Chuyên đề Giải pháp tăng cường quản lý thuế Giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay

Quốc hội nên có một số sửa đổi và bổ sung đối với Luật thuế GTGT để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Cho đến nay Luật thuế GTGT đã áp dụng được 4 năm; tức là đã hết hạn miễn giảm thuế cho các đối tượng nộp thuế hoạt động kinh doanh ở một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Luật thuế GTGT do vậy. Trong năm 2003, thuế GTGT được bổ sung theo hướng: Bổ sung hàng hoá, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và một số đối tượng không chịu thuế vào đối tượng chịu thuế GTGT. Thực hiện 3 mức thuế suất 0%,5%,10% và bỏ mức thuế suất 20%. Bỏ khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ phần trăm đối với hàng hoá , dịch vụ có hoá đơn thông thường và bảng kê hang fhoá là nông, lâm, thuỷ sản mua của người bán không có hoá đơn. Bổ sung điều kiện hàng hoá được xuất khẩu được hoàn thuế GTGT phải thanh toán qua ngân hàng; Bổ sung các biện pháp quản lý hoá đơn, chứng từ chống thất thoát trong khấu trừ và hoàn thuế. Xoá bỏ việc miễn, giảm thuế GTGT cần phải sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện luệt thuế GTGT theo nội dung sau: - Về đối tượng chịu thuế: bổ sung các mặt hành chịu thuế TTĐB ở khâu sản xuất và nhập khẩu, một số sản phẩm, một số dịch vụ xuất khẩu, đảm bảo thực hiện khấu trừ và hoàn thuế đầu vào để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đồng thời giảm và hạn chế đối tượng không chịu thuế GTGT. -Về thuế suất : Theo chế độ hiện hành, thuế GTGT bao gồm 4 mức thuế suất là 0%, 5%,10%,20%. Trong đó mức thuế suất 0% được áp dụng cho các trường hợp xuất khẩu, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu thông qua ciệc cạnh tranh bằng giá, tăng thu ngoại tệ cho đất nước đồng thời cũng là hình thức thuế bảo đảm các nguyên tắc thuế quốc tế. Xung quanh vấn đề xây dựng số lượng mức thuế suất đang có nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều chuyên gia cho rằng, nên quy định một mức thuế suất thống nhất; bên cạnh đó thì lại có ý kiến trắi ngược là nên quy định nhiều mức thuế suất mới phù hợp với từng mặt hàng từng ngành nghề kinh doanh. Để lựa chọn được một giải pháp thích hợp trước hết chúng ta nên đi sâu phân tích từng mặt thuận lợi cũng như hạn chế của từng ý kiến. +, Trong trường hợp có nhiều mức thuế suất như hiện nay: nếu xét về hình thức và cơ sở lý luận chung thì thuế GTGT là loại thuế gián thu, do người tiêu dùng chịu; mặt khác phần lớn đân cư là những người có thu nhập thấp, thu nhập của họ là dùng để chi tiêu cho nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Vì vậy, áp dụng mức thuế suất thấp(TC:5%) đối với nhóm hàng hoá dịch vụ này và mức thuế suất cao (TS:20%) với một số hàng hoá dịch vụ khác (hàng hoá, dịch vụ không khuyến khích tiêu dùng)góp phần giảm gánh nặng về thuế cho nhóm đối tượng tiêu dùng có thu nhập thấp, đồng thời điều tiết một phần thu nhập của người có thu nhập cao- đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Tuy nhiên việc quy định nhiều mức thuế suất khác nhau cũng phát sinh một số nhược điểm sau: Thứ nhất , chính sách thuế GTGT nhiều mức thuế suất sẽ phức tạp gây khó hiểu cho các ĐTNT và các đối tượng trả thuế. Thứ hai, đối với trường hợp doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại hàng hoá với nhiều mức thuế suất khác nhau dễ dẫn đến việc lợi dụng chuyển doanh số của những hàng hoá chịu mức thuế suất cao sang doanh số của hàng hoá chịu mức thuế suất thấp. Mặt khá đó cũng là kẽ hở có thể lợi dụng sự chênh lệch về mức thuế suất gữa những hàng hoá dịch vụ có tính chất gần giống nhau để kê khai sai doanh số bán hàng. Thứ ba, việc quy định nhiều mức thuế suất sẽ làm cho chi phí quản lý hành chính và chi phí chấp hành luật cao. Đây chính là chi phí chi ra cho bộ máy quản lý thu thuế để theo dõi, quản lý thuế GTGT theo từng mức thuế suất và chi phí của bản thân những đối thượng nộp thuế trong việc kê khai tính thuế, quản lý sổ sách, hoá đơn chứng từ, tập hợp doanh số tính thuế theo từng nhóm thuế suất.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường quản lý thuế Giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịa điểm hoạt động. + Trong trường hợp doanh nghiệp phá sản, hoặc sát nhập hay chia tách thành doanh nghiệp hạch toán độc lập thì phải có văn bản huỷ bỏ mã số thuế hoặc cấp mã số mới. Mã số của từng doanh nghiệp được ghi vào sổ theo dõi và hồ sơ thuế được sử dụng và lưu trữ trên máy tính dưới sự kiển soát của cơ quan thuế Trung ương đó là Tổng cục thuế. Có như vậy mới có thể theo dõi được tình hình hoạt động của từng doanh nghiệp, có thể tìm tài liệu kê khai mâu thuẫn nhau. Thêm nữa là cơ quan thuế cấp trên có thể chỉ đạo kịp thời cơ quan thuế cấp dưới tra cứu, xác minh về tính trung thực của ĐTNT, nhằm phát hiện kịp thời các tình trạng chốn lậu thuế. Cũng cần phải bàn thêm rằng việc mã số hoá ĐTNT nó thay thế cho con người được, mà yếu tố con người bao giờ cũng đóng vai trò quyết định . thực tế cho thấy mặc dù được trang bị máy tín cũng không hơn gì. một trong những nguyên nhân chủ yếu là: cơ cấu bộ máy quản lý tếu kém, chưa được xây dựng phù hợp cho việc sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại, cán bộ lại không chịu khó trau rồi nghiệp vụ, chưa tinh thông trong viẹc sử dụng máy tính. Chính vì vậy, để thực hiện máy tính hoá trong công tác quản lý thuế cần phải thực hiện các công việc trước mắt đó là : song song với việc áp dụng công nghệ máy tính thì cần phải tổ chức bồi dưỡng thêm kỹ năng nghiệp vụ sỏ dụng máy tính, đồng thời phải có một phần mềm máy tính mối mạng nội bộ riêng trong ngành thuế. Khi đã có một cơ cấu bố trí hợp lý giữa cơ cấu quản lý với các đòi hỏi của nó thì việc mạng hoá ngành thuế mới thực sự phát huy được tác dụng. Hệ thống phần mềm quản lý thuế sẽ phải bao gồm các phần chủ yếu sau: quản lý đối tượng đăng ký nộp thuế; kế toán; kiểm soát sai phạm về thuế, phát hiện ra những trường hợp số liệu không hợp lý; quản lý việc hoàn thuế,... 3-Đẩy mạnh chống thất thu đối với một số ngành nghề và lĩnh vực còn đang thất thu nhiều. Những địa phương chưa triển khai cần tranh thủ báo cáo Uỷ ban Nhân dân địa phương để Uỷ ban nhân dân chỉ đạo các ngành phối hợp thực hiện. Công việc cụ thể như sau: - Đối với các doanh nghiệp lắp đặt và kinh doanh xe gắn máy. Để chống thất thu thuế GTGT, trước hết các cơ quan thuế phải triển khai công tác quản lý đồng bộ và đồng đều trên toàn quốc; tránh tình trạng nơi thực hiện trước nơi thực hiện sau dẫn đến đối tượng kinh doanh lợi dụng triệt để sơ hở này, mua xe máy ở địa phương này nhưng lấy hoá đơn của cơ sở gốc ở địa phương khác nhằm trốn tránh nộp thuế. Vấn đề nữa, cần kiểm tra giám sát chặt chẽ việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ theo từng kỳ nộp thuế để từ đó có thể điều chỉnh kịp thời những kê khai không chính xác của ĐTNT, đối với trường hợp ĐTNT kê khai gía bán thấp hơn giá thị trường ở thời điểm bán thì phải có biện pháp xử lý bằng cách ấn định theo mức giá thị trường ở thời điểm bán hàng. Trường hợp đối tượng tái phạm thì có thể xử lý hành chính. - Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ như nhà hàng, khách sạn,..Do tính chất hoạt động của đối tượng này là rất đặc biệt , công tác quản lý thuế gặp nhiều khó khăn . Để đảm bảo được nguồn thu từ đối tượng này trước hết cơ quan thuế trực tiếp quản lý cần phải phôí hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương nơi đối tượng kinh doanh để kiểm soát hoạt động của đối tượng đồng thời phải có sự kiểm tra chế độ kế toán hoá đơn chứng từ thường xuyên. Đối với các doanh nghiệp do chi cục quản lý thì nên giao chỉ tiêu cụ thể cho từng chi cục, trên tinh thần nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cơ quan thuế và từng cán bộ thuế. Mỗi đồng chí phụ trách cơ quan thuế, mỗi cán bộ thuế đều phải chịu trách nhiệm vể kết quả thu và kết quả triển khai các biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi phụ trách của mình. Gắn kết quả hoàn thành nhiệm vụ, kết quả chống thất thu với các hình thức khen thưởng. 4- Quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến và tư vấn thuế. Để đối tượng nộp thuế chấp nhận và thực hiện nghiêm túc các luật thuế, các pháp lệnh thuế nói chung và luật thuế GTGT nói riêng. Trước hết cần phải cho họ hiểu rõ và thông suốt chính sách thuế đồng thời hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với nhà nước thì công tác tuyên truyền giải thích và tư vấn thuế là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất; nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế được nhẹ nhàng hơn và đạt hiệu qủa cao hơn. Ngoài các phương tiện thông tin đại chúng như (sách, báo, đài trung ương, địa phương, vô tuyến truyền hình) ra, có thể phát hành các chuyên đề về thuế, phổ cập về quyền lợi và nghĩa vụ thuế của mọi công dân đối với nhà nước vào các trường phổ thông cơ sở để nó có thể ăn sâu vào tiềm thức mỗi người. Đồng thời các cục thuế cần phối hợp với Tổng cục thuế phát hành ấn phẩm vể thuế, đặc biệt những ấn phẩm giới thiệu về loại thuế mới như thuế GTGT bằng những tờ rơi, phát miễn phí cho các doanh nghiệp, để chính sách thuế đi vào đời sống một cách sâu sắc và thuận lợi. Hình thức này rất được nhiều nước trên thế giới áp dụng và đem lại hiệu quả cao trên cơ sở nâng cao hiểu biết về chính sách thuế của các doanh nghiệp, đồng thời họ không thể vịn vào lý do không nắm được luật pháp để không làm đầy đủ trách nhiệm cuả mình với nhà nước. Mặt khác, do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Để tăng cường công tác quản lý thuế, chế độ kế toán để họ tự giác chấp hành. Nghành thuế cần phải khuyến khích các tổ chức có tư cách pháp nhân cũng như chính cơ quan thuế mở các trung tâm dịch vụ tư vấn ở các dịa phương trong cả nước, phục vụ khách hàng là những ĐTNT. Trước hết cần dành cho các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn thuế miễn phí, đối với các công ty tư vấn thuế miễn phí này phải do nhà nước thành lập; bởi vì Nhà nước là người thu thuế nên phải có nghĩa vụ làm tư vấn miễn phí cho các ĐTNT, hơn nữa với sự chuyển đổi cơ chế quản lý thu đòi hỏi phải thay đổi về cách quản lý chỉ đạo từ phía cơ quan thuế cũng như đối tượng nộp thuế. Trước đây mỗi cán bộ thuế làm tại nhiệm sở, nhập thông tin về các tờ khai thuế, đối chiếu giữa các chỉ tiêu để xác định số thuế mà ĐTNT phải nộp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra được tiến hành theo quy trính thống nhất. Mặt khác cán bộ thuế không được trực tiếp tiếp xúc thường xuyên đối cới ĐTNT, nhưng cần biết những thông tin về tình hình kinh doanh, thu nộp thì cơ quan thuế tập trung xây dựng biểu mẫu yêu cầu các đối tượng nộp thuế cung cấp. Những biểu mẫu xây dựng phải đảm bảo yêu cầu thiết thực. Đối với ĐTNT do cơ chế tự chịu trách nhiệm về tờ khai thuế của doanh nghiệp mình, có quyền đòi hỏi cơ quan thúê cung cấp các dịch vụ thuế như giải đáp các vướng mắc về thuế, được tham gia vào các buổi phổ biến về luật thuế, cũng như những sửa đổi, bổ xung luật thuế. Vì vậy nhất thiết phải có các dịch thuế miễn phí để cung cấp những thông tin miễn phí cho đối tượng nộp thuế. Cơ quan thuế là cơ quan công quyền, không nên thành lập dịch vụ thuế thu phí sẽ dẫn đến chỉ quan tâm đến thu phí mà mất đi tính chất dịch vụ công. Để thực hiện vấn đề này, trước hết ngành thuế nên thực hiện thí điểm ở một số địa phương điển hình; với mục đích thăm dò, tìm hiểu nhu cầu của ĐTNT về các cấn đề cần tư vấn liên quan đến công tác quản lý thuế. Trên cơ sở những nhu cầu cụ thể trước mắt đó mà có sự bố trí hợp lý số lượng cán bộ tư vấn, các khoản mục tư vấn ...sau đó sẽ phát triển tư vấn mọi vấn đề liên quan đến quản lý thuế và nhân rộng ra toàn quốc. Sau nữa, Nhà nước nên khuyến khích các tổ chức cá nhân đứng ra thành lập các công ty tư vấn thuế có thu phí đối với đối tượng nộp thuế. Bởi, thông thường nếu luật thuế có các văn bản hướng dẫn chi tiết thì việc thực hiện của ĐTNT sẽ thuận lợi, ngược lại văn bản thuế hướng dẫn chung chung thì sẽ gặp khó khăn. xu hướng của cải cách thuế là tiến tới sự công bằng không phân biệt giữa các đối tượng nộp thuế. Mặt khác khi nền kinh tế thị trường phát triển sự chuyên môn hoá càng cao thì sự phát triển của các hình thức dịch vụ càng đa dạng vàg phong phú, tất yếu phải hình thành dịch vụ tư vấn thuế. Đặc biệtđối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà đại diện là các doanh nghiệp quy mô nhỏ không cần bộ máy kế toán hoàn chỉnh, số lượng chứng từ phát sinh không nhiềuk hàng tháng phải tập hợp chứng từ để kê khai thuế GTGT , kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải lập các báo biểu kế toán, quyết toán...thì việc thw các tổ chức dịch vụ thuế sẽ tiết kiệm chi phí, đảm bảo thực hiện đúng luật thuế. Việc tổ chức các dịch vụ thuế không chỉ tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp mà còn tiết kiệm chi phí cho bộ máy quản lý thuế. Bởi đối với doanh nghiệp, kế toán là công cụ quan trọng để điều hành quản lý, tính toán kinh tế và kiểm tra việc sử dụng tài sản, vật tư thiết bị, tiền vốn. Sau một chu kì kinh doanh kế toán cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà quản lý và những người có liên quan, trên cơ sở những thông tin mà có thể biết được nghĩa vụ thuế của đơn vị cũng như các khoản phải nộp khác đối với Nhà nước. Việc thuê các tổ chức dịch vụ thuế vốn là các tổ chức chuyên môn nên việc lập các báo cáo sẽ có khả năng đáp ứng đúng chế độ. Như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian cho công tác thanh tra , kiểm tra của cơ quan thuế, giúp cơ quan thuế có điều kiện nâng cao năng lực quản lý của cán bộ thuế cũng như có khả năng giảm bớt biên chế ngành thuế. Đối với doanh nghiệp, hệ thống sổ sách kế toán, chứng từ chuẩn mực hơn, tăng cường tính tuân thủ pháp luật. Tổ chức dịch vụ thuế sẽ góp phần tích cực vào việc tuyên truyền các chính sách thuế, nó thực sự là cầu nối giữa chính sách thuế với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Như vậy có thể nói viậc ngành thuế nên mở các dịch vụ tư vấn thuế miễn phí tại các địa phương trong cả nước và đồng thời khuyến khích các tổ chức cá nhân có đủ điều kiện thành lập trung tâm tư vấn thuế là cần thiết và cấp bách trong thời điểm mà nền kinh tế hàng hoá phát triển như hiện nay. 5- Nâng cao tính pháp lý của hoá đơn chứng từ và có biện pháp hợp lý động viên người tiêu dùng lấy hoá đơn khi mua hàng. Mấu chốt của các vấn đề gian lận thuế đều do chưa có một biện pháp quản lý các chứng từ, các hoá đơn thuế GTGT một cách hợp lý. Như chúng ta đã biết tại một số nước trên thế giới như ở Bắc Mỹ và Tây Âu, tình trạng gian lận về thuế GTGT ít xảy ra hơn do các nước này có hệ thống kiểm soát thuế tiên tiến và việc mua hàng lấy hoá đơn đã trở thành thói quen của người dân. hoá đơn được người mua hàng giữ lại coi như là tờ giấy bảo hành hợp pháp nhất. Trong những trường hợp hàng hoá hỏng hóc họ sẽ có bằng chứng về hành vi mua hàng qua các hoá đơn mua hàng. Khi đó nhà cung cấp không thể từ chối dịch vụ sửa chữa thay thế hay đổi sản phẩm mới cho người tiêu dùng theo các chế độ về dịch vụ sau bán hàng như các hãng đã quảng cáo. Vì thế nhà cung cấp luôn phải cấp hoá đơn bán hàng cho các loại hàng hoá mà họ bán ra. Nhờ đó, các cơ quan thuế đã giám sát chặt chẽ việc kê khai thuế, các doanh nghiệp mới thực sự là người thu hộ thuế cho Nhà nước. Lợi ích của người chịu thuế tức là người tiêu dùng được bảo đảm một cách hợp pháp. Tuy nhiên những kinh nghiệm này dường như chưa được thực tế cho áp dụng với nước ta hiện nay. Những biện pháp khuyến khích người tiêu dùng lấy hoá đơn khi mua hàng chưa được chú ý đúng mức. Ngược lại, người không chịu thuế GTGT là các doanh nghiệp lai rất muốn lấy hoá đơn nhiều hơn thực tế phát sinh nhằm xin hoàn thuế khống của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là lợi ích của các bên tham gia là Nhà nước- Doanh nghiệp –Người tiêu dùng chưa có những vị trí đúng với vai trò của họ. Các doanh nghiệp thì theo đuổi mục đích lợi nhuận, do đó họ không ngần ngại khai khống thuế GTGT đầu vào để được hoàn thuế. Người tiêu dùng là người chịu thuế GTGT nhưng họ không có thêm một chút lợi ích nào giữa việc không lấy hoá đơn và lấy hoá đơn cả.Chính phủ là người thu thuế nhưng nhờ doanh nghiệp thu hộ, và còn thiếu các cơ chế quản lý chặt chẽ những hoạt động kinh tế phát sinh. Mâu thuẫn ở đây chủ yếu là giữa các doanh nghiệp và Nhà nước để phân định số thuế phải nộp. Người chịu thuế là người tiêu dùng không tham gia mạnh mẽ vào quy trình này do đó không thể nắm chắc các doanh nghiệp có thực sự nộp đủ số thuế mà người tiêu dùng trả cho Nhà nước hay không? Người ta không thể kiểm soát hoàn toàn tình trạng trên bằng các biện pháp hành chính, phi kinh tế như kiểm tra hoá đơn, hô hào người tiêu dùng lấy hoá đơn mua hàng ... mà trên thực tế phải thực hiện các biện pháp kinh tế để giải quyết các vấn đề kinh tế nhằm tăng cường cho công tác quản lý thuế giải quyết các vấn đề kinh tế nhằm tăng cường cho công tác quản lý thuế GTTGT hiện nay và phát huy ưu điểm của thuế GTGT. Theo tôi, phải chăng ngành thuế nên thực hiện các giải pháp sau: Tổ chức thực hiện chương trình “ Dự thưởng hoá đơn GTGT”. Một số nước đã và đang áp dụng chương trình này rất thành công như : Philippines, Đài Loan... Chương trình này chúng ta có thể thực hiện như sau: Những người tiêu dùng khi mua hàng họ nhận được hoá đơn GTGT liên 2 mà người bán hàng giao cho; trong đơn đã có ghi đầy đủ tên, địa chỉ của khách hàng do vậy người tham gia chỉ việc bỏ phiếu tham dự này vào hộp phiếu được đặt tại các chi cục thuế ở tất củ các huyện, thị trong cả nước. Cứ sau mỗi tháng thì các đơn vị này lại tổ chức bốc thăm, những hoá đơn may mắn sẽ được tổ chức trả thưởng theo quý, khi bốc thăm thì có sự đại diện của có quan tài chính và cơ quan chính quyền địa phương. Nguồn trả thưởng lấy từ quỹ tiền phạt của hoá đơn và tiền phát hành hoá đơn, không sử dụng tiền của ngân sách nhà nước. Việc tổ chức chương trình “dự thưởng hoá đơn GTGT” của người tiêu dùng cuối cùng sẽ mang lại kết quả sau: Khuyến khích người tiêu dùng đòi người bán hàng phải lập và giao hoá đơn. Điều này nó rất cần thiết với điều kiện nước ta hiện nay bởi vì người mua hàng cho tiêu dùng cá nhân ở nước ta lâu nay không có thói quen đòi hoá đơn. Hoá đơn tham gia dự thưởng được thu nhận hàng ngày nên cơ quan thuế có điều kiện để kiểm tra đối chiếu các hoá đơn của người bán hàng để xem xét việc ghi chép hoá đơn có đúng quy định không, qua đó để quản lý thuế đúng thực tế phát sinh trên cơ sở đó nắm bắt thực tế, kiểm tra cụ thể doanh nghiệp mà không phải trực tiếp xuống doanh nghiệp để kiểm tra đối chiếu; từ đó có biện pháp xử lý vi phạm gian lậu thuế. Đây cũng là một hình thức tuyên truyền có hiệu quả để mọi người dân hiểu biết và việc chấp hành tốt pháp luật thuế của doanh nghiệp. Tất nhiên chỉ nên quy định, những hoá đơn GTGT của người tiêu dùng cuối cùng mới được tham gia dự thưởng. Hoá đơn mua hàng của các tổ chức, cá nhân kinh doanh dùng để khấu trừ thuế, hoàn thuế, tính chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế TNDN trong hạch toán kế toán thì không được tham dự giaỉ. * áp dụng biện pháp gắn thêm chức năng phiếu bảo hành vào hoá đơn GTGT. Có như vậy sẽ buộc các doanh nghiệp có ý thức hơn trong khi xuất hoá đơn và sự tin tưởng của người tiêu dùng vào hoá đơn của người bán hàng. *Khuyến khích áp dụng thẻ giảm giá cho người tiêu dùng khi mua hàng. Theo đó các doanh nghiệp có thể áp dụng khuyến khích bằng cách phát thẻ giảm giá cho khách hàng, Nhà nước cũng có thể áp dụng khuyến khích thẻ giảm giá cho người tiêu dùng để người tiêu dùng và ngươì cung cấp phân định nghĩa vụ nộp thuế với quyền lợi giảm giá dành cho họ. Nhà nước giao quyền giám sát nộp thuế cho người tiêu dùng là người thực sự phải nộp thuế. Khi người tiêu dùng có thêm quyền lợi, họ sẵn sàng thực hiện quyền lợi này bằng cách lấy hoá đơn khi mua hàng. Giả định rằng, họ được giảm 3% trên giá trị hàng mua vào và được người bán chiết khấu cho người mua. Nếu giá trị hàng hoá được ghi trên hoá đơn là 100000đ, giả sử với thuế suất thuế GTGT hàng hoá này là 10%, như vậy thuế GTGT tương ứng là 10000đ thì người tiêu dùng được giảm 3000đ. Do đó họ sẽ sử dụng thẻ chiết khấu để được hưởng quyền lợi này.Nếu họ không có thẻ hoặc không quan tâm đến quyền lợi giám sát người cung cấp nộp thuế thì họ phải chịu thiệt hơn những người tiêu dùng khác 3%. Nếu một tháng họ chi tiêu cho việc mua sắm hết 1000000đ họ tiết kiệm được 30000đ. Ngược lại, Nhà nước cũng không bị thất thu thuế khi áp dụng biện pháp này. Cũng như đối với các doanh nghiệp việc giảm giá cả bình quân xã hội và giá của họ cũng không thể thấp hơn giá gốc. Họ chỉ chia sẻ một phần lãi cho người tiêu dùng để thu hút khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Đôi khi nó cũng chỉ là những mánh khoé thu hút khách hàng của người bán hàng nếu như họ tăng giá bán lên để bù đắp khoản giảm giá này. Tuy nhiên trong thị trường cạnh tranh thì điều đó rất ít xảy ra, vì giá bán phải theo giá cả bình quân xã hội và giá của các nhà cạnh tranh khác. Đối với nhà nước, ưu thế này là rất rõ rệt vì Nhà nước là người đề ra luật thuế và quy định mức thuế suất. Giả sử Nhà nước định thu mức thuuế suất thuế GTGT cả 10% cho một nhóm mặt hàng nào đó, nhà nước có thể quy định thu mức thuế sút 13% và chấp nhận chiết khấu 3%. Nhà nước trao quyền đòi lại quyền lợi 3% cho người tiêu dùng khi lấy hoá đơn, và như vậy không có người tiêu dùng nào chịu thua thiệt hay phớt lờ không lấy hoá đơn mua hàng. Như vậy trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên đều được thoả mãn, những ưu điểm của thuế GTGT sẽ được phát huy tác dụng cao nhất. Nếu doanh nghiệp không xuất hoá đơn bán hàng mà tiến hành nghiệp vụ này vào cuối kỳ hạch toán và viết giá trị hoá đơn thấp hơn giá bán thực tế do hoá đơn đầu vào giảm giá đỉi trốn thuế GTGT thì phải chịu mất trắng 3% chênh lệch về cơ sở tính giảm giá và cơ sở tính giá thuế. Giả định 1 chiếc xe máy trị giá 25 000 000 đ chiết khấu cho khách hàng 3% là 75 000đ nhưng thực tế hoá đơn viết ra là 16000000đ chỉ được tính chiết khấu 48000đ (họ bị thiệt 27000đ). Do đó người bán hàng ít khi chịu thiệt mà đẩy phần này về cho người mua chịu. Vậy cơ chế gì giúp người mua và người bán thực hiện nghiêm túc quy định của nhà nước? đó chính là biện pháp Nhà nước chấp nhận hợp pháp tờ hoá đơn là căn cứ bảo hộ quyền lợi người tiêu dùng. Khi người tiêu dùng biết được lợi ích sẽ luôn đòi hỏi hoá đơn khi mua hàng. Điều quan trọng là cơ chế tính toán thuế cho doanh nghiệp sẽ thay đổi có thể hình dung như sau: Đối với hoá đơn trước khi áp dụng cơ chế thẻ giảm giá. Giả định mặt hàng X có giá trị 100 000đ , thuế suất thuế GTGT là 10%, hiện nay hoá đơn có các chỉ tiêu như sau: Mặt hàng Số lượng Đơn giá Thành tiền Hàng X 01 cái 1.000.000 đ 1.000.000đ Thuế suất thuế GTGT:10% 100.000đ Tổng cộng 1.100.000 đ Doanh nghiệp thu 1 100 000đ trong này bao gồm cả thuế GTGT và nộp cho Nhà nước 100 000đ. Người tiêu dùng lấy hoá đơn và không lấy hoá đơn thì kết quả như nhau là phải chi trả tiền hàng 1 100 000 đ. Khi áp dụng cơ chế giảm giá thì hoá đơn sẽ được thiết kế như sau: Mặt hàng Số lượng Đơn giá Thành tiền Hàng X 01 cái 1.000.000 1.000.000đ Giả thiết thuế suất thuế TGT:13% 130.000đ Thẻ giảm giá 3% -30.000d Tổng cộng 1.100.000đ Theo hoá đơn này thì người bán hàng vẫn thu đủ 1 100 000 đ và nộp thuế 100 000 đ cho nhà nước trong trường hợp khách hàng lấy hoá đơn. trong trường hợp người mua không lấy hoá đơn thì họ phải nua với giá 1 130 000đ như đã niêm yết. Nếu người mua là các tổ chức, các công ty ... sản xuất kinh doanh thì họ không có ưu tiên này vì họ đã được hoàn thuế GTGT đầu vào. Khi hoá đơn đầu ra bán cho người tiêu dùng phải xuất đều đều thì doanh nghiệp không thỉi khai báo hoá đơn đầu vào nhiều hơn hoá đơn đầu ra để xin hoàn thuế. Nhà nước sẽ không cần có quỹ hoàn thuế GTGT quá mức cần thiết. Từ đó đảm bảo nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế GTGT, giảm được tình trạng gian lậu thuế, tạo sự công bằng trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Mặt khác chính sách thuế GTGT sẽ được phát huy đúng mức, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thuế cũng như việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo hướng phát triển ổn định và bền vững. 6- Quản lý chặt chẽ việc hoàn thuế và khấu trừ thuế GTGT. Trong khi Nhà nước chưa sửa đổi, bổ sung luật thuế GTGT, ngành thuế cần thực hiện đúng chủ trương hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp kinh doanh mua bán, xuất khẩu các mặt hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản; khuyến khích và tạo điều kiện mở rộng diện doanh nghiệp sử dụng mẫu hoá đơn thuế GTGT theo mẫu quy định; trường hợp doanh nghiệp chưa có điều kiện sử dụng hoá đơn tự in thì sử dụng hoá đơn do Bộ tài chính phát hành và phải ghi mã số thuế của đơn vị lên hoá đơn trước khi lưu hành và sử dụng. Ngành thuế nên kết hợp với các ngành Thương mại , Ngân hàng và Hải quan tăng cường kiểm tra việc thực hiện chính sách hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu qua biên giới đất liền để có biện pháp khuyến khích và tạo điều kiẹn thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp; đông thời quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp ; đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu qua biên giới đất liền để có biện pháp khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp ; đồng thời quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước; không thực hiện biẹn pháp chỉ cho phép doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá qua một số cửa khẩu nhất định. Không nên kiểm tra tràn lan các doanh nghiệp khi chưa phát hiện có dấu hiệu vi phạm và chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước. Tuy nhiên vấn đề kiểm tra vẫn phải được thực hiện định kỳ. Về lâu dài, khi mà Luật thuế GTGT đã có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện nay thì ngành thuế cũng phải có những biện pháp quản lý quá trình thực hiện hoàn thuế thích hợp hơn đó là: - Tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp Uỷ chính quyền địa phương, Bộ Tài Chính và các Bộ ngành có liên quan như : Bộ Thương Mại, Bộ Công An, Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam và Tổng cục Hải quan; thực hiện việc kiểm tra, thanh tra đối với các đối tượng có hành vi trốn lậu và chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước, xử lý thật nghiêmđối với các đối tượng này và có thể lập hồ sơ gửi lên cơ quan chức năng để truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như có tính chất nghiêm trọng. - Đối với các đối tượng mua bán hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản; chỉ khấu trử thuế GTGT đầu vào đối vớihàng hoá có hoá đơn chừng từ có tính pháp lý cao ; trong đó gji đầy đủ các tiêu trí cần thiết như: tên, địa chỉ, mã số thuế (nếu có) của người bán hàng; số lượng cụ thể, giá cả là bao nhiêu có phù hợp với giá cả thị trường tại thời điểm hiện tại hay không, nếu thấy có những tình tiết và số liêu không hợp lý phải thực hiện “kiểm trước xuất sau”. Không nên xuất trước rồi mới kiểm tra sau, sẽ tạo điều kiện cho đối tượng cao chạy xa bay. Mặt khác, không thực hiện khấu trừ đối với hàng hoá nông sản, lâm sản, thuỷ sản mua vào chỉ có bảng kê như hiện nay để tránh tình trạng đối tượng khai tăng số lượng và giá cả để được khấu trừ thuế và hoàn thuế; gây thiệt hại tiền bạc cho Nhà nước. - Đối với hàng hoá xuất khẩu, do cơ chế hiện nay của nước ta là khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng kim ngạh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho quốc gia; vì vậy đối với các đối tượng này Nhà nước luôn luôn ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho các đối tượng này hoạt động vì vậy chính sách pháp luật đối với các đối tượng này là tương đối thông thoáng có nhiều kẽ hở, do vậy đối tượng thường lợi dụng những khe hở này để luồn lách trốn thuế cũng như móc ngoặc với các đối tượng khác là người nước ngoài để rút tiền tư việc hoàn thuế nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Lỗi ở đây chủ yếu là ở phía Ngân hàng, các đối tượng mở L/C để thực hiện việc mua bán hàng hoá nhưng thực tế chúng không thực hiệnviệc mua bán mà ngay sau khi mở chúng xin huỷ ngay L/C nhưng Ngân hàng không thu lại L/C đã bị huỷ. Lợi dụng sơ hở bày đối tượng mang L/C đến cơ quan thuế xin hoàn. Tất nhiên, lỗi cũng có một phần ở xơ quan thuế do không có sự kiểm tra tính xác thực của L/C mà đã xuất tiền cho đối tượng này. Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi cơ quan thuế cần phải có sự kiểm tra trước khi xuất thông qua sự hợp tác với Ngân hàng nơi mà đối tượng mở L/C. Ngoài ra cũng cần phải kết hợp với cơ quan Hải quan nơi mà hàng hoá được xuất đi để biết được chính xác về số lượng và chủng loại hàng. 6- Cần kiện toàn lại hệ thống quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm nâng cao hiệu quả và hiêụ lực của bộ máy ngành thuế: Về phân công quản lý đối tượng nộp thuế: tiếp tục duy trì mô hình quản lý như hiện nay: Cục thuế tập trung quản lý những doanh nghiệp ngoài quốc doanh lớn,các doanh nghiệp khác sẽ phân cấp cho chi cục thuế quản lý. Sẽ phân công lại quản lý tại chi cục theo hướng hình thành các đội quản lý cá doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Nâng cao ý thức tránh nhiệm của đội ngũ cán bộ thuế quản lý ngoài quốc doanh. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục xây dựng và cụ thể hoá các tiêu chuẩn của từng loại cán bộ quản lý có liên quan đến quản lý thu thuế đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như tiêu chuẩn đối với các cán bộ quản lý doanh nghiệp, tiêu chuẩn cán bộ quản lý hộ cá thể, tiêu chuẩn cán bộ kế toán thuế, quản lý ấn chỉ, thanh tra thuế đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh,… Các tiêu chuẩn của từng loại cán bộ sẽ là cơ sở để đánh giá và phân loại cán bộ căn cứ vào kết quả công tác, vào số lượng và chất lượng công việc được giao; Việc ban hành và thực hiện các tiêu chuẩn cán bộ sẽ là cơ sở ngăn ngừa các hành vi vi phạm về đạo đức, tác phong của cán bộ thuế. Tăng cường giáo dục nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp thuế, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ thuế, thực hiện 10 điều kỷ luật của nghành, có chương trình đào tạo và đào tạo lại toàn bộ cán bộ công chức ngành thuế. Nội dung đào tạo lại chủ yếu là kiến thức về quản lý Nhà nước, chính sách thuế; nghiệp vụ quản lý thuế; ứng dụng tin học; ngoại ngữ, đạo đức và phong cách ứng xử của người cán bộ thuế. 7- Thực hiện nộp thuế ở kho bạc Để tránh cho cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu tiền của từng hộ kinh doanh dễ dẫn đến tiêu cực, mất mát, tham ô, xâm tiêu tiền thuế, từ nhiều năm nay ngành thuế đã phối hợp với kho bạc tổ chức cho hộ kinh doanh đem tiền thuế đến nộp trực tiếp vào kho bạc.Theo báo cáo của các địa phương về cơ bản các doanh nghiệp đều đã thực hiện nộp thuế trực tiếp vào kho bạc, cơ quan thuế chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc và giám sát việc nộp thuế, cơ quan kho bạc trực tiếp thu tiền thuế. Trường hợp cơ quan kho bạc chưa tổ chức thu trực tiếp thì cơ quan thuế mới tổ chức thu. Với những biên pháp chủ đạo trên, công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong những năm qua đã co những chuyể biến tương đối tích cực, giảm dần thất thu cả về đối tượng và về doanh số. ở khu vực doanh nghiệp cơ quan thuế đã giám sát chặt chẽ hơn việc thành lập, hoạt động và ngừng hoạt động của doanh nghiệp. Từ năm1999 chuyển giao lên cục thuế quản lý đã xác định được trên 5000 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh nhưng thực tế không hoạt động hoặc đã giải thể nhưng cơ quan cấp đăng ký kinh doanh vẫn không thu hồi giấy phép. Năm 2003 dự toán thu ngoài quốc doanh Nhà nước giao tăng trên10% so với thực thu năm 2002. Để thực hiện được dự toán trên ngay từ tháng 12 năm 2002 Tổng cục thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp tập trung hoàn thiện các việc sau: Rà soát tất cả các đối tượng kinh doanh đưa vào quản lý thu thuế. Đẩy mạnh triển khai công tác kế toán, đôn đốc cơ nộp báo cáo quyết toán, tổ chức kiểm tra báo cáo quyết toán, tổ chức thu ngay số thuế phát sinh theo báo cáo quyết toán Rà soát và đôn đốc các khoản thuế nợ đọng, thu róc số thuế phát sinh. 8- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế để nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của người nộp thuế. Muốn cho người nộp thuế tự giác chấp hành chính sách thuế thì cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyề, giáo dục, giải thích, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho người nộp thuế để người nộp thuế hiểu biết đầy đủ, tường tận về chính sách thuế, về kê khai nộp thuế, về phương pháp tính thuế và thời gian nộp thuế, các chế tài về xử lý vi phạm,… Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với số lượng đối tượng nộp thuế lớn, số đông trình độ văn hoá thấp, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao việc tập trung đẩy mạnh tuyên truyền càng có ý nghĩa quan trọng. Trong thời gian tới ngoài các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, giải thích về thuế truyền thống như: bằng phương tiện thông tin đại chúng, in tờ rơi, hội thảo trao đỏi,… phải tăng cường bằng biện pháp khác như: đưa giáo dục về thuế vào chương trình giảng dạy của các trường học, thường xuyên giáo dục pháp luật về thuế trên phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức mạng lưới hướng dẫn thuế của cơ quan thuế, của các đoàn thể, mặt trận, công đoàn, giáo hội, phụ nữ… tới từng đối tượng nộp thuế. Tiến tới mọi tổ chức, cá nhân trước khi kinh doanh đều được tập huấn, hướng dẫn về thuế, được sử dụng các dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế miễn phí từ cơ quan thuế bằng tài liệu, qua điện thoại, tiếp xúc trực tiếp,… 9- Tăng cường chỉ đạo thực hiện thống nhất và đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ do ngành thuế đặt ra. Thực hiện thống nhất và đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ sẽ đảm bảo cho việc thực hiện chính sách thuế được nghiêm chỉnh, chống thất thu , đảm bảo công bằng bình đẳng, hạn chế tiêu cực. Trong thời gian tới ngành thuế sẽ tiếp tục triển khai tập trung vào các biện pháp nghiệp vụ chủ yếu như sau: Rà soát quản lý đối tượng, đảm bảo quản lý 100% doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán , hoá dơn chứng từ đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn. Mở rộng công khai dân chủ trong việc xác định nghĩa vụ thuế của cá đối tượng kinh doanh. Tăng cường xác minh đối chiếu háo đơn, chứng từ phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi gian lận. đẩy mạnh chống thất thu thuế đối với một số ngành nghề và một số lĩnh vực còn đang thất thu nhiêù như kinh doanh khách sạn, kinh doanh ăn uống, xây dựng tư nhân,… 10- Tăng cường công tác thanh tra, kiể tra về thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm về thuế. 10.1. Thanh tra, kiểm tra là một trong những nhiệm vụ trọng tâm quan trọng nhất của công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với lý do như sau: Thông qua thanh tra kiểm tra phát hiện kịp thời vi phạm để nhắc nhở, giáo dục đối với những trường hợp tính không đủ, không đúng hoặc nộp không kịp thời. Để ngăm chặn và trừng phạt đối với các trường hợp cố ý lợi dụng những sơ hở của chính sách thuế và quản lý thuế để gian lận tiền thuế dưới mọi hình thức. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dựa trên nền cơ bản là sở hữu tư nhân, trình độ hiểu biết và trách nhiệm pháp luật còn thấp, bên cạnh tính tích cực còn phổ biến hành vi tiêu cực trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Thực tiễn quản lý thuế ở nước ta hiện nay thể hiện tính gian lận về thuế ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khá phổ biến và mức độ trầm trọng hơn các thành phần kinh tế khác. Đã và đang xuất hiện hình thức tội phạm mới, lợi dụng một số cơ và quản lý đang tìm cách chiếm đoạt tiền của Ngân sách Nhà nước , trong đó số đông là chủ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Lịch sử phát triển của công tác quản lý thuế của các nước trên thế giới đã chứng minh chức năng thanh tra thuế là tất yếu và là một trong 2 công cụ chủ yếu bảo đảm chính sách thuế được thi hành nghiêm túc. 10.2 Trong thời gian tới, công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với cá doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần được cách như sau: Phân loại đối tượng thanh tra, kiểm tra, chỉ tập trung thanh tra, kiểm tra vào các đối tượng có nhiều rủi ro về thuế hoặc thiếu độ tín nhiệm như: + Đối với các đối tượng nộp thuế đã tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế thì khoảng 2-3 năm mới kiêmr tra toàn diện một lần. + Đối với đối tượng nộp thuế thường xuyên gian lận về thuế thì mới phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm kể cả áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Phải tăng cường chức năng cho cơ quan tthanh tra thuế, tăng cường cán bộ làm công tác thanh tra. 11- Tuyên truyền và nâng cao nhận thức của mọi tổ chức, ca nhân hỗ trợ cho cơ quan thuế và người nộp thuế tự giác thực hiện tốt trách nhiệm của mình .Vì: Tiền thu thuế và phí phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo đảm trật tự xã hội, xây dựng co sở hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển giáo dục, văn hoá …Đay là lợi ích cao nhất nên các ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội, các cá nhân ở bất ký cương vị nào phải có nghĩa vụ hỗ trợ cho cơ quan thuế và người nộp thuế thực hiện đúng các quy định của luật, pháp lệnh về thuế, nhằm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào NSNN. Theo pháp luật hiện hành quy định tổ chức cá nhân biết hoặc phát hiện các trường hợp vi phạm mà không tố cáo, ngăn chặn cũng là tiếp tayvà vi phạm pháp luật. Vì vậy, trách nhiệm củacác tổ chức cá nhân là phải cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan thuế thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế. Các tổ chức, cá nhân hỗ trợ cho cơ quan thuế và người nộp thuế thực hiện tốt cá luật, các pháp lệnh về thuế còn vì mục đích đảm bảo bình đẳng công băng xã hội. Bất kỳ một ai tiến hành kinh doanh không phân biệt ngành nghề, đều có nghĩa vụ thuế như nhau. Trong cùng một nghành nghề kinh doanh bất kể quy mô nào đều có nghĩa vụ thuế giống nhau. 12- Từng bước áp dụng công nghệ tin học váo công tác quản lý thuế để tăng cường hiệu quả quản lý thuế: 12.1- Sự cần thiết áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế -Đảng vàNhà nước ta khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nên số lượng các cơ sở SXKD thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng lớn vì vậy không thể tăng biên chế ngành thuế lên mãi và quản lý thuế theo phương pháp thủ công, hiệu quả rất thấp. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phức tạp, quy mô kinh doanh ngày càng phát triển trải dài trong cả nước, thậm chí xuyên quốc gia, thu nhập của cá nhân phát sinh ở nhiều nơi, các mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nhau và với các thành phần kinh tế khác cần phải xác minh đối chiếu vô cùng lớn, nếu không đưa công nghệ tin học vào quản lý thuế thì không quản lý được hoạt động kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngày nay công nghệ tin học đanh phát triển mạnh trên thế giới, nhiều nước trong khu vực đã áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế. Đây là thời cơ thuân lợi để áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế của nước ta. Chỉ áp dụng công nghệ tin học thì mới nâng cao được hiệu quả công tác quản lý thuế và mới phục vụ tốt nhất cho đối tượng nộp thuế với tư cách đối tượng nộp thuế là khách hàng của cơ quan thuế. 12.2 Trong đó thời gian tới tin học phải đáp ứng được các nội dung quản lý sau: Phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế: kiểm tra tờ khai thuế, kiểm tra hồ sơ hoàn thuế, đối chiếu hoá đơn giữa đơn vị mua và bán. Xử lý thông tin để các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước, xác định nợ và tính phạt chậm nộp thuế. Quản lý xác minh, đối chiếu được hoá đơn, chứng từ. Cung cấp 70% dịch vụ hỗ trợ cho người nộp thuế qua tin học. III- những kiến nghị nhằm tăng cường quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay Khi nói đến các giải pháp để phát triển kinh tế Tư nhân nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng các cơ quan quản lý rất né tránh nếu vấn đề làm thế nào để quản lý được qua đó để hướng sự phát triển sao cho có mâu thuẫn giữa cơ quan hoạch định chính sách phát triển (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Viện quản lý kinh tế, Ban đổi mới doanh nghiệp ) đều cho rằng các cơ quan quản lý yếu kém không đáp ứng được yêu cầu thông thoáng để khuyến khích phát triển. Đồng thời thực tiễn Luật thuế GTGT cũng có những tồn tại bất cập. Các cơ quan quản lý cho rằng luật quá sơ hở đang bị lợi dụng. ở nước ta, do được hiện đại hoá, nếu hoạch định chính sách vượt quá trình độ hiện tại dễ gây tác dụng xấu, ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội. Có quản lý được thì mới định hướng được phát triển đúng hướng. Xét về mặt tài chính và thuế có quản lý được mới đảm bảo cho tài chính doanh nghiệp lành mạnh qua đómới đảm bảo cho sự lành mạnh tài chính quốc gia; quản lý được mới thực hiện việc tính đúng, tính đủ thuế phải nộp, mới đảm bảo sự công bằng và bình dẳng giữa các cơ sở kinh doanh và các thành phần kinh tế; mới đảm bảo được quyền lợi về tài chính của các thành viên có liên quan... Trên tinh thần đó tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau: 1- Phải sửa đổi và bổ sung thêm một số vấn đề còn bất cập trong Luật thuế GTGT. Quốc hội nên có một số sửa đổi và bổ sung đối với Luật thuế GTGT để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Cho đến nay Luật thuế GTGT đã áp dụng được 4 năm; tức là đã hết hạn miễn giảm thuế cho các đối tượng nộp thuế hoạt động kinh doanh ở một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Luật thuế GTGT do vậy. Trong năm 2003, thuế GTGT được bổ sung theo hướng: Bổ sung hàng hoá, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và một số đối tượng không chịu thuế vào đối tượng chịu thuế GTGT. Thực hiện 3 mức thuế suất 0%,5%,10% và bỏ mức thuế suất 20%. Bỏ khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ phần trăm đối với hàng hoá , dịch vụ có hoá đơn thông thường và bảng kê hang fhoá là nông, lâm, thuỷ sản mua của người bán không có hoá đơn. Bổ sung điều kiện hàng hoá được xuất khẩu được hoàn thuế GTGT phải thanh toán qua ngân hàng; Bổ sung các biện pháp quản lý hoá đơn, chứng từ chống thất thoát trong khấu trừ và hoàn thuế. Xoá bỏ việc miễn, giảm thuế GTGT cần phải sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện luệt thuế GTGT theo nội dung sau: - Về đối tượng chịu thuế: bổ sung các mặt hành chịu thuế TTĐB ở khâu sản xuất và nhập khẩu, một số sản phẩm, một số dịch vụ xuất khẩu, đảm bảo thực hiện khấu trừ và hoàn thuế đầu vào để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đồng thời giảm và hạn chế đối tượng không chịu thuế GTGT. -Về thuế suất : Theo chế độ hiện hành, thuế GTGT bao gồm 4 mức thuế suất là 0%, 5%,10%,20%. Trong đó mức thuế suất 0% được áp dụng cho các trường hợp xuất khẩu, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu thông qua ciệc cạnh tranh bằng giá, tăng thu ngoại tệ cho đất nước đồng thời cũng là hình thức thuế bảo đảm các nguyên tắc thuế quốc tế. Xung quanh vấn đề xây dựng số lượng mức thuế suất đang có nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều chuyên gia cho rằng, nên quy định một mức thuế suất thống nhất; bên cạnh đó thì lại có ý kiến trắi ngược là nên quy định nhiều mức thuế suất mới phù hợp với từng mặt hàng từng ngành nghề kinh doanh. Để lựa chọn được một giải pháp thích hợp trước hết chúng ta nên đi sâu phân tích từng mặt thuận lợi cũng như hạn chế của từng ý kiến. +, Trong trường hợp có nhiều mức thuế suất như hiện nay: nếu xét về hình thức và cơ sở lý luận chung thì thuế GTGT là loại thuế gián thu, do người tiêu dùng chịu; mặt khác phần lớn đân cư là những người có thu nhập thấp, thu nhập của họ là dùng để chi tiêu cho nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Vì vậy, áp dụng mức thuế suất thấp(TC:5%) đối với nhóm hàng hoá dịch vụ này và mức thuế suất cao (TS:20%) với một số hàng hoá dịch vụ khác (hàng hoá, dịch vụ không khuyến khích tiêu dùng)góp phần giảm gánh nặng về thuế cho nhóm đối tượng tiêu dùng có thu nhập thấp, đồng thời điều tiết một phần thu nhập của người có thu nhập cao- đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Tuy nhiên việc quy định nhiều mức thuế suất khác nhau cũng phát sinh một số nhược điểm sau: Thứ nhất , chính sách thuế GTGT nhiều mức thuế suất sẽ phức tạp gây khó hiểu cho các ĐTNT và các đối tượng trả thuế. Thứ hai, đối với trường hợp doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại hàng hoá với nhiều mức thuế suất khác nhau dễ dẫn đến việc lợi dụng chuyển doanh số của những hàng hoá chịu mức thuế suất cao sang doanh số của hàng hoá chịu mức thuế suất thấp. Mặt khá đó cũng là kẽ hở có thể lợi dụng sự chênh lệch về mức thuế suất gữa những hàng hoá dịch vụ có tính chất gần giống nhau để kê khai sai doanh số bán hàng. Thứ ba, việc quy định nhiều mức thuế suất sẽ làm cho chi phí quản lý hành chính và chi phí chấp hành luật cao. Đây chính là chi phí chi ra cho bộ máy quản lý thu thuế để theo dõi, quản lý thuế GTGT theo từng mức thuế suất và chi phí của bản thân những đối thượng nộp thuế trong việc kê khai tính thuế, quản lý sổ sách, hoá đơn chứng từ, tập hợp doanh số tính thuế theo từng nhóm thuế suất. Tóm lại, đứng trên ba quan điểm trên thì việc quy định nhiều mức thuế suất thuế GTGT phát sinh nhiều hạn chế, chính sách thuế còn phức tạp, gây tốn kém thời gian, công sức và chi phí của cả ĐTNT và cơ quan thuế; chưa đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh và dễ gây thất thu cho NSNN. +,Trong trường hợp sử dụng một mức thuế suất: theo giải pháp này mọi hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT đều chịu chung một mức thuế suất. Khi đó luật thuế sẽ đơn giản, dễ hiểu hơn, dẫn đến chi phí quản lý hành chính và chi phí chấp hành luật thuế sẽ thấp hơn. Các nhà hoạch định chính sách sẽ không gặp khó khăn khi phân biệt các nhóm hàng hoá dịch vụ với những mức thuế suất khác nhau; các cán bộ qủan lý cũng như các đối tượng nộp thuế sẽ dễ dàng tính được số thuế phải hộp cho toàn bộ doanh số chịu thuế theo cùnh một mức thuế suất. Việc áp dụng một mức thuế suất sẽ đơn giản hoá mẫu tờ khai thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ quản lý trong công tác kiểm tra thu thuế. Mặt khác, do tất cả các hàng hoá dịch vụ đều chịu một mức thuế suất nên hiện tượng kê khai sai, gian lận doanh số theo mức thuế suất sẽ hạn chế, góp phần làm giảm thất thu cho NSNN. Trong thực tế không phải tất cả các hàng hoá dịch vụ đều chịu thuế GTGT và chịu cùng một mức thuế suất. Để hạn chế tính luỹ thoái của thuế GTGT, đồng thời để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác quản lý thuế hiện này, những quốc gia có áp dụng thuế GTGT với một mức thuế suẩt thường chia hàng hoá dịch vụ thành hai nhóm: nhóm hàng hoá dịch vụ chịu thuế và nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế. Việc phân biệt giữa hai nhóm hàng hoá dịch vụ này cũng là một khó khăn không nhỏ cho các nhà hoạch định chính sách. Việc áp dụng thống nhất một mức thuế suất GTGT cũng gặp khó khăn vướng mắc trong thời gian đầu, nhất là đối với những đơn vị sản xuất tư liệu sản xuất ( vì phải áp dụng mức thuế suất phổ thông); ngược lại, mức động viên chung lại quá thấp đối với một số ngành đanh có lợi thế như điện lực, bưu chính viễn thông, xăng dầu, hàng không... Không đảm bảo tập trung nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên về lâu dài việc áp dụng phương pháp này có nhiều điểm ưu việt hơn so với việc áp dụng nhiều mức thuế suất , vừa đảm bảo quán triệt được các quan điểm động viên cơ bản của hệ thống chính sách thuế, vừa đảm bảo phù hợp với xu hướng hội nhập trong điều kiện hiện nay. Trên cơ sở phân tích những quan điểm trên, nên chăng trước mắt Nhà nước nên điều chỉnh mức thuế suất theo hướng sau: giảm số lượng tối đa còn 2 mức thuế suất. Điều chỉnh mức thuế suất để đảm bảo thu NSNN trong khi thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu. Mức thuế suất nên ở mức là8% và 10%. Trong đó sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm, dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 8%, còn lại đa số sản phẩm, dịch vụ áp dụng mức thuấ suất là 10 %. Xem xét áp dụng thuế suất là 0% đối với một số dịch vụ xuất khẩu và một số sản phẩm xuất khẩu. Đối với những hàng hoá, dịch vụ trước kia chịu thuế suất 20 % thì nên chuyển sang danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. vấn đề nữa khi thực hiện 2 mức thuế suất là, chỉ qy định mức thuế suất theo mặt hàng; không nên quy định cả theo công dụng để tránh trường hợp cùng một loại hàng hoá nhưng phải chịu 2 mức thuế suất khác nhau gaay khó khăn cho công tác quản lý thuế. - Về áp dụng phương pháp tính thuế:chỉ nên áp dụng một phương pháp tính thuế GTGT, đó là phương pháp khấu trừ để đảm bảo công bằng cho các đối tượng nộp thuế. Tránh tình trạng cùng một mặt hàng, có khối lượng và giá cả như nhau; nhưng 2 đơn vị áp dụng 2 phương pháp tính thuế đó là khấu trừ và trực tiếp thì lại cho số thuế phải nộp khác nhau. - Sửa đổi Điểm 1, điều 15 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Như đã nêu ở chương II, phần II, mục 2, câu d. Thiết nghĩ nên bỏ thời hạn “trở lên” trong quy định. Chỉ quy định 03 tháng số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra thì được hoàn thuế. Nếu doanh nghiêp không làm hồ sơ xin hoàn, sơ quan thuế sẽ thông báo yêu cầu doanh nghiệp lập hồ sơ xin hoàn.Nếu doanh nghiệp vẫn không làm sẽ không được chấp nhận theo kê khai hàng tháng, đồng thời phải tổ chức kiểm tra ngay. Như vậy sẽ hạn chế được sự bù trừ giữa số thuế được hoàn và số thúê phải nộp. Một mặt còn rút ngắn thời gian mà doanh nghiệp có thể lợi dụng để hợp thức hoá các sai phạm. -Về trình tự hoàn thuế, Thông tư số 122/2000-TT/BTC và các văn bản hướng dẫn khác đều đặt vấn đề “hoàn trước kiểm sau”. Đã có một số doanh nghiệp lợi dụng cơ chế này để khai man, trốn lậu thuế. Theo tôi chỉ nên quy định thời gian tối thiểu từ khi nhận đủ hồ sơ, cơ quan thuế phải hoàn là đủ. Như vậy tuỳ trường hợp cụ thể cơ quan thuế chủ động kiểm tra, vừa không gây phiền hà cho doanh nghiệp, vừa hạn chế được những khó khăn nếu công tác kiểm tra không được tiến hành kịp thời. 2- Kiến nghị sửa đổi và bổ sung một số điểm còn sơ hở trong quy định của luật doanh nghiệp. Trong Luật doanh nghiệp còn có những sơ hở đang bi một số cá nhân và doanh nghiệp lợi dụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp và cá nhân liên quan, ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế, gây thất thoát tiền của NSNN, cụ thể ở một số vấn đề sau: + Cần có quy định chặt chẽ hơn nữa để kiểm soát người đIều hành hoặc người chủ doanh nghiệp , loại trừ được những người không đủ đIều kiện ( nghiện hút, mới ra tù hoặc đang trong thời kỳ quản chế, những người kém về sức khoẻ- bệnh thần kinh, những người có trình độ văn hoá thấp) không được thành lập doanh nghiệp vì những người này nếu có vi phạm trốn thuế, lậu thuế cũng không xử lý được. + Cần có quy định những đIều kiện về vốn và tàI sản của doanh nghiệp bắt buộc phảI có để khi xảy ra các hành I lừa đảo, chiếm đoạt tiền, hàng hoá, để còn có sơ sở để cưỡng chế đảm bảo thanh toán cho người bị hại, kể cả chiếm dụng tiền thuế, có tàI sản để cưỡng chế. + Quy định về địa đIểm kinh doanh hay địa đIểm đát trụ sở cũng cần chặt chẽ hơn, tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không có hiện diện tại địa đIểm quản lý đăng ký kinh doanh quá nhiều, hoặc khai không đúng địa đIểm kinh doanh dẫn đến cơ quan thuế không quản lý được… + Có những quy định chặt chẽ hơn về quản lý doanh nghiệp trong thời gian hoạt động. Ví dụ như : trong thời gian hạot động doanh nghiệp vi phạm các chính sách thuế đã bị xử phạt nếu doanh nghiệp vẫn cố tình không chấp hành thì các ngành phảI có trách nhiệm cùng cơ quan thuế đôn đốc và xử lý việc kê khai thay đổi kinh doanh… 3- Để có thể hạn chế về cơ bản tình trạng thất thu thuế điều quan trọng là phảI kiểm soát được kết quả SXKD do đó cùng với việc đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán hoá đơn chứng từ cần thiết lập một quy chế quản lý tiền mặt, quản lý thanh toán cho chặt chẽ, yêu cầu tất cả các doanh nghiệp đều phảI mở tàI khoản tại ngân hàng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán qua ngân hàng. Thực tiễn hiện nay cho thấy các doanh nghiệp tự do mua bán thanh toán bằng tiền mặt đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc hoạch toán kế toán, lập hoá đơn chứng từ không trung thực nhằm trốn thuế. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tiêu cực khác. 4- Sớm ban hành luật kế toán để nâng cao tính pháp lý buộc các doanh nghiệp kinh doanh thuộc khu vực NQD phảI nghiêm chỉnh chấp hành. 5- Các cơ quan liên quan như cơ quan cấp đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý thị trường, cơ quan thống kê cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế trong việc kiểm tra giám sát vẳ lý các hành vi trốn thuế, dây dưa nộp thuế. 6- Đề nghị Bộ và Chính phủ trang bị đồng bộ máy vi tính và đIều kiện làm việc cho cơ thuế. Quan tâm cảI tiến chế độ tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ thuế, đảm bảo cán bộ thuế có thu nhập đủ để yên tâm công tác. Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố quan tâm chỉ đạo công tác thuế ngoài quốc doanh, chỉ đạo uỷ ban nhân dân các cấp, các ngành ở địa phương phối hợp và tạo đIều kiện cho cơ quan thuế triển khai các biện pháp quản lý thu chống thất thu thuế, chống lậu thuế. Kết luận Thuế GTGT là loại thuế mới lần đầu tiên được áp dụng ở nước ta. Qua thực tế 4 năm áp dụng (1999-2002), thuế GTGT đã dần đi vào đời sống kinh tế-xã hội nước ta một cách tốt đẹp; hầu hết mọi người đều nhiệt tình ủng hộ sắc thuế mới này. Cùng với các sắc thuế khác trong hệ thống thuế Việt Nam, thuế GTGT đã góp phần làm ổn định nguồn thu cho NSNN, tạo ra sự công bằng hơn cho mọi đối tượng nộp thuế, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song công tác quản lý thuế cũng còn nhiều bất cập, chưa phát huy được đúng chức năng là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế. Do vậy, việc tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường cho công tác quản lý thuế là nhiệm vụ chung của mọi ngành mọi cấp. Đề tài: “Giải pháp tăng cường quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay” trình bầy đầy đủ một số lý thuyết cơ bản phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài và trên cơ sở nền tảng lý thuyết đó để phân tích thực trạng về công tác quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiệnnay đồng thời căn cứ vào thực trạng đưa ra một số giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đồng thời kiến nghị một số giải pháp với Nhà nước để giúp cơ quan thuế có thể quản lý đối tượng này được tốt hơn đảm bảo sự công bằng giữa các ĐTNT, đảm bảo và ổn định nguồn thu lâu dài cho NSNN và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đưa nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển. Đây là vấn đề mới mẻ và phức tạp, hơn nữa, với thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Kính mong sự đóng góp ý kiến của thầy giáo và các cô chú, anh chị cán bộ phòng chính sách để bài viết của em được hoàn thiện hơn, có tính khả thi hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29522.doc
Tài liệu liên quan