LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng thương mại cổ phần là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ,nhiệm vụ thường xuyên và chủ yếu là huy động vốn,cho vay và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Đối với hoạt động ngân hàng vốn là yếu tố quyết định mọi hoạt động kinh doanh. Thực tế tại các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay vốn tự có chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ còn lại là vốn huy động,vốn đi vay và vốn khác.Trong dó vốn huy động luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất và ổn định nhất. Do vậy có thể khẳng định vốn huy động hay công tác huy động vốn có vai trò to lớn quyết định đến khả năng hoạt động và phát triển của ngân hàng.
Tại Việt Nam việc huy động vốn (khai thác lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong công chúng hộ gia đình,của các tổ chức kinh tế xã hội hay các tổ chức tín dụng khác) của ngân hàng thương mại còn nhiều bất hợp lý. Điều này dẫn tới chi phí vốn cao,quy mô không ổn định,việc tài trợ cho các danh mục tài sản không còn phù hợp với quy mô,kết cấu từ đó làm hạn chế khả năng sinh lời,buộc ngân hàng phải đối mặt với các rủi ro Do đó,việc tăng cường huy động vốn với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu cầu ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng.
Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã và đang khẳng định vị trí và vai trò của các ngân hàng thương mại,với những nghiệp vụ không ngừng được cải thiện và mở rộng cho phù hợp,nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư. Việc làm này của các ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu, đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị,hiện đại hoá công nghệ,mở rộng quy mô sản xuất,góp phần thực hiện công nghiệp hoá,hiện đaị hoá đất nước,cũng như góp phần tích cực thực hiện đường nối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Để có thể thực hiện được tất cả các nhiệm vụ trên,ngân hàng cần phải có nguồn vốn. Vốn hoạt động trở thành nguồn vốn chủ yếu cung cấp nguồn vốn cho toàn bộ nền kinh tế. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà mở cửa,hội nhập là điều kiện tất yếu của bất kì quốc gia nào muốn phát triển. Sự hội nhập sẽ làm phân bổ nguồn vốn trong xã hội một cách hợp lý. Với sụ xuất hiện của các tổ chức tài chính nước ngoài,các tổ chức tài chính mới trong nước,nguồn vốn chảy vào các ngân hàng thương mại sẽ theo dó mà giảm dần. Chính vì thế,muốn tồn tại và đứng vững trong môi trường mới,các ngân hàng luôn luôn cần có nguồn vốn dồi dào. Khi đó huy động vốn trở thành một biện pháp hữu hiệu cho các ngân hàng thương mại thực hiện các chiến lược của mình.
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội là một ngân hàng non trẻ. Qua hơn mười năm hoạt động với tất cả những gì Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội đã trải qua và đạt được,ngân hàng có quyền tự hào và tin tưởng vào sự phát triển của mình trong tương lai. Trong định hướng phát triển,tăng cường huy động vốn vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đó cũng là một hoạt động vô cùng cấp thiết góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong diều kiện hội nhập quốc tế, để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu hoạt đôngj kinh doanh cho Ngân hàng.
Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội” làm chuyên đề thực tập của mình.
Kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận về hoạt động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của NHTM CP Quân Đội giai đoạn 2005-2007
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHTM CP Quân Đội.
Trong quá trình thực hiện đề tài, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong khoa,các anh chị cán bộ Ngân hàng Quân Đội. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hải Nam,cùng các anh chị cán bộ phòng vốn và phòng tín dụng đã giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
72 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động
7.046,6
100
11.511
100
63,4
23.010
100
99,9
Qua bảng trên ta thấy, về cơ cấu nguồn vốn huy động thì tiền gửi là nguồn huy động chủ yếu của ngân hàng, chiếm tỷ trọng rất lớn trên 90% trong tổng nguồn vốn huy động như: năm 2005 là 94,2%, năm 2006 là 98,1%, năm 2007 là 95,1%. Sau mỗi năm nguồn tiền gửi càng ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng nguồn tiền gửi năm 2006 so với năm 2005 là 70,1%, năm 2007 so với năm 2006 là 93,8%. Từ đó cho thấy quy mô vốn của ngân hàng tăng rất nhanh đáp ứng được nhu cầu tín dụng của ngân hàng và giúp cho ngân hàng hoạt động ngày càng rộng khắp.
Lượng vốn huy động trong dân cư tăng trưởng tốt đạt 8.126 tỷ đồng tăng 91,2% so với đầu năm. Đây là một kết quả tăng trưởng rất khá, thể hiện uy tín và hình ảnh tốt của Ngân hàng Quân Đội đối với khách hàng . Đặc biệt lượng tiền gửi không kì hạn của cá nhân tăng trưởng cao, đạt 158,31 tỷ đồng, tăng 165,8% so với đầu năm 2006. Trong năm, Ngân hàng đã triển khai thành công nhiều chương trình Tiết kiệm dự thưởng, góp phần mang lại cho Ngân hàng lượng tiền gửi lớn, đồng thời quảng bá hình ảnh, thương hiệu của Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng
Đối với ngân hàng hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng hàng đầu mang lại thu nhập chính về cho ngân hàng,qua kết quả của hoạt động tín dụng cho thấy một ngân hàng có hoạt động tốt hay không. Vì vậy ngân hàng rất chú trọng tới các sản phẩm để tung ra thị trường như, đối với khách hàng cá nhân có:Cho vay tiêu dùng; cho vay mua,sửa chữa xây dựng mới nhà cửa; cho vay mua ô tô trả góp; cho vay du học; cho vay kinh doanh phát triển kinh tế gia đình; cho vay mua cổ phần; cho vay cầm cố sổ tiết kiệm và giấy tờ có giá; cho vay cán bộ công nhân viên. Đối với cho vay doanh nghiệp có các sản phẩm: Cho vay ngắn hạn; cho vay trung, dài hạn; cho vay cổ phần hoá; cho vay chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu. Ngân hàng đầu tư mở rộng cả về quy mô và chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao. Được thể hiện qua chỉ tiêu dưới đây:
Bảng 3: Dư nợ cho vay
(đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
- Tổng dư nợ cho vay
4.470
6.166,62
8.047
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ
-
37,95%
30,5%
Số liệu qua các năm từ năm 2005- 2007 cho thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ luôn ở mức cao. Năm 2006 mức dư nợ cho vay đạt 6.166,62 tỷ đồng tăng 37,95% so với năm 2005. Năm 2007 mức dư nợ cho vay đạt 8.047 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng giảm xuống 30,5%. Đạt được mức tăng trưởng cao như thế vì Ngân hàng không ngừng mở rộng, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ như: Cho vay trả góp tiêu dùng; cho vay mua ô tô trả góp; cho vay trả góp mua, xây dựngvà sửa chưã nhà; cho vay du học ; cho vay mua cổ phần hoá…
Về cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng cũng có ự chuyển biến đáng kể, trước kia Ngân hang cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp Quân Đội làm kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty lớn. Trong những năm trở lại đây dưới sự tác động của cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, vì vậy khách hàng của Ngân hàng được đa dạng hoá. Cũng trong thời gian này Ngân hàng chú trọng vào cho vay các doanh nghiệp vưa và nhỏ, nhưng doanh nghiệp ngoài quôc doanh , các doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài nên tỷ trọng cho vay của các doanh nghiệp này càng tăng trong tổng cho vay của ngân hàng.
Bảng 4: Cho vay và ứng trước cho khách hàng.
Đơn vị: tỷ đồng.
Khách hàng
2005
2006
2007
Số dư
TT(%)
Số dư
TT(%)
Số dư
TT(%)
DN Nhà nước
2.322,7
54
2.899
49,1
2.890,4
35,6
Cá nhân,cty TNHH,DN có vốn đầu tư nước ngoài.
1.977,7
46
3.006,9
50,9
5.220,3
64,4
Tổng cho vay
4.300,4
100
5.905,9
100
8.110,7
100
Ta thấy doanh số cho vay của doanh nghiệp ngoài quốc doanh mỗi năm lại được mở rộng: năm 2005 chiếm 46%, năm 2006 chiếm 50,9%, năm 2007 chiếm 64,4%. Dư nợ cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng truởng mạnh mẽ vào năm 2007.
Hoạt động phi tín dụng
Hoạt động bảo lãnh:
Hoạt động bảo lãnh vẫn tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp nhiều lợi nhuận cao cho ngân hàng.`Doanh số bảo lãnh của năm 2005 là 1.159,9 tỷ đồng, năm 2006 là 1.297,9 tỷ đồng, năm 2007 là 1.392,6 tỷ đồng. Số dư bảo lãnh đến 31/12/2006 đạt 1.365,25 tỷ đồng, năm 2007 là 1.576,1 tỷ đồng. Doanh số bảo lãnh tăng nhưng chất lượng của hoạt động bảo lãnh vẫn được đảm bảo. Kể từ khi cung cấp dịch vụ, ngân hàng vẫn chưa phải thực hiện một nghĩa vụ bảo lãnh nào. Tổng thu bảo lãnh tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, bằng 162% kế hoạch năm.
-Hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ
Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại tệ đã đảm bảo việc quản lý thanh khoản, quản lý dự trữ bắt buộc toàn hệ thống một cách chặt chẽ, quản lý vốn tập trung thông qua cơ chế mua bán vốn nội bộ, mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng, quản lý chặt chẽ tài khoản Nostro. Ngoài ra, ngân hàng đã tích cực tham gia trên thị trường liên Ngân hàng, tham gia thị trường mở, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện các nghiệp vụ Hoán đổi, đối ứng sản phẩm với các Ngân hàng HSBC, CITYBANK, STANDARD CHARTERED… Lợi nhuận trước thuế 2007 là 610 tỷ đồng bằng 145% kế hoạch đề ra.
Hoạt động thanh toán quốc tế
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 791,407 triệu USD,tăng 14,5% so với cùng kỳ. Tuy các L/C không có giá trị lớn như năm trước nhưng số lượng giao dịch lại tăng lên tương đối khá và lượng khách hàng giao dịch cũng tăng. Tổng phí thanh toán quốc tế đạt 114% kế hoạch năm, tăng 13,87% so với cùng kỳ.
Trong năm, ngân hàng đã xây dựng và hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với yêu cầu phát triển của ngân hàng, hỗ trợ về nghiệp vụ cho các chi nhánh chưa có bộ phận thanh toán quốc tế, tổ chức Hội thảo “Ngân hàng TMCP Quân đội với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Hải Phòng”, quản lý tốt hệ thống SWIFT của toàn hệ thống, đảm bảo an toàn trong thanh toán với các đối tác nước ngoài.
Hoạt động quan hệ quốc tế cũng có nhiều kết quả đáng ghi nhận. Hiện nay, Ngân hàng đã thiết lập được quan hệ đại lý với 500 Ngân hàng trên toàn thế giới, được một số Ngân hàng lớn cấp cho các hạn mức tín dụng xác nhân L/C với giá trị lớn, giải quyết được các khó khăn khi thông báo L/C vào thị trường Trung Quốc, rút ngăn thời gian thông báo L/C từ một tuần xuống còn một ngày. Thanh toán hàng đổi hàng với các ngân hàng tại Liên Bang Nga được quản lý chặt chẽ, an toàn và chính xác.
Hoạt động kinh doanh thẻ:
Trong năm 2007 toàn hệ thống phát hành tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ, nâng số thẻ lưu hành trên toàn hệ thống 36562 thẻ, tăng 4,54 lần so với đầu năm triển khai lắp đặt 52 POS và lắp mới 43 ATM. Đây là một kết quả tăng trưởng khá, thể hiện quyết tâm cao của toàn hệ thống ngân hàng.
Năm 2007 Ngân hàng đã tổ chức lại phòng thẻ thành trung tâm thẻ, phối hợp với tư vấn xây dựng đề án chiến lược phát triển thẻ, lựa chọn đối tác cung cấp phần mềm thẻ. Đồng thời triể khai thanh toán cước Viettel qua ATM và đề án thanh toán cước trả trước tự động cho Viettel.
Phát triển sản phẩm dịch vụ
Trong năm Ngân hàng đã phối hợp với VNET hoàn thiện và đưa ra chính thức sản phẩm SMS Banking, sản phẩm Internet Banking, sản phẩm Phone Banking. Tiếp tục hoàn thiện một số sản phẩm cho vay du học, cho vay chứng khoán, phát triẻn các sản phẩm liên kết với Viettel, sản phẩm chiết khấu, cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp, cho vay theo món, hạn mức và cho vay dựa trên tài sản …
Hoạt động đàu tư.
Tính đến 31/12/2006 tổng số vốn góp, liên doanh, cổ phần của ngân hàng là 174,8 tỷ tăng 3,4 lần so với đầu năm. Các hoạt động đầu tư góp vốn được thực hiện đa dạng theo nhiều phương thức như mua cổ phần doanh nghiệp Nhà nước bán đấu giá lần đầu khi cổ phần hoá, mua cổ phần cổ đông chiến lược, đầu tư góp vốn Quỹ đàu tư chứng khoán, giao dịch trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà nội và các hoạt dộng uỷ thác, giao dịch thông qua TSC. Doanh mục đầu tư của ngân hàng có chất lượng tốt.
Nhìn chung, hoạt dộng góp vốn đàu tư cổ phần của ngân hàng vẫn đảm bảo tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước và của Ngân hang Quân đội về quản lý góp vốn đầu tư.
Công tác tài chính kế toán:
Về hoạt động kế toán
Mặc dù khối lượng khách hàng và chứng từ giao dịch tăng rất nhiều so với năm 2006 nhưng hoạt động kế toán vẫn đáp ứng được yêu cầu giao dịch và yêu cầu về thông tin báo cáo. Công tác theo dõi các khoản thu, chi của toàn hệ thống, theo dõi các khoản đàu tư, cấp vốn, cổ đông, cổ phần cổ phiếu, thực hiện tổng quyết toán năm 2007 hỗ trợ quyết toán thuế của Tổng cục thuế được thực hiện tốt.
Hoạt động kiểm soát nội bộ:
Hoạt động đã thực hiện các chương trình kiểm tra nội bộ các đơn vị. Kiểm tra việc thực hiện quy chế, quy trình các hoạt động nghiệp vụ, kiểm tra việc chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước về đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, kịp thời phát hiện các sai sót và đưa ra các ý kiến tham mưu cho ban lãnh đạo. Trong năm, Ngân hàng cũng đã phối hợp KPMG kiểm toán báo cáo tài chính năm 2006 ngân hàng Quân đội theo tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn kế toán trong nước
Hoạt động kho quỹ vẫn đảm bảo an toàn:
Vẫn đảm bảo thu chi chính xác, đày đủ kịp thời cho khách hàng, từng bước triển khai mô hình giao dịch một cửa tại một số chi nhánh.
Về công tác quản lý tài chính:
Công tác quản lý tài chính với việc thực hiện kế toán chi phí, giao và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đối với các đơn vị kinh doanh nhằm hoàn thành tốt kế hoạch đặt ra cho cả hệ thống đã được thực hiện tốt hơn. Đối với việc quản lý chi tiêu, ngân hàng luôn chủ trương thực hành tiết kiệm, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về chi tiêu, hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế, ban hành quy chế tài chính trong toàn hệ thống.
Kết quả hoạt động kinh doanh
Năm 2007, nền kinh tế Viẹt Nam còn hứa hẹn những biến chuyển mạnh mẽ hơn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt có sự tham gia mạnh mẽ hơn của các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều sự cạnh tranh quyết liệt, nhưng Ngân hàng Quân đội vẫn tận dụng được những cơ hội mới, vượt qua được những thử thách , khắc phục được những hạn chế, đồng thời tận dụng được những thế mạnh của mình để thực hiện những giải pháp lớn, hoàn thành những mục tiêu đề ra cho năm 2007 để vươn lên một tầm cao mới cho phát triẻn trog tương lai, quyết tâm để trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam.
Bảng 5: Kết quả kinh doanh từ năm 2005- 2007
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2005
2006
+- 2005
2007
+- 2006
- Thu từ lãi
504,416
932,225
84,8%
1764,7
89,3%
- Chi trả lãi
242,392
502,773
107,4%
854,543
70%
Thu nhập từ lãi
262,024
429,452
63,9%
910,157
112%
- Thu ngoài lãi
37,968
82,805
118%
179,543
116,8%
- Chi ngoài lãi
151,377
259,368
71,3%
479,7
85%
Thu nhập ngoài lãi
(113,409)
(176,563)
-55,7%
(300,157)
-70%
Lợi nhuận trước thuế
148,615
252,889
70,1%
610
141,2%
Lợi nhuận sau thuế
109,045
211,421
93,9%
508,2
140%
ROE (%)
30,3
24,16
-
25,1
-
Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng không những cao mà còn liên tục tăng qua các năm. Lợi nhuận trước thuế trong năm 2006 là 252,889 tỷ đồng tăng 70% so với năm 2005, năm 2007 đạt 610 tỷ đồng tăng 141,2 % so với năm 2006 bằng 145% kế hoạch năm. Trong đó thu nhập từ lãi tăng 89,3% so với năm 2006, nhưng chi ngoài lãi cũng tăng lên.
II. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Quân Đội.
Thực trạng huy động vốn.
1.1 Quy mô và cơ cấu huy động.
Trong hoạt động của ngân hàng vốn huy động đóng vai trò quan trọng, hoạt động huy động vốn cơ bản tạo nguồn vốn cho ngân hàng. Nó duy trì sự phát triển của ngân hàng, quyết định quy mô của một ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng Quân đội cũng ra sức tạo ra một nguòn vốn dồi dạo, tìm kiếm nguồn huy động để ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Bảng 6: Quy mô và cơ cấu vốn huy động.
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số dư
TT(%)
Số dư
TT(%)
+-2005
Số dư
TT(%)
+-2006
- Nguồn tiền gửi
6.637,8
94,2
11.292,9
98,1
70,1
21.890,2
95,1
93,8
- Nguồn đi vay
408,8
5,8
218,1
1,9
-46,6
1.119,8
4,9
413,4
Vốn huy động
7.046,6
94,8
11.511
98
63,3
23.010
96,5
99,9
Tổng nguốn vốn
7.427,7
100
11.729.4
100
58
23.850
100
103
Qua bảng số liệu trên ta thấy,những năm trở lại đây nguồn vốn của ngân hàng liên tục tăng trưởng. Năm 2007, vốn huy đông của Ngân hàng lên tới 23.010 tỷ đồng chiếm 96,5% trong tổng nguòn vốn của ngân hàng, tăng 99,9 % so với năm 2006. Qua đó ta thấy được quy mô vốn huy động của ngân hàng ngày càng lớn, đáp ứng được nhu cầu vế vốn ngày càng cấp thiết.
Vốn huy động của Ngân hàng cũng đạt tốc độ tăng truởng mạnh qua các năm: từ 94,8% năm 2005 tới 98% năm 2006 và lên tới 99,9% năm 2007. Trong đó nguồn tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn: chiếm 94,2% năm 2005, chiếm 98,1% năm 2006 và chiếm 95,1% năm 2007. Tuy tốc đọ tăng lượng tiền gửi năm 2007 có giảm nhưng vấn chiếm doanh số lớn trong cơ cấu nguồn vốn huy động.
Bảng 7: Tình hình sử dụng vốn huyđộng.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
- Tổng vốn huy động
7.046,6
11.511
23.010
- Tổng dư nợ cho vay
4.470
6.166,62
8.047
- Hiệu quả sử dụng vốn (%)
63,4%
53,6%
35%
Từ bảng trên có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ năm 2005 tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng huy đông vốn. Nhưng năm 2006 tốc độ tăng trưởng dư nợ giảm dần còn 53,6% , con số nàycòn giảm xuống 35% của năm 2007. Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng đạt ở mức cao, tốc độ tăng trưởng tuy giảm nhưng doanh số tổng dư nợ/tổng vốn huy động vẫn đạt doanh số lớn.
Bảng 8: Cơ cấu nguồn huy động.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số dư
TT(%)
Số dư
TT(%)
Số dư
TT(%)
Tiền gửi không kì hạn
2.906,47
42,2
4.175,98
36,3
7.250,2
31,5
Tiền gửi có kì hạn
1.267,74
18
2.216,5
19,2
4.104,1
17,8
Tièn gửi tiết kiệm
2.327,8
34
4.900.42
42,6
10.535,9
45,8
Tiền vay
408,8
5,8
218,1
1,9
1.119,8
4,9
Vốn huy động
7.046,6
100
11.511
100
23.010
100
Trong cơ cấu nguồn tiền gửi thì tiền gửi theo kì hạn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 50,2% năm 2005, chiếm 55,5% năm 2006 và chiếm 49,3% năm 2007 trong nguồn vốn huy động. Tuy tốc độ tăng nguồn tiền gửi theo kỳ hạn ngày càng giảm nhưng doanh số tiền gửi vẫn tăng mạnh. Tiền gửi tiết kiệm trong dân cư cũng là một nguồn huy động vốn lớn, mang lại nguồn vốn dòi dào cho Ngân hàng. Nhờ có những chính sách lãi suất ưu tiên và những chương trình khuyếnmãi lớn của Ngân hàng trong các nămdo vậy mà càng thu hút được lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư ngày càng tăng. Năm200, tiền gửi tiết kiệm chiếm 34%, năm 2006 chiếm 42,6%, năm 2007 đạt 10.535,9 tỷđạt 45,8 % trong tổng nguồn vốn huy động. Đây là kết quả rất đáng tự hào của Ngân hàng, từ đó cũng cho thấy uy tín cũng khả năng mở rợnquy mô của Ngan hàng ngày càng trên thị trường.
Bảng 9: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền.
Đơn vị : tỷ đồng
Loại tiền
2005
2006
2007
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
VND
4.935,2
70,1
8.850,5
76,9
19.235
83,6
Ngoại tệ(chủ yếu là USD)
2.111,4
29,9
2.660,5
23,1
3.775
16,4
Vốn huy động
7.046.6
100
11.511
100
23.010
100
Về phân loại theo loại tiền của nguồn vốn huy động, tiền VND chiếm tỷ lệ lớn tong các năm và có tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2005 VND chiếm 70,1%, năm 2006 chiếm 76,9% và năm 2007 đạt 19.235 tỷ đồng chiếm 83,6% trong tổng vốn huy động. Nguồn huy động vốn bằng ngoại tệ có xu hướng giảm qua các năm, từ 29,9% năm 2005 xuống 23,1% năm 2006 còn 16,4 % năm 2007. Vì nguồn huy đông vốn ngoại tệ chủ yếu là từ USD, mà trong năm 2007 luôn có sự mất ổn định về lãi suất USD do sự điều chỉnh lãi suất từ Cục dự trữ Liên bang Mỹ ( FED ) và đồng USD dần dần bị mất giá, cho nên dẫn đến nguồn huy đọng vốn bằng ngoại tệ sẽ bị giảm sút.
Bảng 10: Cơ cấu nguồn đi vay.
Chỉ tiêu
2006
2007
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
- Vay NHNN
30
13,8
137,8
12,3
- Vay các TCTD
188,1
86,2
982
87,7
Tỏng vay
218,1
100
1.119,8
100
Qua bángố liệu ta thấy, nguồn vốn đi vay chủ yếu từ các tổ chức tín dụng, là các tổchức tín dụng trong nước. Nguốn vay từ các tổ chức tín dụng qua các năm luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vay. Thể hiện, năm 2006 vay của các tổ chức tín dụng chiếm 86,2%, năm 2007 chiếm 87,7% so với tổng nguồn vốn vay của Ngân hàng. Không những nguồn vốn vay này chiếm tỷ trọng lớn mà tốc độ tăngcũng khá mạnh, vốn vay năm 2007 tăng gấp 5,2 lần so với năm 2006. Phần vốn vay đó phân nào đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của Ngâ hàng. Nguồn vay từ Ngân hàng Nhà nước chỉ để đáp ứng nhu cầu tiền mặt trước mắt.giải quyết tạm thời những khó khăn truớc mắt.
Hiện nay, các hình thức huy động bằng cách đi vay trên thị trường vốn thông qua phát hành trái phiếu, kì phiếu cũng được chú trọng và phát triển, góp phần quảng bá thương hiệu cho Ngân hàng Quân đội cũng như tạo được uy tín của khách hàng.
1.2. Chi phí huy động vốn.
Để huy động được nguồn vốn hoạt động cho ngân hàng, ngân hàng phải trả mức chi phí của việc huy động đó, đó là lãi suất huy động như: lãi suất tiêng gưỉư giao dịch, lãi suất tiết kiệm, lãi suất tài trợ, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay… Chi phí huy động càng cao cũng cho thấy lãi suất huy động vốn càng lớn, lãi suất huy động lại quyết định rất lớn tới quy mô của nguồn vốn huy động. Việc đưa ra lãi suất phù hợp tạo điều kiện cho việc huy động và thu hút khách hàng tới Ngân hàng.
Bảng 11: Lãi suất thực tế tại thời điểm cuối năm.
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
TG không kì hạn bằng VND
2,4%
2,4%
2,4%
TG không kì hạn bằng ngoại tệ
0,1%
0,1%
0.125%
TG có kì hạn bằng VND
6% - 8%
7,8% - 8,2%
7,08% - 9,72%
TG có kì hạn bằng ngoại tệ
2% - 2,5%
3,78% - 5,3%
3,4% - 5,2%
Ta nhấy được lãi suất qua các năm hầu như đều tăng. Chỉ có lãi suât không kì hạn ở mức ổn định 2,4% đối với tiền gửi không kì hạn bằng VND. Riêng năm 2007 do có sự biến động lớn về điếu chỉnh lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) do sự mất giá của USD nên ta thấy lãi suất của ngoại tệ có xu hướng giảm. Vì vậy khách hàng cũng tập trung vào gửi băng VND nhiều hơn. Với Ngân hàng Quân Đội những năm gần đây lượng khách hàng luôn được mở rộng cả khách hàng cá nhân cũng như khách hàng doanh nghiệp, trong đó khách hàng doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Bảng 12: Chi phí huy động vốn.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
- Chi trả lãi
242,4
32,2
502,8
66
854,5
64
- Chi ngoài lãi
511,4
67,8
259,3
34
479,7
36
Tổng chi
753,8
100
762,1
100
1.334,2
100
Qua bảng ta thấy trông tổng chi phí của Ngân hàng thì chi trả lãi chiếm tỷ trọng lớn, điều đó cũng cho thấy quy mô huy động vốn ngày càng tăng, chi trả lãi năm 2005 chiếm tỷ lệ nhỏ hơn 32,2%, nhưng tăng mạnh vào năm 2006 với 66%, tuy năm 2007 có giảm tỷ trọng hơn một chút chiếm 64% trong tổng số nhưng doanh số chi vẫn đạt 854,5 tỷ đồng tăng 70% so với năm 2006. Đồng nghĩa với việc giảm chi phí trả lãi là tăng tỷ trọng chi phí ngoài lãi một cách tương ứng, cho thấy chi phí huy động của Ngân hàng tăng nhưng không phải tăng do chi phí trả lãi. Có sự giảm sút như vậy do lãi suất huy động năm 2007 có nhiều biến động, có những ngày Ngân hàng có đến ba lần thay đổi lãi suất trong một ngày. Điều đó cũng làm ảnh hưởng tới việc khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
Đánh giá thực trạng huy động vốn.
2.1 Những kết quả đạt được.
* Thành tựu
Trong năm 2007, nền kinh tế Việt Nam cũng chứng kiến những chuyển bién mạnh mẽ về chất lượng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam với những tăng trưởng mạnh về lợi nhuận, về quy mô vốn cũng như sự gia tăng cạnh tranh. Ngân hàng Quân Đội luôn vươn tới với mục tiêu phát triển trở thành một tập đoàn ngân hàng đa năng, tháng 11/2006, Ngân hàng đã thành lập Công ty quản lý quỹ đầu tư Hà Nội hoạt động bên cạnh các công ty trực thuộc khác cũng đang hoạt động rất hiệu quả như: công ty chưng khoán Thăng Long, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng đax phát triển mạnh mẽ với 65 điểm giao dịch trên cả nước. Cùng với việc mở rộng mạng lưới , Ngân hàng tập trung phát triển mạnh mẽ dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng như các dịch vụ ngân hàng điện tử như: Mobile Banking, Internet Banking, thẻ ATM,mạng lưới máy chấp nhận thẻ POS…Tư đó tăng cường cho công tác huy đông vốn một cách hiệu quả và quy mô ngày càng mở rộng.
Về quy mô huy động vốn từ bên ngoài: Với mục tiêu và chiến lược kinh doanh nhằm không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh, NHTM CP Quân đội đặt ra phương châm tập trung khai thác nguồn nhàn rỗi của các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả, chú trọng hơn tới những đối tượng trong ngành để tài trợ cho những nhu cầu ngày càng tăng của danh mục tài sản.
Trong những năm trở lại đây, vốn huy động từ bên ngoài của NHTM CP Quân đội tăng dần qua các năm tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay và đầu tư của mình. Hơn nữa, với tỷ trọng nguồn tiền gửi lớn hơn rất nhiều nguồn tiền vay đã giúp ngân hàng giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Trong nguồn tiền gửi, tiền gửi không kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng cao một mặt tạo điều kiện tăng số dư và giảm chi phí đầu vào (tiền gửi không kỳ hạn có mức lãi suất thấp nhất, hầu như không đáng kể), mặt khác giúp ngân hàng mở rộng các dịch vụ liên quan đến huy động vốn như phát hành thẻ .v.v.. Tiền gửi của tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng cao và ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình.
Về cơ cấu: Cũng giống các NHTM CP khác, nguồn huy động chủ yếu của là nguồn ngắn hạn, tuy vậy nguồn này của NHTM CP Quân đội lại không biến động nhiều.
Nguồn có kỳ hạn trung và dài có xu hướng tăng tuy cung chưa đủ đáp ứng cầu nhưng đã thể hiện sự chuyển biến tích cực, cho thấy sự chú trọng của ngân hàng về vốn trung và dài hạn.
* Nguyên nhân kết quả đạt được:
NHTM CP Quân đội không ngừng lớn mạnh cả về quy mô và cơ cấu, phát triển một mạng lưới huy động vốn rộng khắp ở tất cả các chi nhánh tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm. Thương hiệu của ngân hàng ngày càng có chỗ đứng tin cậy, vững chắc trong lòng khách hàng. Trong công tác điều hành và quản lý vĩ mô, NHTM CP Quân đội đã sớm đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp huy động vốn hợp lý, luôn bổ xung và hoàn chỉnh các quy chế theo hướng phát huy quyền chủ động sáng tạo. Trong thời gian qua, ngân hàng đã thực hiện một chính sách huy động mềm dẻo trên cơ sở phân tích, dự đoán xu hướng biến động, dùng công cụ lãi suất thả nổi có điều tiết để thu hút khách hàng.
Là một ngân hàng quân đội do vậy ngân hàng rất được sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ của Bộ Quốc phòng cũng như các ban ngành hữu quan. Chính vì thế đem lại lợi thế cho NHTM CP Quân đội so với các NHTM CP khác trong việc tìm kiếm đầu ra. Ngân hàng luồn có nhiều dự án lớn của Chính phủ cũng như Bộ Quốc phòng... tạo điều kiện giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc tìm kiếm đầu vào.
Về đội ngũ cán bộ, ngân hàng đã tạo dựng một môi trường làm việc hấp dẫn và thuận lợi nhằm thu hút nhân viên giỏi, luôn khuyến khích người lao động học tập, nâng cao trình độ.
Hạn chế
Mặt tồn tại
Tuy Ngân hàng hoạt động hiệu quả lợi nhuận qua các năm tăng trưởng mạnh, nhưng Ngân hàng cũng có những mặt hạn chế cần phải khắc phục:
Mặc dù quy mô vốn huy động đều có sự tăng trưởng qua các năm, nhưng tốc độ tăng trưởng còn chậm, chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng của hoạt dộng tín dụng
Nhu cầu tín dụng dài hạn của các tổ chức, dân cư ngày càng tăng do nhu cầu đầu tư theo chiều sâu của nền kinh tế. Nguồn tiền gửi tiết kiệm có xu hướng ngày càng tăng, nhưng Ngân hàng chủ yếu tập trung vào các sản phẩm phục vụ cho tiền gửi theo kỳ hạn. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng truyền thống, nhằm phân tán rủi ro.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng mới chỉ tập trung chủ yếu huy động bằng đồng nội tệ. Trong khi tâm lý của dân chúng vẫn ưa chuộng cách giữ tiền bằng vàng hoặc đôla thì nguồn vốn huy động qua kênh này của ngân hàng cũng chưa đạt được hiệu quả tối đa so với nguồn lực.
Chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng cao nhưng lại có xu hướng giảm thay vào đó là chi phi lãi lại tăng cao, dẫn đến tổng chi phí huy động của ngân hàng ở mức cao nhưng lại không thu hút được khách hàng bằng sức hút của lãi suất.
Nguyên nhân
Lãi suất huy động của ngân hàng mặc dù cao hơn so với các ngân hàng thương mại quốc doanh, nhưng chỉ bằng hoặc cao hơn so với một số ngân hàng thương mại cổ phần khác. Nếu so sánh với các ngân hàng thương mại cổ phần lớn trên thị trường như SacomBank hoặc ACB thì lãi suất của ngân hàng không phải ở mức cạnh tranh được
Các hình thức huy động vốn, sảng phẩm huy động của ngân hàng chưa được phong phú so với các ngân hàng khác, còn chậm trong việc triển khai các sản phẩm, huy động mới, sản phẩm có tính chât độc quyền của ngân hàng, và cũng chưa có nhiều sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng trên thị trường.
Các dịch vụ chưa được đa dạng hoá, đổi mới theo chiều sâu. một số mảng dịch vụ còn thiếu tính liên kết, gây khó khăn cho khách hàng. Phí dịch vụ của ngân hàng còn cao. Công tác Marketing còn chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức. Việc quảng bá hình ảnh, sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng chưa hoàn thiện mặc dù ngân hàng đã thành lập được phòng Marketing, xây dựng được trang web của ngân hàng nhưng việc duy trì các hoạt động này chưa được chú trọng, Một số mảng còn bỏ trống, hoạt động khập khiểng. Hình ảnh của ngân hàng trên thị trường chưa tương xứng với tiềm năng và thương hiệu của ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng chưa được đầu tư theo chiều sâu, sự đầu tư mới chỉ diễn ra ở một số chi nhánh lớn, việc đầu tư chưa đồng bộ trong toàn hệ thống ngân hàng, gây khó khăn cho cán bộ nhân viên ngân hàng làm ảnh hưởng đến quá trình giao dịch của khách hàng.
Mang lưới hoạt dộng đã được mở rộng nhưng vẫn còn mỏng, số lượng các chi nhánh và phòng giao dịch của ngân hàng quân đội vẫn không phải là lớn và hầu hết tập trung ở Hà nội và khu vực phía Nam. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Trong thời gian qua tỷ lệ lạm phát ở nước ta ở mức khá cao, chỉ số giá cả trung bình cả năm tăng mạnh. Giá vàng tăng mạnh, đồng Đôla mất giá. Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế mà thông qua đó tác động tiêu cực tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Bên cạnh đó, người dân có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn là tiết kiệm đặc biệt là du lịch, mua sắm … phần nào đã làm giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Ngoài ra thị trường bất động sản sôi động đã khiến cho nhà đầu tư hứng thú hơn với khoản lợi nhuận thu được, lớn hơn gấp nhiều lần so với hình thức tiết kiệm trưyền thống. Do đó, hoạt động huy động vốn của ngân hàng cũng lâm vào tình trạng khó khăn hơn.
Xu thế hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế của khu vực và trên thế giới, đã tạo nhiều cơ hội cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Song bên cạnh đó các ngân hàng cũng phải đối phó với không ít các thách thức, sự gia nhập của các tổ chức tài chính- ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, sự ra đời và nhập cuộc của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, quá trình mở rộng của các ngân hàng trong nước, một phần tạo sự phát triển của hệ thống tài chính ở Việt Nam, nhưng mặt khác tạo ra sự cạnh tranh sâu sắc giữa các ngân hàng, nguồn vốn trong xã hội bị chia sẻ, dòng vốn sẽ chảy mạnh vào những ngân hàng có uy tín, có sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú,có công nghệ hiện đại… và tất yếu sẽ xảy ra tình trạng có ngân hàng phát triển đi lên, và tất nhiên cũng có những ngân hàng bị buộc phải phá sản.
Ngoài ra, còn phải kể đén sự thiếu hiểu biết của khách hàng về ngân hàng, sự không tin tưởng của dân cư đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Thói quen chi tiêu bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong đại đa số dâncư, dẫn đến những hạn chế trong việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng…
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI GIAI ĐOẠN 2005-2007.
I, Định hướng phát triển của NHTMCP Quân Đội trong thời gian tới.
Đối với hoạt động của một ngân hàng thì nguồn vốn huy động giữ vai trò quan trọng đặc biệt, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, ảnh hưởng tới quy mô, kết cấu của ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động vốn luôn được chú trọng.Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như khách hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng nhiều bằng khen cho những thành tích xuất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải thưởng thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard Chatered Bank, UBOC; được người tiêu dùng bình chọn là Thương hiệu mạnh liên tục trong hai năm liền 2005 và 2006; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành hàng: Ngân hàng – tài chính năm 2006; Qủa cầu vàng năm 2007, “Thương hiệu mạnh Việt Nam 2007”…và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác.
Các sản phẩm dịch vụ của MB không ngừng được đa dạng hoá theo hướng hoàn thiện và phát huy dịch vụ truyền thống kết hợp với phát triển các dịch vụ hiện đại như, hệ thống thanh toán qua thẻ, Mobile Banking, Internet Banking. Dịch vụ của MB liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng không những hiệu quả cao về tài chính mà còn cả sự yên tâm tuyệt đối.
Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, MB đặc biệt chú trọng mở rộng mạng lưới kênh phân phối tại các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước. Năm 2006 MB đang có 40 điểm giao dịch trên khắp đất nước, đặt quan hệ đại lý với gần 600 ngân hàng trên thế giới để hợp tác cung cấp các dịch vụ ngân hàng toàn cầu. Đến cuối năm 2007, mạng lưới chi nhánh của MB đã tăng lên con số 65.
Trong năm tới, NHTMCP Quân Đội vẫn hướng tới bảo đảm hoạt động cho vay và thanh toán cho các cá nhân và tổ chức song song với việc nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động tốt khâu huy động vốn.Năm 2007 MB đã có những thành công rất đáng ghi nhận với tất cả các chỉ tiêu đều vượt kế hoạch và tăng trưởng ổn định. Lợi nhuận trước thuế sau khi trích dự phòng đạt 610 tỷ đồng bằng 145% kế hoạch đề ra.
Năm 2008 MB đặt mục tiêu sẽ hoàn tất công cuộc cải tổ trong chiến lược phát triển 2004-2008, đồng thời xác định mục tiêu tăng trưởng toàn diện đạt tối thiểu 1.4 lần đến 2 lần so với năm 2007, lợi nhuận từ 700 tỉ trở lên và tổng tải sản đạt trên 40.000 tỷ đồng. MB cũng đồng thời đẩy nhanh tiến trình cải tổ mô hình hoạt động của Ngân hàng và các công ty thành viên theo hướng hình thành tập đoàn MB Group trong thời gian tới.
Hội đồng quản trị cũng đưa ra phương án tăng vốn điều lệ năm 2008, theo đó tổng số vốn điều lệ tăng thêm trong năm 2008 là 1.400 tỷ đồng chia làm 2 đợt 1/2008 tăng tối thiểu 328 tỷ đồng bằng hình thức chia cổ tức bằng cổ phiếu. Đợt 2/2008 tăng tiếp phần còn lại bằng việc bán cho đối tác chiến lược, đối tác tiềm năng, đối tượng khác…Tỷ lệ chia cổ tức bằng cổ phiếu tối thiểu là 27%/năm (hoặc 2,25%/tháng).
Dư nợ tăng 130% so với năm 2007. Số dư nợ tăng này sẽ đầu tư cho một số doanh naghiệp ngoài quốc doanh, công ty cổ phần và cho vay tiêu dùng.
II, Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHTMCP Quân Đội.
Trong giai đoạn vừa qua NHTMCP Quân Đội đã có những kết quả rất đáng tự hào trong công tác huy động vốn, những kết quả đó là những nỗ lực không ngừng của Ngân hàng nói chung. Trong thời buổi thị trường cạnh tranh, Ngân hàng cũng có những hạn chế xảy ra. Trong xu thế hội nhập ngày nay, số lượng các ngân hàng ngày càng gia tăng, quy mô các ngân hàng ngày càng mở rộng, do vậy việc đưa ra những giải pháp cho ngân hàng ngày càng phát triển cũng là khâu quan trọng trong hoạt động ngân hàng.
Mở rộng các hình thức huy động vốn.
Một là, mở rộng các hình thức tiền gửi trong dân bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi sử dụng thẻ, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm bậc thang. Đa dạng hoá kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm: không chỉ dừng lại việc chỉ có tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn kiểu 3 tháng, 6 tháng, 1 năm.v.v. NHTMCP Quân đội cần có giải pháp tự động chuyển hoá tiền gửi không kỳ hạn sang có kỳ hạn cho dân. Ví dụ, những người đã gửi tiết kiệm không kỳ hạn ở NHTMCP Quân đội từ 2 tháng trở lên có thể chuyển cho họ được hưởng quyền lợi tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Linh hoạt về thời hạn cũng là một sự hấp dẫn tiền gửi.
Hai là, “Chứng khoán hoá” các khoản tiền gửi trung, dài hạn để người sở hữu có thể linh hoạt chuyển đổi khi cần thiết. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn. Với hình thức này, ngân hàng có thể phát hành thẻ tiết kiệm vô danh với thời hạn gửi tiền. Ngân hàng không phát hành đồng loạt mà thực hiện giống như các khoản tiền gửi tiết kiệm bình thường khác. Công cụ này tạo nhiều thuận lợi cho cả khách hàng và ngân hàng.
Ba là, sử dụng công cụ tiền gửi có mục đích. Đây là hình thức tiết kiệm trung, dài hạn. Khi khách hàng mang tiền gửi vào ngân hàng dưới hình thức này thì giữa ngân hàng và khách hàng đều biết rõ mục đích của việc gửi tiền. Đối tượng chủ yếu của hình thức này là người có thu nhập thấp nhưng ổn định có dự định chi tiêu trong tương lai, có nhu cầu mua sắm tài sản có giá trị lớn nhưng mức tiết kiệm của họ trong thời gian ngắn không thể đáp ứng được. Do biết được mục đích gửi tiền của khách hàng, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về thời gian và phương thức gửi tiền cụ thể như :
- Tiết kiệm tuổi già và tiết kiệm tích luỹ (hay tiết kiệm nhân thọ), đây là hình thức tương tự như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Hình thức tiết kiệm tuổi già cùng với bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo cho người già có mức sống ổn định và cuộc sống có ý nghĩa hơn. Khi cung cấp các loại hình tiết kiệm này, ngân hàng sẽ khai thác được ưu thế về mặt tài chính về một loại sản phẩm bảo hiểm truyền thống. Ngân hàng thu nhận và quản lý được nguồn tiền ổn định, liên tục và lâu dài. Vì vậy, có quyền quyết định sử dụng để đầu tư trung, dài hạn.
- Tiết kiệm nhà ở: Những người dân có nhu cầu làm nhà, mua nhà ở nhưng tài chính có hạn, gửi dần tiền tích luỹ được vào ngân hàng đến lúc nào đó có thể rút ra để mua nhà, xây nhà. Ngân hàng cần có chính sách cho vay ưu đãi để làm nhà, mua nhà đối với những người gửi thường xuyên, đều đặn và có qui mô đến một độ lớn nào đó thì có thể cho vay thêm để mua nhà, xây nhà bằng cách kết hợp lợi ích của người dân với lợi ích của ngân hàng, sẽ mở ra triển vọng tốt đẹp cho hình thức này.
- Tiền tiết kiệm mua sắm phương tiện đắt tiền (ô tô, xe máy.. vv) cũng như người muốn làm nhà, mua nhà, người mua sắm ô tô, xe máy nhưng chưa đủ tiền. Số tiền có được và thu nhập hàng tháng có thể gửi vào ngân hàng đẻ đến lúc nào đó có thể rút ra mua sắm. Ngân hàng cũng cần có cơ chế cho vay ưu đãi thêm đối với những người gửi thường xuyên và có số dư đáng kể.
Ngoài việc xem xét đưa ra các hình thức huy động mới vào kinh doanh, huy động vốn qua việc phát hành các giấy tờ có giá (như kỳ phiếu, trái phiếu) cũng cần được quan tâm.
Hiện nay NHTMCP Quân đội vẫn bỏ trống hình thức huy động vốn qua hình thức này. Chi phí huy động qua hình thức này tuy lớn hơn chi phí huy động qua nguồn tiền gửi nhưng lại nhỏ hơn chi phí của nguồn tiền vay, nó giúp ngân hàng chủ động cơ cấu lại nguồn vốn, tăng cường nguồn vốn trung dài hạn, nguồn có kỳ hạn dài.
Tăng cường công tác quảng cáo tiếp thị
Việc mở rộng hoạt động của ngân hàng thông qua việc khuyếch trương hoạt động, quảng cáo, tuyên truyền là việc làm quan trọng. Quảng cáo của ngân hàng là hoạt động mang tính chất chiến lược, là đầu tư dài hạn để duy trì lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Quảng cáo được sử dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính- ngân hàng, điều mà trước đây được áp dụng thành công trong các doanh nghiệp sản xuất lưu thông. Trong những năm vừa qua NHTMCP Quân Đội đã có công tác quảng cáo tiếp thị khá thành công nhưng phải chú ý một số điểm:
Nội dung quảng cáo, tiếp thị cần rõ ràng, thậm chí phải chỉ rõ được những kết quả cụ thể của sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong thông điệp quảng cáo, tránh những chi tiết không cần thiết. Về kỹ thuật, khi quảng cáo trên các ấn phẩm hoặc truyền hình, ngân hàng phải quan tâm đến việc gợi mở sử dụng sản phẩm dịch vụ và hình ảnh của ngân hàng.
Quảng cáo, tiếp thị cần quan tâm đến việc quảng cáo cho chính nhân viên của ngân hàng. Đây cũng chính là nội dung của Marketing đối nội, đặc biệt là các nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng.
Cũng không nên thực hiện quảng cáo tràn lan mà nên tập trung vào quảng cáo một số dịch vụ nhất định như: laic suất tiền gửi, hình thức gửi, thẻ thanh toán, tiện ích của việc mở tài khoản cá nhân …
Phát triển các dịch vụ đa dạng, cùng với nâng cao chất lượng dịch vu.
Các hoạt động của ngân hàng đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Do đó để tăng cường huy động vốn ngân hàng Quân đội cũng cần phát triển các dịch vụ liên quan. Hiện nay tiền gửi thanh toán là một mảng thị trường rất hấp dẫn và nếu phát triển tốt bằng một số cách như mở tài khoản cá nhân miễn phí để chủ dộng tiếp cận với đối tượng là cán bộ công nhân viên, phát triển các dịch vụ thanh toán thẻ trong nước và quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền và rút tiền của khách hàng.
- Dịch vụ tư vấn: Khách hàng khi đến ngân hàng không phải ai cũng hiểu biết rõ về các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng có thể cung ứng, các nhân viên giao dịch có thể giúp đỡ, hướng dẫn khách hàng lựa chọn cho mình hình thức phù hợp nhất để khách hàng gửi tiền hay đầu tư.
- Dịch vụ bảo quản : Là việc ngân hàng xác nhận trách nhiệm giữ hộ cho khách hàng tài sản theo yêu cầu của khách hàng và đảm bảo giữ an toàn bí mật.
Ngân hàng cho thuê két sắt để khách hàng có thể bảo quản tài sản an toàn tại ngân hàng. Thực hiện dịch vụ này một mặt ngân hàng thu được dịch vụ phí, mặt khác khai thác được những thồng tin để vận động khách hàng, đặt khách hàng trước sự lựa chọn giữa tài sản như vàng, bạc, ngoại tệ hay gửi tiền vào để lấy lãi
- Dần dần áp dụng hạch toán quản lý tài chính, thực hiện chi trả thu nhập cho các doanh nghiệp lớn. Hiện nay NHTM CP Quân đội chưa áp dụng hình thức chi trả lương cho cán bộ công nhân viên các doanh nghiệp nhưng thời gian tới ngân hàng sẽ phải thực hiện dịch vụ này đối với một số doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp quốc phòng. Từ đó tăng số lượng tài khoản và số lượng tiền gửi khá lớn từ doanh nghiệp.
- Làm dịch vụ thu tiền bảo hiểm và thanh toán bảo hiểm cho một số đối tượng bảo hiểm tài sản, bảo hiểm nhân thọ…
Cơ hội để phát triển các dịch vụ mới của các ngân hàng Việt Nam nói chung và NHTM CP Quân đội nói riêng là rất lớn nhờ việc mở rộng phạm vi hoạt động cho các NHTM, nhờ sự ra đời và hoàn thiện dần dần thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái.v.v. do đó NHTM CP Quân đội cần nhanh chóng nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ứng dụng để cung cấp cho thị trường những sản phẩm dịch vụ đa dạng.
- Dịch vụ chuyển tiền nhanh
Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến loại hình dịch vụ này vì nó vừa giúp cho ngân hàng tăng thu nhập, lại vừa tăng uy tín cho ngân hàng, thu hút được lượng khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng.
- Dịch vụ tại nhà.
Xét về mặt dân trí thì nước ta có trình độ dân trí chưa cao. Hơn nữa những người già yếu, neo đơn, những người khuyết tật sẽ gặp khó khăn, trở ngại khi đến ngân hàng gửi tiền, do vậy việc ngân hàng cử cán bộ công nhân viên của mình xuống tận nơi để hướng dẫn thực hiện các thủ tục nhận gửi tiền khi nhận được điện thoại hoặc thư yêu cầu. Dịch vụ tại nhà này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, chính vì vậy tất cả khách hàng đều có thể được hưởng dịch vụ này của ngân hàng. Đây là biện pháp hiệu quả, thu hút được một bộ phận khách hàng lâu nay còn chưa được chú ý tới.
- Dịch vụ trả lương qua ngân hàng
Hiện nay tại ngân hàng Quân đội có nhiều cơ quan và doanh nghiệp mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Ngân hàng nên vận động các đơn vị này trả lương qua tài khoản ngân hàng. Từ số dư tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp. Nếu nhân viên nào có tài khoản tại ngân hàng thì ngân hàng sẽ tự động nhập tiền lương vào tài khoản của họ. Còn đối với những nhân viên không có tài khoản hoặc co tài khoản tại ngân hàng khác thì ngân hàng vẫn có thể gửi tiền về tận nhà hay gửi vào tài khoản của họ theo yêu cầu.
Nâng cao chất lượng phục vụ.
- Thái độ nhân viên nhất là các nhân viên giao dịch thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, cần phải có thái độ lịch sự, nhiệt tình , thân thiện.
- Tuyển lựa và đào tạo đội ngũ nhân viên không những tinh thông về nghiệp vụ mà còn hiểu biết về nhiều mặt, nhanh nhẹn, tháo vát, giải đáp được những thắc mắc, làm thoả mãn khách hàng, kể cả những khách hàng khó tính nhất. Nâng cao trình độ nhân viên.
- Lưu ý đến mảng chăm lo khách hàng đến giao dịch từ nước uống lịch sự tại quầy giao dịch đến việc trông nom gìn giữ phương tiện đi lại của khách hàng.
- Phát động phong trào thi đua để cán bộ thực hiện tốt mục tiêu kinh doanh mà ngân hàng Quân đội giao cho.
- Thực hiện tốt trang phục khi làm việc, thực hiện văn minh lịch sự, sạch đẹp nơi giao dịch.
- Thường xuyên tập huấn nghiệp vụ cũ và mới. Tổ chức đôn đốc cán bộ theo dõi tập huấn WorldBank để toàn bộ cán bộ biết sử dụng thành thạo chương trình vi tính mới.
5. Thường xuyên đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Hỗ trợ chi nhánh về công tác đào tạo, mở thêm nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ và bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ của các chi nhánh. Thực hiện cơ chế thông thoáng hơn về đào tạo tại từng đơn vị.
Tổ chức nhiều hơn các hình thức trao đổi thảo luận giữa Hội sở chính và các chi nhánh, giữa các chi nhánh trên cùng một địa bàn.
Thực hiện giao kế hoạch về định biên lao động linh hoạt, mềm dẻo để chi nhánh có thể đảm bảo được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hoạt động của chi nhánh trong từng thời kỳ. Đặc biệt có thể cho chi nhánh chủ động quyết định việc định biên của đơn vị để phù hợp với nhu cầu nhân lực trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế khoán thí điểm.
- Đào tạo nâng cao: nhằm bổ túc kiến thức thị trường, các lĩnh vực khoa học- kinh tế xã hội, phương pháp nghiên cứu, phân tích tài chính các dự án, hoạt động kinh doanh của một số ngành kinh tế liên quan từ đó nâng tầm nhận thức để có thể hoạch định các chiến lược kinh doanh cho từng thời kỳ, đồng thời có khả năng tư vấn cho khách hàng.
- Đào tạo chuyên sâu về công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng: để mỗi cán bộ theo những nghiệp vụ khách nhau giỏi về chuyên môn, kỹ thuật thao tác nghiệp vụ. Những cán bộ được đào tạo về qui trình nghiệp vụ cung cấp dịch vụ và mối quan hệ của nó với các nghiệp vụ khác.
- Trang bị kiến thức, lý luận Marketing cho các thành viên, tạo điều kiện cho họ trở thành những mắt xích trong thu thập thông tin, xử lý thông tin kịp thời để góp phần đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao kỹ năng giao tiếp, tuyên truyền các sản phẩm ngân hàng. ứng dụng kiến thức này vào thị trường là việc hết sức quan trọng đặc biệt là thị trường đối với cá nhân riêng lẻ vì động cơ của khách hàng này rất đa dạng. Vì vậy, chúng ta phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khách hàng, đặc điểm ra quyết định mua sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, từ đó có phương pháp tiếp cận, thuyết phục có hiệu quả.
Cùng với các hoạt động trên, chi nhánh nên chú trọng các hoạt động đoàn thể nhằm tạo không khí thoải mái sau giờ làm việc cho nhân viên. Ngân hàng có thể tổ chức các cuộc thi cán bộ nhân viên giỏi của chi nhánh cho toàn bộ nhân viên, “cuộc thi phụ nữ đảm việc nhà giỏi việc nước”, đối với cán bộ nam chi nhánh tổ chức các cuộc thi thể thao… nhằm khuyến khích động viên họ.
Để thực hiện hoàn thành các giải pháp trên, ban lãnh đạo ngân hàng luôn phải sát cánh cùng tập thể công nhân viên giải quyết mọi kho khăn trong công việc, thể hiện tinh thần tập thể đoàn kết.
Đổi mới công nghệ huy động vốn
Ngân hàng cần thực hiện thủ tục đơn giản, rút ngắn thời gian giao dịch. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mọi người rất quý trọng thời gian. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngoài mục đích là sự thuận lợi an toàn và hiệu quả, họ còn quan tâm đến sự đơn giản nhanh chóng và tiết kiệm thời gian. Nếu khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, phải làm nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian khách hàng sẽ cảm thấy phiền hà thậm chí có cảm giác khó chịu. Điều này ảnh hưởng không tốt đến khả năng thu hút vốn của ngân hàng. Vì vậy, hội sở cần cố gắng cải tiến các thủ tục làm sao cho các giao dịch được tiến hành một cách đơn giản, nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo sự chính xác và an toàn trong nghiệp vụ. Để làm tốt điều này hội sở cần xây dựng khung quy định về thời gian tối đa cho mỗi giao dịch và triển khai đến toàn thể cán bộ công nhân viên trong hội sở, tuy nhiên vẫn phải trên cơ sở đảm bảo tính pháp lý, an toàn tài sản cho khách hàng.
III. Kiến nghị
1. Kiến nghị đối vói Nhà nước
Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và môi trường hoạt động cho các NH và các DN. Trong quan hệ tín dụng NH với các tổ chức kinh tế phải chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Bên cạnh Luật NH, Nhà nước cần có những văn bản luật rõ ràng như; Luật đầu tư trong nước, Luật bảo hiểm, Luật thế chấp... việc ban hành các luật nói trên đảm bảo cho quan hệ tín dụng được dựa trên một nền tảng vững chắc, đảm bảo an toàn cho hoạt động của NH.
Nhà nước cần xây dựng các chính sách kinh tế ổn định tránh gây ra những đột biến trong nền kinh tế gây ra những rủi ro kinh doanh của DN và của NH.
Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với các DN, mạnh dạn giải thể các DN làm ăn không có hiệu quả, không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đặc biệt Nhà nước tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phếp thành lập các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, tránh thành lập tràn lan gây hậu quả xấu cho đối tác cũng như cho xã hội. Nhà nước cũng cần buộc các DN phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, có chế độ kiểm toán hàng năm đối với các DN, để tránh tình trạng cung cấp sai số liệu đối với phía đối tác.
Nhà nước cũng cần sớm hình thành thị trường chứng khoán. Nếu thị trường chứng khoán ra đời, việc tạo vốn qua thị trường này của các DN sẽ tăng cường, tạo sự phát triển chung cho nền kinh tế. Các NH có thể tham gia vào thị trường chứng khoán bằng cách phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn trung- dài hạn phục vụ nhu cầu cho vay đối với các DN trong nền kinh tế. Ngoài ra NH còn có thể tạo ra nhiều nghiệp vụ đa dạng phong phú hơn như đại lý phát hành, tư vấn về các vấn đề tài chính NH, lưu trữ và quản lý chứng khoán, thanh toán chứng khoán.
Nhà nước nên sớm thành lập cơ quan bảo hiểm tín dụng. Bảo hiểm tín dụng là một trong những biện pháp hết sức quan trọng nhằm dàn trải rủi ro. Quỹ bảo hiểm tín dụng có tác dụng hạn chế thiệt hại về vốn khi NH cho vay gặp rủi ro và còn hạn chế rủi ro phá sản NH. ở Việt Nam, thị trường, bảo hiểm tín dụng còn bỏ ngỏ, chưa có công ty bảo hiểm tín dụng chính thức ra đời trong khi đó tình hình rủi ro tín dụng tại các NHTM vẫn thường xuyên xảy ra, với mức độ thiệt hại khá lớn. Vì vậy, một yêu cầu cấp bách đặt ra là Nhà nước cần sớm nghiên cứu và thành lập công ty bảo hiểm tín dụng.
2. Kiến nghị đối với Chính phủ.
Chính phủ cần quản lý tốt các nhân tố vĩ mô trong đó quan trọng nhất là kiềm chế lạm phát ở mức thấp để mọi tài sản dù thể hiện bất kỳ hình thức nào cũng đều được sử dụng vào mục tiêu kinh tế, đồng thời bảo đảm khả năng sinh lời hợp lý trong mọi hoạt động đầu tư.
Chính phủ cần sớm ban hành đủ luật và chỉnh sửa các luật đã công bố, tạo lập môi trường pháp lý quan trọng cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Đồng thời xây dựng đồng bộ các luật có liên quan, các văn bản hướng dẫn luật để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng. Từ đo các ngân hàng thương mại cổ phần có điều kiện đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn và phân phối vốn cho nền kinh tế. Mọi hoạt động tiến tệ tín dụng và kể cả các định chế hoạt động trong lĩnh vực tín dụng đòi hỏi phải hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật, làm cho mọi hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và Ngân hàng được kiẻm soát chặt chẽ. Chính phủ cần hoàn thiện luật Ngân hàng. Nhà nước cần ban hành luật tạo cơ sở cho việc thanh toán điẹn tử, từ đó tạo điều kiện thụân lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn.
Chính sách tiền tệ:
Chính phủ cần khuyến khích tiết kiệm, tránh chi tiêu lãng phí, tập trung vốn nhãn rỗi vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh,tạo nguồn vốn tích luỹ trong nước thông qua thực hiện cơ chế lãi suất dương có lợi cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Có biện pháp cụ thể kiên quyết ngăn chặn,xoá bỏ các tổ chức cá nhân kinh doanh tiền tệ, tín dụng trái phép dưới mọi hình thức, vì điều này lầmnhr hưởng tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng.
Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, đặc biệt là với hoạt động ngân hàng đối với đối tượng khách hàng thuọc mọi thành phần kinh tế thuộc các địa bàn trên toàn quốc. Môi trường kinh tế vĩ mô có thể tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể cản trở, hạn chế côngtác huy động vốn của ngân hàng. Viẹc người dân còn sử dụng một lượng tiền nhàn rỗi lớn để mua vàng, ngoại tệ, bất động sản cũng một phần là hậu quả của sự thiếu tin tưởng và khả năng ổn định kinh tế, ổn định kinh tế làđiều kiện hết sức quan trọng để thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm tăng cường huyđộng các nguồn vốn chocác ngân hàng thươngmại cổ phần.
Hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán cũng là vấn đề quan trọng. Với nhu cầu vốn cho nền kinh tế như hiện nay, thì các NHTM khó có thể đáp ứng theo nhu cầu của nền kinh tế đặt ra nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán được hoàn thiện và phát triển thực sự sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, thông qua phát hành chứng khoán, mặt khác đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra cá kênh làm cho mọi vốn nhàn rỗi trong xã hội chảy đến nơi có nhu cầu đầu tư và sử dụng có hiệu quả nhất và với giá rẻ nhất, nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất cũng như các hoạt động dịch vụ khác, ngoài ra tạo ra một kênh tiềm năng để NHTM thu hút vốn trung dài hạn, có tính thanh khoản cao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH26.docx