thế
Đường dây(km)
329.73
350.25
361.78
386.32
392.12
Trạm biến áp(cái)
cũ
78
84
91
96
99
mới
6
7
5
3
10
Đường dây hạ thế
Đường dây(km)
cũ
10.623
313.22
343.45
400.71
479.56
mới
302.6
30.23
57.26
78.85
30.5
Công tơ(cái)
14710
15064
15242
15419
15419
Trong giai đoạn từ năm 2010-2015 chủ yếu là xây dựng đường dây mới bởi vì cần phải tiến hành đưa điện đến các xã và các hộ chưa có điện, còn việc cải tạo lưới điện cũ thì ít hơn, chỉ tập trung vào cải tạo mạng lưới điện từ sau năm 2015 do lúc này chỉ còn khoảng 10% số hộ không có điện mặt khác lúc này hệ thống điện bắt đầu có hiện tượng xuống cấp gây tổn thất điện năng, xây dựng cac trạm biến áp và các trạm biến áp chống quá tải.
Bên cạnh đó cũng cần phải đặt ra kế hoạch giảm dần giá thành bán điện đến các hộ dân, do các xã mua điện hầu hết thông qua hợp tác xã và mỗi xã bán giá điện với giá khác nhau do vậy mà khó thống kế, mục tiêu chính đối với các xã nghèo tại tỉnh Cao Bằng là tới năm 2015 tất cả các xã có điện đều có giá bán điện nhỏ hơn 1000đ/Kwh tức là 100% các xã. Không những thế còn cần thực hiện giảm giá thành bán điện tới từng hộ dân điều này có thể hạn chế nếu giảm thiểu được tỷ lệ tổn thất điện năng ở các xã, tỷ lệ này sẽ cần phải được giảm như sau:
Bảng 7:Mục tiêu giảm thiểu tổn thất điện năng
cho các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng.
2011
2012
2013
2014
2015
Sản lượng điện tiêu thụ cho các xã(tr.kwh)
3.7
4
4.2
4.3
4.3
Sản lượng điện cung cấp cho các xã(tr.kwh)
4.5455
4.8193
4.8276
4.8315
4.7253
Điện tổn thất(tr.kwh)
0.8455
0.8193
0.6276
0.5315
0.4253
Tỷ lệ tổn thất điện năng(%)
18.6
17
13
11
9
Kế hoạch giảm tổn thất điện năng trên đây là một mục tiêu quan trọng không những đối với lưới điện ở các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng mà còn đối với lưới điện của nhiều khu vực khác. Việc giảm điện tổn thất điện năng sẽ làm giảm giá thành sử dụng đến người dân, tránh gây lãng phí nguồn điện năng( chủ yếu bị thất thoát do quá trình truyền tải). Với mục tiêu này, việc nâng cao chất lượng của lưới điện ở các xã sẽ luôn được quan tâm, việc giảm tổn thất điện năng tại các xã sẽ được tiến hành song song cùng với việc mở rộng lưới điện do vậy sẽ tạo ra những sức ép nhất định từ đó mới nâng cao được hiệu quả của chương trình đưa điện về các xã nghèo tỉnh Cao Bằng. Vì vậy mà trong các năm thực hiện việc xây mới các đường dây điện và các trạm biến áp thì việc đầu tư cho đường dây hiện có va sửa chữa các trạm biến áp luôn được thực hiện đồng thời.
2.2.Giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển mạng lưới điện đến các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
2.2.1.Giải pháp về mặt huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư.
Đối với nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài đặc biệt là vốn viện trợ cho các chương trình điện khí hóa nông thôn thì Điện lực phải tổ chức chỉ đạo với các chi nhánh, phối hợp với các địa phương xem xét các xã mà phù hợp với những yêu cầu của các tổ chức viện trợ này. Sau đó tiến hành điều tra hiện trạng, xác định khối lượng và giá trị thực tế, hoàn tất các thủ tục, cuối cùng tiến hành lập phương án và trình lên công ty để xin duyệt nguồn vốn viện trợ. Theo đúng quy trình thì khi có dự toán được duyệt mới được ghi vốn để đầu tư. Trong khi đó một năm chỉ có hai lần ra kế hoạch là kế hoạch tạm giao đầu năm và kế hoạch điều chỉnh. Do vậy nếu thủ tục đầu tư tiến hành chậm sẽ lỡ dịp ghi kế hoạch, công trình không có vốn để thi công. Hoặc giả sử nếu có ghi vốn dự phòng cho các công trình chưa đủ thủ tục mà thủ tục công trình đó làm chậm thì sẽ không chia vốn được cho công trình khác gây ra tình trạng giam vốn trong khi lượng vốn không đủ đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư. Với những đặc điểm đó Điện lực và các phòng ban cần đẩy nhanh tiến độ lập và duyệt các dự án. Tiếp đó, phải kiểm tra giám sát quá trình đầu tư xây dựng đảm bảo chất lượng, hiệu quả và nhanh chóng đưa công trình vào sử dụng. Việc nâng cao tiến độ đồng bộ các khâu từ lập thủ tục chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến quyết toán công trình sẽ tạo ra điều kiện nhanh chóng đưa công trình vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh làm tăng hiệu quả ứ đọng vốn lưu động, đồng thời sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản hiệu quả cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn cố định. Còn đối với nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á, thì xác định đầu tư cho nguồn vốn này phải thực sự hiệu quả mà phải thực sự cần thiết.
Do nguồn vốn để xây dựng cho đầu tư của ngành điện là quá lớn, nhiều chi phí phát sinh, bộ máy quản lý quá lớn mà doanh thu thì lại không đáng kể. Do vậy mà việc nghiên cứu các mô hình quản lý giá bán điện cho các xã một cách phù hợp nhằm giảm chi phí, huy động được lao động tai địa phương dưới nhiều hình thức, đại lý bán điện nông thôn, thuê tài sản lưới điện nông thôn, các hợp tác xã dịch vụ điện… vẫn là những việc làm cấp bách hiện nay.
Chính quyền địa phương giữ vai trò quan trọng và quyết định cho mọi thành công của công tác quản lý điện trên địa bàn, nếu các cấp chính quyền quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia quản lý điện, loại bỏ những chi phí bất hợp lý thì đem lại hiệu quả rõ rệt. Tổ chức tốt công tác kế toán Điện lực là một trong những giải pháp quan trọng trong nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh, sử dụng các loại vốn nằm đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên kế toán là hệ thống tin thực hiện, các số liệu, tài chính liệu kế toán tự nó chưa chỉ ra các biện pháp cần thiết. Vì vậy định kỳ Điện lực phải thực hiện công tác phân tích tài chính và tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn để từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn thành tích tiến bộ so với thời kỳ trước để phát huy, còn các nguyên nhân gây tồn tại thì có biện pháp tháo gỡ khắc phục kịp thời song song với đố là hoàn thiện nội dung phân tích tài chính, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ tài chính cho cán bộ kế toán trong Điện lực.
2.2.2.Các giải pháp về mặt tổ chức và thực hiện việc tiếp quản mạng lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
Công tác quản lý điện nông thôn cần tiếp tục khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, đơn vị thuộc các thành phần kinh tế. Để giảm giá bán điện đến các hộ dân phải tiến hành đồng bộ các biện pháp quản lý và kỹ thuật. Sớm chấn chỉnh củng cố tổ chức mô hình quản lý điện ở các xã nghèo, cần và chuyển đổi và thành lập các đơn vị theo đúng quy định cảu pháp luật: hợp tác xã dịch vụ, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần. Cần tổ chức đào tạo chuyên sâu cho nhân viên quản lý điện ở xã, có chế độ khuyến khích cá nhân làm tốt công tác quản lý điện, đồng thời giữ ổn định lực lượng nhân viên làm công tác quản lý điện ở các xã. Mặt khác, cần tăng cường vai trò quản lý của Điện lực về điện nông thôn của các cấp chính quyền, nhất là cấp xã. Cần quan tâm nhiều hơn đến công tác tuyên truyền an toàn điện ở thôn bản. Tăng cường công tác kiểm tra, loại bỏ các chi phí bất hợp pháp trong giá thành điện, chống các hiện tượng lấy cắp điện, dùng điện không trả tiền, loại bỏ phụ thu tiền điện đối với các hộ dân dưới bất kỳ hình thức nào. Điện lực Cao Bằng sẽ phải tiếp tục hỗ trợ các huyện xã trong công tác đào tạo và quản lý điện nông thôn, tuyên truyền an toàn về điện, tham gia cùng với các cơ quan hữu quan hoàn thành thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết định 22/QĐ=TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt sẽ tiến hành tổ chức tốt công tác tiếp nhận lưới điện nông thôn, thống nhất với các địa phương về trình tự thực hiện, thời gian thực hiện, trình tự giao nhận và tiến hành quản lý ngay sau khi có quyết định tiếp nhận.
2.2.3.Giải pháp về mặt kỹ thuật:
Tăng cường nâng cao chất lượng công tác quản lý kỹ thuật để công tác này đi vào nề nếp, củng cố và tăng cường kỹ thuật vận hành, nghiêm túc thực hiện quy phạm quản lý kỹ thuật.
Thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất (kiểm tra ngày, kiểm tra đêm) thiết bị trạm và đường dây nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những khiếm khuyết, tình trạng làm việc không an toàn của thiết bị, lưới điện để ngăn ngừa trước những nguy cơ gây sự cố, gắn trách nhiệm của người kiểm tra sử chữa vào chất lượng lưới điện.
Thực hiện tốt công tác điều tra, phân tích, xác định nguyên nhân , trách nhiệm của các sự cố để có biện pháp khắc phục, rút kinh nghiệm trong quản lý, định hướng sử dụng thiết bị trên lưới điện nhằm loại bỏ kịp thời những thiết bị chất lượng kém.
Thực hiện tốt công tác quản lý, thí nghiệm định kỳ và bảo dưỡng, đại tu thiết bị đúng hạn và đảm bảo chất lượng.
Tăng cường kiểm tra chất lượng thiết bị mua băng cách chỉ mua hàng có nhãn mác đầy đủ, có uy tín, có bảo hành sản phẩm, làm đầy đủ các thí nghiệm trước khi lắp lên lưới. Có thống kê theo dõi chất lượng thiết bị đang sử dụng, khi phát hiện chất lượng sản phẩm kém chất lượng thông báo kịp thời cho Điện lực để loại bỏ sản phẩm đó trên lưới và không cho tiếp tục mua cho đến khi nhà sản xuất chứng minh các sản phẩm cải tiến của họ. Mặt khác yêu cầu nhà sản xuất tăng cường chất lượng sản phẩm của họ phù hợp với yêu cầu của mình.
Có kế hoạch thay thế dần các thiết bị đã cũ lạc hậu, độ tin cậy vận hành thấp hoặc hết tuổi thọ như máy biến áp, cáp ngầm bảo vệ. Lắp đặt các thiết bị phân đoạn trên lưới trung thế nhằm hạn chế vùng ảnh hưởng mất điện và nhanh chóng khôi phục việc cấp lại điện khi có sự cố.
Xử lý điện trở tiếp địa các trạm và đường dây đảm bảo theo tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là ở những nơi có nhiều sét.
Thay sứ cách điện có chất lượng kém thường hay bị sự cố, mặt khác phải tiến hành công tác vệ sinh sứ thường xuyên hoặc định kỳ ở những khu vực dễ gây bẩn mặt sứ. Đối với các khu vực nhiễm bụi nhiều cũng phải tăng cường cách điện bằng cách dùng sứ có cấp điện áp cao hơn (dùng sứ 22kv cho lưới 15kv, dùng sứ 10kv cho lưới 0.4kv).
Đối với van chống sét chỉ mua của chính hãng đại diện, chú ý chọn thông số của chống sét theo chế độ trung tính nối đất hoặc không, đảm bảo các thông số kỹ thuật kỹ thuật khi lắp đặt và thí nghiệm định kỳ đúng tiêu chuẩn của nhà chế tạo.
Xây dựng cấu trúc lưới mạch vòng vận hành hở để linh hoạt trong chuyển đổi nguồn cung cấp điện hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong các trường hợp sự cố.
2.2.4.Các giải pháp về phương án phòng chống bão lụt trong mùa mưa bão cho các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
Để làm tốt công tác phòng chống lụt bão hàng năm, đảm bảo an toàn cho người và thiết bị, hạn chế thấp nhất những thiệt hại và khắc phục nhanh hậu quả do lụt bão gây ra, kịp thời cung ứng điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, các đơn vị trong Điện lực cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Ban chỉ huy phong chống lụt bão, các đội xung kích được lập ở các chi nhánh điện có sức khỏe nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao để giải quyết nhanh các sự cố lớn, khi cần có thể huy động khắc phục hậu quả sau lũ lụt các khu vực trong toàn tỉnh.
Công tác lập kế hoạch phòng chống lụt bão cần phải có nội dung cụ thể, sát thực, có tiến độ cho từng loại công việc, đặc biệt quan tâm đến những công trình trọng điểm như: đê, đập, vật tư nhiên liệu dự phòng.. tại các chi nhánh và tại các công trình. Tiến hành phát quang tuyến hành lang, kiểm tra củng cố cột, móng cột, dây dẫn, xà sứ ở lưới điện, nâng cao thêm độ an toàn của thiết bị ở những khu vực trọng yếu.
2.2.5.Kết hợp phát triển mạng lưới điện ở các xã nghèo với phát triển các công trình cơ sở hạ tầng khác trên địa bàn các xã.
Việc xây dựng mạng lưới điện thường là cố định thường ít dich chuyển (chi phí di chuyển cao). Do vậy khi tiến hành xây dựng thì Điện lực phải tổ chức kết hợp với các cơ quan ban ngành mà sẽ có những công trình xây dựng trên cùng nột hành lang tuyến đường, đứng ra bàn bạc trước để có thể có các kế hoạch sao cho việc xây dựng lưới điện sẽ không ảnh hưởng về sau này đối với công tác xây dựng lưới điện sẽ không ảnh hưởng về sau này đối với công tác xây dựng đường xá cầu cống cũng như các công trình khác, nếu không sẽ gây tốn kém trong việc di dời.
Quá trình xây dựng mạng lưới điện nên được tiến hành cùng với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như: xây dựng đường xá, trường học, bệnh viện.. thì sẽ tạo được hiệu quả cao hơn đối với việc phát triển kinh tế xã hội tại các xã nghèo này.
3.Một số kiến nghị.
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo để các tỉnh chú trọng trong việc ban hành đơn giá đền bù phù hợp với thị trường, luôn điều chỉnh bổ sung văn bản mới thay thế, đồng thời có những tham khảo từ tỉnh lân cận. Thực tế có những đơn giá đền bù từ 4-5 năm trước nhưng nay vẫn còn hiệu lực thi hành. Ngoài vấn đề trượt giá thì vấn đề đền bù quá cũ không còn phù hợp với mặt bằng giá thị trường hiện nay, đây thực sự là lực cản vô hình ngăn cản tiến độ thực hiện các dự án. Mặt khác các tỉnh liền kề nhau nhưng giá đền bù tài sản cùng chủng loạt lại có sự chênh lệch khá lớn, tạo ra sự so sánh và các hộ bị thiệt hại khó chấp nhận.
Điện lực Cao Bằng cần thường xuyên triển khai công tác quản lý kỹ thuật , giảm thiểu và khắc phục sự cố nhanh , đảm bảo duy trì vận hành điện lưới ổn định , liên tục , chú trọng công tác phát triển khách hàng mới, cung cấp điện kịp thời .Đặc biệt đơn vị quan tâm đến khách hàng trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, kinh doanh phục vụ nhằm tăng sản lượng điện công nghiệp, thương mại dịch vụ.
Trong quá trình triển khai dự án chính quyền địa phương cần làm nhanh làm tốt hơn nữa công tác thiết lập tái định cư và có kế hoạch quản lý môi trường một cách hợp lý, nhằm đẩy nhanh giai đoạn chuẩn bị dự án sớm đồng thời tập trung thu hút dân cư thành làng mới ,xóm mới đông đúc có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế xã hội của xã cũng như của toàn tỉnh góp phần thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Cần sắp xếp và lựa chon công nghệ vào trong triển khai dự án phù hợp với tình hình tài chính cà đặc điểm địa hình khí hậu nơi thực hiện dự án đảm bảo tiến độ, chất lượng cao, hệ thống điện bền vững lâu dài tránh lãng phí thất thoát không cần thiết.
Tăng cường giao lưu , phối hợp thường xuyên giữa chính quyền địa phương và ngành điện nhằm mục đích tạo ra sự chuyên nghiệp linh hoạt trong triển khai các dự án điện, tạo điều kiện thuận lợi cho cả ngành điện và chính quyền địa phương thực hiện tốt vai trò của mình, tránh tình trạng cửa quyền, gây khó dễ cho các đơn vị thực hiện.
Nâng cao chất lượng năng lực của cán bộ dự báo cấp tỉnh trong quá trình lập quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch 5 năm, đảm bảo sự đồng bộ chính xác trong phát triển toàn diện của tỉnh, hạn chế tối đa việc sửa đổi quy hoạch gây ảnh hưởng đến các mục tiêu khác , làm mất lòng tin của dân .
Để giảm hiện tượng điện áp cuối nguồn thấp không đủ để sử dụng, điện lực cũng như chính quyền địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa phát triển năng lượng tái tạo mà tập trung chủ yếu là hệ thống nhà máy điện tư nhân để có thể cung cấp điện tại chỗ cho đồng bào, đẩy nhanh tiến độ thực hiện đường dây truyền tải điện từ Hà Giang , Lạng Sơn và Trung Quốc để kịp thời phục vụ nhân dân, cố gắng đạt chỉ tiêu đề ra của tỉnh trong giai đoạn 2010-2020.
KẾT LUẬN
Đối vơi cả nước nói chung và các địa phương nói riêng và tỉnh Cao Bằng, để phát triển kinh tế đến các xã nghèo, các xã thuộc vùng sâu vùng xa, thực hiện điện khí hóa nông thôn thì việc đầu tiên là phải phát triển mạng lưới điện tới các xã này. Với những mục tiêu đặt ra của toàn tỉnh cũng như cho các xã nghèo này trong giai đoạn 2010-2015 thực sự không dễ dàng, muốn thực hiện tốt đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự cố gắng của cả Điện lực Cao Bằng, Tổng công ty điện lực miền Bắc và cả sự phối hợp cao giữa các ngành các cấp của chính quyền địa phương. Chỉ có như vậy thì mới có thể thực hiện tốt kế hoạch đưa điện về nông thôn , góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn của tỉnh Cao Bằng.
Nội dung bài viết về phát triển điện ở các xã nghèo ở tỉnh Cao Bằng là rất phức tạp, trong nghiên cứu trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên không thể xem xét vấn đề một cách cụ thể và toàn diện của vấn đề, đồng thời cũng không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự hướng dẫn đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cũng như ý kiến góp ý của cac bạn.
Em xin trân thành cám ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của PGs.Ts Nguyễn Tiến Dũng và các cán bộ trong phòng kế hoạch và đầu tư Tổng công ty điện lực Miền Bắc đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu nghiên cứu khả thi của dự án năng lượng nông thôn 2 tại Tỉnh Cao Bằng - World Bank.
2. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Cao Bằng từ 2010 - 2020.
3. Lợi ích của điện đối với con người.
4. Quy hoạch và chiến lược phát triển ngành điện từ 2010 - 2015.
5. Cao Bằng thế và lực - Sở Văn hóa thông tin tỉnh Cao Bằng.
6. Một số tạp chí và website khác.
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1:Báo cáo tổng kết tình hình điện tại tỉnh Cao Bằng năm 2005. 23
Bảng 2: Tỷ lệ tổn thất điện năng. 29
Bảng 3: Nhu cầu điện ở một số công trình công nghiệp và dịch vụ ở các xã nghèo 30
Bảng 4: Dự án năng lượng nông thôn II ở một số tỉnh phía Bắc 44
Bảng 5:Một số mục tiêu về điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010-2015. 45
Bảng 6: Mục tiêu xây dựng và cải tạo lưới điện tại các xã nghèo tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010-2015. 46
Bảng 7:Mục tiêu giảm thiểu tổn thất điện năng cho các xã nghèo của tỉnh Cao Bằng. 47
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25649.doc