Với sự phát triển đến chóng mặt của nền kinh tế thế giới cũng như khu vực. Là một nước đang phát triển, Việt nam đang từng bước công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hoà chung tinh thần này, huyện Tiên du ra sức phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Mặc dù mới được tách ra từ huyện Tiên Sơn cũ, cơ sở vật chất còn nghèo làn, kinh nghiệm quản lý còn non yếu, nhưng song song với việc củng cố bộ máy lãnh đạo, xây dựng cơ sở hạ tầng là việc ổn định, xây dựng và phát triển kinh tế của địa phương.
Tuy là một huyện còn mới, nhưng với điều kiện tự nhiên thuận lợi: dân cư sống tập trung, giao thông thông thoáng, hệ thống thuỷ lợi nói chung đảm bảo nguồn nước tưới tiêu cho bà con trong việc phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Hơn nữa huyện có mối liên lạc giao lưu kinh tế với các địa phương khác tương đối tốt. Đặc biệt là có các chính sách phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại phù hợp với điều kiện tự nhiên - xã hội như: đầu tư phát triển đàn bò sữa, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp như khu công nghiệp Hoàn Sơn, công ty may Tiên Sơn, khu công nghiệp chế biến thức ăn gia xúc, trại Gà giống, nhà máy giấy.Đã có hàng vạn lao động được thu hút vào làm việc ở các khu này, giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương và các huyện bạn, tỉnh bạn. Đây là sự phấn đấu lỗ lực của bản thân Huyện Tiên du và sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng của tỉnh, của Trung Ương và ý thức xây dựng của toàn dân, của các cơ quan có thẩm quyền của Huyện. Trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Huyện từ một nền kinh tế hầu như thuần nông sang một nền kinh tế công - nông - thương nghiệp, NHNo&PTNT huyện Tiên du đã giữ vai trò vô cùng quan trọng. Các ngành nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển, các công ty, nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, các trang trại và kinh tế hộ có phát triển được như ngày hôm nay hầu hết đều có sự tham gia đầu tư của đồng vốn ngân hàng. Có thể nói NHNo Tiên du như một bà mẹ đỡ đầu cho sự phát triển của nền kinh tế địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, NHNo Tiên du cũng đã gặp phải không ít những khó khăn, đôi khi gặp rủi ro. Bởi rủi ro là những gì không thể lường trước được do chủ quan hay do khách quan, khiến cho người đi vay không thực hiện đúng cam kết với ngân hàng. Rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội như: lạm phát, suy thoái, chính sách nhà nước hay môi trường pháp lý không ổn định, hay điều kiện tự nhiên bất ổn: thiên tai lũ lụt.Dù có xuất phát từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng mang lại những thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Nhưng không phải vì thế mà ngân hàng thu hẹp hoạt động. Hằng ngày có hàng trăm giao dịch được phát sinh, và tương lai NHNo Tiên du sẽ còn mở rộng phạm vi và phát triển quy mô hơn nữa, vươn cao và vươn xa hơn nữa.
Trên đây là đôi nét về thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Tiên du, những mặt tích cực và một số tồn tại. Qua thời gian ngắn tiếp cận thực tế được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại NHNo Tiên du, em đã hiểu thêm nhiều vấn đề về thực tế, bổ sung cho những kiến thức đã học được dưới mái trường HVNH.
Em xin chân thành cám ơn cô giáo Đỗ Kim Hảo, và sự hướng dẫn của các cô chú ở NHNo Tiên du đã giúp em hoàn thành bài viết này.
72 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Tiên Du - Tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cán bộ tín dụng phải phối hợp chặt chẽ với trưởng thôn, với các tổ chức quần chúng trong điều tra cho vay cũng như giám sát sử dụng vốn vay và đôn đốc trả nợ.
+ Người có nhu cầu vay vốn sẽ trình bày nguyện vọng của mình với cán bộ tín dụng, họ sẽ sắp xếp và hẹn thời gian để điều tra xác minh nhu cầu và thực trạng của hộ vay vốn. Sau khi kiểm tra nhu cầu cũng như tài sản thế chấp hoặc xác nhận của tổ chức đoàn thể, tổ trưởng để đi đến quyết định cho vay, hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay vốn theo đúng quy định (tuỳ theo từng loại khách hàng, mức tiền vay...). Sau khi hoàn thành hồ sơ xin vay cán bộ tín dụng lập hồ sơ trình trưởng phòng (hoặc tổ trưởng tổ tín dụng), giám đốc hoặc người được uỷ quyền của giám đốc xem xét ký duyệt cho vay. Quá trình xem xét cho vay đảm bảo chấp hành theo đúng chế độ quy định.
Kết quả hoạt động kinh doanh tính đến 31/03/2004 được thể hiện qua bảng số liệu sau:(Đ/v tính: Trđ)
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Cả năm 2004
Thực hiện đến hết Quý 1/2004
Tăng so với
Quý1/2003
A/ Tổng nguồn vốn huy động
B/ Doanh số cho vay
C/ Doanh số thu nợ
D/ Tổng dư nợ tín dụng
Dư nợ dịch vụ NHNg
Dư nợ cho vay NHNo
Ngắn hạn
Trung dài hạn
* Nợ quá hạn
- Tỷ lệ % so với tổng dư nợ tín dụng
E/ Chênh lệch thu - chi
229.172
204.050
169.913
204.823
22.000
182.823
132.823
50.000
1.024
0,5%
5.860
175.926
15.421
14.502
171.742
21.896
149.846
109.633
40.213
429
0,25%
2.379,357
15,54%
20,12%
10,01%
23,86%
11%
26%
21,79%
39,06%
- 22,56%
19,52%
Qua bảng số liệu trên, cho thấy hoạt động ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên du đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nhất là trong điều kiện trên địa bàn huyện có sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt với các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng nhân dân. Với kết quả đạt được NHNo&PTNT huyện Tiên du được đánh giá là đơn vị lá cờ đầu của tỉnh và được UBND huyện tặng giấy khen là đơn vị có thành tích xuất sắc vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của huyện.
c/Đánh giá kết quả hoạt động tín dụng trong năm 2003 và quý I năm 2004.
Qua bảng số liệu trên ta thấy, hoạt động tín dụng của NHNo Tiên du luôn ở trạng thái lành mạnh, kết quả hoạt động tín dụng đã góp phần quan trọng vào kết quả kinh doanh của ngân hàng đảm bảo được hiệu quả kinh doanh phục vụ kịp thời sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của huyện.
*/ Mặt được:
- Chấp hành chỉ đạo của cấp trên, ngân hàng Tiên du đã nhanh chóng giảm các nguồn vốn huy động lãi suất cao, đồng thời đã có các biện pháp để giữ nguồn tiền gửi lớn... như thực hiện cơ cấu tiền gửi hợp lý, ưu đãi giảm phí thanh toán... Do vậy năm 2003 đã chấp hành tốt kế hoạch huy động nguồn (đạt 183.372 trđ, kế hoạch đề ra là 179.589 trđ)
- Thị trường nông thôn là thị trường rộng lớn, việc mở rộng cho vay của ngân hàng Tiên du đã bám sát và thực hiện đúng định hướng kinh doanh của NHNo tỉnh Bắc ninh, đảm bảo kết quả kinh doanh và đời sống cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức.
- Thông qua hoạt động cho vay đã giúp các hộ có thêm vốn sản xuất kinh doanh: mua vật tư, nguyên liệu, con cây giống… phát triển sản xuất không ngừng nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều hộ đã thoát khỏi đói nghèo, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Mặt khác cũng thông qua hoạt động cho vay đã giúp cho cán bộ tín dụng nói riêng hiểu rõ thêm quy trình nghiệp vụ cho vay, tình hình đời sống thu nhập của bà con nông dân, các hộ kinh doanh từ đó có các biện pháp triển khai phù hợp đồng bộ để không ngừng mở rộng cho vay, đảm bảo hiệu quả đồng vốn, chấp hành đầy đủ nguyên tắc chế độ của ngành, của pháp luật đã đề ra...
*/ Những tồn tại:
- Bên cạnh những thành tích đã đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh tín dụng thì vẫn còn những hạn chế và những vấn đề đặt ra cần phải khắc phục đó là:
+ Là một chi nhánh ngân hàng nông nghiệp có nguồn vốn huy động không ngừng tăng và có số dư khá lớn trong tỉnh song do nhu cầu vay vốn của các hộ và các doanh nghiệp còn lớn do vậy trong quá trình mở rộng cho vay vẫn phải sử dụng nguồn vốn điều hoà của tỉnh. Đặc biệt cho vay hộ nghèo nguồn vốn huy động tại địa bàn huyện chưa thực hiện được vì vậy việc mở rộng tín dụng còn bị động trong một chừng mực thời điểm nhất định.
+ Việc mở rộng tín dụng chưa đồng đều ở từng địa bàn, khu vực và từng cán bộ tín dụng. Đây là vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết để không ngừng mở rộng tín dụng và thu hồi vốn cho Nhà nước.
* Nhận xét về hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Tiên du.
Trong những năm qua, NHNo Tiên du luôn thực hiện nghiêm túc nội dung chỉ đạo của thống đốc NHNN và tổng giám đốc NHNo Việt nam “ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển”. Nguồn vốn ngày càng tăng trưởng đã tạo tiền đề mở rộng quy mô đầu tư, NHNo Tiên du đã từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho hợp lý theo định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bằng những giải pháp tích cực trong hoạt động tín dụng, NHNo Tiên du đã tạo thế “ổn định”, đầu tư tín dụng “an toàn” có “hiệu quả” tạo tiền đề “phát triển” góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và phát triển kinh tế địa bàn huyện Tiên du nói riêng. Đồng thời, theo sự chỉ đạo của NHNo tỉnh, NHNo huyện Tiên du đã tiến hành rà soát, phân tích các đối tượng cho vay để có hướng đầu tư vốn cho phù hợp, sao cho vừa đảm bảo an toàn vốn theo cơ chế tín dụng hiện hành, vừa tăng trưởng tín dụng kịp thời phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các hộ sản xuất.
2.2.Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Tiên du.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa rất khó khăn, nó có thể xảy ra bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, và với bất cứ một ngân hàng nào. NHNo&PTNT huyện Tiên du cũng không thể tránh được quy luật này, rủi ro luôn đi kèm với lợi nhuận, rủi ro càng cao lợi nhuận càng nhiều. Rủi ro trong hoạt động tín dụng thường xảy ra ở khâu huy động vốn và khâu cho vay. Song ở khâu huy động vốn, chúng ta cũng biết với sự phát triển của nền kinh tế thị trường đời sống của người dân ngày càng tăng cho nên tình trạng thiếu vốn để chi trả thường ít xảy ra, hoạt động trả lãi hàng ngày vẫn diễn ra ổn định, tạo uy tín đối với khách hàng. Vì vậy, rủi ro tín dụng của ngân hàng Tiên du chủ yếu nằm trong hoạt động cho vay.
Là một chi nhánh ngân hàng huyện, nằm trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp Việt nam cho nên rủi ro trong hoạt động tín dụng cũng mang tính chất chung xuất phát từ chính quy định đề ra cho ngân hàng . Điều này thể hiện rõ qua kỹ thuật cấp tín dụng của tổ chức tín dụng dựa trên đơn xin vay và phương án kinh doanh do khách hàng soạn thảo. Kỹ thuật cấp tín dụng vừa mang tính chủ quan của bên cấp tín dụng, vừa thiếu cơ sở khách quan của nền kinh tế. Thông thường một đơn xin vay đều ghi rõ mục đích sử dụng tiền vay, số tiền xin vay và thời hạn trả nợ. Song điều đó hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm cá nhân của người xin vay và khó có thể biết chắc rằng việc sử dụng tiền vay như vậy có đạt được mục tiêu đề ra trong phương án kinh doanh hay không. Vì vậy, kèm theo đơn xin vay là một phương án sản xuất kinh doanh như là một cơ sở để thiết minh cho ý đồ của người xin vay. Vấn đề đặt ra là độ tin cậy của phương án kinh doanh đó đạt đến mức nào, thì khó lòng có thể dự đoán được. Và khi dự đoán không chính xác, nghiễm nhiên ngân hàng phải chịu rủi ro.
Ngoài ra, trong vấn đề đảm bảo tín dụng khối lượng tín dụng không thể vượt qua giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố, giá trị tài sản thế chấp cầm cố được trong nền kinh tế chủ yếu là giá trị của các tài sản đã được tích luỹ trong các doanh nghiệp, hộ sản xuất như máy móc, nhà xưởng, đất đai và các tài sản có giá khác... Như vậy , một doanh nghiệp, hộ sản xuất không thể vay được một số tiền nhiều hơn giá trị tài sản có thực của mình. Trong khi đó nhu cầu vốn lưu động của đơn vị lại lớn hơn nhiều lần bản thân vốn tự có của đơn vị. Sự biến tướng của việc gia tăng tín dụng là dùng chính tài sản tạo ra từ vốn vay để đảm bảo cho nợ vay, hoặc dùng tài sản ngoài để làm đảm bảo cho nợ vay…, tất cả mọi biến tướng này đều mang lại rủi ro cho ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất đa dạng khiến cho ngân hàng Tiên du không nắm được một cách rõ ràng tình hình sản xuất, kinh doanh của các hộ sản xuất, các doanh nghiệp, trong đó có cả việc không biết rõ trình độ, khả năng quản lý của các nhà kinh doanh, các chủ hộ sản xuất. Có thể nói việc thu nhận các thông tin về khách hàng hiện nay của NHNo Tiên du còn rất ít được quan tâm, nhất là thông tin của khách hàng sau khi vay được vốn. Vì vậy cho đến khi ngân hàng phát hiện ra tình trạng tài chính của khách hàng có vấn đề thì tình huống trở nên cực kỳ khó khăn. Và khi khách hàng gặp rủi ro, tất yếu sẽ dẫn đến rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó các doanh nghiệp, các hộ sản xuất trên địa bàn thường có thói quen gia tăng tốc độ phát triển kinh doanh đến mức chóng mặt và hậu quả là dẫn đến không quản lý được tài sản hình thành từ nợ vay. Đã thế lại hay thay đổi đối tượng kinh doanh, kinh doanh đa ngành nghề, thiếu tính chuyên môn hoá. Sự biến động của môi trường kinh doanh như giá cả, tỷ giá hối đoái và sự bất thường trong điều kiện tự nhiên... thường xuyên gây áp lực rủi ro đối với hoạt động tín dụng ngân hàng.
Như vậy, có thể nói rủi ro tín dụng tại ngân hàng Tiên du cũng như ở bất cứ một ngân hàng nào là vô cùng phức tạp và nguy hiểm. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, ngân hàng Tiên du đã không ngừng tìm ra các giải pháp, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng, hoạt động của ngân hàng và hiệu quả kinh tế - xã hội của huyện.
2.2.1.Tình hình nợ quá hạn tại NHNo Tiên du.
Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng, tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ tín dụng mà càng thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng càng đạt kết quả cao, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội càng nhiều. Qua tìm hiểu đến 31/03/2004 tình hình nợ quá hạn tại đơn vị như sau:
( Đơn vị tính: trđ)
Chỉ tiêu
Dư nợ đến
31/03/04
Nợ quá hạn
Tỷ lệ
NQH/dư nợ
Tổng dư nợ trong đó:
- Dư nợ NHNg
- Dư nợ NHNo
* Phân theo loại cho vay
- Hộ sản xuất
- Ngành tiểu thủ công nghiệp
- Cho vay đời sống
- Cho vay DNNN
- Cho vay DN ngoài quốc doanh
- Cho vay công nghiệp
- Thương nghiệp và dịch vụ du lịch
- Cho vay hợp tác xã
171.742
21.896
149.846
98.414
11.145
11.219
1.592
22.128
21.660
2625
2959
407
21
386
227
22
34
-
40
-
-
84
0,237%
0,09%
0,26%
0.23%
0,197%
0,3%
-
0,18%
-
-
0,28%
Qua bảng số liệu trên ta thấy: tỷ lệ NQH tại đơn vị so với tổng dư nợ là 0,237% là một tỷ lệ chấp nhận được (theo quy định cho phép tỷ lệ này tối đa là 0,5%), trên bảng ta thấy không có loại nào vượt quá tỷ lệ cho phép. Dư nợ quá hạn NHNg tương đối thấp (0,09%), một số loại cho vay không có nợ quá hạn như cho vay DNNN, cho vay phát triển công nghiệp, hay cho vay phát triển thương nghiệp dịch vụ du lịch.
Đối với cho vay hộ sản xuất rủi ro đến với ngân hàng theo nhiều nguyên nhân khác nhau như: Điều kiện tự nhiên không thuận lợi: lũ lụt, vừa qua còn có hạn hán không có nước tưới tiêu, dịch bệnh (sâu bệnh, nấm...), hay nhiệt độ quá thấp... bất lợi cho việc trồng trọt, chăn nuôi... Ngoài ra, có thể do không tính toán đúng thời điểm có nguồn thu, người dân bị lừa trong kinh doanh,và rất nhiều nguyên nhân khác như những nguyên nhân chung dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên với đặc trưng của huyện việc phát triển cho vay hộ sản xuất là rất quan trọng cho nên ngân hàng luôn cố gắng tìm mọi biện pháp khắc phục, để thực hiện đây là loại hình cho vay mang lại nguồn thu chủ đạo cho ngân hàng cũng như đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất cho khách hàng.
Còn đối với các ngành tiểu thủ công nghiệp, do trình độ tay nghề của lao động chưa cao, trình độ hoạch định kinh doanh của các chủ xưởng còn hạn chế, hoặc có thể do điều kiện thời tiết làm cho sản phẩm bị ẩm mốc…dẫn đến việc thời gian hoàn thành sản phẩm bị chậm lại, tất yếu thởi điểm có nguồn thu cũng bị chậm lại theo. Xét về tỷ lệ thì dư nợ quá hạn loại này gần bằng với tỷ lệ chung, nhưng xét về số tuyệt đối thì nó tương đối nhỏ.
Việc xảy ra NQH đối với cho vay đời sống cũng có rất nhiều nguyên nhân như khách hàng gặp rủi ro bất khả kháng (ốm đau, có khi chết đột ngột...) Đây là hiện tượng xảy ra không nhiều. Tuy nhiên xét về tỷ lệ tương đối thì NQH loại này là cao nhất(0,3%), với số dư là 34 trđ, so với tổng dư nợ thì không cao nhưng so với dư nợ cho vay đời sống thì hơi cao. Do vậy hiện tượng này có thể xuất phát từ việc khách hàng cố tình trây ì không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, cố tình lừa đảo ngân hàng... Để khắc phục tình trạng này Ban giám đốc ngân hàng đã quán triệt các cán bộ tín dụng phải đi sâu hơn nữa tìm hiểu khách hàng, đôn đốc họ thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn.
NQH trong cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh là việc mà ngân hàng đã dự tính trước một tỷ lệ nhất định, bởi gần đây có nhiều cá nhân đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH..., do mới thành lập nên việc vấp phải những khó khăn bước đầu là không thể tránh khỏi (kinh nghiệm quản lý, hoạch định, các mối quan hệ chưa nhiều...), thậm trí có doanh nghiệp đã phải đóng cửa do hoạt động không hiệu quả và tương lai cũng không thể phát triển được. Mặc dù trước khi xét duyệt cho vay một khách hàng ngân hàng đều thẩm định rất kỹ lưỡng về khả năng tài chính, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, mục đích kinh doanh, điều kiện thị trường, nguồn nhân lực, hiệu quả kinh tế xã hội của phương án, dự án sản xuất kinh doanh, tính khả thi...Tuy nhiên, có thể do trình độ thực hiện, trình độ quan hệ tìm kiếm thị trường kém nên tình hình kinh doanh của doanh nghiệp không như những gì đã dự định, một vài trường hợp sử dụng đồng vốn vay sai mục đích…Và cũng không thể nói hoàn toàn việc không thực hiện đúng nghĩa vụ với ngân hàng của các doanh nghiệp này đều do chủ quan của họ được, có nhiều khi hoạt động sản xuất kinh doanh của họ gặp bất lợi do thị trường, do điều kiện tự nhiên như mưa nhiều quá làm cho thức ăn của gia xúc bị ẩm mốc chẳng hạn.
Hiện nay đơn vị không còn tiếp tục cho vay hợp tác xã(HTX) nữa, nhưng dư nợ cho vay HTX vẫn còn và nó để lại hậu quả là 84 trđ NQH - một con số không cao đối với tổng dư nợ nhưng so với dư nợ HTX nói riêng thì đây cũng là một tỷ lệ khá cao. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do cơ chế quản lý không nghiêm ngặt chặt chẽ, và do hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX không cao, dư âm của chế độ cũ- chế độ quản lý tập chung quan liêu bao cấp.
* Xét theo thời gian quá hạn, tình hình NQH của đơn vị như sau:
- Quá hạn đến 180 ngày: 284,98 trđ
- Quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày: 97,54 trđ
- Quá hạn trên 366 ngày: 24,48 trđ
Qua đây ta thấy tỷ lệ NQH đến 180 ngày chiếm tỷ lệ cao nhất 70% tổng dư NQH, trong khi đó NQH trên 360 ngày chỉ có 11,82%. Đây là một tỷ lệ không có hướng bất lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong kế hoạch kinh doanh thời gian tới, việc thu NQH được triển khai rất mạnh mẽ, dự định quý tiếp theo sẽ không còn trên 360 ngày và hạ hơn nữa tỷ lệ NQH nói chung, lành mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng hơn nữa.
* Tình hình nợ rủi ro tại đơn vị.
Tại thời điểm 31/12/2003 nợ rủi ro của đơn vị là 1.026 trđ, trong quý 1/2004 không phát sinh nợ rủi ro, mặt khác thu được 10 trđ hạ số dư nợ rủi ro xuống còn 1.016 trđ trong đó: Vốn dự án (T64) là 52 trđ, còn lại là vốn hộ sản xuất thông thường.
Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng RRTD.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, rủi ro là vấn đề không thể lường trước được của bất kỳ một tổ chức kinh tế nào. Việc trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro là một trong những biện pháp quan trọng trong việc phòng chống rủi ro. Theo quy định tại QĐ488/NHNN và QĐ88/HĐQT NHNo&PTNT về việc phân loại tài sản “có”, và tỷ lệ trích lập đối với mỗi loại.
Việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro được thực hiện theo quý, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng thứ 3 mỗi quý, các đơn vị căn cứ vào số dư tại thời điểm cuối ngày cuối cùng của tháng thứ 2 quý đó để thực hiện phân loại và trích dự phòng theo mẫu 1A
Nếu số phải trích nhỏ hơn so với quỹ dự phòng hiện có thì phải trích thêm, ngược lại nếu nhiều hơn thì hoàn nhập số thừa vào quỹ thu nhập cho đơn vị khi quyết toán năm tài chính.
Đối với NHNo Tiên du, việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng với quy định của NHNN và NHNo&PTNT Việt nam: Định kỳ hàng quý, trưởng phòng kế toán thực hiện phân loại tài sản "có" và dự kiến số tiền phải trích lập dự phòng, trình những khoản rủi ro đủ điều kiện xử lý, lập phương án thu hồi nợ theo quy định. Khi khách hàng vay đã trả hết nợ của kỳ hạn nợ quá hạn và hết hạn phải trả (nếu có), nợ chuyển sang nợ quá hạn còn lại của các khoản cho vay đó được chuyển về nợ trong hạn và phân loại nhóm 1(nhóm nợ trong hạn).
-Trong quý I/2004 vừa qua, số quỹ dự phòng rủi ro thực tế phải trích là 130,246 trđ, trong khi đó số đã trích là150 trđ, do đó đơn vị được hoàn nhập lại quỹ thu nhập 19,754 trđ, bởi trong quý ngân hàng đã thu hồi một số NQH, làm giảm bớt dư NQH so với quý trước.
Nguyên nhân gây RRTD trong hoạt động kinh doanh của NHNo Tiên du.
RRTD, với bất cứ một tổ chức kinh tế nào cũng đều có thể xảy ra và không theo một quy luật nào cả, không lường trước được. Qua nghiên cứu cho thấy với NHNo Tiên du rủi ro có thể từ các nguyên nhân sau đây:
- Công tác thẩm định, kiểm soát dự án đầu tư chưa chặt chẽ. Có dự án không được thẩm định cẩn thận trước khi cho vay dẫn đến khi cho vay xong ngân hàng mới phát hiện ra khách hàng dùng tài sản đảm bảo là của người khác, hoặc người thừa kế giả…Đã có trường hợp dùng người dưng giả mạo là vợ để lừa ngân hàng vay được tiền rồi, đến khi cán bộ tín dụng đi kiểm tra thì vợ lại không phải là người đã ký thừa kế (là vợ) trong hồ sơ.
- Thiếu thông tin về khách hàng, do thiếu sót trong khâu tìm hiểu khách hàng mà có cán bộ tín dụng đã ký duyệt cho khách hàng vay trong khi vợ của họ (là người thừa kế trong hồ sơ) đã đứng tên chủ vay của một sổ vay khác, hoặc có trường hợp vợ vay ở một chi nhánh, chồng vay ở một chi nhánh, đến khi không trả được nợ ngân hàng tìm đến người thừa kế thì mới phát hiện ra. Hoặc do ngân hàng không biết được khách hàng có sẵn lòng trả nợ không, có thiện trí trả nợ không, ý trí kinh doanh của họ ra sao...
- Không đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng, trong giấy đề nghị vay vốn của khách hàng đã có phương án sản xuất kinh doanh, tuy nhiên nhiều khi đó chỉ là do chủ quan cán bộ tín dụng lập, do đó không đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng.
- Không chấp hành đúng quy trình tín dụng, cán bộ tín dụng khá đa năng, họ làm toàn bộ các khâu trong quy trình cấp tín dụng, dẫn đến nhiều khi làm tắt, bỏ qua mất khâu nào đó. Ví dụ: có cán bộ chạy theo thành tích cứ khách hàng có nhu cầu là cho vay, bỏ qua khâu thẩm định, đặc biệt là việc giám sát sau cho vay chưa được thực hiện tốt.
- Không nắm bắt được tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, sau khi nhận được tiền vay của ngân hàng, có khách hàng đã không sử dụng vốn đúng mục đích, hoặc có thể họ không biết cách sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, ví dụ cho vay hộ nghèo: nhiều hộ nghèo được vay với lãi suất thấp nhưng không biết làm cho đồng vốn sinh sôi mà ngược lại còn ăn mòn vốn của ngân hàng.
- Theo chế độ thì mức cho vay tối đa trên tài sản đảm bảo thông thường là 75%. Tuy nhiên nhiều khách hàng có nhu cầu lớn hơn tỷ lệ được phép vay nên có thể do cảm tính mà cán bộ tín dụng đã đồng minh với khách hàng để kê khai, đánh giá giá trị tài sản cao hơn giá trị thị trường. Đã có trường hợp khi khách hàng không trả được nợ, ngân hàng xử lý tài sản thì giá trị thực của nó nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị viết trên hồ sơ, làm cho ngân hàng bị thiệt hại một khoản rất lớn.
- Công tác rà soát nợ đến hạn được các cán bộ thực hiện khá thường xuyên, tuy nhiên có một số cán bộ không để ý vấn đề này nên không nhắc nhở khách hàng kịp thời dẫn đến khách hàng quên ngày đến hạn, bởi nhiều khách hàng là nông dân, họ không quan tâm đến ngày tháng mà cứ đến hạn cán bộ tín dụng đi đốc lãi thì họ nộp.
- Ngoài những nguyên nhân trên, thì một nguyên nhân nữa cũng không thể không kể đến là chất lượng cán bộ tín dụng. Hầu hết đội ngũ cán bộ tín dụng của đơn vị có trình độ chuyên môn cao, đạo đức nghề nghiệp tốt, cẩn thận có ý thức trong công việc. Nhưng cũng có một số cán bộ không đạt tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng, họ thực hiện sai quy chế nghề nghiệp: cán bộ tín dụng thu lãi trực tiếp của khách hàng, thậm trí thu nợ gốc nhưng không nộp vào ngân hàng, đến khi hỏi đến khách hàng thì mới vỡ nhẽ ra là chính cán bộ ngân hàng lừa đảo khách hàng và cả ngân hàng.
Chương 3.
Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hđtd
tại NHNo&PTNT Huyện Tiên du - Tỉnh Bắc ninh.
3.1. Định hướng phát triển của hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Tiên du.
Với phương châm hành động "phát triển, an toàn, hiệu quả" trong thời gian tới, NHNo&PTNT Huyện Tiên du phải tập trung triển khai thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách mới của nhà nước, các chương trình hành động của ngành ngân hàng, phương hướng kình doanh của NHNo Việt Nam và các chỉ tiêu mà tổng giám đốc NHNo Tỉnh Bắc ninh giao cho. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nâng cao ý thức chấp hành cơ chế chính sách, luật các tổ chức tín dụng, các văn bản dưới luật, các cơ chế của thống đốc NHNN và tổng giám đốc NHNo Việt Nam ban hành đến từng cán bộ công nhân viên. Tiếp tục tiến hành chương trình đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho tất cả các cán bộ công nhân viên phù hợp với nhiệm vụ được giao. Để thực hiện các dự án hiện đại hoá ngân hàng, trước hết NHNo&PTNT Huyện Tiên du cần phải nghiên cứu đầu tư thêm trang thiết bị mới vào những nới cần thiết, nâng cấp hoàn thiện hệ thống máy tính đã có. Đưa các phương tiện hiện đại vào quản lý kinh doanh, thực hiện nối mạng máy tính với các khách hàng lớn và áp dụng nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, còn phải thương xuyên đề phòng các sự cố kỹ thuật tin học để đảm bảo an toàn hoạt động, phấn đấu tăng thêm thu nhập, tiết kiệm chi phí, đảm bảo kế hoạch lợi nhuận và thu nhập cho cán bộ công nhân viên cao hơn năm trước, đồng thời có tích luỹ để nâng cao hiệu quả kinh doanh, NHNo&PTNT Huyện Tiên du đã xây dựng mục tiêu cho năm 2004 như sau:
- Tổng vốn huy động là: 229.172 trđ, tăng 25% so với năm trước.
- Tổng dư nợ tín dụng là:204.823 trđ tăng 20% so với năm trước.
- Dư nợ dịch vụ ngân hàng người nghèo: 22.000 trđ.
- Nợ quá hạn đảm bảo dưới 0,5% tổng dư nợ.
- Tỷ lệ thu dịch vụ là: 6% so với tổng thu nhập. Tuy tỷ lệ này hơi cao nhưng đây là cái đích để ngân hàng phấn đấu đạt được.
- Chấp hành tốt chế độ, đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản.
- Đảm bảo chi đủ tiền lương cho cán bộ theo quy định và có tích luỹ.
Muốn đạt được mục tiêu này trước hết ban lãnh đạo của ngân hàng cùng toàn thể cán bộ công nhân viên cần phải lường hết những khó khăn do nguyên nhân chủ quan hay khách quan có thể có để cùng nhau vững vàng vượt qua và quyết tâm thực hiện thắng lợi những mục tiêu cụ thể trên.
3.1.1.Trong công tác huy động vốn.
- Tiếp tục làm tốt công tác huy động vốn, đảm bảo cho nguồn vốn luôn tăng trưởng ở mức độ cao với cơ cấu nguồn vốn huy động hợp lý để có thể đáp ứng vốn kinh doanh và thực hiện tốt chỉ tiêu chuyển vốn của ngân hàng cấp trên giao cho.
- Tiếp tục triển khai các biện pháp huy động vốn bằng các hình thức khác nhau, có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, chủ động tìm kiếm các dự án lớn.
- Tiếp tục nâng cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt cho việc giao dịch diễn ra hàng ngày một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Không ngừng nâng cao trách nhiệm và phong cách giao dịch của cán bộ tiết kiệm, đặc biệt quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của cán bộ và đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng kịp thời các cá nhân và tập thể có thành tích trong công tác huy động vốn.
- Nghiên cứu mở rộng các hình thức huy động vốn, nhất là các hình thức thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn.
3.1.2. Trong công tác sử dụng vốn.
- Tiếp tục triển khai chiến lược tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, quản lý và theo dõi nợ nhằm triển khai tốt các dự án đồng tài trợ với NHTM khác, nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn.
- Nhanh chóng giải quyết các khoản nợ đọng, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn khó đòi, phấn đấu giảm nợ quá hạn cũ, hạn chế tối đa phát sinh nợ quá hạn mới, để nhanh chóng đưa tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống còn 1%. Bên cạnh đó, cần xúc tiến công tác xử lý tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ để nhanh chóng đưa vốn vào kinh doanh.
- Thực hiện cơ chế lãi suất, cho vay, lãi suất điều hoà nội bộ, lãi suất ưu đãi khách hàng một cách mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với sự chỉ đạo của NHNo Việt nam nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận. Đổi mới cơ cấu tài sản nợ - tài sản có, duy trì và mở rộng thị phần của NHNo&PTNT Huyện Tiên du.
3.2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Huyện Tiên du.
3.2.1 Các giải pháp.
a/ Hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn.
Với những Hợp đồng tín dụng với số tiền lớn, thời hạn dài nên có điều khoản "Tình huống thay đổi" quy định một số tình huống bất ngờ xảy ra và cách xử lý kèm theo. Điều này sẽ bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên, tránh thiệt hại lớn đối với ngân hàng khi khách hàng có sự cố. Ngoài ra còn có điều khoản quy định giá trị pháp lý ràng buộc cả những nguời kế nhiệm trong tương lai của đơn vị cho vay cho đến khi hoàn tất việc trả nợ. Những người kế nhiệm của bên vay không có quyền thoái thác nhiệm vụ trả nợ mà phải tôn trọng Hợp đồng tín dụng liên tục nhiều niên đại.
Bên cạnh đó, cũng cần phải xây dựng phương thức cho vay sao cho đáp ứng được:
+ Các khoản cho vay đáng tin cậy và khả năng thu hồi vốn tốt.
+ Có chính sách đầu tư có lợi cho các khoản ngân quỹ của ngân hàng.
+ Có chính sách khuyến khích cho các khoản tín dụng có thể thoả mãn nhu cầu hợp pháp của thị trường mà ngân hàng cho vay.
Phương thức cho vay có thể thay đổi theo chu kỳ tín dụng. Nhưng điều quan trọng là phương thức cho vay phải được cập nhật thường xuyên để phản ánh thực tại như một công cụ kiểm soát, đảm bảo xử lý tốt các loại rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh.
Về thời hạn cho vay ngân hàng phải tính toán sao cho thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng, tạo điều kiện cho bên vay trả nợ đúng hạn. Mặt khác, ngân hàng phải tính toán bố trí thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng phải được liên tục hài hoà hạn chế thời gian chết, vốn khả dụng không sinh lợi. Việc bố trí lịch cho vay và thu hồi nợ liên tục hợp lý là biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng, tăng thu nhập lợi nhuận của ngân hàng.
b/ Đối với công tác thẩm định, kiểm soát dự án đầu tư vay vốn.
Cần phải tiến hành chặt chẽ và chu đáo, không được lơi lỏng, vội vàng chạy theo số lượng. Để đạt được điều này các tổ chức tín dụng cần phải nhận thức rõ vai trò giám sát tiền cho vay: Khi giám sát lơi lỏng, khách hàng có thể lao vào con đường mạo hiểm trong kinh doanh để kỳ vọng thu lợi nhuận cao. Thậm chí khách hàng có thể kinh doanh vượt quá khả năng tài chính, hoặc có điều kiện che dấu việc làm không đúng như sử dụng vốn sai mục đích, đảo nợ, che dấu khó khăn...
c/ Thông tin khách hàng.
Chúng ta đã biết trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được những thông tin chính xác, kịp thời hơn người đó sẽ chiến thắng trong kinh doanh. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sở lòng tin. Lòng tin đó có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng các thông tin có được. Nhưng hiện nay, có thể nói việc thu nhận thông tin về khách hàng của các tổ chức tín dụng rất ít được quan tâm. Thực tế đã có nhiều khoản đầu tư bị rủi ro, thất thoát do thiếu thông tin như khách hàng dùng một tài sản, thậm chí một dự án để đi vay cùng một lúc nhiều tổ chức tín dụng…khách hàng dùng giấy tờ giả, hợp đồng giả, phương án giả để đi vay.
Vì vậy, để xử lý thông tin một cách chính xác, và hiệu quả cần phải xác định cho được khách hàng vay vốn thuộc đối tượng nào? Uy tín của họ đối với ngân hàng ra sao? Có sẵn lòng để trả nợ hay không, phương án xin vay vốn có mang lại hiệu quả kinh tế, để khách hàng trả nợ ngân hàng hay không? Việc thẩm định uy tín khách hàng phải được xem là yếu tố quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng. Xét theo lý thuyết thì việc đánh giá các yếu tố cá nhân là hoàn toàn mang tính chủ quan, thế nhưng việc đánh giá của cán bộ tín dụng có được chính xác hay không sẽ có vai trò quyết định đến hiệu quả tín dụng cho vay, nếu việc đánh giá sai đối tượng khách hàng vay vốn sẽ làm giảm những khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng hoặc có thể ngân hàng không có khả năng thu hồi nợ khi đã cho vay, sẽ phát sinh rủi ro trong các khoản cho vay. Công việc sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu người đi vay là khách hàng thường xuyên và lâu năm của ngân hàng đã từng vay vốn trước đó, trường hợp khách hàng mới quan hệ với ngân hàng phải có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể về thủ tục, phương thức cho vay và đặc biệt quan tâm đến khả năng trả nợ của khách hàng, xem đến trách nhiệm quản lý… Những khía cạnh này nên xem xét một cách kỹ lưỡng trong quá trình ra quyết định cho vay.
d/ Quy trình tín dụng.
Hiện nay phòng kinh doanh với đội ngũ cán bộ khá đa năng, làm toàn diện các khâu trong quy trình tín dụng, dẫn đến chung chung, đại khái. Từ đó việc hình thành những quyết định cho vay thiếu căn cứ chính xác và khả năng khó thu hồi vốn vay là điều tất yếu sẽ xảy ra. Vì vậy, tổ chức tín dụng nên tiến hành thực hiện việc tách quy trình tín dụng làm nhiều khâu do nhiều bộ phận đảm nhiệm, trước mắt cần phải tách các khâu sau:
- Nắm bắt thông tin thị trường (giá cả, sản xuất, cung cầu…)
- Thẩm định (năng lực chuyên môn, tài chính của khách hàng, khả năng cạnh tranh…).
- Xem xét đảm bảo tiền vay.
- Quyết định cho vay.
e/ Tình hình sử dụng vốn của khách hàng.
Sau khi khách hàng đã được vay vốn, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn mà khách hàng đã vay của ngân hàng, tiếp nhận và phân tích các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Phải xử lý ngay khi phát hiện khách hàng đang lâm vào tình trạng khó khăn.
Trước hết, cán bộ ngân hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Thường xuyên kiểm tra tài khoản của khách hàng là một phương thức để đánh giá tình trạng tài chính của khách hàng có được lành mạnh hay không. Nếu trong một thời gian nhất định mà khách hàng không có một khoản thu nào đáng kể để chứng tỏ rằng khách hàng hoạt động có hiệu quả, thì có thể xem xét kỹ hơn về tình trạng sản xuất và tiêu thụ của khách hàng có vấn đề gì xảy ra gây rủi ro hay không. Nếu phát hiện tình trạng có thể xấu đi, ngay lập tức cán bộ tín dụng phải bàn bạc với khách hàng, yêu cầu điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất kinh doanh hoặc phải tìm biện pháp để thu hồi nợ ngay.
Vấn đề ở đây là cán bộ tín dụng không được để "tình cảm" bị chi phối, bỏ vốn thêm cho khách hàng với quan điểm "đâm lao thì phải theo lao", mà phải kiên quyết xử lý một cách đúng đắn để đảm bảo cho việc thu hồi nợ vay.
f/ Đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Khả năng trả nợ của khách hàng thường phụ thuộc vào các nguồn thu trong tương lai khi hợp đồng tín dụng chuẩn bị đến hạn thanh toán, có thể nói các nguồn thu này là kết quả hoạt động sản xuất của khách hàng vay vốn trong từng chu kỳ. Những con số dự trù về nguồn thu trong phương án kinh doanh cũng được xem xét trong mối quan hệ với các cam kết khác mà người đi vay phải thực hiện trả nợ. Đặc biệt khi đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn, ngân hàng cần phải nắm rõ nguồn trả nợ chính, tức là khả năng sinh lợi của phương án xin vay và các nguồn thu khác mà khách hàng có thể cam kết để trả nợ cho ngân hàng khi nguồn trả nợ chính có vấn đề, đồng thời xem xét kèm theo những rủi ro tiềm tàng có thể mà bước đầu cán bộ tín dụng chưa thể thẩm định được nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và thu hồi nợ được hợp lý. Có thể nói trong bất kỳ trường hợp nào thì vốn tự có phải được coi là nguồn lý tưởng để trả nợ, Ngân hàng không thể chỉ dựa vào phương án xin vay vốn để tìm nguồn thu nợ vay khi đó ngân hàng sẽ gặp phải khó khăn. Đặc biệt ngân hàng phải cố gắng tránh xa quan điểm cho vay hoàn toàn dựa vào tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc của bên thứ ba bảo lãnh vì khi đã xử lý các mối quan hệ thế chấp thì thường đã xuất hiện rủi ro rồi, mặt khác đây là một quá trình xử lý lâu dài, tốn kém rất nhiều thời gian và thiệt thòi luôn nghiêng về phía ngân hàng cho vay.
Trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ, ngân hàng cũng yêu cầu khách hàng vay vốn cung cấp bảng tổng kết tài sản (nếu là doanh nghiệp) và số liệu về hoạt động kinh doanh trong 3 năm trả nợ (dự kiến đầy đủ về chi phí cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, giá trị máy móc thiết bị mới, kế hoạch kinh doanh...). Thông qua đó ngân hàng luôn có được những thông tin cần thiết của doanh nghiệp để có quyết định cho vay chính xác hơn, hiệu quả hơn. Ngân hàng nên yêu cầu các doanh nghiệp phải có số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình hình hoạt động kinh doanh với những nguồn vốn vay của ngân hàng trong thời hạn đang vay vốn nhằm phát hiện những thay đổi có xu hướng xấu của doanh nghiệp, để có những biện pháp xử lý kịp thời. Khả năng trả nợ là yếu tố rất quan trọng đánh giá công tác thẩm định trong hoạt động cho vay của ngân hàng, là minh chứng về uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ nợ nần, như vậy xác định vấn đề thu hồi được nợ là quyết định sống còn của ngân hàng khi tiến hành thủ tục cho vay.
g/ Cho vay dựa vào tài sản thế chấp, cầm cố đảm bảo.
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần sở hữu, hạch toán kinh tế độc lập thì việc coi trọng tài sản thế chấp (TSTC) trong hoạt động tín dụng cho vay thường là một yêu cầu đặc biệt được ngân hàng quan tâm, là một trong những điều kiện nhằm giúp cho ngân hàng có khả năng thu hồi được nợ thông qua việc phát mãi TSTC khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Điều này mặc nhiên cho chúng ta thấy khi đã xử lý TSTC thì quan hệ tín dụng đã gặp rủi ro. Do vậy, cần phải nhận thức được việc xử lý tài sản thế chấp là một biện pháp cuối cùng để thu hồi nợ mà thôi.
Để thực hiện tốt công tác tài sản đảm bảo cần đưa vào thực hiện việc cung ứng vốn tín dụng theo hình thức "chiết khấu thương phiếu" thay cho phần lớn hình thức "tín dụng ứng trước" như hiện nay. Ưu điểm của phương thức này là đến hạn thương phiếu phải được thanh toán ngay không được trì hoãn. Nếu trì hoãn có nghĩa là doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản, rủi ro tín dụng được phân tán ra nhiều chủ thể khác nhau. Vì người mua hàng hoá gồm nhiều doanh nghiệp (còn nếu cho vay thì chỉ có một ngân hàng). Khi đó việc thu hồi vốn trở nên dễ dàng, lại không đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. Trong khi cho vay chiết khấu, những tiêu cực gần như không xảy ra vì đây là một nghiệp vụ mua bán các công cụ tài chính.
h/ Khả năng đo lường các loại rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng.
Phải tìm ra mức thích hợp có tính dung hoà giữa rủi ro và lợi nhuận là vấn đề cần quan tâm của các nhà quản lý ngân hàng: Khi gia tăng lợi nhuận phải chấp nhận mức rủi ro cho phép là bao nhiêu. Bởi vậy, ngân hàng nhất thiết phải xem xét môi trường kinh doanh trong tương lai và dự đoán sự ảnh hưởng của nó đối với cán cân lợi nhuận và rủi ro.
i/ Rà soát nợ đến hạn.
Thường xuyên rà soát nợ đến hạn, phân tích nguyên nhân nợ quá hạn để đề ra biện pháp xử lý hữu hiệu:
- Nếu nợ đến hạn do nguyên nhân khách quan chưa trả được cần tiến hành xem xét nếu có thể cho gia hạn nợ, cho vay thêm để giúp người vay có thời gian khôi phục lại sản xuất hoặc có thêm vốn sản xuất.
- Nếu nợ đến hạn hoặc nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan của khách hàng vay vốn cần có biện pháp tích cực, kiên quyết trong việc xử lý để thu hồi vốn, kể cả phải xử lý tài sản thế chấp để thu hôi vốn hoặc khởi kiện trước pháp luật.
k/ Cho vay hộ nghèo.
Cần linh hoạt hơn trong việc cho vay đối với hộ nghèo đó là việc phân bổ chi tiêu cho vay đối vơí các xã. Đối với những xã không chấp hành tốt quy định của chế độ cho vay (cho vay sai đối tượng, để nợ quá hạn lâu ngày do chủ quan của hộ vay...) chính quyền xã thiếu trách nhiệm, quay vòng vốn cho vay chậm cần chủ động rút vốn hoặc linh hoạt điều chỉ tiêu cho các xã khác mà hộ nghèo có nhu cầu để khỏi đọng vốn.
l/ Hàng ngày, cán bộ tín dụng phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng khác nhau, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội thực hiện hành vi vụ lợi... mang rủi ro đến ngân hàng. Vì vậy, người cán bộ tín dụng cần được tuyển chọn cẩn trọng, được bố trí hợp lý, được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cần tuyển chọn cán bộ có kiến thức nghiệp vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách chính quy ở trình độ đại học hoặc cao đẳng vì hiện nay trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng ở ngân hàng nhìn chung là bất cập. Phần lớn họ được đào tạo theo chương trình cũ nên khi có sự thay đổi xử lý công việc rất lúng túng, đại khái. Thậm chí có những trường hợp không hiểu được đúng các văn bản chế độ mới đã tạo ra các khoản đầu tư kém hiệu quả gây rủi ro đến ngân hàng.
- Phải có đạo đức, trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ tránh vì tình cảm cá nhân mà bỏ qua các quy trình, tiêu chuẩn tín dụng gây thất thoát thiệt hại đến ngân hàng.
- Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp: Điều này hết sức quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn luyện, trao đổi những kiến thức thực tế.
3.2.2. Các kiến nghị.
a/ Đối với nhà nước và ngân hàng nhà nước Việt nam.
- Nhà nước và chính phủ cần sớm ban hành, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về ngân hàng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của NHTM và các cán bộ ngân hàng. Luật cần quy định những khung hình phạt cụ thể đối với những tổ chức hay cá nhân có hành vi lừa đảo, cố tình sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc trây ì trong việc trả nợ ngân hàng. Mặt khác, phải tạo môi trường pháp lý để ngân hàng có điều kiện thuận lợi khi cho vay, vừa đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên luôn phải đối mặt với rủi ro, đòi hỏi cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng, phải có trình độ về nhiều mặt, trách nhiệm cao. Vì vậy, chính phủ nên xem xét để có một cơ chế tiền thưởng phù hợp với tính chất kinh doanh đặc thù riêng của ngành ngân hàng.
- Tạo lập sự ổn định nền kinh tế vĩ mô: Chống lạm phát, ổn định tiền tệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ sản xuất, hộ tiêu dùng hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả. Đồng thời ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ và rõ ràng sẽ tạo niềm tin trong dân chúng.
- Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp cần phải kiên quyết giải thể những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không thể khắc phục được sản phẩm không cạnh tranh được với cơ chế thị trường. Để tránh trường hợp tổ chức tín dụng vì một nguyên nhân nào đó lại cấp tín dụng cho họ.
- Chính phủ cần sớm ban hành một nghị định chung về thế chấp, cầm cố tài sản để các ban ngành cùng phối hợp thực hiện. Trong nghị định này cần điểu chỉnh hợp lý hành vi phát mãi, đấu giá tài sản thế chấp. Có như thế mới có thể tháo gỡ ách tắc trong khâu xử lý tài sản thế chấp để ngân hàng mau chóng thu hồi được nợ.
- Đề nghị NHNN trên địa bàn phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hồ sơ cho vay vốn của các tổ chức, cá nhân, các hộ sản xuất, hộ tiêu dùng, các doanh nghiệp hiện đang lưu giữ ở tổ chức tín dụng, đảm bảo đúng tính pháp lý trong luật các tổ chức tín dụng đã quy định và phải có thái độ xử lý nghiêm khắc sau kiểm tra.
- Đề nghị NHNN có quy định không cho các đơn vị có nợ quá hạn được mở tài khoản giao dịch và vay vốn ở ngân hàng khác. Vì khi đó các đơn vị có nợ quá hạn thường chuyển tài khoản giao dịch sang ngân hàng khác sẽ gây khó khăn cho công tác thu nợ của ngân hàng.
- Đề nghị NHNN sớm cho phép NHNo thành lập công ty khai thác tài sản để xử lý nợ và tài sản thế chấp tồn đọng, cho phép ngân hàng được áp dụng nhiều biện pháp thông thường hiện nay để khai thác kể cả việc chấp thuận bán thấp hơn giá trị nhận cầm cố, thế chấp, coi đó là hiện tượng kinh tế bình thường.
- NHNN sớm quy định và đưa vào thực hiện việc cung ứng vốn tín dụng theo hình thức "chiết khấu thương phiếu" thay cho phần lớn hình thức "tín dụng ứng trước" như hiện nay. Vì khi đó việc thu hồi nợ sẽ dễ dàng hơn mà không đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo.
- Quy định việc kiểm toán các doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc trong hồ sơ xin vay của các tổ chức tín dụng.
- NHNN cần triển khai mạnh phương thức tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính) vì do quyền sở hữu tài sản thuộc về người cho vay, tổ chức tín dụng sẽ hoàn toàn dễ dàng trong việc xử lý một khi người vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình.
b/ Đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
- Khi nhà nước ban hành các luật hoặc chính phủ ban hành các nghị quyết có liên quan đến hoạt động ngân hàng hay các văn bản mới của NHNN, thì NHNo&PTNT Việt Nam nên kịp thời tổ chức hướng dẫn toàn hệ thống thực hiện. Trên cơ sở đó để các chi nhánh chủ động kịp thời quán triệt, triển khai các văn bản của cấp trên như tổ chức học tập quy chế mới, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Trung Ương. Mặt khác, còn phải xây dựng một số văn bản hướng dẫn cụ thể hơn hoặc ban hành các quy định nội bộ nhằm phân công nhiệm vụ rõ ràng chức trách nhiệm vụ hoặc các biện pháp phối hợp thực hiện có hiệu quả. Bên cạnh việc tổ chức kịp thời thực hiện những quy định mới, NHNo Việt Nam cần chủ động rà soát lại các quy chế do NHNo ban hành trước đây không còn phù hợp để kịp thời chỉnh sửa bổ sung.
- Hoạt động kiểm tra kiểm soát là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động ngân hàng, do vậy NHNo&PTNT Việt Nam sớm xây dựng chương trình kiểm soát từ xa qua mạng vi tính nhằm giúp cho công tác này ngày càng hiệu quả hơn, nhanh nhạy hơn.
- NHNo&PTNT Việt Nam cần ưu tiên cho việc phát triển đào tạo nguồn nhân lực. Trước hết, cần có văn bản quy định rõ ràng tiêu chuẩn chức danh của từng vị trí công tác rõ ràng, tất cả các nhiệm vụ, chức năng, trách nhiệm và quan hệ trong thực tế của từng ví trí công việc hoặc nhóm công việc. Văn bản quy định này sẽ là cơ sở để đánh giá và phân loại toàn bộ các vị trí công việc trong ngân hàng. Tiếp đó, phải xác định đặc điểm đối tượng đảm nhiệm từng công việc, cụ thể hoá bằng danh mục các yêu cầu về kỹ năng và nhận thức. Sau đó phải tiến hành đánh giá khả năng làm việc của từng người để có được thông tin về toàn bộ cán bộ công nhân viên trong ngân hàng. Trên cơ sở đó có thể phân công đúng người, đúng việc đồng thời cũng là cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán bộ công nhân viên NHNo&PTNT huyện Tiên du.
- Đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam nhanh chóng ra văn bản hướng dẫn cụ thể để các ngân hàng cơ sở thực hiện việc mở rộng tín dụng.
c/ Đối với UBND huyện Tiên du.
- Cần chỉ đạo các xã tăng cường trách nhiệm của mình trong việc cho vay của ngân hàng đến các hộ, đồng thời chỉ đạo các xã tiến hành rà soát điều tra phân hộ nghiêm túc theo tiêu chuẩn làm cơ sở để ngân hàng mở rộng cho vay. Có cơ sở cho vay như vậy mới thực hiện tốt mục tiêu "phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn", "xoá đói giảm nghèo"… của Đảng và Nhà nước.
- Chỉ đạo các ngành, ban hội của huyện phối hợp chặt chẽ với ngân hàng nông nghiệp Tiên du trong việc cho vay hộ để đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất… và các cơ quan nội chính có biện pháp tích cực giúp đỡ ngân hàng trong việc thu hồi vốn, phòng tư pháp trong việc công chứng tài sản thế chấp, cũng như UBND các xã.
- Khẩn trương hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở lâu dài cho các hộ gia đình trên địa bàn làm cơ sở để ngân hàng xem xét cho vay. Thực tế việc này trên địa bàn thực hiện còn chậm.
d/ Đối với NHNo&PTNT huyện Tiên du.
- NHNo&PTNT huyện Tiên du cần hoàn chỉnh hơn chiến lược kinh doanh trong đó có chiến lược khách hàng, chủ trọng những khách hàng vay vốn lớn, quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó cũng cần phải tìm kiếm những khách hàng mới, bám sát các đơn vị có dự án khả thi để cho vay, thực hiện tăng trưởng vững chắc dư nợ ngắn, trung và dài hạn. Tiến hành phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của các doanh nghiệp, các hộ sản xuất, các hộ tiêu dùng và đầu tư hợp lý.
- Tăng cường và mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại và dịch vụ, không ngừng nâng cao khối lượng và chất lượng thanh toán, phấn đấu tăng thu từ dịch vụ này.
- Bám sát, đôn đốc thu hồi nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tìm các biện pháp để thu hồi vốn, kể cả việc phát mại tài sản và khởi kiện trước pháp luật.
- Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong việc chấp hành quy trình nghiệp vụ.
- Cần phải thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường, thu thập các thông tin về thị trường để từ đó có những dự đoán cho các loại sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho hoạt động cho vay.
- Cần phân loại khách hàng để cho vay, từng bước sàng lọc những khách hàng yếu kém, vay trả dây dưa, thu hút tập trung đầu tư cho khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
- Cần linh hoạt hơn trong việc cho vay đối với hộ nghèo đó là việc phân bổ chỉ tiêu cho vay đối với các xã. Đối với những xã không chấp hành tốt quy định của chế độ cho vay (cho vay sai đối tượng, để nợ quá hạn lâu ngày do chủ quan của hộ vay...) chính quyền xã thiếu trách nhiệm, khi đó cần chủ động rút vốn hoặc linh hoạt điều chỉ tiêu cho các xã khác mà hộ nghèo có nhu cầu vốn để tránh tình trạng đọng vốn.
- Cần thành lập phòng thông tin, tiếp thị và phòng ngừa rủi ro để có thông tin chính xác kịp thời. Đồng thời, cũng có một bộ phận thâmr định độc lập với phòng tín dụng để thẩm định lại các khoản vay.
- Về đội ngũ cán bộ tín dụng: Sắp xếp cho phù hợp với từng đối tượng vay vốn và trình độ nghiệp vụ cán bộ tín dụng. Tiếp tục học tập để nâng cao kiến thức về thị trường và thẩm định dự án. Tổ chức học tập thêm ngoại ngữ, tin học… để nắm bắt thông tin và xử lý thông tin kịp thời qua đó vận dụng vào công tác kiểm tra, phân tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp để có hướng thích hợp, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
- Duy trì và phát triển phong trào thi đua động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, có hình thức thưởng phạt nghiêm minh, động viên khích lệ một cách thường xuyên khi họ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện vượt kế hoạch chỉ tiêu được giao. Khi đó mọi thành viên trong ngân hàng không ngừng phấn đấu vươn lên phát huy sáng kiên...
Kết luận
Với sự phát triển đến chóng mặt của nền kinh tế thế giới cũng như khu vực. Là một nước đang phát triển, Việt nam đang từng bước công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hoà chung tinh thần này, huyện Tiên du ra sức phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Mặc dù mới được tách ra từ huyện Tiên Sơn cũ, cơ sở vật chất còn nghèo làn, kinh nghiệm quản lý còn non yếu, nhưng song song với việc củng cố bộ máy lãnh đạo, xây dựng cơ sở hạ tầng là việc ổn định, xây dựng và phát triển kinh tế của địa phương.
Tuy là một huyện còn mới, nhưng với điều kiện tự nhiên thuận lợi: dân cư sống tập trung, giao thông thông thoáng, hệ thống thuỷ lợi nói chung đảm bảo nguồn nước tưới tiêu cho bà con trong việc phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Hơn nữa huyện có mối liên lạc giao lưu kinh tế với các địa phương khác tương đối tốt. Đặc biệt là có các chính sách phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại phù hợp với điều kiện tự nhiên - xã hội như: đầu tư phát triển đàn bò sữa, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp như khu công nghiệp Hoàn Sơn, công ty may Tiên Sơn, khu công nghiệp chế biến thức ăn gia xúc, trại Gà giống, nhà máy giấy...Đã có hàng vạn lao động được thu hút vào làm việc ở các khu này, giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương và các huyện bạn, tỉnh bạn. Đây là sự phấn đấu lỗ lực của bản thân Huyện Tiên du và sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng của tỉnh, của Trung Ương và ý thức xây dựng của toàn dân, của các cơ quan có thẩm quyền của Huyện. Trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Huyện từ một nền kinh tế hầu như thuần nông sang một nền kinh tế công - nông - thương nghiệp, NHNo&PTNT huyện Tiên du đã giữ vai trò vô cùng quan trọng. Các ngành nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển, các công ty, nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, các trang trại và kinh tế hộ có phát triển được như ngày hôm nay hầu hết đều có sự tham gia đầu tư của đồng vốn ngân hàng. Có thể nói NHNo Tiên du như một bà mẹ đỡ đầu cho sự phát triển của nền kinh tế địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, NHNo Tiên du cũng đã gặp phải không ít những khó khăn, đôi khi gặp rủi ro. Bởi rủi ro là những gì không thể lường trước được do chủ quan hay do khách quan, khiến cho người đi vay không thực hiện đúng cam kết với ngân hàng. Rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội như: lạm phát, suy thoái, chính sách nhà nước hay môi trường pháp lý không ổn định, hay điều kiện tự nhiên bất ổn: thiên tai lũ lụt...Dù có xuất phát từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng mang lại những thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Nhưng không phải vì thế mà ngân hàng thu hẹp hoạt động. Hằng ngày có hàng trăm giao dịch được phát sinh, và tương lai NHNo Tiên du sẽ còn mở rộng phạm vi và phát triển quy mô hơn nữa, vươn cao và vươn xa hơn nữa.
Trên đây là đôi nét về thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Tiên du, những mặt tích cực và một số tồn tại. Qua thời gian ngắn tiếp cận thực tế được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại NHNo Tiên du, em đã hiểu thêm nhiều vấn đề về thực tế, bổ sung cho những kiến thức đã học được dưới mái trường HVNH.
Em xin chân thành cám ơn cô giáo Đỗ Kim Hảo, và sự hướng dẫn của các cô chú ở NHNo Tiên du đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0352.doc