Chuyên đề Giải pháp tăng cường hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước Chi nhánh Thành phố Hà Nội đối với hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn

Hoạt động cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá của các NHTM cổ phần hiện nay là một dịch vụ ngân hàng mới, tiềm ẩn nhiều rủi ro do sự biến động liên tục với biên độ giao động lớn của thị giá chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn đầu phát triển, nên chưa thật sự ổn định, vững chắc. NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội với chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính trên địa bàn đã, đang và sẽ có những giám sát chặt chẽ hơn đối với hoạt động cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước Chi nhánh Thành phố Hà Nội đối với hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản 2 Điều 7 QĐ 1627. Do đó thanh tra chi nhánh đã yêu cầu thu hồi nợ đối với các pháp nhân này. Trong hồ sơ vay vốn không có tài liệu chứng minh nguồn trả nợ: 02 khách hàng với số tiền vay là 38.015 triệu đồng. NH Quân Đội: trong hồ sơ vay vốn không có tài liệu chứng minh nguồn trả nợ: 04 khách hàng với tổng số tiền vay là 6.879 triệu đồng. Tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án chiếm 20,6% nhỏ hơn 30%, chưa đúng quyết định của Tổng giám đốc MB: khách hàng Nguyễn Tất Kiên, dư nợ 1.500 triệu đồng. NH Quốc tế Việt Nam: giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án kinh doanh của khách hàng không rõ ràng, chưa chứng minh rõ hiệu quả phương án vay vốn: 09 khách hàng với dư nợ 54.192 triệu đồng. Cho vay trung và dài hạn đối với khách hàng kinh doanh chứng khoán, không đúng chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại Công văn 7318/NHNN-CSTT: 15 khách hàng với tổng số tiền vay là 96.564 triệu đồng. Thứ hai, về kiểm tra trong và sau khi cho vay: NH Đông Nam Á: không đủ tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn: 03 khách hàng với tổng dư nợ là 61.500 triệu đồng, vi phạm Điều 55 Luật các tổ chức tín dụng. Nội dung biên bản kiểm tra chung chung, sơ sài không đánh giá được giá trị của tài sản đản bảo, vi phạm Điều 21 QĐ 1627: 10 khách hàng với tổng số tiền vay là 155.929 triệu đồng. NH Quân Đội: khách hàng Đào Thị Mát với số tiền vay là 1.500 triệu đồng nhưng người sử dụng tiền vay không phải là người vay vốn (con gái). Khách hàng Trần Quốc Ánh vay 4.125 triệu đồng trong 03 tháng nhưng trong khế ước nhận 06 tháng, có thể dẫn đến rủi ro không thu hồi được nợ. Chưa có đầy đủ tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay: 12 khách hàng với tổng dư nợ là 24.476 triệu đồng. Chưa kiểm tra sau khi cho vay: khách hàng Nguyễn Thanh Hương với số tiền vay là 2.986 triệu đồng, vi phạm Điều 21 QĐ 1627. NH Quốc tế Việt Nam: không có tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay rõ ràng: 05 khách hàng với tổng dư nợ là 33.384 triệu đồng. Cán bộ quản lý khách hàng chưa thực hiện kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng: 05 khách hàng với tổng dư nợ là 31.018 triệu đồng. Thứ ba, về chấp hành quy chế bảo đảm tiền vay: Công ty chứng khoán Seabank: tài sản đảm bảo là 1.000.000 cổ phần PVI, tổng giá trị 78.780 triệu đồng, tài sản này chưa được PVI xác nhận phong toả. Nguyễn Thị Hoàng Yến (Hội sở): tài sản đảm bảo là bất động sản nhà số 5 ngách 7/10 phố Thái Hà, Đống Đa, Hà Nội trị giá 1.562 triệu đồng, hợp đồng thế chấp chưa công chứng, chưa thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo. 08 khách hàng tại chi nhánh Láng Hạ, trong đó 07 khách hàng vay từ tháng 5/2007 tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay là 1.396.140 cổ phần của công ty khách sạn Du lịch Sông Nhuệ và 01 khách hàng là công ty TNHH Vượng Tiến vay từ tháng 1/2007 tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay là 5.959 triệu đồng mệnh giá cổ phần công ty xây dựng số 3 Hà Nội đến nay Seabank chưa nắm giữ được cổ phiếu. Đoàn thanh tra đã yêu cầu ngân hàng tiến hành ngay việc kiểm tra sau cho vay đối với 08 khách hàng trên, xác định rõ nguyên nhân công ty Khách sạn Du lịch Sông Nhuệ và công ty xây dựng số 3 chưa phát hành cổ phiếu. Hoàn thành các thủ tục pháp lý liên quan đến tài sản đảm bảo còn thiếu để có thể phát mại dễ dàng khi cần thiết thu hồi vốn, hạn chế thấp nhất rủi ro. NH Quân Đội: tài sản đảm bảo là nhà đất chưa được đăng ký giao dịch đảm bảo, thực hiện chưa đúng quy định tại Điều 12.1a Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính Phủ: 03 khách hàng với giá trị tài sản đảm bảo là 6.634 triệu đồng. NH Quốc tế Việt Nam: cho vay vượt giá trị tài sản đảm bảo, thực hiện chưa đúng quy định tại Điều 5 Quyết định số 3391 của Tổng giám đốc VIB: 06 khách hàng với số tiền là 85.170 triệu đồng. Thứ tư, về một số điểm đáng lưu ý khác: NH Đông Nam Á: nội dung hợp đồng tín dụng cho vay kinh doanh chứng khoán quy định: “bên cho vay không chịu trách nhiệm về tính xác thực và hợp pháp của mục đích vay của bên vay”. Như vậy NH Đông Nam Á thực hiện không đầy đủ quyền của mình theo quy định của pháp luật. Đoàn thanh tra đã yêu cầu NH Đông Nam Á rà soát, chỉnh sửa các hợp đồng tín dụng có nội dung nêu trên cho phù hợp. Chi nhánh Láng Hạ cho 07 khách hàng vay 56.947 triệu đồng, mục đích mua cổ phiếu của công ty Khách sạn Du lịch Sông Nhuệ (Hoàng Minh Phượng: 16.299 triệu đồng, Trịnh Thị Hồng Anh: 4.056 triệu đồng, Vũ Thị Lan: 6.499 triệu đồng, Bùi Trung Kiên: 6.899 triệu đồng, Trần Thị Út: 6.873 triệu đồng, Nguyễn Lê Việt Hải 7.678 triệu đồng, Lê Thị Thanh Hương: 8.643 triệu đồng), thời hạn 12 tháng, gốc và lãi trả cuối kỳ, nguồn trả nợ gốc và lãi từ bán cổ phiếu và nhận cổ tức của tài sản hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên, tại tờ trình thẩm định khách hàng của cán bộ tín dụng thì trong năm 2004, 2005 công ty Khách sạn Du lịch Sông Nhuệ thua lỗ, năm 2006 lãi không đáng kể, dự tính năm 2007 tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ VCSH là 5,3%, cổ phiếu của công ty có tính khả mại không cao trên thị trường. NH Ngoài quốc doanh: khách hàng Ngô Chí Dũng dư nợ đến 31/10/2007 là 79.056 triệu đồng, mục đích sử dụng vốn vay để mua 1.500.00 cổ phần của Công ty thuỷ điện thác Mơ và 380.000 cổ phần của Công ty phân đạm và hoá chất dầu khí, tài sản đảm bảo là 2.627.790 cổ phần của NHTM cổ phần Quốc tế Việt Nam và 2.335 cổ phần của NHTM cổ phần Kỹ thương và một số nhà đất trị giá 1.742 triệu đồng. NH Đông Nam Á: một số khách hàng vay vốn lớn như Trần Thị Út (51.248 triệu đồng), Lê Thanh Hương (33.643 triệu đồng), Vũ Văn Tiến (57.000 triệu đồng; thị trường chứng khoán Việt Nam chưa ổn định, chưa vững chắc… Đối với những khách hàng trên Seabank cần có biện pháp quản lý chặt chẽ để đảm bảo thu hồi nợ (gốc và lãi) đúng hạn, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xẩy ra. 2.5 Đánh giá kết quả thanh tra cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán 2.5.1 Những kết quả đạt được Do thanh tra chi nhánh thường xuyên nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ tạo điều kiện của Đảng uỷ, Ban giám đốc chi nhánh, thanh tra NHNN Việt Nam và thanh tra nhà nước cấp trên, sự phối hợp giúp đỡ của các phòng ban trong chi nhánh và các tổ chức tín dụng trong việc tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, thanh tra chi nhánh còn luôn được tăng cường về số lượng và chất lượng cán bộ. Tập thể cán bộ thanh tra chi nhánh luôn đoàn kết vì sự nghiệp chung, tích cực học tập, tự học hỏi, tổ chức trao đổi kinh nghiệm nhăm nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao năng lực chuyên môn nên hoạt động thanh tra, giám sát của chi nhánh đã đạt được những kết quả trong hoạt động thanh tra cho vay kinh doanh chứng khoán của các NHTM cổ phần trên địa bàn: Thứ nhất, hoàn thành tốt kế hoạch thanh tra đã đề ra cũng như sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo cấp trên, đảm bảo cho các NHTM trên địa bàn hoạt động đúng khuôn khổ pháp lý, quy định, thể lệ đã ban hành như quy chế cho vay, quy trình tín dụng, chỉ thị số 03 và quyết định số 03 của Thống đốc NHNN về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán. Thứ hai, phát hiện những sai phạm một cách kịp thời từ đó có những biện pháp xử lý chính xác, giúp đỡ các NHTM cổ phần khắc phục sai phạm sau thanh tra. Thanh tra chi nhánh đã yêu cầu các NHTM cổ phần bổ sung các giấy tờ pháp lý trong hồ sơ vay vốn như hồ sơ pháp lý của pháp nhân, giấy từ chứng minh khả năng trả nợ, chứng minh mục đích sử dụng vốn, các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo; tiến hành thu hồi nợ đối với các trường hợp cho vay sai quy chế của NHNN, quy định của NHTM cổ phần. Thứ ba, từ kết quả thanh tra thu được, thanh tra chi nhánh đã khuyến cáo các NHTM cổ phần về những rủi ro có thể xẩy ra do cho khách hàng vay quá thời hạn quy định, mức vay vốn lớn, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thật sự ổn định, vững chắc. 2.5.2 Những hạn chế, vướng mắc trong hoạt động thanh tra cho vay dầu tư kinh doanh chứng khoán Một là, chỉ tập trung vào hoạt dộng giám sát từ xa. Thanh tra chi nhánh tập trung yêu cầu các NHTM cổ phần có triển khai hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán báo cáo số dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán hàng ngày. Qua đó chỉ thấy được việc thực hiện quy định tổng dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán của tổ chức tín dụng. Mặt khác, sau hơn hai năm các NHTM cổ phần triển khai nghiệp vụ cho vay kinh doanh chứng khoán thanh tra Chi nhánh mới chỉ tiến hành triển khai 01 đợt thanh tra tại chỗ vào đầu năm 2008. Hai là, việc ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán còn chậm trễ và chưa thực sự hiệu quả. Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán chỉ được ban hành vào năm 2007 trong khi hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM cổ phần đã bắt đầu vào cuối năm 2005. Hơn nưa việc ban hành Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN của Thống đốc NHNN ngày 28/05/2007 quy định dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không được vượt quá 3% tổng dư nợ của NHTM được coi như là một tác nhân làm giảm “sức nóng” của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tiếp theo là ban hành quyết định sô 03/2008/QĐ-NHNN ngày 01/02/2008 sửa đổi Chỉ thị số 03, quy định tổng dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không được vượt quá 20% vốn điều lệ của NHTM. Như vậy trong thời gian ngắn mà NHNN đã ban hành liên tiếp hai văn bản quy định khác nhau về tổng dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán của các NHTM cổ phần. Điều này cho thấy các văn bản pháp lý ban hành chưa thực sự hiệu quả và làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của NHTM cổ phần và của các nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán. Ba là, chưa có sự thống nhất về cách làm, khi tiến hành thanh tra, mỗi đoàn thanh tra một cách làm riêng. Hoạt động thanh tra, giám sát hiện nay của thanh tra Chi nhánh chỉ được tiến hành theo kế hoạch chung đã đề ra và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của trưởng đoàn thanh tra trong mỗi cuộc thanh tra tại chỗ. Tùy theo mỗi trưởng đoàn mà nội dung công việc và cách thức tiến hành có trình tự khác nhau. Do đó khả năng phát hiện, kiến nghị xử lý vi phạm, khuyết điểm còn hạn chế. Nhiều kết luận thanh tra không cụ thể, không xác định rõ sai phạm, không quy rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân để có biện pháp xử lý chuẩn xác. Ngoài ra không ít trường hợp cán bộ thanh tra vì những lý do cá nhân mà kết luận thanh tra không phản ánh đúng tính chất mức độ vi phạm, kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm còn nhẹ. Bốn là, việc thực hiện triển khai chương trình thanh tra còn thiếu tính chủ động. Công tác thanh tra của Chi nhánh còn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của NHNN Việt Nam và của Thống đốc NHNN hay lãnh đạo của Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Khi công tác giám sát từ xa phát hiện thấy sai phạm thì thanh tra viên phải báo cáo cho cơ quan cấp trên và kiến nghị biện pháp xử lý. Trên cơ sở đó lãnh đạo cấp trên mới đưa ra các quyết định thanh tra hay xử lý vi phạm cần thiết. Điều này khiến cho việc cảnh báo rủi ro và xử lý vi phạm còn chậm, chưa kịp thời. Năm là, khả năng dự báo, cảnh báo về các vấn đề, nguy cơ để giúp các NHTM có biện pháp kịp thời chấn chỉnh kịp thời còn nhiều hạn chế. Hiện nay công tác thanh tra mới chỉ dừng lại ở việc phát hiện các sai phạm. Việc đề xuất giải pháp ở tầm vĩ mô cũng như công tác tư vấn giúp các NHTM khắc phục các sai phạm còn hạn chế do thiếu những cán bộ có trình độ, giỏi cả về nghiệp vụ thanh tra ngân hàng và nghiệp vụ NHTM. Sáu là, việc kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra chưa thực sự được đề cao. Trên thực tế, có nhiều đơn vị sau khi có quyết định thanh tra thì không khắc phục ngay và các đơn vị thanh tra cũng không có biện pháp kiên quyết đốn đốc thực hiện. Tóm lại, hoạt động thanh tra của NHNN Chi nhánh Hà Nội trong thời gian qua cũng khẳng định được vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn. Việc phát hiện được những mặt tích cực và hạn chế của các NHTM cũng giúp cho NHNN Chi nhánh nắm bắt được tình hình thực tế của hệ thống NHTM trên địa bàn. Từ đó xây dựng những định hướng phát triển cũng như đôn đốc, giúp đỡ các NHTM trong việc chấp hành pháp luật về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Đồng thời cũng thấy được những điểm mạnh và điểm yếu trong công tác thanh tra, giám sát của Chi nhánh và đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động thanh tra ngân hàng. Trên cơ sở đó hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị, của ngành, của Thành phố và góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Những nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động thanh tra của NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội đối với hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán của các NHTM cổ phần trên địa bàn: Nguyên nhân chủ quan: Đội ngũ cán bộ thanh tra còn mỏng và chưa đáp ứng được yêu cầu cao về trình độ nghiệp vụ và chuyên môn. Hiện tại số lượng cán bộ thanh tra tại Chi nhánh Hà Nội đã chiếm phần lớn trong tổng số cán bộ của Chi nhánh nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu vì sự phát triển, mở rộng quy mô hoạt động nhanh chóng của các NHTM. Tuy phần lớn cán bộ thanh tra đều được đào tạo trình độ từ đại học trở lên xong vẫn không thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành, của lĩnh vực. Một cán bộ thanh tra không chỉ có hiểu biết sâu sắc về thanh tra mà còn phải có kiến thức trong các lĩnh vực khác như pháp luật, ngân hàng … Hơn nữa để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng về số lượng mà phần lớn là các cán bộ thanh tra trẻ nên kinh nghiệm thưc tế còn thiếu, chưa thật sự thành thạo nghiệp vụ chuyên môn. Công tác thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của các NHTM còn chưa nghiêm túc. Trong các ngân hàng luôn tồn tại 2 hệ thống báo cáo. Một để đối phó với cơ quan quản lý nhà nước, một tồn tại trong nội bộ Hội đồng quản trị, Ban điều hành và kiểm soát của ngân hang. Do đó gây nhiều khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra. NHNN cũng không nắm bắt được một cách chính xác tình hình hoạt động ngân hàng trên địa bàn. Mặt khác trong hệ thống tài khoản hạch toán hiện nay phản ánh hoat động cho vay theo các loại hính cho vay như cho vay bất động sản, cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán… Do đó việc lấy số liệu khó chính xác (chủ yếu là theo các báo cáo của đơn vị). Cơ sở vật chất kỹ thuật của thanh tra ngân hàng còn thấp. Chủ yếu dựa vào công nghệ thủ công là giấy và bút, việc ứng dụng công nghệ hiện đại và các chuẩn mực quốc tế trong việc xử lý số liệu, điều hành còn kém. Việc tổ chức hoạt động thanh tra, giám sát chưa thực sự chủ động, không có quy trình thanh tra, giám sát chung cho toàn hệ thống. Nguyên nhân khách quan: Mô hình tổ chức thanh tra chưa tập trung, thống nhất; trách nhiệm và quyền hạn của thanh tra ngân hàng chưa thực sự rõ ràng hợp lý. Hiện nay thanh tra NHNN Chi nhánh vẫn thuộc sự điều hành chỉ đạo của Giám đốc NHNN Chi nhánh, do đó việc triển khai hoạt động thanh tra, kiểm tra còn gặp nhiều khó khăn, chưa thống nhất được theo chỉ đạo thanh tra của Chánh thanh tra NHNN Việt Nam. Các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra ngân hàng chưa đầy đủ. Sau Luật thanh tra chưa có một số nghị định mới thay thế các nghị định cũ như: Nghị định về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng, Nghị định về công tác thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp và đoàn thanh tra vẫn làm viêc theo cơ chế cũ. Cơ chế chính sách khuyến khích cán bộ công nhân viên phát huy tối đa khả năng và trách nhiệm chưa phù hợp. Chương 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA NHNN CHI NHÁNH HÀ NỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐẦU TƯ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC NHTM CỔ PHẦN TRÊN ĐẠI BÀN 3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh tra của NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội 3.1.1. Mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm hoạt động ngân hàng của ngành ngân hàng Thành phố Hà Nội Chính phủ đã xác định 3 vấn đề trọng tâm nhằm đảm bảo đẩy mạnh được tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008: tập trung cải cách hành chính, tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách trong đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách và quyết liệt kiềm chế tốc độ tăng giá theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Thành phố Hà Nội vừa đề ra mục tiêu kế hoạch hành động về kinh tế giai đoạn 2007-2012 là: xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm kinh tế có trình độ phát triển cao của vùng và cả nước, gắn với kinh tế tri thức, hoàn thành cơ bản mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá Thủ đô năm 2015 với các chỉ tiêu cụ thể: tăng trưởng GDP trên 13%. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt trên 3000 USD. Tổng vốn đầu tư xã hội tăng bình quân 18%-19%/năm, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong 5 năm (2005-2007) đạt trên 7 tỷ USD. Trên cơ sở dự báo môi trường kinh tế vĩ mô, mục tiêu và nhiệm vụ của Ngành, của Thành phố Hà Nội, trong những năm tiếp theo ngành ngân hàng Hà Nội tập trung thực hiện các mục tiêu định hướng sau: Tạo bước phát triển mạnh mẽ hoạt động ngân hàng năm 2008 với hiệu quả cao, đảm bảo ổn định và an toàn hệ thống. Thực hiện Chương trình hành động của NHNN Việt Nam theo chương trình hành động của Chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới - WTO. Rà soát tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh; kết hợp với đánh giá, dự báo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thị trường tài chính tiền tệ ở trong và ngoài nước để thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hoạt động và hiệu quả. Các ngân hàng thương mại cổ phần tiếp tục nâng cao năng lực tài chính thông qua phương án tăng vốn điều lệ và phát hành trái phiếu chuyển đổi. Các tổ chức tín dụng tăng cường gắn kết chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng của hệ thống với thực hiện Chương trình 07/CTr-TU của thành uỷ Hà Nội về phát triển dịch vụ trình độ, chất lượng cao giai đoạn 2006 – 2010. Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đẩy mạnh phát triển dịch vụ ngân hàng mới dựa trên công nghệ hiện đại như dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ bán lẻ đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và dân cư. Nâng tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng từ 15% năm 2007 lên 20% trong năm 2008. Phát huy lợi thế của Thủ đô, huy động tối đa nguồn vốn vừa đáp ứng yêu cầu vốn phát triển kinh tế Thành phố, vừa phát huy vai trò trung tâm tài chính – ngân hàng của khu vực phía Bắc của cả nước. Nâng cao chất lượng tín dụng. Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội. Thực hiện tốt vai trò đầu mối triển khai các chủ trương, cơ chế, chính sách về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngân quỹ, ngoại hối... đến các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn. Nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội: Tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản trị rủi ro theo hướng lành mạnh hoá và kiểm soát rủi ro; hoàn thiện mô hình cơ chế hoạt động phù hợp với đặc điểm, thực trạng hoạt động của từng tổ chức, chủ động xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và mở rộng hoạt động. Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có về mạng lưới, công nghệ để cung ứng sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống và phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới tiên tiến, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Rà soát quy trình nghiệp vụ hiện có, các quy định có liên quan của Nhà nước và NHNN để tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy trình nội bộ của từng tổ chức tín dụng, đặc biệt là các quy trình liên quan đến các lĩnh vực hoạt động mới như: đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bất động sản; kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thẻ, thanh toán, chuyển tiền, ứng dụng công nghệ thông tin. Các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 02/2005/CT-NHNN ngày 20/4/2005 chủ động kiểm soát chất lượng tín dụng, đầu tư, tăng trưởng tín dụng trên nguyên tắc an toàn và hiệu quả. Kiên quyết tránh hiện tượng nới lỏng các điều kiện vay vốn để cạnh tranh thị phần, góp phần kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, giảm áp lực lạm phát trong năm 2008. Các tổ chức tín dụng có kế hoạch và giải pháp thích hợp, đảm bảo cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đời sống dân cư vừa đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức, tăng trưởng cơ sở vật chất, đẩy mạnh đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Tích cực triển khai thực hiện kế hoạch phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của NHNN và chủ trương của Chính phủ và NHNN về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng được hưởng lương từ ngân sách. Cải tiến quy trình giao dịch với khách hàng, xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng: năng động, sáng tạo, kỷ cương và thanh lịch. 3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm của NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội Với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội tập trung thực hiện các mục tiêu định hướng sau: Thực hiện chương trình hành động của NHNN Việt Nam theo Chương trình hành động của Chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO. Rá soát tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh; kết hợp với đánh giá, dự báo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thị trường tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài nước để thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hoạt động, kinh doanh an toàn và hiệu quả theo chỉ đạo của NHNN. Phát triển sản phẩm dịch vụ mới. Trước mắt là trên nền tảng đầu tư nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ hiện có, đồng thời phát triển các sản phẩm dịch vụ tiện ích mới phục vụ khách hàng. Triển khai sâu rộng việc trả lương qua tài khoản đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp ở Hà Nội. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và triển khai mở rộng việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính, mà nhiệm vụ trọng tâm là tập trung vào kiện toàn tổ chức, bộ máy, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển công nghệ ngân hàng trên nền tảng côgn nghệ cao, cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động ngân hàng trong giai đoạn mới. Tranh thủ sự chỉ đạo của Thành phố, NHNN, phối hợp với các đơn vị chức năng chủ động tham mưu đề xuất, dự báo sớm những rủi ro cho các tố chức tín dụng. Chi nhánh NHNN Thành phố Hà Nội tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch thanh tra năm 2008. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và thanh tra hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, chủ động báo Thống đốc NHNN các khó khăn, vướng mắc về hoạt động ngân hàng trên địa bàn và đề xuất giải pháp tháo gỡ, xử lý. Chuẩn bị đủ tiền mặt đáp ứng yêu cầu lưu thông, xử lý điều hoà cơ cấu tiền mệnh giá nhỏ phụ vụ nhu cầu chi tiêu của dân cư. 3.1.3. Mục tiêu và định hướng hoạt động của thanh tra ngân hàng Chi nhánh Thành phố Hà Nội Trong năm 2008 và trong thời gian tới, thanh tra NHNN Chi nhành Hà Nội sẽ tiếp tục thực hiện tốt công tác giám sát từ xa bên cạnh việc tiến hành các cuộc thanh tra tại chỗ theo kế hoạch. Kết hợp tốt giữa công tác thanh tra với công tác kiểm tra, quản lý của các phòng chức năng đối với các tổ chức tín dụng. Tiếp tục đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội theo hướng thanh tra trên cơ sở rủi ro là chính, nhưng vẫn chú trọng thanh tuân thủ và thanh tra tại chỗ. Trong quý I/2008, thanh tra Chi nhánh triển khai thanh tra đối với hoạt động cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng tại các tổ chức tín dụng trên địa bàn, báo cáo Thống đốc NHNN các khó khăn và đề xuất giải pháp xử lý. Giám sát việc thực hiện các quy định, chỉ thị liên quan tới việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia nhằm ổn định mức độ tăng trưởng cao và kiềm chế lạm phát. Thanh tra Chi nhánh NHNN Thành phố Hà Nội kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc mở rộng, phát triển mạng lưới các tổ chức tín dụng trên địa bàn, chỉ đạo hướng dẫn các tổ chức tín dụng mới đi vào hoạt động an toàn, hiệu quả, phát triển bền vững. Xử phạt nghiêm minh đối với các vi phạm liên quan đến tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. 3.2. Giải pháp tăng cường hoạt động thanh tra của NHNN Chi nhánh Hà Nội đối với hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM cổ phần trên địa bàn 3.2.1. Tăng cường công tác thanh tra tại chỗ và phối hợp giữa hoạt dộng giám sát từ xa với thanh tra tại chỗ Hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán của các NHTM cổ phần là một hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Thực tế trên thế giới có rất ít các NHTM triển khai nghiệp vụ này. Đặc biệt các NHTM Nhà nước và một số NHTM, chi nhánh NH nước ngoài ở Việt Nam hiện nay như NHTM cổ phần Á Châu, chi nhánh NH ANZ,… đều không cung cấp dịch vụ này. Do đó, để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng thì thanh tra NHNN và thanh tra chi nhánh Hà Nội cần tăng cường công tác thanh tra tại chỗ hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán của NHTM cổ phần trên địa bàn. Bên cạnh đó, thanh tra chi nhánh cũng cần tăng cường phối hợp giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Góp phần làm tăng hiệu quả của công tác giám sát từ xa là phát hiện sớm rủi ro, từ đó cảnh báo để các NHTM chấn chỉnh kịp thời và “chỉ điểm” chính xác cho thanh tra tại chỗ. Việc phối hợp có hiệu quả giữa công tác giám sát và thanh tra tại chỗ giúp cho công tác thanh tra tại chỗ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Hiệu quả quản lý của NHNN Chi nhánh Hà Nội đối với hệ thống ngân hàng trên địa bàn được tăng cường. 3.2.2. Hoàn thiện cơ chế, quy chế liên quan đến hoạt động thanh tra ngân hàng Pháp luật là cơ sở để thanh tra ngân hàng hoạt động. Một khung pháp lý hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện để hoạt động thanh tra ngân hàng diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Điều đó đòi hỏi pháp luật phải đảm bảo cho thanh tra ngân hàng có những quyền hạn tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Thực tế, Luật NHNN VN, Luật các TCTD, Luật TT cho tới nghị định số 91/1999/NĐ-CP, nội dung, bản chất hoạt động thanh tra, giám sát chuyên ngành ngân hàng chưa được làm rõ, phân biệt với cơ quan thanh tra khác. Thanh tra ngân hàng chưa thực sự là cơ quan thanh tra, giám sát chuyên ngành ngân hàng có một hệ thống phương pháp nghiệp vụ riêng và các quy trình, thủ tục hành chính (biện pháp kiểm tra tuân thủ, can thiệp, xử lý rủi ro xảy ra được coi trọng hơn các biện pháp phát hiện sớm, phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro. Một số quy định về hoạt động thanh tra chưa thực sự phù hợp. Để khăc phục tồn tại này NHNN và các cơ quan có thẩm quyền cần bổ sung, sửa đổi quy định pháp luật có liên quan đến thanh tra ngân hàng, về thanh tra nhà nước, nội dung của hai Luật về ngân hàng liên quan đến thanh tra, kiển tra là Luật NHNN 1997 và Luật các tổ chức tín dụng 1997. Đồng thời cần xây dựng mới các văn bản pháp quy về thanh tra ngân hàng cho phù hợp với yêu cầu mới. 3.2.3 Tăng cường tính chủ động cho thanh tra ngân hàng Để khắc phục những tồn tại của mô hình tổ chức thanh tra hiện hành nhằm tăng cường tính chủ động cho thanh tra ngân hàng, làm trong sạch và lành mạnh hoạt động ngân hàng, bảo vệ người gửi tiền, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và đáp ứng tiến trình hội nhập, mô hình tổ chức thanh tra ngân hàng cần được tổ chức lại theo hướng: Tạo lập bộ máy tổ chức của hệ thống thanh tra ngân hàng khép kín từ trung ương đến địa phương. Một hệ thống thống nhất trực thuộc NHNN, đứng đầu là Chánh thanh tra NHNN. Việc tổ chức như này giúp NHNN có được nhanh nhất những thông tin cần thiết về các tổ chức tín dụng; tạo thuận lợi cho sự phối hợp giữa hai chức năng điều hành và kiểm soát hoạt động ngân hàng; sẽ tránh cho thanh tra ngân hàng khỏi áp lực của vấn đề tài chính. Tách thanh tra Chi nhánh NHNN ra khỏi bộ máy NHNN tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để tạo nên bộ máy tổ chức của thanh tra ngân hàng mang tính hệ thống cao và trực thuộc sự chỉ đạo, điều hành của Thống đốc NHNN. Thành lập thanh tra ngân hàng theo khu vực phù hợp với mô hình NHNN khu vực nhưng không trực thuộc NHNN ở đây. Như vậy mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng sẽ có cấu trúc dọc từ trung ương đến địa phương. Trên thực tế hệ thống thanh tra ngân hàng hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về tính tập trung, thống nhất. Mặc dù Chánh thanh tra NHNN là người chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động thanh tra ngân hàng nhưng do chưa đầy đủ quyền năng cần thiết và chưa có cơ chế quản lý rõ ràng nên công tác quản lý, điều hành của Chánh thanh tra còn nhiều vướng mắc. Hơn nữa tại các chi nhánh thì thanh tra ngân hàng là thanh tra của thủ trưởng, chấp hành sự chỉ đạo của Giám đốc Chi nhánh NHNN. Vai trò của Chánh thanh tra NHNN chủ yếu là quản lý, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với thanh tra chi nhánh. Do đó, cần phải trao cho Chánh thanh tra NHNN quyền và trách nhiệm độc lập với các Giám đốc Chi nhánh NHNN để việc tổ chức hoạt động thanh tra ngân hàng được thông suốt, nhịp nhàng và đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, thanh tra NHNN đảm nhiệm việc thanh tra, giám sát Hội sở chính của các NHTM nhà nước, chi nhánh NHTM nước ngoài, chi nhánh ngân hàng liên doanh và thanh tra NHNN Chi nhánh đảm nhận việc thanh tra các NHTM cổ phần, các chi nhánh của NHTM nhà nước và NHTM cổ phần trên địa bàn. Cung với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, thanh tra NHNN không thực hiện thanh tra trực tiếp nữa mà chỉ thực hiện phúc tra hoặc thanh tra những trường hợp đặc biệt, tập trung vào hoạch định chính sách, chế độ trong thanh tra, giám sát và quản lý hoạt động thanh tra ngân hàng và chỉ tập trung thanh tra hội sở chính, hạn chế thanh tra trực tiếp các chi nhánh do các chi nhánh không phải là pháp nhân. Thanh tra ngân hàng cần được bổ sung thêm chức năng tham mưu trong việc cấp và thu hồi giấy phép của các NHTM, các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các đơn vị không phải là tổ chức tín dụng để đảm bảo sự tập trung thống nhất cả ba khâu: cấp giấy phép hoạt động; giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ; xử lý vi phạm. 3.2.4. Ban hành quy trình giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ Trên thực tế chưa có một văn bản chính thức nào quy định cụ thể về cách thức cũng như các bước cụ thể tiến hành hoạt động giám sát, thanh tra của thanh tra NHNN đối với hoạt động của các NHTM. Mỗi đoàn thanh tra là một cách, trình tự thủ tục không nhất quán. Do đó, trước hết cần phải xây dựng sổ tay cẩm nang thanh tra ngân hàng và sổ tay chính sách về ngân hàng làm căn cứ, hướng dẫn việc thực hiện thanh tra, xử lý các vi phạm trong quá trình thanh tra. Tiếp đó cần phải xây dựng chuẩn mực thanh tra; thiết lập quy trình thanh tra, kiểm tra thống nhất, có giá trị pháp lý bắt buộc đoàn thanh tra phải tuân theo. Quy trình thanh tra cần được xây dựng trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, đánh giá, bổ sung, cụ thể hóa quy trình theo hướng dẫn nghiệp vụ của thanh tra NHNN và phải được thể hiện ở văn bản pháp lý có hiệu lực cao như Quyết định của Thống đốc NHNN. Một quy trình thanh tra gồm các bước: Chuẩn bị thanh tra, thực hiện thanh tra và kết thúc cuộc thanh tra. Và phải xác định rõ nội dung, yêu cầu, trình tự, thủ tục, phương pháp, cách thức thực hiện các công việc cần thiết cho một cuộc thanh tra và phải được cụ thể hóa cho từng loại hình thanh tra: thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất. Mặt khác cần xây dựng chương trình cảnh báo xa trong vòng 3 năm để đánh giá tình trạng ổn định của từng tổ chức tín dụng và toàn hệ thống ngân hàng. Trên cơ sở đó có những biện pháp xử lý kịp thời, tránh bị động và ngăn ngừa được rủi ro xẩy ra. 3.2.5 Đôn đốc thực hiện nghiêm chỉnh các kết luận sau thanh tra Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả thanh tra, giám sát là việc các vi phạm không được khắc phục nhanh chóng và triệt để. Do đó, bên cạnh việc tổ chức tốt các cuộc thanh tra, giám sát thì thanh tra NHNN cũng cần phải coi trọng đúng mức công tác xử lý sau thanh tra, thiếu đôn đốc, theo dõi và kiểm tra tình hình thực hiện các kiến nghị sửa đổi của đối tượng thanh tra. 3.2.6. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán Hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán của các NHTM tuy là một nghiệp vụ mới của các NHTM cổ phần. Song về cơ bản đây vẫn là một sản phẩm tín dụng của NHTM do đó chịu điều chỉnh của Luật NHNN Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng. Hai bộ Luật này đã được ban hành từ lâu (1997), tuy được bổ sung sửa đổi năm 2003 nhưng hiện nay nó đã không đáp ứng yêu cầu mới của hoạt động ngân hàng. Mặc dù đã có một loạt các văn bản quy định của Thống đốc NHNN Việt Nam liên quan đến hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán của NHTM cổ phần nhưng vẫn cần có sự điều chỉnh, bổ sung để làm cơ sở pháp lý cho các NHTM cổ phần tiếp tục cung cấp dịch vụ này trong tương lai, cho hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán sẽ thuận lợi hơn. 3.2.7. Hoàn thiện hệ thống kế toán và xây dựng các chuẩn mực kế toán Việc thanh tra giám sát của NHNN được thực hiện chủ yếu dựa trên các báo cáo tổng hợp được các NHTM lập ra. Các báo cáo được lập một cách khoa học, rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi, giúp cho hoạt động thanh tra được nhanh chóng, chính xác. Trên thực tế, công tác kế toán ở nước ta đã và đang bị coi thường. Mặc dù đã nhà nước đã ban hành Luật kế toán và các văn bản hướng dẫn nhưng các doanh nghiệp vẫn thờ ơ. Tình trạng coi thường công tác kế toán trong nhiều doanh nghiệp đã gây ra những hậu quả âm thầm nhưng nghiêm trọng. Không ít doanh nghiệp khi có thanh tra thuế mới vội vàng lập các báo cáo tài chính. Công tác kế toán chỉ là công cụ để đối phó với việc kiểm tra, quyết toán thuế. Ngẫu nhiên trong doanh nghiệp tồn tại hai hệ thống sổ kế toán. Một hệ thống sổ kế toán phản ánh đúng thực chất về doanh nghiệp nhưng không theo bất kỳ quy định pháp luật nào; còn hệ thống kế toán thuế, về hình thức theo đúng cá quy định của pháp luật nhưng thông tin, số liệu trong đó phản ánh hoàn toàn không đúng thực tiễn hoạt động kinh doanh. Và chỉ có cơ quan thuế quan tâm đến công tác kế toán của các doanh nghiệp. Hơn nữa nguồn nhân lực lại không được trọng dụng. Đội ngũ cán bộ kế toán được đào tạo khá nhiều, song sự gia tăng về số lượng không tương xứng với việc nâng cao chất lượng. Trong những năm qua, để chế độ kế toán Việt Nam hoà nhập với chế độ kế toán của các nước trên thế giới, Bộ tài chính đã nghiên cứu và ban hành được 26 chuẩn mực kế toán (VAS). Đây là một cố gắng lớn đáng ghi nhận. Song, việc nghiên cứu và ban hành các chuẩn mực kế toán là quan trọng nhưng quan trọng hơn là phải đưa vào ứng dụng trong thực tiễn. Nghiên cứu, tiếp thu các chuẩn mực kế toán là công việc rất phức tạp, ngay cả với những cán bộ kế toán được đào tạo chính quy. Do đó, ban hành các chuẩn mực kế toán chưa phải đã là hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống kế toán và các chuẩn mực kê toán cho phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý nhà nước. 3.2.8. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng Thanh tra ngân hàng thực hiện việc thanh tra, giám sát đối với một lĩnh vực kinh tế quan trọng, rất nhạy cảm với thị trường và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động ngân hàng trong thời gian gần đây phát triển nhanh về quy mô và trình độ chuyên môn, công nghệ. Do đó, đòi hỏi cán bộ thanh tra ngân hàng phải có kiến thức rộng và sâu sắc. Cán bộ thanh tra ngân hàng không chỉ cần kiến thức chuyên môn về ngân hàng mà cần cả kiến thức về quản lý, pháp luật, ngoại ngữ, tin học và kiến thức trong các lĩnh vực khác có liên quan. Sự hiểu biết về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng chưa đủ để cán bộ thanh tra ngân hàng làm tốt công việc mà đòi hỏi phải đạt đến một trình độ nhất định về phân tích, đánh giá, tổng hợp để có thể đưa ra các đánh giá và dự báo chính xác. Vì vậy, phải tuyển chọn những cán bộ giỏi tăng cường cho thanh tra ngân hàng. Song song với công tác tuyển chọn cán bộ cũng cần phải tăng cường công tác đào tạo cán bộ. Trong thời gian qua công tác đào tạo cán bộ tuy đã có nhiều kết quả nhưng vẫn còn một số hạn chế như chưa có một chiến lược đào tạo rõ ràng, công tác đào tạo cán bộ thanh tra ngân hàng vẫn ở trong tình trạng giải pháp tình thế, thiếu định hướng và chiến lược phát triển lâu dài. Đồng thời, nội dung, chương trình đào tạo còn nhiều bất cập. Chủ yếu là mang tính chất nghiệp vụ truyền thống và phương pháp đào tạo còn nhiều hạn chế. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tăng cường và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ thanh tra ngân hàng, trong đó cần tập trung vào một số nội dung: Một là, chú trọng công tác xây dựng kế hoạch, phân loại và có loại hình đào tạo phù hợp với từng nhóm cán bộ thanh tra. Để công tác đào tạo thực sự thiết thực và đáp ứng nhu cầu sử dụng thì phải bảo đảm chuyên sâu theo từng nhóm đối tượng như: cán bộ lãnh đạo, thanh tra viên… và cần có nội dung, phương pháp đào tạo phù hợp với mỗi nhóm đối tượng. Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo trên cơ sở các nghiệp vụ, kiến thức truyền thống về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng như: các nguyên tắc giám sát ngân hàng của Uỷ ban Basel, quản trị và tổ chức điều hành NHTM; nâng cao nghiệp vụ thanh tra ngân hàng. Ba là, đổi mới phương pháp đào tạo. Áp dụng những phương pháp, công nghệ giảng dạy tiên tiến, tránh kiểu giảng viên đọc học viên chép, cần tăng cường sự tự tìm kiếm, thảo luận, trao đổi thẳng thắn giữa giảng viên và học viên. Bên cạnh đó cũng cần phải có cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp. Nếu có chế độ đãi ngộ hợp lý, có tính chất khuyến khích thì mới làm cho đội ngũ cán bộ yên tâm công tác, làm việc khách quan, vô tư và thu hút được nhân tài. 3.2.9. Nâng cao trình độ công nghệ thanh tra ngân hàng Thanh tra ngân hàng thực hiện quy chế giám sát từ xa, căn cứ và các báo cáo cân đối tài khỏan kế toán, các chỉ tiêu báo cáo thống kê ngoài cân đối và các loại báo cáo khác do tổ chức tín dụng gửi đến theo chế độ báo cáo thống kê đối với các tổ chức tín dụng, Thanh tra ngân hàng đã xử lý số liệu, tổng hợp và phân tích tình hình hoạt động đối với từng TCTD và toàn hệ thống TCTD theo các nội dung cụ thể. Phần mềm xử lý số liệu cho hoạt động giám sát từ xa viết trên môi trường FOXPRO nên có nhiều hạn chế; chạy trên máy PC đơn lẻ nên khó khăn trong việc chia sẻ dữ liệu; dữ liệu đầu vào chưa đầy đủ; xử lý dữ liệu không đồng bộ, tính tự động hóa thấp, kết xuất đầu ra cứng nhắc không thuận tiện cho người sử dụng vì công nghệ áp dụng đã lạc hậu, thiếu độ linh hoạt, việc chuyển đổi dữ liệu sang các chế độ ứng dụng như Ecxel, Winword không thực hiện được, không có khả năng kết nối với các ứng dụng khác (ví dụ với các ứng dụng của Trung tâm thông tin tín dụng CIC) Tính linh hoạt của phần mềm chương trình giám sát từ xa đang sử dụng thấp nên không thể đáp ứng được các yêu cầu hiện tại và tương lai. Quá trình cải cách hành chính ngành ngân hàng và đổi mới hoạt động của thanh tra ngân hàng yêu cầu áp dụng một hệ thống mở, có độ linh hoạt cao để có thể bổ sung, sửa đổi chương trình bất cứ khi nào mà không phải lập trình thêm. Các cuộc thanh tra tại chỗ được tiến hành hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên công nghệ thủ công là giấy bút. Tuy đã có sự hỗ trợ của máy tính nhưng vẫn không thể đáp ứng yêu cầu mở rộng mạng lưới chi nhánh và ứng dụng công nghệ hiện đại trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM. Do đó, công nghệ quản lý của NHNN cũng phải được tăng cường để đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng và yêu cầu hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng trong thời gian tới. 3.2.10. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý Việc ứng dụng hệ thống thông tin quản lý giúp cho tổ chức: quản lý dữ liệu một cách khoa học; hỗ trợ nghiệp vụ và quản lý của tổ chức; hỗ trợ chiến lược của tổ chức. Hiện nay, ở nước ta việc quản lý thông tin vẫn còn nhiều hạn chế, công nghệ quản lý còn lạc hậu, thủ công. Điều này không những làm giảm đáng kể hiệu quả hoạt động và quản lý của bản thân đơn vị, tổ chức mà còn làm giảm hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý lĩnh vực đó. Do đó, không chỉ NHNN mà các NHTM cũng cần phải xây dựng cho mình một hệ thống thông tin quản lý, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển. Từ đó, hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngân hàng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn. Hệ thống thông tin quản lý là tập hợp người, thủ tục và các nguồn lực để thu thập, truyền và phát thông tin trong một tổ chức. Hệ thống thông tin có thể là một hệ thống không chính thức nếu nó dựa vào truyền miệng, hoặc là một hệ thống thông tin chính thức nhưng thủ công nếu dựa vào các công cụ như giấy, bút. Hệ thống thông tin hiện đại là hệ thống tự động hoá dựa vào máy tính, và các công nghệ thông tin khác. Hệ thống thông tin nằm ở trung tâm của hệ thống tổ chức đó và là phần tử kích hoạt các quyết định (mệnh lệnh, chỉ thị, thông báo, chế độ tác nghiệp…) Do vai trò của hệ thống thông tin trong lĩnh vực quản lý nên một hệ thống thông tin có thể được hiểu theo hai cách: Khía cạnh thông tin và phương tiện truyền thông tin: “Tập hợp các thông tin luân chuyển trong đơn vị và tập hợp các phương tiện, các thủ tục tìm kiếm, nắm giữ, ghi nhớ và sử lý thông tin”. Khía cạnh mục đích chính đặt ra đối với đơn vị: “ Truyền đạt thông tin cho những người có liên quan dưới dạng thích hợp và đúng đắn để đề ra quyết định hoặc cho phép thi hành một công việc”. Một hệ thống thông tin quản lý gồm 4 thành phần: Các phân hệ (các hệ thống con): hay còn gọi là lĩnh vực quản lý nhóm các hoạt động có cùng một mục tiêu trong nội bộ một đơn vị, như sản xuất, kinh doanh, hành chính, kế toán, nghiên cứu… Người ta có thể phân biệt một phân hệ theo 4 mức: Mức giao dịch là các hoạt động thường nhật; mức tác nghiệp: là một số hoạt động thường nhật có thể đưa đến các quyết định ban đầu; mức chiến thuật ứng với các hoạt động đôn đốc, kiểm tra; mức chiến lược là đôn đốc kiểm tra hoạt động để duy trì sự phát triển lâu dài. Đối với một ngân hàng thì phân hệ có thể là: quản lý nguồn vốn, quản lý tài sản, quản lý nhân sự - tiền lương, quản lý tài chính kế toán, quản lý văn thư hành chính,… Mô hình quản lý: bao gồm tập hợp các thủ tục, quy trình và phương pháp đặc thù cho mỗi phân hệ. Mô hình quản lý và dữ liệu luân chuyển trong phân hệ phục vụ các quy tắc quản lý. Dữ liệu: là cơ sở của thông tin. Nói đến thông tin là nói đến dữ liệu. Dữ liệu nhận giá trị trong một miền xác định. Khái niệm dữ liệu hẹp hơn khái niệm thông tin. Thông tin luôn mang ý và gồm nhiều giá trị dữ liệu. Các dữ liệu có thể biểu diễn dưới nhiêu dạng khác nhau như chữ viết, lời nói…, có thể hiện trên giấy hoặc trên màn hình máy vi tính, dễ hoặc khó sử dụng tuỳ theo tính chất hay hoàn cảnh thu nhận. Có ba loại dữ liệu tương ứng với ba tình huống hay gặp khi thu nhận dữ liệu là dữ liệu chắc chắn, dữ liệu có tính chất ngẫu nhiên hay chưa chắc chắn (doanh thu, thu nhập dự kiến…), dữ liệu chưa biết (rủi ro, yếu tố con người…). Quy tắc xử lý, hay công thức tính toán cho phép biến đổi hoặc xử lý dữ liệu phục vụ cho mục tiêu đã xác định. 3.3. Kiến nghị Một số giải pháp trên đây khó mà thực hiện được nếu không có sự quan tâm và hỗ trợ đắc lực của các cấp quản lý, đặc biệt là Chính phủ, các Bộ ngành, NHNN, Thanh tra Chính phủ và Thống đốc NHNN. Để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp đã nêu, xin có một số kiến nghị với các cấp quản lý có liên quan: 3.3.1. Đối với Chính phủ Trước hết,Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến hoạt động thanh tra ngân hàng. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về pháp luật thanh tra ngân hàng. Chính phủ cần quan tâm hơn nữa tới việc hoàn thiện và đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng. Đảm bảo cho hoạt động thanh tra ngân hàng được thực hiện một cách thống nhất. Bên cạnh đó, Chính phủ cần khẩn trương sửa đổi; ban hành các Luật liên quan trực tiếp hoặc phục vụ cho hoạt động của NHTM như Luật NHNN, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kế toán…, nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các NHTM cũng như tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động thanh tra, giám sát. 3.3.2. Đối với Thanh tra Chính phủ Thanh tra Chính phủ cần nhanh chóng xây dựng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thanh tra để trình Chính phủ thông qua. Giúp đỡ thanh tra NHNN trong việc triển khai hoạt động thanh tra, phối hợp chức năng giữa thanh tra ngân hàng và thanh tra trong các lĩnh vực khác được thuận lợi, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh tra ngân hàng. 3.3.3. Đối với các bộ ngành Các bộ ngành, trong phạm vi chức năng thẩm quyền cần có những quy đinh, hướng dẫn cụ thể để giúp các NHTM bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, đặc biệt là các quy định về phát mại tài sản thu hồi nợ, các văn bản khác có liên quan… Bộ tài chính cần sớm ban hành bổ sung các chuẩn mực kế toán phù họp với chuẩn mức kế toán quốc tế có tính đến đặc thù của Việt Nam, đặc biệt là các chuẩn mực kế toán quốc tế số 32 – công bố thông tin thuyết minh; chuẩn mực số 39 – khái niệm và cách tính các công cụ tài chính. Đảm bảo nguyên tắc hạch toán kế toán phản ảnh tốt thực trạng tài chính của doanh nghiệp và NHTM. 3.3.4. Đối với Ngân hàng nhà nước Thanh tra ngân hàng là một bộ máy thuộc NHNN, chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thanh tra, giám sát các NHTM. Do đó, NHNN cần sớm ban hành các quy định cụ thể liên quan đến hoạt động thanh tra ngân hàng, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc chuyển đổi phương pháp và nội dung thanh tra: Xây dựng và thực hiện việc thanh tra ngân hàng theo các quy trình nhất định. Chuyển dần từ phương pháp thanh tra tuân thủ sang phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro là chủ yếu. Vận dụng các chuẩn mực quốc tế trong việc thanh tra, giám sát và xếp hạng các tổ chức tín dụng. Quy định về các loại rủi ro, việc trích lập dự phòng rủi ro, quản trị rủi ro của các NHTM. 3.3.5. Đối với Thống đốc NHNN Thống đốc NHNN cần nghiên cứu và áp dụng thí điểm các thanh tra theo ngành dọc, độc lập, khép kín từ trung ương tới địa phương. Từ đó, đánh giá hiệu quả hoạt động và có những kiến nghị sửa đổi hoạt động và tổ chức của thanh tra ngân hàng cho phù hợp tiến trình hộp nhập. Thống đốc cũng cần quan tâm đến việc thực hiện chế dộ đãi ngộ đối với cán bộ và việc bổ sung biên chế cho thanh tra ngân hàng, đến việc đào tạo đạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra và năng lực hoạt động của hệ thống thanh tra ngân hàng. KẾT LUẬN Hoạt động cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá của các NHTM cổ phần hiện nay là một dịch vụ ngân hàng mới, tiềm ẩn nhiều rủi ro do sự biến động liên tục với biên độ giao động lớn của thị giá chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn đầu phát triển, nên chưa thật sự ổn định, vững chắc. NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội với chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính trên địa bàn đã, đang và sẽ có những giám sát chặt chẽ hơn đối với hoạt động cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần. Trong phạm vi nguyên cứu, bài viết đã góp phần làm rõ lý luận và thực trạng về hoạt động thanh tra ngân hàng đối với hoạt động cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần. Đồng thời cũng thấy được mức độ rủi ro cao của hoạt động cho vay đầu từ kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động thanh tra của NHNN Chi nhánh Hà Nội, bao gồm: Tăng cường công tác thanh tra tại chỗ và phối hợp giữa hoạt động giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ; Hoàn thiện cơ chế, quy chế liên quan đến hoạt động thanh tra ngân hàng; Tăng cường tính chủ động cho thanh tra ngân hàng; Ban hành quy trình giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ; Đôn đốc thực hiện nghiêm chỉnh các kết luận sau thanh tra; Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán; Hoàn thiện hệ thống kế toán và xây dựng các chuẩn mực kế toán; Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng; Nâng cao trình độ công nghệ thanh tra ngân hàng; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý. Với thời gian nghiên cứu, kinh nghiệm và kiến thức thực tế còn hạn chế, tôi mong muốn bài viết góp phần đưa ra được những giải pháp có tính khả thi và nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của các thầy giáo, cô giáo và các cô chú, anh chị cán bộ tại NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội để tiếp tục hoàn thiện kiến thức trong lĩnh vực này. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực tập Tạ Lan Hương DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghiệp vụ ngân hàng trung ương. TS Hoàng Xuân Quế, NXB Thống kê. 2. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. TS Nguyễn Minh Kiều ĐH kinh tế Thành phố HCM chủ biên. 3. Quản trị ngân hàng thương mại. PGS – TS Nguyễn Thị Mùi ĐH kinh tế Thành phố HCM. 4. Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hà Nội các năm 2005, 2006, 2007. 5. Báo cáo hoạt động của Chi nhánh NHNN Thành phố Hà Nội các năm 2005, 2006, 2007. 6. Tạp chí ngân hàng và Thời báo ngân hàng năm 2006, 2007. 7. Luật NHNN Việt Nam 1997, sửa đổi năm 2003. 8. Luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi năm 2003. 9. Luật thanh tra 2005. 10. Quyết định 1675/2004/QĐ-NHNN ngày 23/12/2004 về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng. 11. Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN ngày 01/02/2008 về việc cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán. 12. Website của NHNN Việt Nam http:// www.sbv.gov.com.vn DANH MỤC VIẾT TẮT NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại NH : Ngân hàng SGD : Sở Giao dịch DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Diễn biến tổng giá trị tài sản của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội 38 Bảng 2.2 Tình hình tăng trưởng về tổng tài sản của 08 NHTM cổ phần trên địa bàn Hà Nội 38 Bảng 2.3 Tình hình thực hiện tăng vốn điều lệ của 08 NHTM cổ phần trên địa bàn Hà Nội 39 Bảng 2.4 Diễn biến vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội 40 Bảng 2.5 Diễn biến dư nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội 41 Bảng 2.6 Kết quả thanh tra của NHNN Chi nhánh Hà Nội 44 Bảng 2.7 Kết quả giám sát từ xa của NHNN Chi nhánh Hà Nội 44 Bảng 2.8 Kết qủa xử lý sau thanh tra, giám sát của NHNN Chi nhánh Hà Nội 46 Bảng 2.9 Tình hình tiếp công dân và giải quyết đơn thư của NHNN Chi nhánh Hà Nội 47 Bảng 2.10 Tổng dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán của 08 NHTM cổ phần trên địa bàn Hà Nội năm 2007 48 Bảng 2.11 Tổng dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán của 08 NHTM cổ phần những tháng đầu năm 2008 48 Sơ đồ bộ máy tổ chức của NHNN Chi nhánh Thành Phố Hà Nội 42 Biểu đồ 2.12 Chỉ số chứng khoán Việt Nam – VNINDEX 51 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33190.doc
Tài liệu liên quan