Trong việc áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hóa đơn trong giai đoạn tới chúng ta nên phân loại các cơ sở kinh doanh, đối với các đơn vị kinh doanh tư nhân có quy mô nhỏ, thu nhập thấp ta nên qui định mức doanh số đồng thời chúng ta sẽ chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức ấn định doanh thu. Còn đối với các đơn vị kinh doanh có quy mô lớn thì chúng ta sẽ chuyển dần các đối tượng này sang áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Đây là điều kiện để đảm bảo cho các doanh nghiệp khi mua hàng hóa của khu vực này mà vẫn không có biến động gì trong sản xuất kinh doanh.
Trong khâu khấu trừ thuế GTGT đầu vào chúng ta nên khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa dịch vụ mua vào có hóa đơn GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào có hóa đơn bán hàng theo một tỷ lệ cao hơn đối với trường hợp không có hóa đơn.
Trong khâu hoàn thuế GTGT cần phải đơn giản hóa các thủ tục nhưng vẫn phải đảm bảo những yêu cầu đó chính là tính chính xác kịp thời khắc phục tình trạng doanh nghiệp lợi dụng moi tiền của NSNN. Vì vậy chúng ta phải tin học hóa công tác kê khai đồng thời quá trình kiểm tra phải được tiến hành một cách nghiêm minh có những chế tài về mặt kinh tế khi phát hiện sự gian lận trong công tác kê khai của doanh nghiệp.
56 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2410 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các khâu sau:
Đăng kí nộp thuế
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng kể cả các cơ sở trực thuộc phải đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng với Chi cục Thuế huyện và theo sự hướng dẫn của cơ quan thuế. Các tổng công ty, công ty và các cơ sở kinh doanh có các đơn vị chi nhánh trực thuộc đều phải đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng với Chi cục Thuế.
Việc đăng ký nộp thuế theo quy định này nhằm tránh bỏ sót các cơ sở kinh doanh, tránh việc thu thuế trùng lặp đối với cùng một cơ sở kinh doanh và là cơ sở để Chi cục Thuế huyện theo dõi, quản lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Theo quy định, doanh nghiệp kinh doanh mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng có hoạt động kinh doanh, cơ sở phải đăng ký nộp thuế trước khi kinh doanh. Trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi kinh doanh, doanh nghiệp phải khai báo với cơ quan thuế chậm nhất là năm ngày trước khi tiến hành các hoạt động trên.
Việc đăng kí nộp thuế nhằm tăng cường công tác quản lý đối tượng nộp thuế trong đó có các doanh nghiệp đây là nội dung rất quan trọng và cũng hết sức phức tạp trên địa bàn huyện Giao Thủy. Nó là tiền đề, điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt luật thuế GTGT, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào NSNN.
Kê khai thuế
Cơ sở kinh doanh, doanh nghiệp phải kê khai thuế giá trị gia tăng từng tháng và nộp tờ kê khai thuế cho Chi cục Thuế huyện trong 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Trong trường hợp không phát sinh thuế đầu vào, thuế đầu ra, cơ sở kinh doanh vẫn phải kê khai và nộp tờ khai thuế cho Chi cục Thuế huyện. Cơ sở kinh doanh phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ kê khai thuế và chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai.
Cơ sở kinh doanh người nhập khẩu hàng hóa phải kê khai và nộp tờ khai thuế giá trị gia tăng theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thuế nhập khẩu với cơ quan thu thuế nơi có cửa khẩu nhập hàng hóa.
Cơ sở kinh doanh buôn bán chuyến phải kê khai và nộp thuế theo từng chuyến hàng với cơ quan thuế nơi mua hàng trước khi vận chuyển hàng đi.
Cơ sở kinh doanh nhiều loại hàng hóa, dịch vụ có mức thuế suất thuế giá trị gia tăng khác nhau phải kê khai thuế giá trị gia tăng theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hóa, dich vụ, nếu cơ sở kinh doanh không xác định được theo từng mức thuế suất thì phải tính và nộp thuế theo mức thuế suất cao nhất của hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất, kinh doanh.
Nộp thuế
Thuế giá trị gia tăng nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định sau:
Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách nhà nước theo thông báo nộp thuế của Chi cục Thuế huyện. Thời hạn nộp thuế của tháng được ghi trong thông báo chậm nhất không quá ngày 24 của tháng tiếp theo.
Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu hàng hóa phải nộp thuế giá trị gia tăng theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo và thời gian nộp thuế nhập khẩu.
Trong kỳ tính thuế, cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế, nếu có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì được khấu trừ vào kỳ tính thuế tiếp theo. Trong trường hợp cơ sở kinh doanh đầu tư mới tài sản cố định, có số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế theo quy định của Chính phủ.
Thuế giá trị gia tăng được nộp vào ngân sách nhà nước bằng đồng Việt Nam.
Quyết toán thuế
Cơ sở kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với Chi cục Thuế. Năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanh phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho Chi cục Thuế và phải nộp đủ số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán, nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp kỳ tiếp theo.
Trong trường hợp cơ sở kinh doanh sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể phá sản, cơ sở kinh doanh cũng phải thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế trong hạn 45 ngày, kể từ ngày có quyết định trên.
Hoàn thuế
Việc hoàn thuế giá trị gia tăng đã nộp được quy đinh như sau:
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế hàng quý nếu số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý thường xuyên lớn hơn số thuế đầu ra phát sinh các tháng trong quý. Những cơ sở kinh doanh xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng kỳ với số lượng hàng lớn, nếu phát sinh số thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa xuất khẩu lớn thì được xét hoàn thuế giá trị gia tăng từng kỳ.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, có đầu tư, mua sắm tài sản cố định, nếu số thuế giá trị gia tăng đầu vào của tài sản cố định được khấu trừ lớn thì được xét giải quyết hoàn thuế đầu vào của tài sản cố định như sau:
+ Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư mới, đã đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế nhưng chưa phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp cơ sở có số thuế giá trị gia tăng đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quý.
+ Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu nếu số thuế đầu vào của tài sản đầu tư đã tính khấu trừ sau ba tháng mà số thuế chưa được khấu trừ vẫn lớn hơn số thuế đã được khấu trừ thì được xét hoàn lại số thuế chưa được khấu trừ.
Cơ sở kinh doanh có quyết định sử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Để giải quyết hoàn thuế, cơ sở kinh doanh phải gửi đơn đề nghị kèm theo hồ sơ xin hoàn thuế tới cơ quan quản lý thuộc Chi cục Thuế. Chi cục Thuế có trách nhiệm kiểm tra xác định số thuế hoàn trả và thực hiện hoàn trả thuế hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn trả thuế cho cơ sở theo thẩm quyền quy định.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
2.3.1. Những thành tựu trong công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Giao Thủy
Luật thuế GTGT là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà Nước bảo đảm nguồn thu Ngân sách ổn định và công bằng cho các cơ sở kinh doanh, dịch vụ. Thông qua luật thuế GTGT, Nhà Nước tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh, dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất theo phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp với hội nhập Quốc tế.
Sau nhiều năm thực hiện luật thuế GTGT trên phạm vi toàn quôc và đã thu được những thành tựu đáng kể. Chi cục Thuế huyện Giao Thủy luôn hoàn thành vượt mức mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra.
KẾT QUẢ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN
( Đơn vị tính: Triệu đồng)
Năm
Dự Toán
Thực Hiện
So Sánh (%)
1995
10.814
12.407
114,73
1996
9.969
11.250
112,85
1997
14.048
14.887
105,97
1998
13.774
13.898
100,90
1999
14.407
19.738
137,00
2000
24.785
24.787
100,01
2001
25.611
34.417
134,38
2002
28.235
30.313
107,36
2003
27.683
34.956
126,26
2004
34.697
37.716
108,70
2005
31.923
34.648
108,54
2006
34.000
35.769
105,20
2007
43.800
47.347
108,16
Nhìn chung, trong những năm qua công tác quản lý thu thuế đạt được nhiều thành quả. Công tác quản lý thuế được chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ người nộp thuế tự kê khai, tính thuế và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế đã đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế. Cơ quan thuế thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn đôn đốc thu nộp kiểm tra thanh tra xử lý vi phạm về thuế đã có những cải tiến như: thủ tục về đăng ký, kê khai nộp thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế quyết toán thuế theo hướng đơn giản rõ ràng hơn, xây dựng lại quy trình quản lý thuế đối với doanh nghiệp, quy trình thanh tra, kiểm tra…
Tổ chức quản lý thuế hiện nay được tách thành các bộ phận độc lập: bộ phận cấp đăng ký mã số thuế, nhận và kiểm tra tờ khai thuế, bộ phận tính thuế thông báo nộp thuế và đôn đốc thu nộp thuế, bộ phận thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm về thuế đã hạn chế được những tiêu cực trong quản lý theo kiểu “khép kín” trước đây. Việc cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế là một bước tiến đáng kể trong việc quản lý thuế, phù hợp với yêu cầu quản lý thuế hiện đại, đảm bảo được quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế.
Những thành quả của đơn vị được đánh giá qua những con số và những cán bộ công nhân viên chức của Chi cục những người tạo nên chúng. Trong những năm gần đây, ngoài công tác thu được ghi nhận là đạt hiệu quả thì tất cả công tác khác đều có những bước tiến riêng. Để có được thành công của Chi cục thì mỗi bộ phận đều có đóng góp. Sự đóng góp đó thể hiện cụ thể qua:
Tổ chức bộ máy quản lý
Tổ chức cán bộ là khâu quyết định thành công trong công tác thuế, do vậy tập trung sức xây dựng cơ quan thuế thành những tổ chức trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt có nghiệp vụ chuyên môn cao là công việc được thực hiện hàng ngày hàng giờ. Để làm được việc này thì công tác tổ chức cán bộ phải được thực hiện tốt như: công tác bổ nhiệm lại. Đây là một trong những công tác có tầm quan trọng, nhờ đó chất lượng đội ngũ cán bộ thuế được nâng lên một bậc. Qua công tác bổ nhiệm lại lãnh đạo cơ quan thuế đã xem xét lại toàn bộ đội ngũ cán bộ thuế để có kế hoạch sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Những người được bổ nhiệm lại từ đó cũng thấy được ưu điểm để phát huy và nhược điểm để khắc phục. Những người chưa được bổ nhiệm lại cũng cố gắng phấn đấu rèn luyện để được bổ nhiệm lại. Do vậy toàn bộ cán bộ lãnh đạo đều phải tự đổi mới và hoàn thiện mình. Việc bổ nhiệm lại cán bộ đã bắt đầu khắc phục được sự trì trệ trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, làm cho công tác cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng năng động hơn.
Thêm nữa công tác xử lý cán bộ cũng được quan tâm sâu sát. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo thì khâu kiểm tra giám sát và xử lý khi có sai phạm là tối quan trọng. Công tác này có mạnh có nghiêm thì mới tăng cường kỷ cương, phép tắc giúp hạn chế tối đa những cán bộ thoái hóa, biến chất. Còn những người tốt, trong sạch thì có được môi trường lành mạnh để phát huy.
Tóm lại, công tác tổ chức đang từng bước được cải thiện theo hướng sắp xếp cán bộ thuế theo quy định mới của Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thuế đảm bảo tinh gọn, hiệu quả để nâng cao trách nhiệm, hiệu năng của bộ máy hành thu phân công đúng người, đúng việc giúp vận hành thông suất, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý thu, thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế.
Công tác thanh tra kiểm tra
Trong quá trình quản lý thuế thường gồm 3 khâu: lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát. Công việc kiểm soát được thực hiện xuyên suất từ khi lập kế hoạch đến khi hoàn thành nhằm đảm bảo mọi việc diễn ra đúng hướng và đạt kết quả mong muốn. Như vậy, kiểm soát có hiệu quả cũng tức là hoạt động của Chi cục có hiệu quả. Những năm qua, công tác thanh tra kiểm tra đã làm được nhiều việc như:
Những đối tượng có số hoàn thuế lớn, có số thuế liên tục âm, hoạt động xuất khẩu, xây dựng cơ bản, những đơn vị báo cáo kinh doanh thua lỗ, chi phí không được hợp lý, có dấu hiệu trốn thuế… được chọn để kiểm tra.
Công tác thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế được thực hiện thường xuyên.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra hoàn thuế giá trị gia tăng thực hiện tốt phân loại doanh nghiệp để kiểm tra trước hoặc sau hoàn thuế.
Tăng cường kiểm tra thực hiện chế độ sử dụng hóa đơn chứng từ, hóa đơn thuế GTGT.
Kiểm tra nội bộ ngành thuế: đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành, chú trọng việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật. Kiểm tra quy trình nghiệp vụ trong công tác quản lý thuế, của cán bộ công chức ngành thuế phát huy hiệu quả của chính sách thuế tạo nguồn lực càng lớn cho ngân sách.
Lập kế hoạch kiện toàn bộ máy làm công tác thanh tra kiểm tra theo hướng tăng cường cán bộ cho bộ phận làm công tác thanh tra kiểm tra. Các cán bộ này được chọn lọc kĩ càng, là cán bộ lâu năm có kinh nghiệm có trình độ nghiệp vụ.
Mặc dù đạt được những kết quả như thế nhưng công tác thanh tra, kiểm tra vẫn là khâu yếu nhất trong Chi cục do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan cần chấn chỉnh nhiều mặt để hiệu quả thu phản ánh đúng năng lực thực của Chi cục chứ không còn tình trạng đánh giá sai lệch qua ‘’lăng kính màu hồng’’.
2.3.2. Những tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Giao Thủy
Một nguyên nhân tạo ra nhiều kết quả và một kết quả cũng có thể được tạo ra bởi nhiều nguyên nhân, vì vậy thực trạng hoạt động ở Chi cục Thuế huyện là do những nguyên nhân đan xen tác động và tạo ra những hệ quả tương quan, có tốt và cả không tốt.
Trong công tác thu thuế
Với những con số ở bảng trên, vấn đề được đặt ngược lại với mức thuế thu được tăng cao như thế thì có phải là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu hay không? Nhìn từ góc độ khác những tín hiệu trên không đáng mừng mà trái lại, nó là những cảnh báo. Đó là dấu hiệu của thất thu chứ không đơn thuần là thu vượt mức kế hoạch. Với tình hình phát triển kinh tế hiện nay, dù không thể cho là quá tốt đẹp nhưng chúng ta cũng yên tâm rằng nó cũng đi vào quỹ đạo, đang trên con đường đi đến phát triển. Như vậy, nếu có thất thu thì nguyên nhân từ tụt giảm kinh tế là rất thấp mà chủ yếu nguyên nhân từ công tác quản lý.
Về cơ sở kinh doanh còn tình trạng trốn lậu thuế, nợ đọng thuế làm thất thu cho NSNN đồng thời không đảm bảo công bằng xã hội. Đa số các cơ sở kinh doanh chưa có ý thức chấp hành tốt Luật thuế, nhận thức việc đóng thuế có nhiều sai lệch nên cố tình vi phạm, khai man trốn thuế với nhiều hình thức: thực hiện chế độ sổ sách kế toán không nghiêm túc hoặc chỉ làm qua loa nhằm cố tình dây dưa chậm nộp thuế xuất hóa đơn thấp hơn thực tế, số ghi thấp hơn giá thanh toán thực tế, mua bán hàng không ghi vào sổ sách, chứng từ kế toán lập không đúng nguyên tắc nhất là các chứng từ thanh toán trong quan hệ mua bán cung ứng dịch vụ, hạch toán các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ kể cả không có chứng từ vẫn đưa vào hạch toán, lập bảng kê khống tăng giá mua để gian lận thuế GTGT được khấu trừ đầu vào, kê khai không chung thực, không đúng thực tế với mục đích né tránh nộp thuế. Trình độ quản lý thuế chưa theo kịp trình độ gian lận nên rất khó phát hiện để xử lý, đòi hỏi thời gian xử lý kéo dài do nhiều vấn để phức tạp, khó giải quyết.
Về cơ chế quản lý và tổ chức thực hiện như môi trường pháp lý liên quan đến quản lý thuế chưa được cải cách đồng bộ. Các cơ quan chức năng, các tổ chức cá nhân chưa đề cao trách nhiệm pháp luật trong việc cung cấp thông tin và phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế. Việc quy định ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa chặt chẽ, không thông qua một cơ quan quản lý nhà nước nào, nên nhiều hợp đồng mua bán không được ghi sổ sách đầy đủ do đó cơ quan thuế rất khó quản lý để thu thế. Năng lực trình độ trách nhiệm quản lý thuế của cơ quan thuế chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý mới, chưa phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường. Đồng thời chế tài xử phạt vi phạm về thuế chưa được quy định rõ ràng, các hình thức xử phạt vi phạm về thuế còn quá nhẹ, chưa đủ mức răn đe ngăn chặn các hành vi gian lận về thuế.
Về hệ thống thuế hiện nay có nhiều sửa đổi, cải tiến nhưng vẫn chứa đựng nhiều tồn tại như có quá nhiều đối tượng không thuộc diện chịu thuế (gồm 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ) vừa không khai thác hết nguồn thu ngân sách vừa làm cho việc tính thuế, khấu trừ thuế không được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ này một số dịch vụ xuất khẩu thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng nên không được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào làm giảm khả năng cạnh tranh của các loại hàng hóa dịch vụ này. Qui định khấu trừ thuế theo tỷ lệ % của hàng hóa dịch vụ sản phẩm nông lâm sản cơ sở chế biến mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất nhưng đã bị một số doanh nghiệp lợi dụng để khai khống hàng hóa đầu vào, khai khống hàng hóa xuất khẩu để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
Trong công tác kiểm soát thuế GTGT
Trong tình hình kinh tế phát triển ngày càng đa dạng, phong phú về loại hình, về quy mô hoạt động, việc tổ chức quản lý thu như hiện nay bắt đầu bộc lộ những nhược điểm:
Khối lượng quản lý công việc ngày càng tăng do đối tượng quản lý tăng, cách thức và quy mô hoạt động của các đối tượng kinh doanh đa dạng hơn. Công tác quản lý thuế ngày càng đòi hỏi cơ quan thuế cũng như cán bộ quản lý thuế phải thực hiện nhiều loại công việc mang tính nghiệp vụ cao, phải đảm bảo công tác quản lý chặt chẽ đúng pháp luật, trong khi đó phần lớn công việc hành chính trên giấy tờ chiếm hầu hết trong thời gian quản lý làm cho công tác kiểm tra thường xuyên khó tiến hành.
Việc quyết toán cuối năm không thực hiện kịp thời vì phải kiểm tra lại 12 tháng làm cho tiền thuế chậm nộp vào ngân sách. Việc phân công cán bộ thuế ở quá lâu trên một địa bàn dễ tạo ra các mối quan hệ ảnh hưởng sấu đến kết quả thu
Những thiếu sót của các cơ sở kinh doanh chưa được nhắc nhở, xử lý kịp thời tạo thành thói quen”xem thường” pháp luật, việc kê khai nộp thuế ở nhiều cơ sở chưa thực hiện nghiêm túc, thời gian thường kéo dài quá hạn nộp quy định do các biện pháp chưa đủ sức răn đe.
Tác phong làm việc của một số cán bộ thuế chưa tốt, nhất là các nhân viên, còn quá rề rà, thiếu tinh thần trách nhiệm lợi dụng quyền hạn để trục lợi, làm khó cho nhiều cơ sở kinh doanh.
Điều đó cũng đủ để thấy công tác kiểm tra, thanh tra là thật sự cần thiết. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra bản thân nó lại bộc nộ nhiều nhược điểm như: giữa tổ thanh tra, kiểm tra thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các tổ, đội thu thuế dẫn đến kiểm tra trùng lặp các cơ sở kinh doanh tạo dư luận không tốt và gây khó khăn cho người kinh doanh, mặc dù theo quy trình mới đã giảm bớt phần lớn trách nhiệm của cán bộ quản lý trong công tác tính thuế nhưng trên thực tế thì trách nhiệm ở các khâu khác lại tăng lên nên phải đảm nhận một công việc lớn hơn. Hơn nữa một số cán bộ làm công tác kiểm soát kém hiệu quả. Bản thân những cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra hiếm khi bị kiểm soát nên rất dễ dẫn đến tình trạng ỷ lại, cửa quyền móc nối bên ngoài.
Tóm lại, công tác kiểm soát vẫn còn rất mới mẻ, đội ngũ kiểm soát chưa có kinh nghiệm nên hiệu quả còn thấp. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua công tác này cũng đã phát huy tác dụng. Nhờ qua kiểm soát phát hiện được công tác quản lý yếu kém ở khâu nào, mức độ ra sao để còn khắc phục. Tăng cường kiểm soát phải đi đôi với đổi mới quản lý thì hiệu quả mới cao.
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên
Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân dẫn đến thất thu trong quản lý căn cứ tính thuế đối với các doanh nghiệp: Luật thuế GTGT qui định doanh nghiệp chỉ được khấu trừ thuế đầu vào khi có đủ hóa đơn, chứng từ GTGT chứng minh số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra, tuy nhiên luật thuế cũng cho phép khấu trừ theo tỷ lệ từ 1%-5% đối với hàng hóa là nông, lâm, thủy sản chưa qua chế biến của người sản xuất không có hóa đơn chứng từ. Điều này đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp khấu trừ khống, tạo điều kiện trốn thuế gây ra sự bất bình đẳng giữa cơ sở kinh doanh cùng mặt hàng. Ngoài ra một số doanh nghiệp xuất khẩu đã thành lập ra những công ty “ma” chuyên lập bảng kê mua hàng hóa sau đó xuất hóa đơn GTGT cho doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp khi xuất hàng sẽ được hoàn trả toàn bộ thuế GTGT đầu vào và như vậy sau đó một quá trình vòng vèo doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được khấu trừ khống đầu vào. Với tình hình hiện nay, ngành thuế khó có thể kiểm soát nổi đồng thời việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ mới chỉ là hình thức, chưa đúng theo quy định của pháp lệnh kế toán thống kê ( chưa ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh... ).
Trong khâu thu nộp thuế do tâm lý, ý thức chấp hành luật thuế GTGT của người tiêu dùng và các doanh nghiệp từ lâu nhân dân ta đã quen với tập quán mua hàng theo kiểu “giá bán bao gồm cả thuế” người mua không quan tâm đến số thuế mà mình phải trả điều này dẫn đến thái độ thờ ơ của người tiêu dùng trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi cả một thói quen đã ăn sâu trong mỗi người mua người bán người chịu thuế người nộp thuế. Đó là thói quen mua hàng không cần hóa đơn chứng từ, sổ sách kế toán.
Trong công tác thanh tra kiểm tra do nhận thức của các doanh nghiệp về nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước vẫn còn hạn chế. Vì vậy các đối tượng nộp thuế vẫn tìm cách trốn tránh khi có cán bộ thuế đến thanh tra kiểm tra.
Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân dẫn đến thất thu trong quản lý căn cứ tính thuế đối với doanh nghiệp: Do năng lực cán bộ công chức ngành thuế còn non kém, chưa được đào tạo cơ bản. Công tác thanh tra, kiểm tra của Chi cục chưa thường xuyên, kịp thời để uốn nắn sai sót dẫn đến việc thực hiện luật thuế GTGT còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ công nhân viên chức có trình độ ngoại ngữ còn rất thấp, vì vậy đã làm giảm hiệu quả trong công tác thanh tra kiểm tra các đối tượng nước ngoài, liên doanh trên địa bàn. Do ý muốn chủ quan của các đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế.
Trong khâu hoàn thuế do các doanh nghiệp được thành lập trên địa bàn ngày càng nhiều nhất là khi có luật doanh nghiệp mới nên việc xử lý hoàn thuế GTGT gặp rất nhiều khó khăn do bộ máy trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Hiện mỗi phòng ban chỉ được tranh bị 1 hoặc 2 máy vi tình và 1 điện thoại cố định.
Thất thu trong công tác thanh tra, kiểm tra do đội ngũ công tác thanh tra còn quá mỏng trong khi đó đối tượng cần thanh tra kiểm tra ngày càng nhiều. Trình độ của các cán bộ còn có những điển yếu, nhất là trình độ kế toán, bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp chưa thật vững vàng. Khi xử lý chưa chú trọng đến công tác tuyên truyền, giả thích mà chủ yếu vẫn áp đặt các hình thức kỷ luật.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN GIAO THỦY
3.1. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ GTGT ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIAO THỦY TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
Ta biết rằng thuế đã, đang và sẽ là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Hàng năm Nhà Nước phải tiến hành và tổ chức thực hiện kế hoạch thuế. Xét về mặt lý thuyết, kế hoạch thuế là dự kiến quá trình phân phối và tổ chức động viên một bộ phận GDP của xã hội cho Nhà Nước thông qua thuế. Xét về mặt thực tế, kế hoạch thuế là quá trình dự toán, tính toán, tổ chức động viên nguồn thu bằng thuế. Trong cơ chế thị trường thì thuế là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, thực hiện các chính sách kinh tế xã hôi, giữ vững an ninh quốc phòng. Với quan điểm đó mục tiêu của các chính sách thuế trong giai đoạn tới là:
Về mặt tài chính thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Do đó thuế GTGT phải hình thành một nguồn thu tập trung, ổn định, đem lại số thu quan trọng cho NSNN. Số thuế GTGT thu được ngày càng tăng qua các năm để phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay khi nước ta đã gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO nguồn thu từ thuế nhập khẩu ngày càng giảm.
Về mặt kinh tế chính sách thuế GTGT nhằm góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu, sản xuất chế biến nông sản sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước đồng thời phải đảm bảo mức động viên hợp lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, có tác dụng khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu, sản xuất chế biến nông sản sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Thuế GTGT phải đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế cổ phần hóa các doanh nghiệp quôc doanh.
Về mặt xã hội thuế GTGT phải góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng giữa các doanh nghiệp, giữa các đối tượng nộp thuế đảm bảo tính trung lập là công cụ sắc bén để quản lý nền kinh tế vĩ mô. Công bằng được hiểu trên hai phương diện đó là công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang. Công bằng theo chiều dọc đó là việc đảm bảo thu thuế sao cho những người có khả năng trả thuế cao hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn. Công bằng theo chiều ngang là sự đối xử về thuế như nhau đối với những người có tình trạng như nhau.
Về mặt nghiệp vụ thuế GTGT khi được ban hành dù có khoa học, hợp lý đến đâu nếu không đảm bảo được việc thực hiện nghiêm minh thì không những không phát huy hết tác dụng tích cực của nó mà có khi còn dẫn đến những tác động tiêu cực. Đảm bảo việc thực hiện nghiêm minh luật thuế GTGT là điều kiện cơ bản để luật đi vào cuộc sống và phát huy hết tác dụng của nó. Thuế GTGT phải được sửa đổi để đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, các văn bản phải đảm bảo tính khách quan, tính chặt chẽ, không chồng chéo không gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Đảm bảo việc quản lý thu thuế chặt chẽ, chống trốn lậu thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế của ngành thuế đối với doanh nghiệp và các đối tượng nộp thuế.
NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIAO THỦY
Xác định mô hình hệ thống quản lý thu thuế trong giai đoạn tới
Mục tiêu chính của cải cách quản lý thuế trong giai đoạn tới là thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện các qui định về thuế của đội tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế và công tác thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện tự động hóa các công tác xử lý thông tin thuế, phát hiện nhanh các trường hợp vi phạm thuế nhằm hạn chế tình trạng trốn thuế, đảm bảo tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
Đặc điểm của hệ thống quản lý thuế trên địa bàn huyện Giao Thủy
Hệ thống thông tin truyền thông và dịch vụ về thuế phải đầy đủ và thuận lợi cho đối tượng nộp thuế. Hệ thống chính sách thuế, thủ tục và các mẫu biểu về thuế phải đơn giản, dễ hiểu để đối tượng nộp thuế có đủ khả năng thực hiện việc tự tính thuế, tự khai thuế của mình một cách chính xác và đầy đủ.
Hệ thống xử lý thông tin thuế trên máy tính là một yếu tố không thể thiếu trong công tác quản lý hiện đại trên cơ sở tính thuế. Máy tính sẽ thực hiện chức năng tính toán theo đúng các qui định về tính thuế, tính nợ, tính phạt với tốc độ nhanh chóng và chính xác, loại bỏ yếu tố chủ quan của cá nhân và phát hiện nhanh chóng những trường hợp không tuân thủ các qui định về thuế.
Việc áp dụng các hình phạt đối với các hành vi vi phạm về thuế sẽ được thực hiện nghiêm minh với sự trợ giúp đắc lực của hệ thống máy tính, kịp thời cung cấp các thông tin về các trường hợp vi phạm về thuế như không kê khai thuế, kê khai sai thuế, không nộp đủ tiền thuế…
Công tác thanh tra kiểm tra về thuế phải được tăng cường cùng với việc xây dựng hệ thống tự động phân tích thông tin, chọn lựa đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế. Ngành thuế sẽ thực hiện cưỡng chế thuế đối với hành vi vi phạm để tăng cường tính hiệu lực của các quyết định xử phạt hành chính về thuế.
Cơ cấu tổ chức quản lý thu thuế của ngành thuế được xây dựng theo nguyên tắc chức năng, mỗi bộ phận khác nhau sẽ thực hiện các chức năng khác nhau trong qui trình quản lý thu thuế, giảm thiểu mối quan hệ trực tiếp giữa cá nhân cán bộ thuế với đối tượng nộp thuế trong trường hợp đối tượng nộp thuế chấp hành đúng các qui định về thuế. Trình độ cán bộ thuế được nâng cao và chuyên môn hóa theo từng chức năng.
Mô hình quản lý thu thuế trong thời gian tới.
Với những mục đích và đặc điểm như trên đòi hỏi mô hình của hệ thống quản lý thu thuế trong giai đoạn này như sau:
Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện tự tính, tự khai thuế. Các đơn vị kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức ấn định thuế của cơ quan thuế với thủ tục đơn giản. Mức thuế ấn định sẽ ổn định trong thời hạn một năm.
Tất cả các đối tượng nộp thuế tự giác nộp thuế tại Kho bac. Cơ quan Kho bạc nhận tiền thuế, xác nhận đối tượng nộp thuế đã nộp thuế. Cuối ngày kho bạc gửi tờ khai thuế và xác nhận nộp tiền thuế, thông tin về số thuế đã nộp của các đối tượng nộp thuế về cơ quan thuế.
Bộ phận xử lý tờ khai thuế, chứng từ thanh toán thuế của cơ quan thuế nhập tờ khai thuế và chứng từ thanh toán thuế để phát hiện các trường hợp không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát thông báo nhắc nhở và cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra thuế, cưỡng chế thuế.
Bộ phận thanh tra thuế lựa chọn các đối tượng các hiện tượng nghi vấn để thực hiện thanh tra, kiểm tra và tiến hành xử lý các hành vi vi phạm về thuế.
Bộ phận cưỡng chế thuế sẽ thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với các trường hợp nợ thuế, trốn thuế.
Hoàn thiện cơ chế quản lý thuế GTGT phù hợp với giai đoạn tới
Trên thế giới, phần lớn các hệ thống quản lý thuế đều hoạt động theo nguyên tắc tự tính thuế, tự khai thuế và tự nộp thuế trên cơ sở tính tự giác của đối tượng nộp thuế. Mục tiêu cơ bản của hệ thống này là giảm tới mức tối thiểu mối quan hệ trực tiếp của cán bộ nộp thuế với những đối tượng nộp thuế chấp hành đúng qui định về thuế. Bằng cách đó, với lực lượng cán bộ có hạn của bộ máy quản lý thuế, có thể tập trung vào việc kiểm tra, phát hiện và xử lý những trường hợp vi phạm.
- Quản lý các đối tượng nộp thuế
Đối với các cơ sở kinh doanh đã được theo dõi trên sổ bộ cần phải được sắp xếp theo mã số từng địa bàn, ngành nghề, phương pháp nộp thuế. Cán bộ quản lý phải thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của các đơn vị mà mình quản lý. Khi đơn vị có đơn xin nghỉ kinh doanh thì cán bộ thuế có thể cùng cơ quan liên ngành trực tiếp điều tra, xác minh thực tế ( điều này có thể làm được vì rằng trong cơ chế thị trường một đơn vị mới ra kinh doanh hay nghỉ kinh doanh có tác động lớn đến đơn vị khác ).
Trong điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật hiện nay cơ quan thuế cần tận dụng sức mạnh của tin học vào quản lý thuế. Với mỗi đối tượng nộp thuế đều được cấp mã số thuế vì vậy khi đơn vị có đơn xin nghỉ kinh doanh ta nêu mã số thuế ở một nơi để làm số kiểm tra và sau đó theo dõi trong một thời gian xem mã số đó có là đầu vào của đối tượng khác không, qua đó biết được đơn vị đó nghỉ thật hay giả.
Bên cạnh việc kiểm tra ta cũng cần có quy định cụ thể các hình thức xử phạt đối với những đơn vị xin nghỉ kinh doanh mà vẫn kinh doanh. Đồng thời cũng quy định các hình thức kỷ luật đối với cán bộ quản lý trên địa bàn không phát hiện ra các đơn vị nghỉ giả.
Đối với các đơn vị nghỉ không đơn cũng cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc.
- Quản lý căn cứ tính thuế
Phát huy tinh thần tự kê khai, tự chịu trách nhiệm của cơ sở, cán bộ thuế cần phải thực hiện việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc ghi chép, tính toán của cơ sở. Việc kiểm tra phải bao quát được trên các khía cạnh cơ bản sau:
Kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn, chứng từ, nếu phát hiện các trường hợp để mất mát thất lạc cần xử phạt theo đúng quy định về quản lý và sử dụng hoá đơn do Bộ Tài Chính ban hành. Cần phải có biện pháp xử lý đối với những người bán cũng như người mua để mất mát hoá đơn một cách không chính đáng.
Kiểm tra việc ghi chép hoá đơn, chứng từ. Nếu phát hiện các trường hợp vi phạm như dùng hai quyển một lúc, hoá đơn nhảy cóc, nội dung ghi chép không rõ ràng, không đúng chỉ tiêu quy định ghi trên hoá đơn... thì phải lập biên bản xử lý ngay. Việc phát hành, lưu hành những hoá đơn không phải do Bộ Tài Chính phát hành hay cho phép phát hành phải được xử như hành vi khai man trốn lậu thuế.
Cần phải đi sâu kiểm tra, giám sát tránh việc giấu doanh thu thông qua việc không xuất hoá đơn hay ghi hai liên không trùng khớp nhau.
Cán bộ nếu không phát hiện ra các trường hợp vi phạm mà thanh tra phát hiện ra cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.
Kiểm tra việc áp dụng mức thuế suất có phù hợp không. Đối với những cửa hàng tổng hợp có nhiều mặt hàng chịu các mức thuế suất khác nhau cần chú ý xem xét việc kê khai có đúng quy định không tránh việc ghi chung chung đánh đồng các mặt hàng có thuế suất khác nhau để trốn thuế.
Kiểm tra việc ghi chép, hạch toán, khoá sổ kế toán (cuối tháng, quý, năm phải tiến hành khoá sổ kế toán, lập bảng kê khai tính thuế theo quy định). Để làm tốt việc này đòi hỏi cán bộ thuế không chỉ phải có kiến thức về quy trình quản lý thu thuế mà còn phải hiểu biết về chế độ hạch toán kế toán. Đặc biệt chú ý đến việc hạch toán chi phí đầu vào của đơn vị. Tất cả các khoản chi phí đều phải có hoá đơn, chứng từ hợp pháp và phải là chi phí hợp lý. Lưu ý rằng tất cả các chi phí nâng cấp TSCĐ được phản ánh tăng nguyên giá TSCĐ, không được hạch toán vào chi phí hợp lý. Doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể những TSCĐ không phân định được tỷ trọng sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt gia đình, giữa việc sử dụng cho sản xuất ra mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ theo quy định. Tiền lương, tiền công phải dựa và hợp đồng lao động ký kết giữa chủ DN và người lao động nhưng không vượt quá mức thu nhập bình quân mà UBND thành phố Hà Nội quy định trong từng thời kỳ ( thực tế đa số các cơ sở đều vi phạm điều này ).
Kết hợp việc kiểm tra số liệu trên sổ sách, hoá đơn, chứng từ với số liệu thực tế về số lượng, chất lượng. Cần xem xét kỹ các trường hợp kê khai hàng kém phẩm chất phải bán hạ giá, hàng bị hư hỏng, quá thời hạn phải tiêu huỷ... Nếu cần thiết có thể mời các nhân viên KCS của các ngành, nhân viên sở y tế... cùng làm việc nhất thiết phải xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, ở mức độ nghiêm trọng có thể làm hồ sơ chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Đối với những đối tượng không thực hiện nghiêm chỉnh chế độ chính sách kế toán, hoá đơn, chứng từ hoặc từ chối không xuất trình sổ sách kế toán thì cơ quan thuế có quyền ấn định mức thuế đồng thời xử phạt hành chính theo nghị định 22/CP của Chính phủ.
- Quản lý việc thu nộp tiền thuế
Để làm tốt công tác này thì:
Chi cục Thuế phối hợp với Kho bạc để bố trí thêm những điểm thu thuận lợi. Vào những ngày cao điểm đề nghị Kho bạc làm thêm giờ để đảm bảo cho các cơ sở kinh doanh nộp thuế được nhanh chóng, dễ dàng. Khâu này cần phải được cải tiến gọn nhẹ hơn về thủ tục để giảm bớt số lượng cán bộ thuế phải trực viết biên lai tại điểm thu Kho bạc để tăng cường cho thanh tra thuế, nâng cao chất lượng công tác thuế. Sang năm 2008 khi đã nối mạng trong toàn ngành tài chính thì hoạt động thu thuế qua Kho bạc càng phải thông thoáng hơn do vậy không cần thiết phải có cán bộ thuế trực tại điểm thu, cán bộ thuế chỉ cần kiểm tra trên máy vi tính vẫn đảm bảo công việc, giảm thiểu sự chồng chéo không cần thiết.
Phải xử lý nghiêm minh, công bằng đối với các trường hợp nợ nần dây dưa về thuế. Kiên quyết thực hiện việc phạt nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt, thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế hoặc tiền phạt theo Luật định, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp. Nếu đối tượng nộp thuế cố tình chây ỳ không nộp thuế thì có thể giữ hàng hoá, tang vật để đảm bảo thu đủ số tiền thuế, tiền phạt. Khi cần thiết có thể kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để đảm bảo thu đủ số tiền thuế, tiền phạt còn thiếu.
Đối với cán bộ thuế, cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng trái phép, chiếm đoạt tiền thuế, tiền phạt thì ngoài việc phải bồi hoàn toàn bộ số tiền đó còn tuỳ thuộc vào tính chất mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật hay truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật và ngược lại đối với những cán bộ có thành tích trong việc thu nộp thuế cần có các hình thức khen thưởng kịp thời.
Đối với các cơ sở nợ đọng thuế phải làm đầy đủ hồ sơ làm căn cứ cho Chi cục hoặc đội liên ngành điều tra, tìm ra nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời.
- Tăng cường công tác thanh tra thuế
Ngoài việc tiếp tục đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra ( trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra đó không chỉ đơn thuần là trình độ nghiệp vụ về thuế mà còn cả trình độ về kế toán, thống kê, về thị trường, giá cả, về xu thế hoạt động sản xuất, kinh doanh...). Định kỳ nên tổ chức các buổi toạ đàm trao đổi giữa cán bộ thanh tra trong Chi cục với nhau, giữa Chi cục này với Chi cục khác...
Tổ thanh tra phải chủ động trong công việc, có kế hoạch cụ thể từng ngày, từng tuần trình lãnh đạo Chi cục duyệt. Tăng cường mở rộng hoạt động và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, cố gắng để sắp xếp được các cuộc thanh tra thường kỳ đối với từng đối tượng nộp thuế. Có như vậy mới ngăn ngừa hạn chế được sai phạm từ trước khi sai phạm phát sinh phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Việc xử lý của cán bộ thanh tra phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật. Không được lạm dụng quyền hạn để bắt ép cơ sở sản xuất kinh doanh làm những điều vô lý nhưng cũng không thể để tình trạng đánh trống bỏ dùi chỉ lập biên bản mà không làm thủ tục xử phạt.
Bên cạnh việc thanh tra, kiểm tra các đối tượng nộp thuế cũng cần phải thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành để ngăn chặn, phát hiện và xử lý các vi phạm của cán bộ thuế trong việc quản lý hoá đơn, biên lai, xác định doanh số, đôn đốc thu nộp tiền thuế...
Để thực hiện tốt việc thanh tra, kiểm tra cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với các ban ngành có liên quan và yêu cầu họ cung cấp số liệu cũng như của người tham gia khi cần thiết.
Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ ngành thuế
- Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ:
Do yêu cầu thực tế ngày càng tăng việc đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý thu thuế đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như đáp ứng các nhu cầu của xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới cũng như trong khu vực, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ thuế phải nhằm mục tiêu:
Xây dựng đội ngũ cán bộ ngành thuế giỏi về chuyên môn lẫn nghiệp vụ thuế, giỏi về kế toán thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý có trình độ tin học và ngoại ngữ, với phẩm chất đạo đức tốt và có tinh thần phục vụ nhân dân đất nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ năng lực chỉ đạo điều hành, có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng đoàn kết tập hợp anh em.
Với mục tiêu đề ra, công tác đào tạo cán bộ cần thực hiện theo hướng sau:
+ Đào tạo cán bộ theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công viêc, phù hợp với mô hình quản lý thuế theo phương pháp tự tính, tự khai, tự nộp thuế.
+ Trang bị đầy đủ về lý luận và thực tiễn, bảo đảm cán bộ có khả năng tốt trong việc phân tích, đánh giá khả năng thực thi của chính sách thuế làm cơ sở cho hoạch định chính sách thuế cũng như đề xuất các biện pháp quản lý thu.
+ Đào tạo một lực lượng cán bộ thực sự giỏi, cán bộ đầu ngành nhiều kinh nghiệm quản lý để đảm đượng công việc mũi nhọn của ngành và các lĩnh vực quản lý thuế phức tạp, đồng thời đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo cán bộ trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
- Các biện pháp thực hiện:
Xây dựng chương trình và giáo trình đào tạo chuyên ngành thuế cho từng nghạch công chức, từng loại công chức thống nhất trong cả nước
Cần phải áp dụng các hình thức và nội dung đào tạo, bồi dưỡng thích hợp với từng nghạch, từng loại công chức ở các vị trí công tác khác nhau. Giáo trình đào tạo được xây dựng phù hợp với từng cấp, từng hình thức đào tạo và từng ngạch công chức. Chương trình và giáo trình đào tạo được xây dựng dựa trên nhu cầu đào tạo đã được xác định và phải được điều chỉnh hàng năm hoặc định kỳ cho phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý thu thuế.
Ngành thuế nên thành lập Trung tâm bồi dưỡng cán bộ ngành tiến tới phát triển thành Trường thuế quốc gia hoặc Học viện thuế chuyên đào tạo cán bộ cho ngành thuế một cách bài bản, chuyên sâu theo đúng những mục tiêu đã để ra. Tại các Cục thuế phải có những phòng chuyên đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ trong Cục nắm bắt những vấn đề mới nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ. Phấn đấu cho đến năm 2010 số cán bộ đại học chiếm khoảng 80%.
Lựa chọn và xây dựng đội ngũ giáo viên thật tốt đủ trình độ và năng lực để đảm đương công tác giảng dạy cho cán bộ thuế tại các địa phương.
Xây dựng qui chế kiểm tra, đánh giá trình độ công chức hàng năm để đánh giá hiệu quả công tác đào tạo, thường xuyên cải tiến và lựa chọn hình thức và nội dung đào tạo thích hợp.
Xây dựng chế độ bắt buộc và chế độ khuyến khích đào tạo đối với công chức thuế.
Dành nguồn kinh phí thích đáng cho công tác đào tạo.
Sau khi hoàn thiện giai đoạn trên, cần phải tiến hành theo chiều sâu theo hướng:
Nâng cấp chương trình và hệ thống giáo trình, tài liệu đào tạo bảo đảm nâng cao chất lượng cả về kiến thức chuyên môn và kiến thức sư phạm. Tư liệu giáo trình đào tạo phải đảm bảo dễ hiểu, dễ tra cứu và có thể tự học, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế cũng như yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo giỏi cả về chuyên môn nghiệp vụ thuế, cả về ngoại ngữ. Thu hút các cán bộ giỏi đầu ngành vào công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Dành một nguồn kinh phí thích đáng để đào tạo cán bộ theo hướng chuyên sâu bao gồm cả đào tạo trong nước và nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền thuế trong giai đoạn tới
- Mục tiêu của công tác tuyên truyền thuế giai đoạn này:
Xây dựng mạng lưới thông tin, tuyên truyền thuế sâu, rộng trên toàn quốc với các phương tiện hiện đại và miễn phí nhằm phục vụ đối tượng nộp thuế và các tầng lớp nhân dân thuận tiện nhất, tạo mọi điều kiện để đối tượng nộp thuế tuân thủ luật thuế một cách tự nguyện.
Xây dựng chương trình phát thanh, truyền hình thuế trên phương tiện thông tin đại chúng một cách cố định hàng tháng… như các chương trình phát thanh của một số ngành khác như: công an, quân đội, giao thông…
Công tác tuyên truyền thuế phải cố gắng đáp ứng được các yêu cầu của đối tượng nộp thuế sao cho đến năm 2010, đại bộ phận dân chúng có thể hiểu được một số luật thuế cơ bản và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Phấn đấu đến 2010 có 100% đội ngũ cán bộ thuế đều là những tuyên truyền viên giỏi.
- Các biện pháp phải áp dụng:
Xây dựng kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền thuế dài hạn của toàn ngành và từng Chi cục Thuế địa phương.
Xây dựng hệ thông các tài liệu tuyên truyền thống nhất trong cả nước, cụ thể như sau:
+ Hệ thống tài liệu tuyên truyền thuế được in ấn và phát hành theo từng sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc thuế qui định một đặc điểm riêng để dễ nhận biết, có sự sửa đổi và bổ sung thường xuyên khi có sự thay đổi về các qui định trong luật hay các chính sách thuế chế độ thuế.
+ Cần chọn một số mẫu nhất định cho các tài liệu tuyên truyền, mỗi năm qui định một mẫu riêng và tất cả các tài liệu công tác tuyên truyền thuế trong năm đó đều được in theo cùng một mẫu.
+ Qui định các nội dung cần đề cập và hình thức trình bầy một cách thống nhất. Việc qui định thống nhất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm và tra cứu các nội dung liên quan đến từng sắc thuế và liên quan đến nhiều năm.
Qui định rõ các tài liệu được phát hành miễn phí đến tận đối tượng nộp thuế và mọi tầng lớp nhân dân.
Xây dựng hệ thống mạng lưới tuyên truyền thuế phù hợp với từng sắc thuế, từng đối tượng nộp thuế như tờ báo ngành, băng hình phim truyền hình vừa mang tính chất tuyên truyền thuế trong nội bộ ngành, vừa mang tính chất tuyên truyền thuế một cách rộng rãi.
Xây dựng hệ thống thông tin, tuyên truyền thuế trên toàn quốc bằng các phương tiện hiện đại như internet, thư điện tử…và thực hiện miễm phí nhằm phục vụ mọi tầng lớp nhân dân ngay tại nhà một cách thuận tiện nhất, tạo mọi điều kiện để đối tượng nộp thuế tuân thủ Luật thuế một cách tự nguyện.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền thuế mạnh cả về số lượng và trình độ. Tập trung đào tạo nâng cao một bước căn bản cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền thuế băng việc đào tạo bổ sung ngay các kiến thức thiếu hụt như: kỹ năng viết, kiến thức về thuế kinh tế tài chính…để mỗi cán bộ có thể đảm đương được việc viết bài biên tập cũng như việc tuyên truyền các vấn đề đã viết cho đối tượng nộp thuế hiểu được.
Dành một khoản kinh phí thích hợp cho công tác tuyên truyền thuế, kinh phí này phải dựa trên cơ sở kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền thuế từng năm cũng như kế hoạch dài hạn về công tác tuyên truyền thuế trong toàn ngành.
Xây dựng đội ngũ chuyên trách giải quyết khiếu kiện của các doanh nghiệp về lĩnh vực thuế
Trong những năm qua Chi cục Thuế huyện Giao Thủy đã giải quyết rất nhiều đơn thư khiếu nại tố cáo, các nội dung khiếu nại tập trung vào những vấn đề sau:
Chưa đảm bảo công băng giữa các đối tượng nộp thuế
Mức thuế tăng , xin miễn giảm thuế
Khiếu nại về các quyết định xử lý của cơ quan thuế
Nói chung việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại về thuế đã đảm bảo kịp thời đúng thời gian qui định, không có đơn từ tồn đọng hoặc quá hạn.
Tuy nhiên để ngày càng hoàn thiện hệ thống nộp thuế, phù hợp với sự phát triển chung của đất nước, trong giai đoạn tới cần có tổ chức thực hiện việc giải quyết khiếu nại về thuế riêng. Thành lập phòng giải quyết khiếu nại về thuế thuộc Chi cục Thuế. Phải đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành luật, đồng thời giỏi chuyên môn nghiệp vụ thuế để thực hiện giải quyết tốt các khiếu nại về thuế, đảm bảo lợi ích của đối tượng nộp thuế cũng như lợi ích của Nhà nước theo qui định của pháp luật.
NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ RA
Nhà nước cần sửa đổi một số điều trong luật thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng
Trong việc áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hóa đơn trong giai đoạn tới chúng ta nên phân loại các cơ sở kinh doanh, đối với các đơn vị kinh doanh tư nhân có quy mô nhỏ, thu nhập thấp ta nên qui định mức doanh số đồng thời chúng ta sẽ chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức ấn định doanh thu. Còn đối với các đơn vị kinh doanh có quy mô lớn thì chúng ta sẽ chuyển dần các đối tượng này sang áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Đây là điều kiện để đảm bảo cho các doanh nghiệp khi mua hàng hóa của khu vực này mà vẫn không có biến động gì trong sản xuất kinh doanh.
Trong khâu khấu trừ thuế GTGT đầu vào chúng ta nên khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa dịch vụ mua vào có hóa đơn GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào có hóa đơn bán hàng theo một tỷ lệ cao hơn đối với trường hợp không có hóa đơn.
Trong khâu hoàn thuế GTGT cần phải đơn giản hóa các thủ tục nhưng vẫn phải đảm bảo những yêu cầu đó chính là tính chính xác kịp thời khắc phục tình trạng doanh nghiệp lợi dụng moi tiền của NSNN. Vì vậy chúng ta phải tin học hóa công tác kê khai đồng thời quá trình kiểm tra phải được tiến hành một cách nghiêm minh có những chế tài về mặt kinh tế khi phát hiện sự gian lận trong công tác kê khai của doanh nghiệp.
Tăng cường tính pháp lý trong các luật thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng
Hệ thống pháp lý phải được cải tiến để đáp ứng được những yêu cầu đề ra hiện nay điều này chỉ thực hiện được khi chúng ta có một hệ thống thương mại ngân hàng phát triển các giao dịch phải được thể hiện chính xác trên các tài khoản ngân hàng. Áp dụng những thành tựu công nghệ thông tin vào hệ thống quản lý thuế nhằm xây dựng một hệ thống thông tin hoàn chỉnh và đồng bộ từ cơ quan trung ương đến địa phương .
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chức năng có liên quan trong công tác quản lý thu thuế
Sự gắn kết giữa các ngành thuế - hải quan, công an, quản lý thị trường, kho bạc, ngân hàng còn thiếu chặt chẽ vì vậy việc quản lý thu thuế còn gặp nhiều khó khăn chúng ta nên thành lập một cơ quan chuyên trách giúp gắn kết những cơ quan lại với nhau để đảm bảo tính thống nhất điều đó sẽ trành được sự trùng lặp và chồng chéo đồng thời hỗ trợ cho nhau.
KẾT LUẬN
Hệ thống chính sách thuế trong đó có luật thuế GTGT đã trở thành công cụ quản lý vĩ mô có hiệu lực của Nhà nước góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Đảm bảo ổn định và tăng trưởng nguồn thu NSNN, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của đất nước. Nó đã thúc đẩy các cơ sở kinh doanh tăng cường hạch toán kinh tế, củng cố công tác kế toán hoán đơn chứng từ, nâng cao ý thức chấp hành luật thuế làm bình đằng và công băng xã hội.
Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, công tác quản lý thuế vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại và vướng mắc phát sinh. Trong quá trình nghiên cứu về công tác quản lý thu thuế tại Chi cục Thuế huyện Giao Thủy đã phát hiện những vướng mắc. Vì vậy để quản lý thu đối với các doanh ngiệp trên địa bàn là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Công tác quản lý cán bộ, tổ chức bộ máy phải hợp lý mới giúp nâng cao hiệu quả thu thuế trên điạ bàn huyện. Vẫn còn tình trạng nợ đọng, trốn lậu thuế, công tác thanh tra kiểm tra là khâu yếu nhất trong công tác quản lý. Do vậy, cần phát huy điển mạnh từ những thành tựu đã đạt được đồng thời khắc phục được những tồn tại, hạn chế. Từ đó kiện toàn bộ máy để có đủ năng lực thực hiện việc quản lý thu thuế trong giai đoạn tới.
Qua thời gian thực tập tại Chi cục Thuế huyện Giao Thủy em đã hoàn thành chuyên đề. Nhưng do năng lực bản thân và kinh nghiệm thực tế còn nhiêu hạn chế nên chuyên để không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Phan Kim Chiến và các cô chú, anh chị trong Chi cục Thuế huyện Giao Thủy đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Báo cáo tổng kết công tác thu thuế các năm 2006,2007 của các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Giao Thủy.
2 Bảng số liệu kết quả thu ngân sách nhà nước qua các năm 1995 đến 2007
Kinh tế học vĩ mô Regori Mankiw – NXB Thống kê 1999.
3 Kinh tế học vi mô Robert S. Pindick – NXB Thống kê 1999.
4 Tài chính Doanh nghiệp- Tiến sĩ Lưu Thị Hương – Bộ môn TCDN Khoa Ngân hàng Tài chính Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
5 Lịch sử học thuyết kinh tế – Bộ môn Kinh tế chính trị học Trường Đại học Kinh tế quốc dân 1998.
6 Giáo trình Thuế Nhà Nước- Đại học Tài chính Kế toán – NXB Bộ Tài Chính 2000.
7 Quản lý Nhà Nước về Kinh tế - Khoa khoa học quản lý – Trường Đại học Kinh tế quốc dân
8 Webside
9 Webside
10 Khoa học quản lý - Khoa khoa học quản lý – Trường Đại học Kinh tế quốc dân
11 Quy trình quản lý thuế và cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo luật quản lý thuế – Nxb Lao Động & Xã Hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12280.doc