Chuyên đề Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương đến năm 2015

Kinh tế thời kỳ hội nhập luôn là vấn đề không chỉ các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Nó còn là sự quan tâm rất lớn từ phía các nhà đầu tư và các cá nhân khác trong xã hội và nó tác động trực tiếp tới cuộc sống của họ. Thông qua đó họ tìm những cơ hội đầu tư mới nhằm thu lợi nhuận. Còn đối với các nước tiếp nhận đầu tư, thông qua vốn đầu tư thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia mình. Đây có thể coi là nguồn vốn tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên tiếp nhận đầu tư và bên đầu tư nhằm thực hiện những mục tiêu riêng của mình. Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, Hải Dương luôn coi trọng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nhằm đạt được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hóa- hiện đại hóa cùng với cả nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển. Để đạt được mục tiêu đó không thể không nhắc tới nguồn vốn FDI. Trong bài viết đã đưa ra những vấn đề cơ bản về nguồn vốn FDI. Thấy được vai trò của nó đối với phát triển kinh tế xã hội của Hải Dương nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung trên con đường hội nhập kinh tế. Tuy đạt được khá nhiều thành tựu trong việc sử dụng FDI ở tỉnh ta nhưng bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số hạn chế chưa được giải quyết triệt để. Đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó và đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này trong thời gian tới tại Hải Dương. Trong thời gian tới tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để thu hút các dự án đầu tư với nguồn vốn lớn, sử dụng các công nghệ-kỹ thuật hiện đại, thu hút các dự án tập trung vào việc tận dụng các thế mạnh của địa phương như chế biến nông sản. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của các cấp từ Trung ương tới địa phương. Và có sự thống nhất giữa các cấp nhằm tạo nên một khối thống nhất, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào Hải Dương.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một bộ phận dân cư, tham gia tích cực vào các chương trình xóa đói giảm nghèo, các hoạt động từ thiện, khắc phục thiên tai… Hải Dương cũng như nhiều tỉnh và thành phố khác trong cả nước có tiềm năng và lực lượng lao động rất lớn song chưa được khai thác và sử dụng nhiều. Với tiềm năng về nguồn nhân lực như vậy, khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã giải quyết được tình trạng thiếu việc làm của người lao động trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Hiện các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thu hút trên 75.000 lao động trực tiếp tại các nhà máy của các doanh nghiệp cùng hàng ngàn lao động gián tiếp khác. Trung bình hàng năm giải quyết việc làm mới cho trên 2.500 lao động, đặc biệt năm 2007 thu hút trên 12.000 lao động vào làm việc trong các nhà máy. Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tiêu biểu như: May Formostar, Hai Vina, Sumidenso Việt Nam… FDI không chỉ giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động mà quan trọng hơn thông qua làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cùng với thiết bị công nghệ hiện đại, chính những điều này đã và đang đem lại cho tỉnh Hải Dương một đội ngũ quản lý giỏi và tay nghề của công nhân ngày càng được nâng lên để nhanh chóng tiếp cận với trình độ quản lý và tay nghề thế giới. Hơn nữa, FDI góp phần chuyển đổi tư duy người dân, họ phải tự học hỏi, nâng cao trình độ để có thể tìm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với mức lương cao hơn các doanh nghiệp ở địa phương. Đây là một yếu tố tích cực trong thời buổi cạnh tranh của thị trường lao động. Điều đó thể hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra cơ hội mới cho vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao trình độ cho người lao động. Trong quá trình đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh tại tỉnh Hải Dương, nhiều doanh nghiệp đã chấp hành tốt các quy định của pháp luật về ký hợp đồng sử dụng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,…Công tác công đoàn tại các doanh nghiệp những năm gần đây có nhiều tiến bộ, phần lớn các doanh nghiệp đã có tổ chức Công đoàn và được chủ doanh nghiệp tạo điều kiện cho hoạt động, nhiều vấn đề vướng mắc giữa người lao động và người sử dụng lao động đã được giải quyết thông qua các tổ chức Công đoàn cơ sở, tạo môi trường đầu tư thuận lợi và giữ vững an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Việc tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động ngày càng được chủ đầu tư quan tâm hơn. Năm 1995 có 01 đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội cho 153 người; Năm 2004 có 38 đơn vị với 7.874 người; Năm 2007 có 71 đơn vị với số lượng 28.499 người, đạt 66,3% tổng số lao động tại các doanh nghiệp ĐTNN trên địa bàn tỉnh. Đánh giá chung về thu hút FDI tại Hải Dương giai đoạn 2001-2009 1. Thành tựu Trong quá trình thu hút nguồn vốn FDI tại Hải Dương đã đạt được một số thành tựu sau: Thứ nhất, lượng vốn đầu tư vào tỉnh, số lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Hải Dương ngày càng tăng lên. Bảng 2.7 Vốn đầu tư ở Hải Dương giai đoạn 2001-2008 Ă ổ ỷồ Vốn ĐTNN Vốn khác Số lượng Tỷ trọng(%) Số lượng Tỷ trọng(%) 2001 3211 118,5 3,7 3092,5 96,3 2002 3546 372 10,5 3174 89,5 2003 4082 870 21,3 3212 78,8 2004 4890 1350 27,6 3540 72,4 2005 5391 600 11,1 4791 88,9 2006 6000 1685 28,08 4315 71,92 2007 10100 3050 30,19 7050 69,81 2008 9807 2900 20,57 6907 79,43 Nguồn: Niêm giám thống kê tỉnh Hải Dương Lượng vốn đầu tư vào Hải Dương ngày càng tăng lên và chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng vốn đầu tư xã hội của tỉnh. Tỷ trọng này cao hơn so với mức trung bình chung của cả nước (dưới 20%) và nó ngày càng có xu hướng tăng cao. Căn cứ vào bảng số liệu trên ta thấy lượng vốn đầu tư toàn xã hội của Hải Dương trong 2 năm 2006 và 2007 là lớn gần bằng giai đoạn 2001-2005 trước đó. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng lượng vốn đầu tư là 21121 tỷ đồng thì trong 2 năm 2006, 2007 tổng lượng vốn đầu tư đã thực hiện là 16100 tỷ đồng bằng 76,27% giai đoạn trước. Vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng vốn đầu tư ( chỉ chiếm 3,7%) nhưng đến nay tỷ trọng đó đã được nâng lên rất nhiều tới gần 40%. Hiện nay Hải Dương là 1 trong 10 tỉnh có số lượng vốn đầu tư lớn nhất trên cả nước. Như vậy, vốn đầu tư nước ngoài vào Hải Dương ngày càng giữ vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh và đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Lượng vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Dương liên tục gia tăng, điều này minh chứng Hải Dương ngày càng được các nhà đầu tư quan tâm, muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư tại tỉnh. Thứ hai, tốc độ tăng trưởng trung bình của các DN có ĐTNN luôn cao hơn so với các khu vực kinh tế khác, thông qua đó kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn tỉnh. Nó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.8 Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong tỉnh giai đoạn 2001-2008 Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Toàn tỉnh 109,5 112,2 112,9 109,2 111,9 110,0 112,3 111.7 Khu vực NN 106,7 114,0 121,1 100,5 107,1 106,0 106 105,5 Khu vực ngoài NN 107,8 109,1 106,3 114,5 110,0 124,5 127,8 127,2 Khu vực ĐTNN 139,9 124,8 113,1 121,3 144,0 134,2 145,4 145,0 Nguồn: Niêm giám thống kê tỉnh Hải Dương Trong những năm qua tốc đọ tăng trưởng kinh tế Hải Dương thường đạt tốc độ tăng trưởng cao trung bình trên 10% cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Trong khi khối các ngành kinh tế thuộc khu vực nhà nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, có năm tốc độ tăng trưởng gần như bằng không. Trong khi đó các ngành kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, đặc biệt là khu vực kinh tế ĐTNN. Khi đó, nâng cao tỷ trọng của khối ngành kinh tế này sẽ góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng chung của toàn tỉnh và sẽ nhanh chóng đưa Hải Dương thành tỉnh có kinh tế phát triển và trở thành một trong các tỉnh tiên phong trong việc phát triển các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khá lớn vào ngân sách của tỉnh. Trước năm 1996, nguồn thu thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước từ khu vực ĐTNN không đáng kể. Năm 1997, thu ngân sách từ khu vực này (kể cả thuế xuất nhập khẩu) mới đạt 1,7 triệu USD; năm 2000: 5,9 triệu USD, chiếm 12,4%; năm 2002: 13 triệu USD, chiếm 15%; Năm 2005 (năm đạt cao nhất) 73,5 triệu USD, chiếm 41,6%; năm 2007:63, 9 triệu USD, chiếm 34,3% tổng thu ngân sách nhà nước tại địa phương. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng đưa tỉnh Hải Dương vào tốp những tỉnh có thu ngân sách trên 1000 tỷ đồng/năm vào năm 2002, trên 2000 tỷ đồng vào năm 2004, gần 3000 tỷ đồng vào năm 2007 và trên 4000 tỷ đồng năm 2009, ( nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hải Dương) khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế tỉnh, đóng góp cao cho nguồn thu ngân sách nhà nước tại địa bàn. Phần lớn các doanh nghiệp đã nghiêm túc thực hiện các quy định của Luật thuế, thực hiện việc báo thuế và nộp thuế hàng tháng, hàng năm kịp thời, đúng quy định. Một số doanh nghiệp nộp ngân sách (kể cả thuế XNK) cao nhất, đó là: Công ty TNHH Ford Việt Nam, Công ty xi măng Phúc Sơn, Công ty cổ phần hữu hạn may mặc Venture, Công ty TNHH IQ Linhs. Các doanh nghiệp khác sau một thời gian được hưởng những ưu đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định đã bắt đầu có đóng góp vào ngân sách nhà nước. Thứ tư, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Hải Dương được cải thiện. Trong bảng xếp hạng PCI năm 2009, Hải Dương đứng thứ 23/63 tỉnh, thành phố tăng 4 bậc so với năm 2008, và đứng thứ 7 trong nhóm các tỉnh, thành phố cải thiện chỉ số PCI khá trong 4 năm 2006-2009. Chỉ số PCI của tỉnh đã có tính đồng đều hơn giữa các tiêu chí thành phần. PCI năm 2009 của tỉnh có chuyển biến tốt là do công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo tỉnh đối với sự phát triển của kinh tế khu vực tư nhân trong các năm qua tốt hơn đặc biệt là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉnh đã coi trọng vai trò, vị trí của doanh nhân, doanh nghiệp, chỉ đạo tháo gỡ kịp thời khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh, cải thiện tốt môi trường đầu tư, đồng hành cùng doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Tỉnh đã triển khai thực hiện khá tốt công tác cải cách thủ tục hành chính và Đề án 30 của Chính Phủ, tinh thần thái đôh phục vụ của đội ngũ công chức được nâng lên, góp phần giảm bớt các thủ tục không cần thiết cho các doanh nghiệp giảm chi phí không chính thức và chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại trong và ngoài nước đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thời kỳ hội nhập. Để tiếp tục nâng cao chỉ số PCI trong thời gian tới, Tỉnh cần quan tâm chỉ đạo cải thiện một số điểm yếu hiện nay là: Khả năng tiếp cận đất đai và tính ổn định sử dụng đất, quy hoạch đất cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thứ năm, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, vấn đề môi trường luôn được tỉnh quan tâm và chú trọng. Tỉnh Hải Dương đã thực hiện chủ trương thu hút đầu tư vào các KCN, các CCN đã quy hoạch nhằm thuận lợi cho việc kiểm soát môi trường. Ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư, hầu hết các chủ đầu tư đã triển khai đầu tư theo đúng tiến độ đã cam kết, thực hiện theo hướng “sản xuất sạch” ngay từ ban đầu. Các dự án cơ bản đáp ứng điều kiện quy định của Luật môi trường khi đưa các nhà máy vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Một số doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường như :Ford Việt Nam, Sumidenso Việt Nam, Điện tử UMC Việt Nam..v.v.. Tóm lại, có được kết quả trên là do trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh đã tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của Chính phủ, của các bộ, ngành trung ương; đồng thời phát huy lợi thế và vị trí địa kinh tế, môi trường sản xuất, kinh doanh và kết cấu hạ tầng khá thuận lợi tại địa phương; thủ tục hành chính được đơn giản hoá từng bước, phần nào giảm bớt phiền hà, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh. Tỉnh thật sự quan tâm đến các doanh nghiệp, sẵn sàng tạo mọi điều kiện giúp đỡ và kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình triển khai đầu tư; luôn coi sự thành công của doanh nghiệp chính là sự thành công của tỉnh. Theo Ông Đỗ Quốc Tiến- giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương khẳng định: Chất lượng cải cách hành chính là yếu tố cực kỳ quan trọng tác động việc thu hút đầu tư và làm tăng hiệu quả đầu tư. Việc triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính với mô hình "một cửa", "một liên thông" tại các sở, ban, ngành, địa phương đã nâng cao trách nhiệm cho cán bộ, công chức khi thi hành công vụ; bước đầu đem lại những thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. 2. Những hạn chế, tồn tại Mặc dù đã đạt được những kết quả như trình bày ở trên, hoạt động ĐTNN tại địa phương vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế. Thứ nhất, sự mất cân đối cân đối đầu tư giữa các ngành nghề, vùng lãnh thổ. Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi. Do đó các dự án FDI chủ yếu tập trung ven quốc lộ 5A, nơi thuận lợi về giao thông và kết cấu hạ tầng. Trong khi đó, những địa phương có kinh tế kém phát triển cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù tỉnh ủy và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những vùng, địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, đặc biệt là các vùng thị trấn , xung quanh thành phố Hải Dương. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. ĐTNN vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tỉnh còn rất thấp (3,1 %), chủ yếu đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo, hàng may mặc, giày da. Thứ hai, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên tổng lượng vốn đầu tư đăng ký còn thấp (gần 50% ). Có tình trạng không thực hiện đúng quy hoạch được phê duyệt về xây dựng hạ tầng KCN như: chậm xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống xử lý chất thải, nước thải; xây dựng hệ thống giao thông không đủ kích thước được duyệt. Một số doanh nghiệp triển khai chậm gây lãng phí đất đai, hoặc chưa thực hiện đầy đủ các quy định của luật pháp quyền, các nghĩa vụ về thuế. Thứ ba, vấn đề sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN còn nhiều nan giải. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. Điển hình là công ty TNHH Phi phản ánh với Sở lao động Thương binh và xã hội về khó khăn trong thu hút lao động và giữ chân người lao động ở lại với doanh nghiệp. Theo điều 37 Bộ Luật lao động thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hoạt động lao động với người sử dụng lao động. Vì vậy, khi quan hệ lao động tại các doanh nghiệp không được cải thiện, điều kiện kém, cơ chế tiền lương thưởng không hấp dẫn, thì khó có thể giữ chân người lao động. Nên nếu doanh nghiệp muốn giữ người lao động ở lại làm việc lâu dài thì phải xây dựng quan hệ lao động hài hòa, cải thiện chế độ tiền lương, tiền thưởng làm sao đảm bảo đời sống của người lao động ngày một tốt hơn. Thứ tư, sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ. Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại Hải Dương. Công nghệ cao đòi hỏi lao động, nhân viên có trình độ tay nghề. Nhưng thực tế, trình độ tay nghề của các kỹ sư, cán bộ của tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Thứ sáu, vấn đề bảo vệ môi trường và thực hiện các cam kết về môi trường của các doanh nghiệp nước ngoài tuy đã được thực hiện nhưng chỉ là hình thức trên giấy tờ. Trên thực tế, mục tiêu cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận, do đó họ “ vô tư“ xả thải bừa bãi, không đầu tư vào công nghệ xử lý chất thải nếu như ban quản lý môi trường không thường xuyên kiểm tra, xử phạt nghiêm trọng nếu vi phạm. Số lượng các nhà máy, khu công nghiệp ngày càng tăng, song hành với nó là ô nhiễm môi trường tăng, lượng chất thải (nước và khí thải) không được xử lý đảm bảo tiêu chuẩn môi trường cho phép trước khi thải ra môi trường khu vực (tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng). Điển hình là kiến nghị của nhân dân địa phương gần công ty Cổ phần công nghiệp Tung Kuang về việc xả thải không qua xử lý xuống sông Cầu Ghẽ (đây là sông cung cấp nước phục vụ cho sinh hoạt). Trong thời gian qua, công ty chưa nghiêm túc với công tác quản lý môi trường như việc lưu trữ và xử lý chất thải nguy hại, xử lý nước thải sản xuất. Công ty đã sả thải thẳng ra sông Cầu Ghẽ qua đường ống ngầm, không có hệ thống xử lý chất thải. Những tồn tại và hạn chế nêu trên đang được tỉnh quam tâm chỉ đạo để xử lý, nhằm đưa hoạt động ĐTNN tại đại phương dần đi vào nề nếp, đúng quy định của pháp luật. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương hiện đạt được nhiều thành tựu đáng kể song cũng gặp không ít khó khăn và xét một cách toàn diện thì những gì chúng ta đã làm chưa phát huy hết được các lợi thế của chính mình. Có thể rút ra một số nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong việc thu hút nguồn vốn FDI tại Hải Dương như sau: Thứ nhất , tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. Đây là tình trạng không chỉ riêng đới với Hải Dương mà là tình chung của cả nước ta. “Việt Nam vẫn là một nước có quá nhiều giao dịch bằng giấy tờ… đặc biệt đối với những giao dịch kinh tế thông thường”. Ông Ashok Sud (Phó chủ tịch Phòng thương mại Châu Âu tại Việt Nam) đã thốt lên như vậy khi trao đổi với báo giới và các doanh nghiệp trong hội nghị “Hợp tác vì môi trường kinh doanh tốt hơn” vừa qua. Câu nói đó của ông cũng đủ để giải thích cho lý do tại sao một số doanh nghiệp nước ngoài thờ ơ hay thậm chí cảm thấy “khó chịu” với thị trường Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số ban ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. Thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều ban ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi trọng ĐTNN. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía các doanh nghiệp trong nước. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm  nản lòng nhà ĐTNN. Thứ ba, môi trường đầu tư-kinh doanh tỉnh ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các tỉnh khác trong cả nước, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt ngay cả trong cả nước, trong khu vực và trên thế giới. Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Nguyên nhân là do tỉnh ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Sở, ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định rõ ràng. Thứ tư, định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong tỉnh còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Hải Dương buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào từ nước khác, tỉnh khác vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại tỉnh. Chưa thực sự tạo được chuỗi giá trị liên hoàn. Thứ năm, công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước( bằng các công cụ thuế đánh vào hàng nhập khẩu và hạn ngạch ), chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Thứ sáu, tỉnh ta có xuất phát điểm thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong tỉnh, trong nước, nước ngoài vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. Thứ bảy, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm  ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư-kinh doanh. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN FDI TẠI HẢI DƯƠNG ĐẾN NĂM 2015 Từ những phân tích trên, về vai trò và việc thu hút nguồn vốn FDI tại Hải Dương trong thời gian qua ta thấy được sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh đã thu được nhiều thành tựu đáng kể góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Mặc dù vậy hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn gặp nhiều hạn chế, chưa khai thác hết tiềm năng vốn có của tỉnh. Cần phải có sự nỗ lực của nhiều bên, không chỉ từ phía các doanh nghiệp mà còn từ phía cơ quan của tỉnh, các ban ngành liên quan. Trong thời gian tới, để nguồn vốn FDI tăng cả về số và chất lượng cần có những giải pháp cụ thể, mang tính chiến lược. Cơ hội và thách thức của Hải Dương đối với việc thu hút nguồn vốn FDI Cơ hội Là tỉnh có vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế, Hải Dương nằm trong khu vực tam giác phát triển kinh tế phía Bắc ( Hà Nội- Hải Dương-Hải Phòng-Quảng Ninh), thuộc vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tạo nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế Hải Dương, nằm ven tuyến đường huyết mạch phát triển kinh tế phía Bắc đã tạo không ít những thuận lợi cho phát triển kinh tế Hải Dương như: giao thông thuận lợi, nối liền kinh tế Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Hải Dương và tỉnh cần nắm bắt cơ hội này cho phát triển kinh tế- xã hội. Hải Dương có điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít chịu hậu quả của các trận thiên tai gây ra. Đây là một điều kiện giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách ổn định không bị xáo trộn trước những biến động thời tiết. hàng năm các dự án đầu tư nước ngoài vào Hải Dương ngày càng nhiều do tỉnh nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch miền Bắc. Và đây là điều kiện giúp cho Hải Dương thu hút các dự án có vốn đầu tư lớn và sử dụng công nghệ kỹ thuật cao vào trong sản xuất kinh doanh. Dự báo trong giai đoạn tới kinh tế tri thức phát triển mạnh, xu thế hội nhập và mở cửa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động; hợp tác ASEAN với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. Các ngành, sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường sẽ được quan tâm hơn, đặt ra đòi hỏi thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trong nước, trong tỉnh. Bước sang năm 2010, kinh tế thế giới bước đầu đi vào giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, là yếu tố thuận lợi để tỉnh ta tiếp tục thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Nhiều cam kết đa phương và song phương theo lộ trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO) có hiệu lực, tạo cơ hội để Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đặc biệt, các cơ chế, chính sách của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi mới cho phát triển. Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2006 – 2010 của cả nước cũng như của tỉnh là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát huy trong giai đoạn 2011- 2015. Kết cấu hạ tầng của nhiều lĩnh vực như: các khu, cụm công nghiệp; các khu đô thị, trục giao thông lớn; điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đang dần được hoàn thiện; một số công trình hạ tầng quan trọng của quốc gia, có tính liên vùng như: đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường quốc lộ 38, dự án QL 18 mới…mở ra cơ hội trong thu hút đầu tư, nhất là vào các vùng còn khó khăn phía Nam tỉnh (Thanh Miện, Ninh Giang,….). Cơ hội là như vậy, nhưng biến nó thành hiện thực không phải là điều đơn giản, bởi tỉnh ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn. 2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội mở ra cho Hải Dương để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì cũng có khá nhiều thách thức hạn chế vào tỉnh. Đó là: Thứ nhất, kinh tế thế giới biến đổi nhanh, phức tạp và khó lường. Nguy cơ xảy ra bất ổn chính trị, xung đột quân sự ở một số nước, và những vấn đề hậu khủng hoảng có thể ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của các nước, dặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Từ năm 2011 trở đi, các cam kết gia nhập WTO đến thời hạn thực thi trên nhiều lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực dịch vụ như: tài chính, bán lẻ,…tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt đối với các DN trong nước, ngoài nước, trong tỉnh. Thứ hai, tỉnh đang tiếp tục phải đứng trước những nguy cơ mà Đảng đã cảnh báo, nhất là nguy cơ tụt hậu về kinh tế khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Thứ ba, hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngoài ở nước ta còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể còn nhiều quy định chồng chéo, chưa có các hành lang pháp lí rõ ràng. Việc thực thi pháp luật, chính sách còn tùy tiện, không nhất quán…Đây là một thách thức to lớn trong quá trình thực thi các cam kết. Thứ tư, suy thoái kinh tế sâu trong năm 2009 để lại hậu quả gây khó khăn, thách thức cho cả nước cũng như cho tỉnh. Khả năng phục hồi phụ thuộc rất lớn vào sự hồi phục của các nền kinh tế lớn trên thế giới: Mỹ, các nước EU, Nhật bản. Vẫn tồn tại nhiều yếu kém của kinh tế tỉnh. Quy mô nền kinh tế nhỏ; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của tỉnh chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, nhất là ở khu vực nông thôn. Trình độ nguồn nhân lực thấp; lao động thiếu việc làm; một số vấn đề xã hội chưa được giải quyết triệt để ....đang là những trở ngại lớn đến quá trình phát triển KTXH của tỉnh ta. Ngoài ra tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể còn diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân, dẫn đến tâm lý e ngại đầu tư vào tỉnh. Trước thực trạng thu hút nguồn vốn FDI, cũng như những cơ hội và thách thức mà Hải Dương đã và đang đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài tại Hải Dương. Mục tiêu và định hướng thu hút FDI trong giai đoạn 2010-2015 của tỉnh Hải Dương Giai đoạn 2010-2015 là giai đoạn phục hồi nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Do vậy tỉnh ủy kết hợp với các ban ngành sở tại cần đề ra những mục tiêu và định hướng cụ thể cho giai đoạn quan trọng này. Dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của cả nước: cần khai thác tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế dựa trên sự bứt phá mạnh về nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. Nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế; chuyển dịch nhanh cơ cấu nguồn vốn đầu tư theo hướng tăng nhanh tỷ trọng huy động từ khu vực ngoài nhà nước. Mục tiêu thu hút FDI đến năm 2015 của tỉnh Hải Dương 1.1. Mục tiêu chung Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; lấy tăng trưởng hợp lý, bền vững là quan điểm xuyên suốt. Phát triển kinh tế phải gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước của quá trình phát triển; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với gìn giữ, bảo vệ và cải thiện môi trường; đảm bảo phát triển hợp lý giữa khu vực thành thị và nông thôn. Từng bước tái cơ cấu nền kinh tế, tạo bước chuyển biến về chất lượng tăng trưởng; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấuu lao động theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Thực hiện đầu tư có trọng điểm cho các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, ưu tiên đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, nông thôn, các ngành công nghiệp và dịch vụ có khả năng tạo giá trị tăng thêm cao, bảo vệ tài nguyên và môi trường. 1.2. Mục tiêu cụ thể Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10%/năm trở lên (kế hoạch 5 năm 2011-2015, GDP cả nước tăng 7,8%), trong đó: + Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 1,7% – 2%/năm. + Giá trị tăng thêm khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 11%/năm trở lên. + Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ tăng 12%/năm. - Cơ cấu kinh tế Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản – công nghiệp, xây dựng - dịch vụ năm 2015 là: 21,3% - 45,2% - 33,5%. - Giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng 15%/năm. - Thu ngân sách nội địa tăng 16%/năm. Phấn đấu giai đoạn 2011 – 2015 thu hút 145 – 150 ngàn tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn nhà nước chiếm 24%, vốn dân doanh chiếm 48%, vốn nước ngoài chiếm 28%. Định hướng thu hút FDI tại Hải Dương Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đến năm 2015 và định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Hải Dương cần ưu tiên thu hút ĐTNN vào các ngành có tác động lớn trên các phương diện như: thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ cao thân thiện với môi trường; tạo việc làm; gia tăng xuất khẩu; các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh; phát triển công nghiệp phụ trợ; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư vào vùng sâu, vùng xa. Một số định hướng cụ thể: Thứ nhất là ngành công nghiệp-xây dựng: Với các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. vVowis công nghiệp phụ trợ: khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ. Thứ hai là ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá... Thứ ba là ngành nông-lâm-ngư nghiệp: các dự án đầu tư về công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầutrong nước và xuất khẩu. Thu hút các dự án đầu tư về công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt xuất khẩu. Khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi. Một số giải pháp để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI ở Hải Dương đến năm 2015 Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2010- 2015 và một số năm về sau, đồng thời khắc phục các tồn tại trong việc thu hút và sử dụng FDI có một số giải pháp cơ bản sau: Hoàn thiện môi trường luật pháp và các chính sách Tính hấp dẫn của một quốc gia, một địa phương trước hết phải được thể hiện ở luật pháp và các chính sách thu hút đầu tư. Luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà nhà đầu tư đều quan tâm tại mọi quốc gia. Đối với nước ta, kể từ Luật đầu tư nước ngoài được công bố (tháng 12/1987), các cơ quan quản lý đã thường xuyên theo dõi tình hình thực tế, kịp thời kiến nghị sửa đổi bổ sung nên về cơ bản Luật đã phù hợp với tình hình mới, hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải để cập bổ sung sửa đổi kịp thời những hạn chế và đang cản trở hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn thu hút FDI khó khăn hiện nay. Do đó tỉnh cần kết hợp với các tỉnh khác trong cả nước cùng: Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. 2. Tiếp tục công cuộc cải cách bộ máy hành chính Có nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài ở Hải Dương, trong đó cải cách thủ tục hành chính là giải pháp mang tính đột phá. Tuy nhiên, thủ tục mới nhưng con người cũ, tư tưởng cũ sẽ là một vật cản lớn trong cải cách hành chính. Trên thực tế, có những vấn đề đã quy định cụ thể, thủ tục thông thoáng nhưng do nhận thức, thói quen nuối tiếc với cơ chế “xin - cho” của một bộ phận cán bộ, công chức hành chính nên sự việc tuy dễ hoá khó khăn. Thủ tục hành chính dù hay đến mấy nhưng chỉ nằm trên giấy tờ văn bản, muốn đi vào cuộc sống phải thông qua con người áp dụng. Do đó, sự công tâm của cán bộ, công chức hành chính cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công khai sẽ là những yếu tố quan trọng để Hải Dương cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp đầu tư nước ngoài Trung ương, địa phương và các bộ ngành liên quan. Tập trung thực hiện đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nhằm đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư vào địa phương. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .   3. Đẩy mạnh công tác về quy hoạch, xúc tiến đầu tư       Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Các ban ngành và Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp. Hoàn thành quy hoạch chi tiết xây dựng KCN Phúc Điền mở rộng; điều chỉnh quy hoạch KCN Phúc Điền, Tân Trường. Phấn đấu năm 2010 hoàn thành toàn bộ hạ tầng các KCN: Đại An mở rộng, Phúc Điền (khu vực Cờ Đỏ), Tân Trường, Lai Cách, Phú Thái. Hoàn thành khối lượng hạ tầng chính các khu công nghiệp: Cẩm Điền – Lương Điền, Tân Trường mở rộng, Cộng Hoà. Hoàn chỉnh Quy hoạch vùng tỉnh Hải Dương. Tập trung lập quy hoạch một số dự án trọng điểm như: khu vực phía Bắc sông Thái Bình, phía Nam sông Sặt, TP. Hải Dương, quy hoạch phát triển các khu vực tập trung cao về công nghiệp (khu vực Kinh Môn, Kim Thành, Cẩm Giàng,…) Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại địa bàn tỉnh. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch tại các địa phương trọng điểm trong tỉnh, các tỉnh khác, các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga) Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Hải Dương. 4. Cải thiện, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng Cơ sơ hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với thu hút FDI. Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã hạn chế nhiều thu hút nguồn vốn FDI vào Hải Dương. Vì vậy, trong thời gian trước mắt phải tập trung thích đáng cho công việc này. Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ nối liền Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh..Tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, nhiệt năng từ mặt trời. Thúc đẩy tiến độ giải ngân của các dự án đang đầu tư xây dựng và hỗ trợ một số dự án lớn triển khai hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư mới như: Dự án nhiệt điện than công suất 12000MW (vốn đầu tư 1,6 tỷ USD); Dự án khai thác than Cổ Kênh (vốn đầu tư 70 triệu USD)... Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển. Cần điều chỉnh chính sách để tạo hấp dẫn cao với đối với các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào kết cấu hạ tầng nông lâm ngư nghiệp, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn của tỉnh. Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.  Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải,) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu. 5. Nhóm giải pháp về lao động, đào tạo nguồn nhân lực Các sở, ngành có các kế hoạch, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có đủ năng lực và trình độ; có chiến lược đào tạo thường xuyên, lâu dài. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Bảo đảm cung cấp đủ nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực : Quản trị doanh nghiệp, Tài chính doanh nghiệp, Cơ khí lắp ráp, điện. điện tử, công nghệ thông tin, Kỹ thuật may mặc, chế biến nông sản thực phẩm... Tăng cường cơ sở vật chất, mở rộng quy mô, ngành nghề đào tạo của các trường chuyên nghiệp và cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh. Hoàn thiện và kiện toàn mạng lưới các trung tâm giáo dục thường xuyên. Thành lập thêm các trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và dạy nghề tại 4 huyện (hiện nay đã có ở 8 huyện, TP). Nâng cấp 2 trường cao đẳng của TW thành trường đại học và trường cao đẳng Hải Dương thành trường đại học đa cấp, đa ngành. Phát triển thêm 3 trường đại học ngoài công lập. Phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 48,7%. Có chính sách thích hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục thực hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin. Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Có cơ chế, chính sách ưu đãi thoả đáng để thu hút cán bộ có trình độ cao về làm việc tại tỉnh. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ. Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Đối với KCN còn vướng mắc trong việc giải phóng mặt bằng đề nghị các cấp chính quyền trong tỉnh cần sớm chỉ đạo để bàn giao mặt bằng cho một số nhà đầu tư hạ tầng tiếp tục triển khai dự án. Đẩy mạnh liên kết kinh tế Hải Dương với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng Hải Dương là một trong các tỉnh của vùng đồng bằng sông Hồng (gồm 10 tỉnh, thành Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình) là cửa ngõ thông thương đường biển và hàng không của các tỉnh miền Bắc. Là vùng đất có tài nguyên phong phú với địa hình núi non, đồng bằng, biển đảo… với bề dày văn hóa nổi bật đặc trưng của nền văn minh lúa nước. Tuy nhiên cần phải thừa nhận kết quả của những sự liên kết, hợp tác giữa Hải Dương và các tỉnh trong vùng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Nguyên nhân là do nhận thức xã hội; Tính liên kết trong phát triển giữa Hải Dương và các địa phương còn rất thấp, chưa có chiến lược quy hoạch tổng thể chung đối với phát triển của vùng; Năng lực quản lý còn hạn chế. Do v ậy, giải pháp liên kết vùng để cùng phát triển được xem là có hiệu quả nhất. Một địa phương riêng lẻ có thể không đủ tài nguyên hay điều kiện để xây dựng nên các tuyến giao th ông ph ục v ụ cho s ản xu ất kinh doanh nhưng nếu biết kết hợp tốt với nhau, hợp tác với nhau thì có thể tận dụng được cáclợi thế trong vùng, đẩy mạnh thu hút đầu tư. Tỉnh Hải Dương cần đề nghị việc phân cấp, tự chịu trách nhiệm cao hơn nhiều so với hiện nay để có thể chuẩn bị tốt hơn cho việc đón bắt các cơ hội sắp tới. Không thể thụ động, cần năng động, chủ động đề xuất, thuyết phục để có được mức độ tự chịu trách nhiệm cao hơn các tỉnh khác. Đồng thời, tỉnh cũng phải rất chủ động truyền bá hình ảnh và vai trò mới mẻ của mình, thuyết phục về những lợi ích to lớn mà Hải Dương có thể đem lại. Không nên suy nghĩ theo kiểu “hữu xạ tự nhiên hương” mà cần phải có một quá trình triển khai kiên trì, lâu dài, chịu thương chịu khó. Việc đánh thức và khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh của H ải D ư ơng và cả khu vực để phát triển không chỉ là trách nhiệm của chính quyền mà còn phải là trách nhiệm của cả cộng đồng DN trong vùng. 8. Một số giải pháp khác Bên cạnh những nhóm giải pháp cơ bản trên, cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh. Tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước. Kiên quyết từ chối tiếp nhận các dự án có kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả kinh tế-xã hội thấp, các dự án gây ô nhiễm tới môi trường. Ưu tiên thu hút các dự án có vốn ĐTNN từ những quốc gia có tiềm lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Tăng cường kiểm tra, kiên quyết thu hồi đất đối với các chủ đầu tư đã được thuê đất nhưng không triển khai dự án theo tiến độ quy định. Tạo điều kiện thuận lợi để các dự án sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo các sở, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Hải Dương, tạo hiệu ứng lan tỏa tới các nhà đầu tư mới. KẾT LUẬN Kinh tế thời kỳ hội nhập luôn là vấn đề không chỉ các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Nó còn là sự quan tâm rất lớn từ phía các nhà đầu tư và các cá nhân khác trong xã hội và nó tác động trực tiếp tới cuộc sống của họ. Thông qua đó họ tìm những cơ hội đầu tư mới nhằm thu lợi nhuận. Còn đối với các nước tiếp nhận đầu tư, thông qua vốn đầu tư thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia mình. Đây có thể coi là nguồn vốn tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên tiếp nhận đầu tư và bên đầu tư nhằm thực hiện những mục tiêu riêng của mình. Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, Hải Dương luôn coi trọng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nhằm đạt được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hóa- hiện đại hóa cùng với cả nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển. Để đạt được mục tiêu đó không thể không nhắc tới nguồn vốn FDI. Trong bài viết đã đưa ra những vấn đề cơ bản về nguồn vốn FDI. Thấy được vai trò của nó đối với phát triển kinh tế xã hội của Hải Dương nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung trên con đường hội nhập kinh tế. Tuy đạt được khá nhiều thành tựu trong việc sử dụng FDI ở tỉnh ta nhưng bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số hạn chế chưa được giải quyết triệt để. Đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó và đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này trong thời gian tới tại Hải Dương. Trong thời gian tới tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để thu hút các dự án đầu tư với nguồn vốn lớn, sử dụng các công nghệ-kỹ thuật hiện đại, thu hút các dự án tập trung vào việc tận dụng các thế mạnh của địa phương như chế biến nông sản. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của các cấp từ Trung ương tới địa phương. Và có sự thống nhất giữa các cấp nhằm tạo nên một khối thống nhất, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào Hải Dương. Do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Hải Dương (1987-2007) của Sở kế hoạch -Đầu tư Hải Dương. Các báo cáo hàng năm FDI của phòng Kinh tế đối ngoại- Sở Kế hoạch-đầu tư Hải Dương. Hội nghị gặp mặt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2009 tại Hải Dương. Giáo trình kinh tế phát triển – NXB Lao động- xã hội năm 2005. GS.TS Nguyễn Thị Cành và Th.s Trần Hùng Sơn “ Vai trò của đầu tư FDI đến tăng trưởng và phát triển kinh tế “. Tạp chí phát triển kinh tế - T7/ 2009. Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2007. Tạp chí kinh tế Việt Nam 2008. Xây dựng kế hoạch KT-XH 5 năm 2011-2015 của Sở kế hoạch và đầu tư. Thu hút FDI: gỡ rối nội tại – www.uni.bros.com. Các trang web của: ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương ủy ban nhân dân tỉnh Hưng yên,UBNN Bắc Ninh, UBNN Vĩnh Phúc. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25668.doc
Tài liệu liên quan