LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 đánh dấu 20 năm đổi mới của Đảng và Nhà nước và kết quả là thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại là vô cùng lớn. Đồng thời bước sang thế kỷ mới, thế kỷ 21 – một thế kỷ đánh dấu sự phát triển của toàn nhân loại. Hoà nhịp cùng xu thế phát triển ấy, Việt Nam cũng đang có những bước đi vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận định rằng trong những năm qua, nền kinh tế thị trường Việt Nam đãđạt được những thành tựu khả quan, từng bước tạo điều kiện cho nước ta tham gia, hoà nhập vào nền kinh tế rộng lớn của thế giới đang diễn ra một cách năng động, đa dạng và sâu sắc. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá đem lại rất nhiều có hội nhưng cũng không ít thách thức và rủi ro cho hoạt động kinh tế của Việt Nam nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng.
Ngành ngân hàng với nhiều hoạt động truyền thống như hoạt động huy động vốn, hoạt động đầu tư cho vay thì một số hoạt động mới cũng ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh cũng là một hoạt động ra đời theo yêu cầu đó - yêu cầu khách quan và chủ quan hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nhằm phòng ngừa rủi ro, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh thông qua việc đảm bảo cho khách hàng bằng uy tín của ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh không những tạo điều kiện cho khách hàng nắm bắt được các cơ hội kinh doanh mà còn nâng cao uy tín cũng như vị thế của ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nghiệp vụ bảo lãnh quan trọng như vậy nhưng so với các nghiệp vụ truyền thống khác thì nghiệp vụ bảo lãnh còn khá mới mẻ. Do đó, nghiệp vụ bảo lãnh chưa được hoàn thiện về mặt quy trình, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, một số loại hình bảo lãnh và các sản phẩm từ hoạt động bảo lãnh vẫn chưa được thực hiện. Đôi khi, rủi ro phát sinh ngay từ chính bản thân doanh nghiệp. Xuất phát từ những lý do đó, việc phát triển hoạt động bảo lãnh theo chiều rộng và theo chiều sâu là vô cùng cần thiết để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế
Từ những lý do đó, đồng thời được thực tập tại Phòng Khách hàng doanh nghiệp trong Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân và tìm hiểu về nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân” làm chuyên đề thực tập. Chuyên đề được trình bày ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, bao gồm ba chương chính:
Chương 1: Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Dưới sự giúp đỡ của các cán bộ phòng Khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng, đồng thời việc hoàn thành chuyên đề của em là được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của PGS – TS Nguyễn Thị Thu Thảo. Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1
1.1 Tổng quan về Ngân hàng Thương mại.
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng Thương mại.
1.1.2 Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
1.2 Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại.
1.2.1 Khái niệm, bản chất và ý nghĩa.
1.2.2 Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh.
1.2.3 Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh.
1.2.4 Phân loại.
1.2.4.1 Theo phương thức phát hành.
1.2.4.2 Theo phương thức đòi tiền.
1.2.4.3 Theo mục tiêu bảo lãnh.
1.2.4.4 Theo tính chất.
1.2.4.5 Theo tài sản đảm bảo.
1.2.5 Quy trình bảo lãnh.
1.3 Các chỉ tiều đánh giá hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại.
3.1 Các chỉ tiêu định lượng.
1.3.2 Các chỉ tiêu định tính.
1.3.3 Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo lãnh.
1.3.3.1 Yếu tố môi trường.
1.3.3.2 Yếu tố khách hàng.
1.3.3.3 Yếu tố chiến lược kinh doanh.
1.3.3.4 Yếu tố quy trình nghiệp vụ bảo lãnh.
1.3.3.5 Yếu tố con người.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.1.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân trong những năm gần đây.
2.2 Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.1 Quy tắc chung cho hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam.
2.2.2 Các loại hình bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.3 Quy trình bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.4 Kết quả hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân trong những năm gần đây.
2.3 Đánh giá hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.3.1 Kết quả đạt được.
2.3.1.1. Những kết quả đạt được.
2.3.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Hạn chế.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.
3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân giai đoạn 2006 – 2010.
3.1.1 Mục tiêu kinh doanh.
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương hanh Xuân.
3.2.1 Lập kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh trong từng giai đoạn.
3.2.2 Các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh.
3.2.3 Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
3.3 Kiến nghị.
KẾT LUẬN
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính là ngày ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng, ngân hàng sẽ đôn đốc khách hàng trả nợ càng sớm càng tốt.
Bước 6: Kết thúc bảo lãnh.
Các trường hợp chấm dứt bảo lãnh:
- Bên được bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo lãnh.
- Bên nhận bảo lãnh đồng ý huỷ bỏ bảo lãnh theo các quy định của pháp luật.
- Ngân hàng đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Thời hạn của bảo lãnh đã hết hiệu lực.
- Bên bảo lãnh hoặc bên được bảo lãnh chấm dứt hoạt động thì nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiệp vụ bảo lãnh chấm dứt, tiến hành giải toả hợp đồng trong hai trường hợp sau:
- Giải toả bảo lãnh không có tài sản đảm bảo: ngân hàng phát hành sẽ tuyên bốgiải toả bảo lãnh, gửi công văn đến khách hàng và đóng hồ sơ.
- Giải toả bảo lãnh có tài sản đảm bảo: hoàn trả ký quỹ hoặc tài sản cầm cố thế chấp cho khách hàng dựa trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng thế chấp. Nếu khách hàng không có khả năng trả nợ, ngân hàng sẽ thu khoản ký quỹ hoặc phát mại tài sản thế chấp, cầm cố.
Đối với bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng, cam kết giữa người hưởng và ngân hàng đối ứng sẽ hết ngay sau thời hạn hiệu lực nhưng cam kết giữa ngân hàng chỉ thị phát hành bảo lãnh và người hưởng sẽ kết thúc sau 7 ngày kể từ ngày hết hiệu lực.
2.2.4. Kết quả hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Tổng số dư bảo lãnh tính đến ngày 31/12/2004 là 86,6 tỷ với 159 món. Số dư này đang nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng, trong năm qua chưa có trường hợp nào Ngân hàng phải trả thay.
Năm 2004 lưu lượng giao dịch thông qua cho vay và tài trợ diễn ra tại phòng kinh doanh của Chi nhánh là tương đối lớn với 1.045 lần giải ngân với lượng trên 1.821 tỷ VND. Đi kèm với việc giải ngân là việc thành lập hồ sơ cho vay, kiểm soát chứng từ giải ngân, kiểm tra giám sát vốn vay,để thực hiện tốt các bước công việc đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ tác nghiệp tốt cùng với sự chỉ đạo điều hành sát sao kiên quyết của ban giám đốc, điều đó sẽ làm giảm bớt rủi ro trong hoạt động bảo lãnh. Với 55 khách hàng là doanh nghiệp có quan hệ tín dụng , bảo lãnh thường xuyên tuy chưa phải là nhiều nhưng lượng khách hàng của Chi nhánh hoạt động trên các lĩnh vực phức tạp như vận tải biển, đóng tàu, kinh doanh lắp ráp..
Bên cạnh việc đầu tư tín dụng, công tác kiểm tra giám sát vốn vay được phòng kinh doanh hết sức quan tâm, chỉ đạo sát sao theo từng doanh nghiệp, từng chương trình, từng phương án vốn vay để thu hồi nợ, trong năm 2004 có 919/1045 món vay đã được kiểm soát, 100% món vay được doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích. Chi nhánh hạn chế rủi ro và nghiên cứu thực hiện thẩm định nghiêm túc, rõ nét là một đột phá trong việc nâng cao tỷ lệ cho vay có bảo đảm tài sản bảo đảm khoản vay của đơn vị kinh tế quốc dân bằng nhiều hình thức như: Cầm cố kho hàng, bảo đảm bằng tài sản hoàn thành từ vốn vay, áp dụng biện pháp bảo đảm tài sản bổ xung đối với các doanh nghiệp Nhà nước trước đây đã cho vay không có đảm bảo …
Qua sự điều hành của NHNN, NHCT Việt Nam, đặc biệt với sự điều hành sát sao của Ban giám đốc với sự nỗ lực công tác của toàn thể cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh NHCT Thanh Xuân , kết quả đạt được trông những năm qua tương đối cao, năm sau cao hơn năm trước. Điều đó được thể hiện qua bảng số liệu về số dư bảo lãnh qua các năm sau:
Hình 4: Tổng số dư bảo lãnh
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng giá trị
80.900
86.600
89.100
Tổng số món
142
159
164
Nguồn: Một số chỉ tiêu kinh tế của NHCT Thanh Xuân
Năm 2003, nhìn chung công tác bảo lãnh phát triển ổn định và bền vững. Mặc dù các khoản nợ trong năm này có thời gian ngắn hơn nhưng nếu phân tích hiệu quả công tác bảo lãnh thì việc thu hút phí của năm 2003 vẫn tăng so với năm 2002. Các khoản bảo lãnh thường có thời hạn dưới 12 tháng, chỉ có 10% có thời hạn trên 1 năm. Trong năm này, các loại hình bảo lãnh được thực hiện đều là loại hình ít rủi ro như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thực hiện hợp đồng… không phát sinh bảo lãnh vay vốn hoặc mở L/C trả chậm. Và qua tổng số dư bảo lãnh năm 2003 là 80900 triệu đồng – một con số khả quan so với những năm trước đây. Qua sự điều chinhr về cơ chế hoạt động, những năm 2004 và năm 2005 con số này càng tăng, nhưng đồng nghĩa với nó là sự phát triển của loại hình bảo lãnh này ngày càng khẳng định vị thế so với các loại hình nghiệp vụ khác của Ngân hàng.
Tỷ trọng của từng loại hình bảo lãnh so với tổng số món bảo lãnh được thực hiện trong năm 2004 phản ánh những loại hình bảo lãnh chiếm ưu thế và những loại hình bảo lãnh còn ít được thực hiện. Bảo lãnh dự thầu được triển khai nhiều hơn cả do sự thuận tiện và rủi ro thấp hơn các loại hình bảo lãnh khác. Bảo lãnh thanh toán được thực hiện ít do rủi ro gặp phải trong loại hình bảo lãnh này tương đối cao hơn nhiều so với các loại khác.
Chất lượng công tác ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nợ quá hạn của công tác bảo lãnh chủ yếu do các nghiệp vụ bảo lãnh trước để lại. Từ vài năm gần đây, công tác bảo lãnh chưa xảy ra tình trạng nợ quá hạn, chỉ có lãi thu về. Không phát sinh trường hợp nảo Chi nhánh phải trả thay theo cam kết bảo lãnh.
2.3. Đánh giá hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.3.1. Kết quả đạt được.
2.3.1.1. Kết quả đạt được.
Kể từ khi nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tại NHCT Thanh Xuân cho đến nay, hoạt động bảo lãnh đã mang lại cho Chi nhánh nhiều nguồn lợi to lớn. Mặt khác, vài năm trở lại đây, các khoản nợ quá hạn từ hoạt động bảo lãnh không phát sinh. Đây là một thành quả to lớn của các cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh.
Đồng thời khách hàng đến sử dụng dịch vụ bảo lãnh tại Chi nhánh ngày càng nhiều. Đó là do uy tín của ngân hàng ngày càng được khẳng định trên thị trường và chất lượng dịch vụ bảo lãnh đã được cải thiện nhiều hơn trong những năm gần đây. Hoạt động bảo lãnh không chỉ tăng doanh thu cho ngân hàng mà còn góp phần huy động được một nguồn vốn đầy tiềm năng từ hoạt động ký quỹ của bảo lãnh. Đối với những khoản bảo lãnh có giá trị cao và ngân hàng yêu cầu khách hàng ký quỹ, số tiền ký quỹ thường rất lớn. Khách hàng vẫn được trả lãi cho khoản tiền nhưng lãi chỉ là không kỳ hạn. Trong khi đó, để có được một khoản vốn như vậy từ hoạt động tín dụng thông thường, ngân hàng sẽ phải trả mức lãi cao hơn tuỳ theo kỳ hạn. Chính vì vậy, những khoản bảo lãnh trong thời gian qua tại NHCT Thanh Xuân đã tăng thêm nguồn vốn cho ngân hàng với một chi phí hợp lý.
Ngoài ra, Chi nhánh cũng đang hiện đại hoá dần dần quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh và công tác quản trị rủi ro bằng các chương trình mua bản quyền của nước ngoài. Các hoạt động bảo lãnh đều được thực hiện trên một nền công nghệ cao. Cán bộ bảo lãnh đều được trang bị kiến thức ngoại ngữ và tin học rất thành thạo để phục vụ khách hàng và thực hiện công tác bảo lãnh được tốt.
2.3.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.
NHCT Thanh Xuân được thành lập, hoạt động tại Hà Nội nên chịu tác động trước hết của những nhân tố khách quan như môi trường chính trị xã hội, môi trường kinh tế và môi trường pháp luật tại Hà Nội – Việt Nam.
Việt Nam mà cụ thể là thủ đô Hà Nội là một thành phố có một chế độ chính trị ổn định với sự lãnh đạo sáng suốt của các cấp Đảng uỷ thành phố. Chính trị ổn định đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế thị trường sôi động đồng thời tạo động lực cho các thành phần sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế đó. Nhờ được khuyến khích, các đơn vị kinh doanh tăng cường các giao dịch hàng hoá, thương mại, tăng cường mối quan hệ kinh tế hợp tác với các tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế khác…Do vậy, hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NHCT Thanh Xuân có thị trường để phát triển và có cơ hội nâng cao chất lượng.
Là một đơn vị có đăng ký kinh doanh từ năm 1997, Chi nhánh NHCT Thanh Xuân chịu sự chi phối của Luật pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 25 tháng 8 năm 2000 với quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, một văn bản quy phạm đầu tiên cho hoạt động bảo lãnh được chính thức ban hành. Hoat động bảo lãnh tại Chi nhánh cũng như toàn hệ thống NHCT Việt Nam căn bản phải chấp hành những quy định này nhưng đồng thời cũng phải tuân theo các quy tắc trong các Quy định cũng như các Thông tư khác.
Cùng với môi trường chính trị ổn định và một hệ thống pháp lý căn bản, hoạt động bảo lãnh của NHCT Thanh Xuân còn chịu tác động của môi trường kinh tế – nơi trực tiếp phát sinh hoạt động bảo lãnh. Quận Thanh Xuân tuy không phải là một quận lớn so với các quân khác trong thành phố Hà Nội, không có nhiều các doanh nghiệp quy mô lớn nhưng tổng số doanh nghiệp trong quận cũng tương đối lớn. Do thế, Ngân hàng trong những năm vừa qua cũng đã phát huy được thế mạnh về các hoạt động trong đó có hoạt động bảo lãnh.
Quá trình bảo lãnh của NHCT Thanh Xuân khá đầy đủ và chặt chẽ với sáu bước tiến hành. Mặc dù quy trình bảo lãnh còn chưa thực sự đơn giản nhưng ban đầu ban lãnh đạo ngân hàng chưa cho phép rút ngắn các bước trong quy trình để đảm bảo yếu tố an toàn. Công tác thẩm định mặc dù chưa thực sự hoàn thiện nhưng trong thời gian qua đã được thực hiện trôi chảy và ít gặp sai phạm. Các hợp đồng đều thảo ra rất chi tiết, cụ thể và đảm bảo quyền lợi của cả khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng đã rất cẩn thận trong quy định các vấn đề tranh chấp vì thế hạn chế gần như tối đa các tổn thất xảy ra trong thời gian qua.
Trình độ cán bộ tại NHCT Thanh Xuân tương đối đồng đều, tất cả cán bộ hầu hết đều có bằng đại học chuyên ngành kinh tế và có nhiều cán bộ đang theo học hoặc đã nhận được bằng thạc sỹ chuyên ngành này. Do đó, việc nắm bắt thông tin, xử lý thông tin trong hoạt động bảo lãnh đều được thực hiện suôn sẻ. Không những có một trình độ nghiệp vụ khá, cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh đều có phẩm chất đạo đức tốt. Nhờ vậy, những rủi ro và mâu thuẫn từ phía con người trong tổ chức chưa phát sinh, làm tăng hiệu quả cũng như hạn chế những nguy cơ cho ngân hàng.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. H ạn chế
Ngoài những thành tưu đạt được, hoạt động bảo lãnh tại NHCT Thanh Xuân cũng gặp phải không ít khó khăn. Trước hết, về mặt pháp lý, hoạt động bảo lãnh chưa có một hệ thống văn bản quy định chặt chẽ dẫn đến tình trạng vướng mắc với các nghiệp vụ khác. Bản thân khách hàng cũng xảy ra những mâu thuẫn với quy chế hiện hành về hoạt động bảo lãnh. Khách hàng luôn đòi hỏi ngân hàng phải đáp ứng những nhu cầu đôi khi không có trong quy định. Nếu ngân hàng áp dụng quy định một cách cứng nhắc thì sẽ mất khách hàng nhưng nếu ngân hàng không tuân thủ theo quy chế thì sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng phải trả lời trong thời gian quá ngắn hoặc yêu cầu không phải đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc không thể thoả thuận với ngân hàng về giá trị bảo lãnh… Khi làm việc với khách hàng, ngân hàng luôn khúc mắc và gặp khó khăn trong việc đảm bảo lợi ích của cả ngân hàng và khách hàng.
Tranh chấp kinh tế giữa ba bên cũng là một trở ngại đối với khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Hoạt động bảo lãnh sẽ suôn sẻ nếu như không có sự vi phạm hợp đồng của khách hàng. Mặc dù không có khoản nợ quá hạn nào phát sinh trong ba năm gần đây nhưng tranh chấp giữa khách hàng của Chi nhánh và bên nhận bảo lãnh không phải là không có. Sau những vụ tranh chấp phát sinh đó, khách hàng sẽ lưỡng lự hơn khi sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng. Nhiều khách hàng cho rằng mình không vi phạm hợp đồng nhưng ngân hàng đã thanh toán ngay cho người thụ hưởng sau khi được yêu cầu đầu tiên.
Về phía Ngân hàng, Ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề quản trị rủi ro. Trong công tác thẩm định, không phải lúc nào cán bộ nghiệp vụ cũng hoàn toàn đúng nên rủi ro trong thẩm định cũng là một vấn đề.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
Nguyên nhân đầu tiên về mặt pháp lý đó là sự thiếu phù hợp của các văn bản hiện hành. Thời gian đầu khi mới có hoạt động bảo lãnh, ngoài những văn bản pháp quy như Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự và các quy định quốc tế. Tại Việt Nam chưa có một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh áp dụng cho hoạt động bảo lãnh. Mặc dù quyết định 283 đã hai lần sửa đổi nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế cụ thể là chưa lường hết được các yếu tố đặc biệt khác.
Mặt khác, trình độ kinh tế của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu kinh tế. Đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển hoạt động bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại. Khi thị trường tài chính chưa hoàn thiện, thị trường chứng khoán mới được hình thành, các hoạt động trên thị trường này còn yếu kém. Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã mở cửa giao lưu buôn bán với nhiều nước trên thế giới nhưng hoạt động thương mại chưa phải là mạnh so với một số nước trong khu vực. Không những chỉ nói chung người Việt Nam còn nhiều tập quán kinh tế lạc hậu, chưa phát triển như các nước khác trong khu vực mà cụ thể người dân Quận Thanh Xuân còn kém phát triển hơn một số quận khác trong khu vực. Chính vì vậy, nhu cầu về một số loại hình bảo lãnh cũng không cao và doanh số còn thấp và có nhiều hạn chế.
Khách hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại trong hoạt động bảo lãnh. Khách hàng của NHCT Thanh Xuân chủ yếu bao gồm cá nhân, doanh nghiệp có quy mô không lớn. Khả năng tài chính và các vấn đề liên quan của các khách hàng được cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng nghiên cứu trước khi ra quyết định bảo lãnh. Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho thấy nhiều khách hàng không có kiến thức về bảo lãnh ngân hàng. Do đó, khi khách hàng đến Ngân hàng yêu cầu bảo lãnh, cán bộ nghiệp vụ cũng rất vất vả để làm cho khách hàng hiểu được bản chất của nghiệp vụ. Nhiều trường hợp, khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh, khách hàng phàn nàn rằng Ngân hàng tự ý trả tiền cho bên thụ hưởng vì không hiểu bảo lãnh ngân hàng có tính chất độc lập và hiệu lực mạnh.
Trong trường hợp khác, khách hàng cũng có thể có hiểu biết về nghiệp vụ bảo lãnh nhưng lại không có điều kiện thực hiện. Những doanh nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu một số điều kiện để được Ngân hàng bảo lãnh, có thể là tư cách pháp nhân, khả năng tài chính, khả năng đảm bảo… của các doanh nghiệp này có vấn đề.
Đối với bản thân Ngân hàng, quy trình thực hiện bảo lãnh chưa hoàn thiện đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác bảo lãnh đặc biệt là quá trình thẩm định. Rủi ro phát sinh trong quá trình này là tương đối cao. Bản thân cán bộ nghiệp vụ không thể xem xét từng món rõ ràng hay xuống tận nơi doanh nghiệp đang kinh doanh để theo dõi. Ngoài ra, mẫu biểu cho hoạt động bảo lãnh vẫn chưa được phù hợp với yêu cầu hiện tại.
Trong giai đoạn này, Ngân hàng rất thiếu người trong đội ngũ cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh. Một cán bộ phải kiêm nhiều dự án nên không thể lường hết sai sót và cũng không thể kiểm tra hồ sơ cho cán bộ khác. Đây cũng là một nguyên nhân làm giảm chất lượng dịch vụ bảo lãnh.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.
3.1. Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân giai đoạn 2006-2010.
3.1.1. Mục tiêu kinh doanh.
Mục tiêu cho thập kỷ tới của NHCT Thanh Xuân là phấn đấu trở thành một Chi nhánh Ngân hàng mạnh tại Hà Nội , tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, phát huy sức mạnh của tập thể, quyết tâm phấn đấu đạt những mục tiêu cụ thể sau:
- Tập trung công tác huy động vốn bằng việc thực hiện đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn trung và dài hạn.
- Thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, an toàn, hiệu quả. Đẩy mạnh việc thu hồi nợ gia hạn, nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Không những thế, Ngân hàng còn mở rộng quan hệ với tất cả khách hàng bao gồm khách hàng truyền thống và khách hàng mới để tạo dựng một cơ sở khách hàng rộng lớn và đa dạng làm nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng. Phát triển dịch vụ ngân hàng đến tất cả các đối tượng từ doanh nghiệp cho đến cá thể, từ doanh nghiệp quốc doanh đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tích cực phát triển mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhằm nâng cao tỷ trọng thu phí dịch vụ trên tổng các nguồn thu của Chi nhánh. Phát triển và mở rộng các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ thông qua thiết lập các phòng giao dịch để đáp ứng kịp thời và hiệu quả việc sử dụng dịch vụ của khách hàng.
- Nâng cao hạng Chi nhánh từ hạng 2 lên hạng 1
- Sử dụng các mô hình quản lý hiện đại và khoa học trên thế giới nhằm điều hành tốt hoạt động của Ngân hàng. Củng cố công nghệ và khai thác các sản phẩm ngân hàng nhằm cung ứng các sản phẩm đa dạng và chuyên nghiệp theo yêu cầu khác nhau của các đối tượng khách hàng khác nhau.
- Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ nhằm đảm bảo tính an toàn cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt chú trọng đến chất lượng của cán bộ kiểm tra để đảm bảo tính công minh và thống nhất.
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Không nằm ngoài chiến lược phát triển chung của Ngân hàng, hoạt động bảo lãnh cũng được xác định phương hướng phát triển cụ thể phù hợp với xu thế phát triển chung. NHCT Thanh Xuân chủ trương thúc đẩy hoạt động bảo lãnh theo cả chiều rộng và chiều sâu thể hiện ở những điểm sau:
* Đa dạng hoá sản phẩm bảo lãnh: Trong đó, vừa tiếp tục thực hiện những sản phẩm truyền thống vừa phát triển những loại hình bảo lãnh mới và dịch vụ đi kèm. Để phục vụ nhu cầu của một nền kinh tế thị trường năng động, NHCT Thanh Xuân tiếp tục nghiên cứu để cung cấp cho thị trường những sản phẩm bảo lanlhx mới có tính chất hỗn hợp nhưng thuận tiện và đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng. Ngân hàng sẽ phấn đấu thực hiện dịch vụ tư vấn cho thuê két… để hỗ trợ cho các loại hình bảo lãnh đồng thời thu hút khách hàng và tăng thu cho ngân hàng.
* Nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh đặc biệt là chất lượng của khâu thẩm định. Thẩm định một cách bài bản và chuyên nghiệp nhằm hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động bảo lãnh do tìm hiểu chưa kỹ, đánh gía sai lệch thông tin từ phía khách hàng đồng thời làm tốt công tác thẩm định để tránh và giảm thiểu tối đa các khoản nợ quá hạn. Ngoài ra, để góp phần đảm bảo chất lượng cho hoạt động bảo lãnh, Ngân hàng đang tiến hành đầu tư công nghệ hiện đại cùng những sản phẩm phần mềm tiên tiến đã được sử dụng tại các ngân hàng ưu việt trên thế giới.
* Hoàn thiện quy trình bảo lãnh cũng là một mục tiêu phấn đấu của Ngân hàng nhằm đơn giản hoá quy trình, thời gian thực hiện các bước trong quy trình được rút ngắn nhưng vẫn đạt hiệu quả cao.
* Ngoài các mục tiêu trên, Chi nhánh sẽ n âng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nghiệp vụ bảo lãnh. Xuất phát từ ý nghĩa kinh tế, hoạt động bảo lãnh đòi hỏi phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ tác nghiệp có trình độ nghiệp vụ thành thạo, hiểu biết mốt cách sâu sắc không những về phương diện lý luận mà còn về công tác cụ thể để thực hiện tốt một công tác quan trọng như bảo lãnh. Yếu tố con người luôn luôn chi phối tất cả các hoạt động vì vậy, sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung.
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
3.2.1. Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh trong từng giai đoạn.
Trong nền kinh tế thị trường theo xu hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, không chỉ trong riêng ngành ngân hàng mà trong tất cả mọi thành phần kinh tế thì ở mỗi thời kỳ khác nhau nền kinh tế có những đặc điểm và những thay đổi khác nhau, chúng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động bảo lãnh ở ngân hàng. Do đó, trên cơ sở đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, NHCT Việt Nam nói chung và NHCT Thanh Xuân nói riền phải xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh hàng năm vừa mang tính chất dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển chung vừa mang tính khả thi. Các kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh phải quán triệt được tư tưởng đã được đề ra, xác định được hệ thống các mục tiêu, chỉ ra được hướng đi, phương thức và giải pháp thực hiện các mục tiêu đó.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch, công việc xác định quan điểm về sự phát triển hoạt động bảo lãnh có một vai trò trọng yếu vì mỗi kế hoạch phải chỉ ra được vị trí, tầm quan trọng cũng như cơ cấu của từng loại hình bảo lãnh. Quan điểm phát triển ở đây có thể hiểu là việc tiếp tục tăng trưởng hay tạm thời thu hẹp hoạt động bảo lãnh, tập trung phát triển loại hình bảo lãnh nào và phương châm phát triển như thế nào…Các kế hoạch phải chỉ ra được những mục tiêu rõ ràng cần đạt được trong giới hạn thời gian. Các mục tiêu phải sát với tình hình thực tế và nằm trong khả năng thực hiện của Ngân hàng. Có như vậy, tư tưởng về sự phát triển hoạt động bảo lãnh mới có thể được thực thi một cách có hiệu quả và huy động được mọi nguồn lực trong Ngân hàng.
Sau khi xác định được mục tiêu, kế hoạch phát triển phải có những biện pháp, những bước đi cụ thể để đạt được các mục tiêu đó. Giải pháp phải đáp ứng được nhu cầu về cân đối nguồn lực, phát huy thế mạnh của hoạt động bảo lãnh trong ngân hàng. Không những đưa ra hướng giải quyết cho những hạn chế, các giải pháp trong thực tế phải hợp lý và thực hiện được. Tuy không biện pháp nào là tuyệt đối hoàn hảo nhưng phải mang tính chất toàn diện, không được mang tính chất cục bộ vì như vậy, có thể sẽ không thích hợp với chiến lược chung.
3.2.2. Các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh.
* Đa dạng hoá các sản phẩm bảo lãnh.
Hiện nay, khi các mối quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp, nhu cầu bảo lãnh của doanh nghiệp ngày càng tăng về số lượng, phong phú về hình thức và loại hình. NHCT Thanh Xuân sớm nắm bắt được nhu cầu đó đã cung ứng rất nhiều loại hình bảo lãnh. Tuy nhiên, vẫn còn một số loại hình bảo lãnh Ngân hàng chưa đưa vào thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng doanh số không cao như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh phát hành chứng khoán và một số loại hình dịch vụ kèm theo… Do vây, để phát triển hoạt động bảo lãnh, thu hút thêm khách hàng mới và củng cố quan hệ với khách hàng truyền thống, ngân hàng cần chú trọng đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh.
Như đã biết, nhu cầu về bảo lãnh là yếu tố khách quan tác động tới sự phát triển của hoạt động bảo lãnh. Các loại hình bảo lãnh trên chưa thực hiện hoặc doanh số không cao thực chất không phải là khách hàng không có nhu cầu mà do ngân hàng chưa có biện pháp kích thích khách hàng hoặc chưa đủ khả năng để đáp ứng. Trong thực tế, NHCT Thanh Xuân chỉ thực hiện bảo lãnh vay vốn dưới hình thức tín dụng thương mại L/C trả chậm mặc dù các doanh nghiệp có nhu cầu rất lớn về vay vốn. Để vay vốn, doanh nghiệp chủ yếu dùng biện pháp cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh bằng uy tín của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sở dĩ như vậy là vì NHCT Thanh Xuân còn e ngại về rủi ro gặp phải trong bảo lãnh vay vốn. Bảo lãnh có hiệu lực rất mạnh do đó nếu quá trình thẩm định không đạt tiêu chuẩn sẽ có thể gây ra những tổn thất không nhỏ cho Ngân hàng.
Bên cạnh các loại hình bảo lãnh đã biết, để tạo sự thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng cũng nên phát triển các sản phẩm mới có tính hỗn hợp. Trong thực tế, một quan hệ kinh tế có thể phát sinh nhiều quan hệ bảo lãnh. Vì vậy, Ngân hàng thực hiện cùng lúc nhiều hoạt động bảo lãnh cho một quan hệ kinh tế sẽ dẫn đến chồng chéo, khó có khả năng kiểm soát. Ngân hàng cần nghiên cứu để đưa ra một loại hình bảo lãnh hỗn hợp quy định cho một hoạt động kinh tế nhất định, trong đó các điều khoản quy định trách nhiệm của cả ba bên liên quan.
* Mở rộng thị trường cho hoạt động bảo lãnh.
Hiện nay, các khách hàng là doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, khách hàng cũng chỉ xin bảo lãnh những món nhỏ lẻ. Chính vì vậy, Ngân hàng cần phải tăng cường mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn bởi vì họ là những khách hàng thường yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho những dự án lớn nhưng đồng thời cũng không được bỏ qua thành phần kinh tế khác do tiềm năng của thành phần này đang được khơi dậy. Mặt khác, vi phạm bảo lãnh của Ngân hàng chủ yếu vẫn chỉ là lĩnh vực thương mại khi lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp còn nhiều triển vọng.
Đa dạng hoá thị trường không có nghĩa là bỏ quên thị trường truyền thống và phát triển một cách lan man không có trọng điểm mà ngược lại ngân hàng cần có một kế hoạch ưu đãi cho từng đối tượng khách hàng trong từng giai đoạn thích hợp. Đặc biệt, khi thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Ngân hàng nên linh hoạt trong khâu thẩm định và tài sản thế chấp, không nhất thiết yêu cầu các doanh nghiệp này phải ký quỹ 100%
* Thực hiện tốt công tác marketing, tăng cường thông tin đến khách hàng và mở rộng hoạt động bảo lãnh.
Trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh hiện nay, không chỉ riêng hệ thống NHCT Việt Nam mà hầu hết các ngân hàng thương mại muốn tồn tại và phát triển đều phải thực hiện thật tốt công tác marketing. Trước hết, Ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu kỹ thị trường với tất cả các yếu tố như đặc điểm khách hàng, tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường, khả năng cung ứng của bản thân ngân hàng trong tương quan so sánh với cá ngân hàng đối thủ khác… Từ đó, ngân hàng mới biết được ưu nhược điểm của mình và các ngân hàng khác để đưa ra một chiến lược phát triển lâu dài.
Sau khi nghiên cứu thi trường và phân tích các cơ hội kinh doanh, Ngân hàng sẽ tiến hành phân đoạn thị trường để từng đối tượng khách hàng có chính sách phù hợp. Các chính sách đối với khách hàng cần phải toàn diện, tổng thể trên cơ sở không ngừng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.NHCT Thanh Xuân cần phải tập trung vào việc củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống bằng các chính sách ưu đãi thích hợp, không nên áp dụng các quy định chung một cách quá cứng nhắc mà cần linh hoạt nhằm tăng mức độ thuận tiện cho đối tượng này. Với các doanh nghiệp làm ăn lâu dài và có uy tín với Ngân hàng, các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp đấu thầu công trình trọng điểm của Nhà nước, Ngân hàng nên ưu tiên xem xét nhu cầu và kết hợp các hình thức bảo đảm.Với khách hàng mới, Chi nhánh không nên yêu cầu 100% ký quỹ mà dựa vào kết quả thẩm định tài chính. Nếu khách hàng có khả năng bảo đảm, Ngân hàng nên cho phép khách hàng ký quỹ thấp hơn kết quả với thế chấp tài sản.
Bên cạnh chính sách khách hàng và chính sách phí, Chi nhánh vẫn phải tiếp tục nâng cao thanh thế của mình bằng những hoạt động tăng cường mối quan hệ tín nhiệm với khách hàng trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi. Trong quan hệ khách hàng, cán bộ nghiệp vụ cần thường xuyên hỗ trợ tư vấn cho khách hàng để khách hàng thực hiện đúng quy định đồng thời giúp khách hàng giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Ngân hàng cần tạo điều kiện cho khách hàng trong chất lượng dịch vụ như thái độ niềm nở, phong cách phục vụ nhiệt tình của mỗi cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh. Thông qua các buổi toạ đàm và các buổi làm việc với khách hàng, cán bộ cần thu thập ý kiến khách hàng về ưu nhược điểm trong quá trình cung cấp dịch vụ, những thắc mắc, những nhận xét cả những lời khen và chê để hoàn thiện các sản phẩm bảo lãnh.
* Nâng cao uy tín của ngân hàng trong mối quan hệ với các ngân hàng khác để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Đối với những khoản bảo lãnh vượt quá khả năng thực hiện của một ngân hàng thì các khoản đồng bảo lãnh là một giải pháp hợp lý cho các ngân hàng. Tuy nhiên, để có thể hợp tác với các ngân hàng lớn, NHCT Thanh Xuân cần phải khẳng định hơn nữa uy tín và vị thế trên thương trường.
Trước hết, xuất phát từ những mối quan hệ kinh tế phát sinh với khách hàng của các ngân hàng. Ngân hàng cần giữ được chữ tín đồng thời cộng tác kinh doanh cùng có lợi. Trên một cơ sở cạnh tranh lành mạnh, ngân hàng cần phát huy uy tín của minh thông qua một sức mạnh thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, ngân hàng ở thế chủ động, nắm bắt các cơ hội từ những dự án lớn trong quốc gia, trong khu vực và trên thế giới để đề nghị hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh. Muốn vậy, ngân hàng sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ và tốt đẹp với các ngân hàng bạn, mở rộng và duy trì quan hệ trên cơ sở phát huy thế mạnh, phục vụ đầu tư phát triển.
3.2.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
* Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trong công tác bảo lãnh.
Nghiệp vụ bảo lãnh thực chất là một hình thức nghiệp vụ tín dụng nhưng quan hệ vay mượn chỉ thực sự xảy ra khi ngân hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Khi khách hàng của ngân hàng vi phạm hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ đứng ra trả thay khoản tiền bồi thường. Lúc này món bảo lãnh sẽ trở thành một khoản nợ quá hạn và rủi ro không thu hồi được nợ là không nhỏ. Thẩm định tốt chính là nền tảng cơ bản để ngân hàng có sự an toàn trong kinh doanh và giảm thiểu rủi ro. Chính vì vậy, để có được một quyết định bảo lãnh đúng đắn, cán bộ nghiệp vụ tín dụng phải tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định theo đúng cơ chế tín dụng hiện hành của ngân hàng.
Trong quá trình thẩm định, trừ trường hợp ký quỹ 100% có thể được miễn một số điều kiện thẩm định, nhìn chung các điều kiện quan trọng mà cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh cần phân tích là:
- Tư cách pháp nhân
- Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
- Khả năng quản lý điều hành kinh doanh của chủ doanh nghiệp.
- Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp.
- Hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu hợp đồng.
Công tác thực hiện thẩm định của Chi nhánh thời gian qua có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số vướng mắc. Vì thế, khi tiến hành công tác này, để khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng, Chi nhánh nên sử dụng những nguồn số liệu đa chiều không những từ phía doanh nghiệp mà còn từ khách hàng của doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng, trung tâm ICC… Mặt khác, bằng khả năng phân tích môi trường kinh doanh, ngân hàng nên đánh giá những khó khăn thuận lợi của doanh nghiệp để có được một kết luận chính xác về vị trí và triển vọng của doanh nghiệp.
Về yếu tố khả năng quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp, thực tế ngân hàng ít khi coi trọng vấn đề này. Thực ra, chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới các quyết định kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, ngân hàng cần đánh giá toàn diện năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn và uy tín của chủ doanh nghiệp.
Vấn đề tài sản thế chấp cũng là một trong những vướng mắc khi xem xét các khoản bảo lãnh và cần phải xem xét một cách nghiêm túc và triệt để. Cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn cao trong việc xác định tài sản thế chấp vì nếu tài sản thế chấp là tài sản cố định thì sẽ có cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đồng thời đánh giá thông qua tình hình thị trường. Nếu như cán bộ phòng bảo lãnh không thể thẩm định được kỹ tài sản thế chấp hoặc thời gian thẩm định quá ít, có thể đưa sang bộ phận chuyên môn hơn như phòng thẩm định tín dụng khách hàng hoặc phải có riêng một nhóm chuyên thẩm định giá trị tài sản để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và kịp thời trả lời cho khách hàng.
Trong thực tế hiện nay, các ngân hàng thực sự gặp khó khăn khi đấu giá tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước vì cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó, trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy hiện thời về tài sản thế chấp để có phương hướng giải quyết phù hợp trong từng hoàn cảnh.
Đối với công tác thẩm định tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, cán bộ nghiệp vụ cần hết sức tránh tình trạng thẩm định mang tính chủ quan kinh nghiệm. Mỗi hợp đồng kinh tế, mỗi dự án lại thuộc rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau và chế độ hạch toán kế toán nước ta còn chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ nên ngân hàng cũng cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh trong thực hiện hợp đồng hay dự án. Vì đây là khâu quan trọng góp phần không nhỏ ra quyết định bảo lãnh nên cán bộ thẩm định phải thực sự có năng lực, có kinh nghiệm, đánh giá phương án không những trên phương diện kỹ thuật, tài chính mà còn trên phương diện lợi ích xã hội. Có như vậy, cán bộ mới có thể đưa ra những quyết định phù hợp với bảo lãnh như giá trị bảo lãnh, phí bảo lãnh… Đồng thời, cán bộ cũng nên tư vấn cho khách hàng để nâng cao chất lượng dự án.
Ngoài những kinh nghiệm làm việc của bản thân, cán bộ bảo lãnh khi tiến hành thẩm định cũng nên phối hợp với các bộ phận liên quan hoặc các cơ quan chuyên môn, cơ quan có thẩm quyền để nâng cao chất lượng và tính pháp lý của quá trình thẩm định. Ngân hàng cũng nên cho phép luân chuyển hồ sơ giữa các cán bộ trước khi trình lên giám đốc để kiểm tra lại một cách khách quan. Đôi khi nhận xét chủ quan của một cá nhân chưa chắc đã giúp các cán bộ lãnh đạo ra được quyết định đúng đắn và những ý kiến đóng góp từ các cá nhân sẽ giúp hoàn thiện quá trình thẩm định một cách có hiệu quả.
* Bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ.
Con người là yếu tố quan trọng nhất tác động đến mọi hoạt động của ngân hàng. Cụ thể, con người ở đây là các cán bộ ngân hàng tham gia trực tiếp vào quá trình cung cấp dịch vụ, giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến ngân hàng. Chính vì vậy, năng lực nghiệp vụ, trình độ hiểu biết, thái độ phục vụ và tác phong làm việc của cán bộ ngân hàng sẽ là điều kiện để ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng của đội ngũ cán bộ sẽ giúp khách hàng thấy thuận tiện và tin tưởng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Do đó, công tác đào tạo đội ngũ nên tập trung vào các vấn đề sau:
- Đào tạo bài bản và có hệ thống các vấn đề cơ bản cho cán bộ đặc biệt là nhân viên mới để cán bộ hiểu đúng bản chất, vai trò và tính chất rủi ro của bảo lãnh. Ngân hàng nên tiến hành đào tạo chuyên sâu cho cán bộ nghiệp vụ, khuyến khích các cán bộ tiếp tục nâng cao bậc học trong ngành nghề đồng thời cam kết hoàn trả học phí sau khi kết thúc khoá học và có bằng hoặc chứng chỉ. Việc đào tạo cần tập trung theo trọng điểm một cách toàn diện để tránh đào tạo tràn lan, lãng phí.
- Phương thức đào tạo có thể là mở lớp học ngay tại Ngân hàng hoặc cử cán bộ đi học bên ngoài hoặc tổ chức phong trào thi đua, các buổi thảo luận hoặc hội thảo trong ngân hàng và giữa các ngân hàng bạn để cán bộ trao đổi thông tin với nhau và rút kinh nghiệm cho bản thân.
- Trước xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, ngân hàng cũng nên trao đổi kiến thức ngoại ngữ, tin học và cập nhật thông tin mới cho cán bộ bằng cách cung cấp cho cán bộ những công cụ đầy tiện ích để cán bộ tự nghiên cứu. Đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ khi thực hiện công tác của mình.
- Bên cạnh việc đào tạo, ngân hàng nên có một tổ chức, sắp xếp hợp lý, công việc và trách nhiệm phải phù hợp với trình độ và năng lực được giao, có như vậy cán bộ mới phát huy được hết khả năng làm việc hiệu quả. Đặc biệt, ngân hàng nên tuyển thêm và mạnh dạn sử dụng những cán bộ trẻ có năng lực, có trình độ thực sự trong công việc để bổ xung đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong thời gian này.
* Hoàn thiện quy trình.
Quy trình bảo lãnh của Chi nhánh cần được hoàn thiện theo hướng sau để đảm bảo quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh được đúng đắn, an toàn và nhanh:
- Tăng cường tim kiếm và tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các yêu cầu bảo lãnh nhằm chủ động thu hút khách hàng và công tác bảo lãnh được tiến triển thuận lợi.
- Nâng cao công tác thẩm định khách hàng trong quá trình thẩm định tư cách pháp nhân, khả năng tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh… nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng bảo lãnh.
- Ngân hàng nên đơn giản hoá các thủ tục, các quy trình để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Ngân hàng cũng phải hoàn thiện mẫu biểu để phục vụ công tác bảo lãnh. Đồng thời, khi tiến hành nếu có vướng mắc nào thì phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để trả lời cho khách hàng càng sớm càng tốt.
- Ngân hàng cần làm tốt việc theo dõi, giám sát và quản lý chặt chẽ khách hàng được bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Công tác đánh giá, tổng kết, đúc rút ra kinh nghiệm cần được coi trọng đặc biệt sau khi hoàn tất một món bảo lãnh từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện cho các món bảo lãnh tiếp theo
* Đưa công nghệ vào phục vụ cho hoạt động bảo lãnh, kiểm soát chặt chẽ hơn phân cấp, phân quyền cho Chi nhánh.
Ngân hàng nên đầu tư hơn nữa vào công nghệ để theo kịp trình độ tiên tiên của các ngân hàng khác. Đây cũng là một khoản đầu tư mang lại lợi nhuận cao vì công nghệ sẽ giúp các dịch vụ ngân hàng trở nên tiện ích hơn đối với khách hàng. Có như vậy, khách hàng sẽ ngày càng sử dụng dịch vụ bảo lãnh của Chi nhánh vì tính thuận tiện so với các ngân hàng khác.
Kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh là một nhiệm vụ quan trong không thể thiếu trong nghiệp vụ tín dụng ngân hàng . Để đảm bảo tính rủi ro xảy ra, cán bộ bảo lãnh phải quản lý, chỉ đạo, giám sát chặt chẽ khâu thẩm định khách hàng hay dự án được yêu cầu bảo lãnh. Cán bộ tín dụng cũng có thể xuống tận doanh nghiệp để kiểm tra xem doanh nghiệp có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Đồng thời, ban lãnh đạo Chi nhánh cần nắm bắt kịp thời các tình hình liên quan đến khoản bảo lãnh để có thể giải quyết những rủi ro phát sinh trong quá trình bảo lãnh.
Ngân hàng nên tổ chức kiểm tra một cách có hệ thống các món bảo lãnh hiện hành để hoàn chỉnh hồ sơ, đánh giá tiến độ thực hiện từ đó tăng cường biện pháp bảo đảm. Tổ chức giám sát chặt chẽ các khoản bảo lãnh vay vốn qua hình thức thanh toán L/C trả chậm để thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ và hạn chế những trường hợp ngân hàng thanh toán thay cho khách hàng trong khi khả năng thanh toán của khách hàng kém.
3.3. Kiến nghị.
* Kiến nghị đối với Chính phủ:
Một hiện thực tương đối khách quan là cho dù hoạt động của cả hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng có thay đổi như thế nào đi nữa cũng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì dù ngoài sự nỗ lực của bản thân với các giải pháp nghiệp vụ của mình thì cần phải có một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ.
Hiện nay, luật NHNN và luật các TCTD đang có hiệu lực trên thực tế nhưng trông từng lĩnh vực cụ thể vẫn thiếu các qui định chi tiết. Mặc dù các văn bản, qui định thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý và đôi khi là qúa chặt chẽ. Do đó, khi thực hiện các văn bản này, các ngân hàng đã gặp phải không ít những khó khăn.
Trong hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng, các TCTD Việt Nam mới chỉ được điều chỉnh chủ yếu bởi các văn bản pháp quy và các văn bản dưới luật của NHNN và các ngành có liên quan. Điều đó đã làm xuất hiện tình trạng nhiều khía cạnh của nghiệp vụ bảo lãnh không được quy định một cách đầy đủ. Mặt khác, hàng loạt các vấn đề phức tạp của nghiệp vụ bảo lãnh cũng không được các văn bản pháp quy hướng dẫn như: vấn đề tư cách chủ thể bảo lãnh của bên thứ ba, giải quyết khi tranh chấp, các mẫu biểu của bảo lãnh chưa thống nhất…
Chính vì vậy, nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ đồng bộ, thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể cần sớm ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản…
Ngoài ra, bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp, qui định trong một số ngành khác. Việc tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đỡ của các ngành này. Cụ thể như sau:
+ Trong thủ tục công chứng: Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn về các mẫu giấy tờ để công chứng thì đến nay vẫn chưa có mẫu về cầm cố thế chấp bảo lãnh. Trong khi đó, theo hướng dẫn của ngân hàng thì phòng công chứng không xác nhận. Hơn nữa, mức lệ phí công chứng 0,2% trên số tiền công chứng là chưa hợp lý vì trong khi công chứng phải chịu trách nhiệm về rủi ro và những sai phạm trong hợp đồng thế chấp thì ngân hàng phải gánh chịu mọi rủi ro mà mức phí tối đa của ngân hàng là 2% trên số tiền bảo lãnh.
Do vậy, Bộ tư pháp nên qui định mức lệ phí công chứng hợp lý và ban hành mẫu giấy tờ công chứng. Điều này sẽ làm giảm phiền toái cho doanh nghiệp và thuận tiện cho ngân hàng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.
+ Về thế chấp tài sản:
Hiện nay, Bộ tài chính đã chấp thuận cho các doanh nghiệp được sử dụng các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nếu doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản thì phần tài sản cũng được xử lý theo luật phá sản của doanh nghiệp Nhà nước hiện hành. Thế nhưng, việc thế chấp tài sản cuả các doanh nghiệp Nhà nước chỉ mang tính hình thức, thực tế ngân hàng không phát mại tài sản vì được Tổng cục quản lý vốn và tài sản không xác nhận “ chấp nhận cho các doanh nghiệp dùng tài sản này để thế chấp “ mà chỉ xác nhận “ tài sản này thuộc quyền quản lý và sử dụng “. Chính vì vậy, nếu rủi ro xảy ra, doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng không thể thu hồi được nợ thông qua việc phát mại tài sản trên, dẫn đến ngân hàng phải gánh chịu mọi hậu quả. Trước tình hình đó các cơ quan hữu quan cần xem xét và giải quyết theo các hướng dẫn sau:
Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mại tài sản trên để thu hồi nợ. Nếu không các cơ quan này phải có trách nhiệm đền bù thay cho các doanh nghiệp.
Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý ( các thủ tục hành chính để phát mại tài sản, giải quyết việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản ) tạo điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, nhanh chóng.
Mặt khác, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần từ nhiều năm nay song trong chính sách với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy không còn bị phân biệt đối xử nhưng vẫn chưa thực sự được bình đẳng, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, bảo lãnh. Vấn đề này Nhà nước nên tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và nhanh chóng hoàn thành qúa trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
+ Về môi trường kinh doanh.
Tiếp tục xây dựng một cơ chế thì trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tín dụng – tiền tệ và giá cả. Củng cố thị trường vốn và thị trường tài chính hiện có, đồng thời không ngừng đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Hơn nữa, cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Khẩn trương thực hiện môi trường đầu tư trong nước và ngoài nước, sớm tiến tới thống nhất cơ chế và chế độ đầu tư trong nước và ngoài nước.
+ Chính phủ cần sớm thành lập tổ chức xếp hạng định mức tín nhiệm, bởi khi tổ chức này ra đời nó không chỉ hỗ trợ cho ngân hàng mà còn hỗ trợ cho rất nhiều cho các ngành khác.
* Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
- Về đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh:
Cùng với việc cải tiến thủ tục bảo lãnh sao cho đơn giản, chặt chẽ và an toàn, thì cần phải từng bước đa dạng hoá hình thức bảo lãnh. Trong thời gian qua, doanh số bảo lãnh còn rất thấp so với tiềm năng của các ngân hàng. Vì truyền thống, mặt khác NHNN nên hướng dẫn cho các ngân hàng sử dụng hình thức bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài, bảo lãnh bằng việc lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ với nước ngoài. Đồng thời cần sớm chuẩn bị để ban hành các văn bản hướng dẫn một số loại hình bảo lãnh mới sẽ sử dụng trong thời gian tới như: bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh hối phiếu…
- Về phí bảo lãnh và quỹ bảo lãnh:
Theo qui định hiện hành, mức phí bảo lãnh là 2%/ năm trên số tiền được bảo lãnh. Theo mức phí này chưa chỉ ra được sự khác biệt về mức độ rủi ro của từng loại bảo lãnh, cũng như chưa thể hiện chính sách ưu đãi của ngân hàng đối với doanh nghiệp có uy tín với ngân hàng. Vì vậy, NHNN nên qui định cụ thể về mức phí bảo lãnh trong qui chế mà để các NHTM chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. NHNN chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, kiểm tra giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua qui định về quỹ bảo lãnh, ký quỹ bảo lãnh.
NHNN cần ban hành qui chế cụ thể về bảo lãnh và trích lập quỹ bảo lãnh đối với nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, quy định khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh, sử dụng quỹ bảo lãnh.
- Về điều kiện để các liên doanh được xem xét bảo lãnh:
Hiên nay trong thực tế, để có thể tham gia dự thầu, đã có nhiều nhà thầu liên doanh với nhau và yêu cầu các ngân hàng xem xét cấp bảo lãnh.
Tuy nhiên, trong quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN chưa có hướng dẫn loại hình bảo lãnh cho các liên doanh, điều kiện để các liên doanh được ngân hàng xem xét bảo lãnh, địa vị pháp lý của các liên doanh để xin ngân hàng bảo lãnh… Do đó rất khó cho ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu này. Vì vậy, NHNN cần phải ban hành văn bản, quy chế hướng dẫn để NHCT Việt Nam cũng như các ngân hàng khác thực hiện.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra để phòng ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm đối với người nhận bảo lãnh:
- Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp kịp thời, chính xác theo yêu cầu của các TCTD:
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới, các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và các quan hệ kinh tế nói riên của nước ta ngày càng trở nên phong phú, hoạt động ngày càng đầy đủ hơn, khẳng định vị trí và vai trò của nước ta trong cộng đồng thế giới. Việc mở ra các quan hệ kinh tế ngày càng rộng rãi đòi hỏi phải mở rộng và hoàn thiện không ngừng các hoạt động bảo lãnh nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế thông suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Ngày nay, chúng ta không thể không thừa nhận tầm quan trọng trong hoạt động bảo lãnh trong ngân hàng. Do đó, các nỗ lực phát triển hoạt động bảo lãnh là vô cùng cần thiết cho một nền kinh tế đang trên đà đi lên như nền kinh tế Việt Nam.
Sau khi đã nhận thức được vai trò của bảo lãnh ngân hàng, em đã để ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân. Với những phát hiện trong đề tài, hoạt động bảo lãnh được mở ra những hướng nghiên cứu mới về các vấn đề như hệ thống văn bản pháp lý, các sản phẩm bảo lãnh, quy trình thẩm định hay các biện pháp quản lý rủi ro…
Mặc dù chuyên đề nghiên cứu còn nhiều thiếu sót nhưng về cơ bản cũng chỉ ra được ưu điểm, khuyết điểm trong hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân và đóng góp cho Ngân hàng những giải pháp để tham khảo. Đối với trường Đại học kinh tế quốc dân, chuyên đề này cũng góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh và tăng cường kho kiến thức cho các bạn sinh viên trẻ. Riêng với bản thân em, chuyên đề này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu mốc học tập và nghiên cứu của một sinh viên.
Để hoàn thiện bản chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em đã được sự giúp đỡ rất tận tình của các thầy cô đặc biệt cô giáo hướng dẫn PGS – TS Nguyễn Thị Thu Thảo vàa các cán bộ làm việc tại Phòng Khách hàng doanh nghiệp – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1
1.1 Tổng quan về Ngân hàng Thương mại.
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng Thương mại.
1.1.2 Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
1.2 Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại.
1.2.1 Khái niệm, bản chất và ý nghĩa.
1.2.2 Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh.
1.2.3 Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh.
1.2.4 Phân loại.
1.2.4.1 Theo phương thức phát hành.
1.2.4.2 Theo phương thức đòi tiền.
1.2.4.3 Theo mục tiêu bảo lãnh.
1.2.4.4 Theo tính chất.
1.2.4.5 Theo tài sản đảm bảo.
1.2.5 Quy trình bảo lãnh.
1.3 Các chỉ tiều đánh giá hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại.
3.1 Các chỉ tiêu định lượng.
1.3.2 Các chỉ tiêu định tính.
1.3.3 Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo lãnh.
1.3.3.1 Yếu tố môi trường.
1.3.3.2 Yếu tố khách hàng.
1.3.3.3 Yếu tố chiến lược kinh doanh.
1.3.3.4 Yếu tố quy trình nghiệp vụ bảo lãnh.
1.3.3.5 Yếu tố con người.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.1.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân trong những năm gần đây.
2.2 Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.1 Quy tắc chung cho hoạt động bảo lãnh tại Việt Nam.
2.2.2 Các loại hình bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.3 Quy trình bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.2.4 Kết quả hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân trong những năm gần đây.
2.3 Đánh giá hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
2.3.1 Kết quả đạt được.
2.3.1.1. Những kết quả đạt được.
2.3.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1. Hạn chế.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.
3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân giai đoạn 2006 – 2010.
3.1.1 Mục tiêu kinh doanh.
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương hanh Xuân.
3.2.1 Lập kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh trong từng giai đoạn.
3.2.2 Các giải pháp mở rộng hoạt động bảo lãnh.
3.2.3 Các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
3.3 Kiến nghị.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
david cox–Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. NFredric s. miskin–Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. TGS –TS hỒ DIỆU ( chủ biên ) –Tín dụng ngân hàng –NXB Thống kê năm 2000.
Lê Nguyên–Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng –BNXB Thống kê năm 1997.
Luật NHNN, luật các TCTD.
Quyết định 283/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 về qui chế nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Quyết định 368/2001/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của Thống đốc NHNN sửa đổi một số điểm trong quyết định 283
Công văn số 112/QĐ-NHNN ngày 11/2/2003 của NHNNVN về sửa đổi một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng.
Văn bản số 2653/CV-NHCT5 ngày 30/10/2000 của TGĐ NHCT VN hướng dẫn thực hiện quy chế bảo lãnh ngân hàng
Tạp chí ngân hàng các năm 2003, 2004, 2005 và các số đầu n ăm 2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH110.docx