Những năm gần đây, miền Trung đã có những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập của người dân được cải thiện, GDP không ngừng tăng cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng Đóng góp vào thành quả đó là sự nỗ lực hoạt động của các KCN miền Trung. Các KCN miền Trung đã và đang trở thành một điểm sáng thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt là các KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của miền Trung thông qua chính sách thu hút đầu tư vào các KCN.
Bên cạnh đó, xu thế hội nhập đã lan tỏa rộng khắp trên khắp các vùng tổ quốc. Hội nhập đã mang đến cho các vùng một cơ hội lớn về đầu tư, một thị trường rộng lớn cho hoạt động xuất khẩu. Năm 2006 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, thúc đẩy cho quá trình hội nhập diễn ra nhanh và sâu rộng. Đây là một triển vọng lớn cho doanh nghiệp trong các KCN miền Trung nâng cao khả năng xuất khẩu, xâm nhập thị trường quốc tế và khu vực.
Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề về xuất khẩu và thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung thời gian qua, đề tài “giải phát thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung” sẽ góp phần vào việc đánh giá thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. Qua đó thấy được những mặt được, mặt hạn chế và các nguyên nhân tồn tại. Đây cũng là cơ sở quan trọng trong việc đưa ra các định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung.
94 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp Miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.1.5. Tỷ giá hối đoái
Việt Nam hiện đang áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái giới hạn biên độ giao dịch, theo đó, VND được phép dao động trong một biên độ hẹp. Cuối tháng 12/2007 Ngân hàng Nhà nước tuyên bố nới rộng biên độ tỷ giá USD/VND lên mức +/-0,75% từ mức +/-0,5% so với tỷ giá chính thức. Động thái này của Ngân hàng Nhà nước diễn ra gần 1 năm sau lần nới rộng biên độ tỷ giá trước đó từ mức +/-0,25% lên mức +/-0,5% và phù hợp với kỳ vọng của thị trường, cũng như mục tiêu dài hạn là tự do hóa hệ thống tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, ảnh hưởng của việc nới rộng biên độ tỷ giá này không nhiều. Tỷ giá USD/VND vẫn được quản lý thông qua tỷ giá chính thức liên ngân hàng cố định hàng ngày. Với mức tỷ giá cố định này, biên độ giao dịch thực hiện chức năng kiềm chế sự biến động giao dịch ngoài ý muốn. Thực tế cho thấy, tỷ giá USD/VND được giao dịch trên thị trường liên tục ở sát ngưỡng trên, hoặc ngưỡng dưới của biên độ biến động cho phép. Do đó, việc nới rộng biên độ tỷ giá sẽ không thể tăng mức độ linh hoạt của tỷ giá USD/VND hàng ngày.
Để kìm hãm sự gia tăng của lạm phát, cuối năm 2007 , tỷ giá USD/VND đã tăng lên tức là 1USD đổi được 16.016 đồng, thấp hơn mức 16.056 đồng cuối năm 2006. Sự lên giá của VND cùng với sự giảm giá của USD đã làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là doanh nghiệp trong các KCN có hoạt động xuất khẩu do việc tăng giá của VND còn ảnh hưởng xấu đến thu hút FDI. VND lên giá làm cho hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước trở lên đắt hơn, kém sức cạnh tranh so với hàng hóa của các quốc gia khác. Thêm vào đó, sự tăng giá liên tục của nguyên liệu đầu vào như chi phí cho năng lượng, chi phí vận chuyển…Để giữ vững được thị trường thì các doanh nghiệp xuất khẩu có thể phải hạ giá sản phẩm, nhưng chi phí thành phẩm thì ngày một tăng, do vậy mà lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm, đó là chưa kể đến việc đổi lợi nhuận từ USD sang VND sẽ thu được ít VND hơn.
2.3.1.6. Cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng là yếu tố ảnh hưởng cơ bản đến việc thúc đẩy sản xuất, gia tăng xuất khẩu, phát triển kinh tế. Đối với doanh nghiệp trong các KCN miền Trung ta có thể phân tích yếu tố này hai nhóm cơ bản: nhóm các yếu tố bên ngoài phạm vi KCN và nhóm các yếu tố bên trong KCN.
Các yếu tố cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN
Các cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển…
Cảng biển là kết cấu hạ tầng quan trọng của kinh tế hàng hải, góp phần quyết định sự phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế biển của một quốc gia. Với việc chính thức gia nhập WTO, chắc chắn sự giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa nước ta nói chung và miền Trung nói riêng sẽ tăng lên rất nhiều.
Miền Trung là khu vực thuận lợi nhất của nước ta để xây dựng các cảng nước sâu. Đây là lợi thế của vùng để phát triển nền kinh tế mở. Hiện nay, với 14 tỉnh trong vùng, miền Trung đã có 17 cảng biển, trong đó có các cảng quốc tế Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang. Thế nhưng, rất nhiều năm nay phần lớn doanh nghiệp xuất khẩu ở miền Trung đã phải mang hàng của mình vào thành phố Hồ Chí Minh hoặc ra Hải Phòng để vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Các doanh nghiệp này đã không sử dụng cảng biển ở địa phương với lý do thời gian vận chuyển kéo dài, chi phí vận chuyển cao. Cụ thể để xuất một container 20 feet đến Osaka (Nhật Bản) thông qua cảng Đà Nẵng, thời gian vận chuyển thường chậm hơn từ 7 đến 10 ngày, chi phí cao hơn từ 35 đến 45 USD (chưa tính chi phí vận chuyển bằng đường bộ) nếu so vơi việc xuất container đó từ cảng Sài Gòn. Tình trạng này đến nay vẫn chưa khắc phục được xuất phát từ thực trạng năng lực sản xuất cũng như thị trường miền Trung quá nhỏ lẻ chỉ chiếm tầm 13% khối lượng hàng xuất hàng năm của cả nước, dẫn đến hậu quả là các thương cảng luôn trong tình trạng thiếu hàng.
Bên cạnh hệ thống các cảng biển, miền Trung hiện có 9 sân bay: Vinh (Nghệ An), Đồng Hới (Quảng Bình), Phú Bài (Huế), Đà Nẵng (Thành phố Đà Nẵng), Chu Lai (Quảng Nam), Phú Cát (Bình Định), Đông Tác (Phú Yên), Nha Trang và Cam Ranh (Khánh Hòa). Trong đó, sân bay Đồng Hới, Phú Bài, Cam Ranh và sân bay Đà Nẵng đã được nâng cấp thành sân bay quốc tế. Nhìn chung, các sân bay trong vùng hầu hết là sân bay nhỏ, có quá ít đường bay trực tiếp ra nước ngoài, đa số là bay nội địa, với trung bình 2 chuyến/tuần bằng máy bay ATR72.
Các yếu tố cơ sở hạ tầng bên trong KCN
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và cấp thiết của nền kinh tế quốc dân. Để thu hút đầu tư vào KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc triển khai nhanh dự án, ngoài các chính sách ưu đãi về tài chính và cơ chế quản lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư, các KCN cần phải xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải … Nhìn chung các KCN thường có hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật khá hoàn chỉnh so với bên ngoài KCN, một số còn đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng, bỏa hiểm.
Đến cuối năm 2007, trong tổng số 22 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN miền Trung, có 2 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 15 dự án đầu tư trong nước đã cơ bản hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành. Tuy nhiên vấn đề hệ thống xử lý nước thải đang là vấn đề quan tâm không chỉ của các KCN miền Trung mà là vấn đề chung của quốc gia. Hiện trong vùng mới chỉ có 7 KCN xây dựng xong công trình xử lý nước thải tập trung, các KCN khác thì đang xây dựng hoặc chưa xây dựng.
2.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô
2.3.2.1. Mục tiêu xuất khẩu của doanh nghiệp
Xu thế hội nhập lan tỏa khắp toàn cầu, nó không chỉ tác động đến các quốc gia mà có tác động mạnh đến hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này. Hội nhập đã hạn chế rào cản thương mại giữa các quốc gia, các vùng. Do vậy mà tạo ra một thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp sản xuất.
Các KCN được xây dựng với mục đích thu hút đầu tư trong và ngoài nước, gia tăng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu. Với các ưu đãi về thuế xuất khẩu, doanh nghiệp trong các KCN miền Trung ngày càng coi tăng trưởng xuất khẩu là một mục tiêu phát triển. Những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu trong giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung luôn đạt trên 25%. Tuy con số này còn khá khiêm tốn nhưng với xu hướng tăng dần tỷ trọng trong GTSXCN cũng đủ để thấy vai trò của hoạt động xuất khẩu ngày càng tăng.
2.3.2.2. Khả năng am hiểu về thị trường nước ngoài
Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài chọn các KCN để đầu tư chiếm một tỷ lệ rất lớn. Có đến trên 90% vốn FDI được đầu tư sản xuất kinh doanh trong các KCN. Với ưu điểm là thông thạo thị trường quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài này đã có đóng góp tích cực vào gia tăng kim ngạch xuất khẩu của KCN.
Năm 2007, các KCN miền Trung đã thu hút được 66 dự án có vốn đầu tư nước ngoài tương ứng với 682 triệu USD và 410 dự án có vốn đầu tư trong nước với số vốn 11897 tỷ đồng. Các dự án đầu tư trong nước chiếm đến 86% tổng số dự án đầu tư vào KCN miền Trung. Như vậy số dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn khá ít so với đầu tư trong nước.
Tồn tại chung hiện nay của các doanh nghiệp trong nước hiện nay là khả năng nắm bắt thông tin thị trường. Hầu như các doanh nghiệp này đều thiếu sự chủ động trong việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá thị trường nước ngoài. Nên họ thường xuất khẩu những sản phẩm sẵn có mà không tìm cách thay đổi sản phẩm thích ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Chính vì vậy mà khi các doanh nghiệp trong nước tham gia kinh doanh quốc tế, vấn đề thị trường là một cản trở rất lớn.
2.3.2.3. Năng lực sản xuất
Chuyển giao công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn là hoạt động được khuyến khích khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong KCN miền Trung cũng như cả nước. Hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN miền Trung với các ưu thế về vốn, nắm bắt thông tin công nghệ và chuyển giao công nghệ, nên các dây chuyền công nghệ sử đạt mức tiên tiến và đồng bộ với các nước trong khu vực và thế giới với 40% sử dụng thiết bị có tính đồng bộ cao, còn lại là mức trung bình. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước do hạn hẹp về nguồn vốn và khả năng áp dụng các công nghệ hiện đại nên phần lớn công nghệ sử dụng đều đã lạc hậu, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ 90, thế hệ 70 đem lại năng suất sản xuất không cao và tiêu tốn nhiều nguyên nhiên vật liệu.
Bên cạnh đó, chất lượng lao động đang là yếu tố khó khăn với doanh nghiệp trong việc muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang xuất các sản phẩm tinh sảo, đã qua chế biến.
Hình 2.11. Cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo trong các KCN miềnTrung
(Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX)
Năm 2007, các KCN miền Trung đã thu hút được 57.215 lao động làm việc trực tiếp, tuy nhiên lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động làm việc trong các KCN miền Trung, nhân viên kỹ thuật chiếm 4.3%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm trên 30% và còn lại hơn 60% là lao động giản đơn. Tỷ lệ này cho thấy, trình độ trung bình của người lao động trong các KCN miền Trung còn rất thấp.
2.3.2.4. Năng lực tài chính
KCN là điểm sáng trong việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Nguồn đầu tư của các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong KCN ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn.
Các KCN miền Trung trong những năm qua cũng đã tích cực thu hút vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và vào SXKD trong KCN. Tuy nhiên so với hai miền Bắc và miền Nam thì nguồn vốn đầu tư vào SXKD tai các KCN miền Trung còn rất hạn chế. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái cuối năm 2007 (một USD đổi được 16.016 VND) thì các KCN miền Trung thu hút được 1.425 triệu USD vào SXKD với quy mô trung bình 3 triệu USD/dự án. Mức đầu tư như vậy của miền Trung vẫn còn rất thấp. Cũng trong năm 2007, miền Nam thu hút được 29.501 triệu USD và miền Bắc thu hút được 9.280 triệu USD vào SXKD với mức đầu tư trung bình gần 7 triệu USD/dự án.
2.4. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG
Xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung đã đạt được một số thành quả khả quan. Song, để tương xứng với tiền năng của vùng, nâng cao hoạt động xuất khẩu, cần phải đánh giá được những mặt được cũng như mặt hạn chế của hoạt động này một cách tổng thể. Bởi vì đây cũng là căn cứ quan trọng cho việc đề ra các giải pháp tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các KCN trong vùng.
2.4.1. Mặt được của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN
Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung tăng đều theo các năm, và ngày càng giữ một vị thế quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của miền Trung, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung cao trung bình 32%/năm, cao hơn tốc độ tăng trung bình xuất khẩu của cả nước. Bên cạnh đó, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp chiếm một tỷ lệ cao trong giá trị sản xuất công nghiệp.
Vùng KTTĐ miền Trung đang phát huy vai trò dẫn đầu trong vùng. Cùng với Khánh Hòa, vùng KTTĐ miền Trung luôn là vùng có kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu của vùng.
Mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có xu hướng gia tăng sản phẩm có giá trị cao, sử dụng công nghệ tiên tiến, giảm xuất khẩu các sản phẩm thô hoặc mới sơ chế.
2.4.2. Mặt hạn chế của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN
Giữ một vị thế trong kim ngạch xuất khẩu của toàn vùng, nhưng các KCN miền Trung lại xếp ở vị trí thấp trong kim ngạch xuất khẩu của các KCN cả nước. Các KCN miền Trung chỉ xếp trên các KCN ở Tây Nguyên, nhưng tỷ trọng của hai vùng này thì rất nhỏ.
Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung tuy có tăng với tốc độ tương đối cao, nhưng so với hai miền Nam và miền Bắc thì với tốc độ hiện nay, sẽ phải mất một thời gian dài kim ngạch xuất khẩu của các KCN trong vùng mới đuổi kịp được.
Mặc dù có sự chuyển dịch về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, nhưng những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong vùng là dệt may, giày dép lại xuất khẩu chủ yếu theo hình thức gia công xuất khẩu. Còn mặt hàng máy móc, linh kiện điện tử chủ yếu là lắp ráp, ít có sản xuất. Ngoài ra vùng còn chưa phát huy được lợi thế về của các tài nguyên thiên nhiên như tài nguyên biển.
Hoạt động xuất khẩu của các KCN trong vùng có sự chênh lệch giữa các tỉnh. Khánh Hòa luôn là tỉnh có kim ngạch xuất khẩu từ các KCN cao nhất, trong khi đó Thừa Thiên Huế lại có kim ngạch hầu như không đáng kể trong giai đoạn đầu.
2.4.3. Nguyên nhân của mặt hạn chế
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế ở trên, nhưng có thể chia các nguyên nhân đó thành nhóm nguyên nhân xuất phát từ phía Nhà nước và nhóm nguyên nhân xuất phát từ phía doanh nghiệp trong KCN.
2.4.3.1. Nguyên nhân từ phía Nhà nước
Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế: ít, đơn lẻ, chưa có trọng tâm, chưa hiệu quả, công tác nghiên cứu thị trường chưa hệ thống, chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Do giới hạn về khả năng ngoại ngữ cũng như sự eo hẹp về kinh phí mà hoạt động của các thương vụ ở nước ngoài không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Các tham tán ở nước ngoài chưa có sự phối hợp tốt với đại diện các ngành, các địa phương, các hiệp hội, các doanh nghiệp nên luồng thông tin trao đổi còn hạn chế. Với 55 trụ sở thương vụ đặt tại nước ngoài vậy mà chỉ có một vài trụ sở thành lập Webside cập nhập thông tin. Bởi vậy mà các doanh nghiệp khó tìm kiếm thông tin về thị trường nước ngoài từ các thương vụ, các thương vụ không làm tốt việc quảng bá thương hiệu, sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước đối với khách hàng nước mình phụ trách.
Việc nghiên cứu thị trường chưa được xem xét đúng mực, các thông tin về thị trường rất chung chung. Những thông tin này không giúp cho các nhà xuất khẩu trong nước định hướng được việc sản xuất để cung ứng các sản phẩm cần thiết, phù hợp với thị hiếu thay đổi của người tiêu dùng nước ngoài. Dẫn đến làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước do xuất khẩu những sản phẩm sẵn có mà không xuất khẩu những sản phẩm người tiêu dùng cần.
Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu còn gặp nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản hoạt động rất kém và chưa có cơ chế tái chiết khẩu của các thương phiếu… Việc cung cấp tín dụng yếu kém còn tác động xấu tới cả việc thu hút đầu tư vốn FDI vào các KCN để định hướng sản xuất các sản phẩm xuất khẩu có giá trị.
Công tác quy hoạch các KCN còn nhiều thiếu xót, chưa hợp lý. Vùng chưa thành lập được một KCN với vai trò dẫn đầu vùng, liên kết các KCN trong vùng và thúc đẩy phát triển chung của cả vùng. Các KCN trong từng tỉnh chưa biết sử dụng lợi thế của địa phương để có chính sách thu hút đầu tư vào các ngành nghề lợi thế, góp phần làm phong phú mặt hàng xuất khẩu. Trên thực tế, các KCN trong vùng không có sự liên kết, luôn cạnh tranh gay gắt, cùng kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực như dệt may, giày dép, thủy sản, nhựa, bao bì, máy móc, linh kiện điện tử… có khi do thiếu vốn đầu tư, các KCN này còn chấp thuận cả những dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng không trong danh mục lĩnh vực kêu gọi đầu tư.
Cũng từ thiếu sự liên kết giữa các tỉnh mà dẫn đến tình trạng hoạt động không hiệu quả của hệ thống cơ sở hạ tầng. Hệ thống cảng biển và sân bay được xây dựng rộng khắp trong vùng. Các cảng biển luôn thiếu hàng làm cho chi phí vận chuyển cũng như thời gian vận chuyển hàng hóa bị đẩy cao hơn so với hai miền Bắc – Nam. Các sân bay nhỏ, bé, manh mún không phát huy được công suất.
2.4.3.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
Sự am hiểu về thị trường nước ngoài là một trong các nguyên nhân dẫn đến sản phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khó cạnh tranh được với các đối thủ. Phần lớn doanh nghiệp trong các KCN miền Trung chưa có thái độ chủ động trong việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Do vậy mà dẫn tới tình trạng xuất khẩu những sản phẩm mà người tiêu dùng nước ngoài không có nhu cầu cao.
Mặc dù xu hướng sản xuất để xuất khẩu ngày càng chiếm ưu thế nhưng trên thực tế tỷ lệ xuất khẩu trong GTSXCN hiện mới đạt chưa đến 30%. Bởi vì các nhà đầu tư khi đầu tư vào các KCN nhằm mục tiêu hưởng một số ưu đãi có lợi cho mình như được miễn thuế nhập khẩu các máy móc công nghệ cao, ưu đãi về giá thuê đất trong KCN, cơ sở hạ tầng tốt chứ không chú trọng nhiều đến việc xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao.
Trình độ lao động trong doanh nghiệp còn yếu kém. Lao động trong các KCN miền Trung chủ yếu là các lao động giản đơn, thiếu rất nhiều lao động kỹ thuật, lao động có trình độ đại học và trên đại học. Các doanh nghiệp chưa chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho nhu cầu của mình.
Vốn đầu tư vào SXKD của các doanh nghiệp không lớn. Thêm vào đó tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng ký còn rất thấp dưới 18%. Đây là các yếu tố cản trở việc mở rộng sản xuất, không tận dụng được lợi thế theo quy mô để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng cạnh tranh của sản phẩm, gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra, nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nước cùng với đồng nội tệ rẻ tương đối nên các doanh nghiệp xuất khẩu không chú ý nhiều đến khâu cải tiến sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Tóm lại, chương II đã phân tích về thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. Chương II giới thiệu qua về miền Trung và sự hình thành phát triển của các KCN miền Trung, đi sâu vào phân tích tình hình đầu tư, tình hình xuất khẩu cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung trong thời gian vừa qua. Qua đó, chương II đã chỉ ra những mặt được, mặt hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hoạt động xuất khẩu các KCN miền Trung.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG
Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung đang có những khởi sắc ban đầu. Xu thế hội nhập đã và đang gõ cửa đất nước, các doanh nghiệp xuất khẩu trong các KCN miền Trung cũng đang đón chờ những vận hội mới, nhưng quan trọng hơn cả, đó là liệu các doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp thời, có khai thác và phát huy được hay không. Vì thế, bên cạnh việc phân tích thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong KCN, việc nghiên cứu các định hướng phát triển cũng như những triển vọng xuất khẩu là vô cùng cần thiết. Đây là những cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp hợp lý, hữu hiệu và phù hợp với thông lệ của thế giới, là đòn bẩy đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung trong thời gian tới.
3.1. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG
3.1.1. Định hướng phát triển các KCN miền Trung
3.1.1.1. Quan điểm phát triển KCN
Phát triển các KCN là một bộ phận cấu thành của sự nghiệp CNH – HĐH và gắn liền với mực tiêu của sự nghiệp CNH – HĐH.
Phát triển các KCN phải tuân thủ quy hoạch được duyệt, đồng thời phải thường xuyên rà soát, điều chỉnh, quy hoạch phù hợp với điều kiện phát triển cảu đất nước và xu hướng phát triển của thế giới.
Thường xuyên hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KCN và bộ máy quản lý KCN.
Phát triển KCN đi đôi với đảm bảo các yếu tố xã hội, môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Phát triển bền vững KCN chính là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả ngày càng cao trong bản thân KCN, gắn liền với việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống, cũng như những yêu cầu về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng trong khu vực có KCN.
3.1.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN miền Trung đến năm 2015
Căn cứ vào Quyết định số 1107/QĐ – TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến năm 2020 đã được ban hành, thì tính từ thời điểm tháng 1/2008, dự kiến đến năm 2015 miền Trung sẽ có 22 KCN thành lập mới với tổng diện tích 4.885 ha và 26 KCN mở rộng với tổng diện tích 607 ha.
Bảng 3.1. KCN miền Trung dự kiến thành lập và mở rộng đến năm 2015
STT
Tỉnh, Thành phố
Số KCN dự kiến thành lập mới đến năm 2015
Số KCN dự kiến mở rộng đến năm 2015
Tổng Diện tích thành lập mới và mở rộng
(ha)
1
Đà Nẵng
2
0
350
2
Bình Định
2
1
760
3
Bình Thuận
1
0
900
4
Hà Tĩnh
2
0
200
5
Khánh Hòa
2
0
350
6
Nghệ An
1
0
50
7
Ninh Thuận
1
0
410
8
Quảng Bình
1
1
353
9
Quảng Nam
2
0
430
10
Quảng Ngãi
1
1
188
11
Quảng Trị
1
0
140
12
Phú Yên
3
1
576
13
Thừa Thiên Huế
1
1
135
14
Thanh Hóa
2
0
650
Tổng cộng
22
5
5492
(Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX)
3.1.1.3. Định hướng phát triển các KCN miền Trung
Phát triển các KCN đảm bảo hình thành hệ thống các KCN nòng cốt có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp của toàn miền. Hình thành hệ thống các KCN vừa và nhỏ, tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn và làm thay đổi bộ mặt KT – XH nông thôn. Thúc đẩy phát triển các KCN trong toàn vùng tránh sự tập trung tạo ra sự chênh lệch quá lớn về phát triển giữa các tỉnh, thông qua tác động của chính sách và hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng.
Phát triển các KCN hiện có theo chiều sâu và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo hướng lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, cơ điện tử, công nghệ sinh học… Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia cảu sản phẩm, hạn chế thua thiệt khi tham gia hội nhập thị trường khu vực và quốc tế.
Chấm dứt việc phát triển các KCN xen lẫn khu dân cư, thực hiện di chuyển các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra ngoài đô thị, hướng các nhà đầu tư vào KCN, trừ những dự án đòi hỏi nguồn nguyên liệu và diện tích lớn, các dự án đầu tư chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch.
Phát triển các KCN đi đôi với việc bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN, nhất là các KCN gần địa điểm du lịch chiến lược của vùng; chăm lo điều kiện làm việc, đời sống và nhà ở cho người lao động; giám sát chặt chẽ việc thi hành pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp KCN.
3.1.2. Triển vọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, miền Trung đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới thuận lợi hơn bao giờ hết. Khu vực miền Trung nằm trên trục giao thông chính của cả nước, có nhiều sân bay, là đầu ra của các nước tiểu vùng sông Mekong, nối kết một vùng rộng lớn từ phía Nam Trung Quốc qua Myanmar, Thái Lan, Lào. Miền Trung hiện có 22 KCN được thành lập và dự kiến thành lập thêm 22 KCN trong thời gian từ nay tới 2015, được coi là điểm đột phá, điểm đến của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây đã đem đến những cơ hội quý giá cho sự phát triển của miền Trung nói chung cũng như các doanh nghiệp trong KCN miền Trung nói riêng. Cuối năm 2006, cây cầu quốc tế Mekong thứ hai nối Mukdahan (Thái Lan) với Savannakhet (Lào) chính thức được khai thông đồng nghĩa với việc cơ sở hạ tầng cơ bản của hành lang kinh tế Đông – Tây đã gần như hoàn tất. Chặng đường dài hơn 1.450 km, đi qua 4 nước trên hành lang kinh tế Đông – Tây đã được rút ngắn khoảng cách về địa lý nhờ giao thông thuận lợi và cải cách hành chính thông thoáng tại các cửa khẩu quốc tế. Điều này đã mang đến những cơ hội thúc đẩy hợp tác khu vực, tạo tiền đề vững chắc cho các doanh nghiệp miền Trung có thể tiếp cận tốt hơn với các nguồn nguyên liệu, đa dạng hóa hoạt động kinh tế và thị trường xuất khẩu phía tây rộng lớn. Thông qua Lào, thị trường Đông Bắc Thái Lan có thể chấp nhận rất nhiều hàng hóa tiêu dùng của Việt Nam như hàng dệt may, giày dép, văn phòng phẩm…Gần đây, nhiều đại lý bán hàng tại Lào nhập khẩu các sản phẩm giày như Biti’s bán sang Thái Lan, một lượng lớn quần áo may sẵn từ miền Trung cũng được nhiều khu vực chợ trung chuyển tại Viên Chăn nhập để đưa qua Thái Lan. Các sản phẩm trang trí nội thất, dược phẩm, cao su, da và giả da cũng đang có xu hướng xuất khẩu mạnh sang thị trường Đông Bắc Thái Lan. Ngoài ra, với hàng thủy sản chế biến sẵn, hàng nông sản như tỏi, tiêu…đang là những sản phẩm ưa chuộng tại các thị trường phía tây. Vì thế một số lĩnh vực đã và đang đầu tư tại các KCN miền Trung có thể tiếp tục khẳng định tại các thị trường phía Tây như hàng dệt may, chế biến thủy sản, hàng giày dép…
Sau khi luật đầu tư 2005 có hiệu lực (1/7/2006) cùng với việc ban hành nghị định 108/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của luật Đẩu tư 2005, tốc độ thu hút dầu tư vào các KCN miền Trung phát triển khá nhanh. Luật đầu tư 2005 đã tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Năm 2007 vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN miền Trung tăng vọt lên 1.725 triệu USD, tăng 105% so với năm 2006.
Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của WTO. Là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam phải điều chỉnh một số chính sách về đầu tư, thương mại để phù hợp với thông lệ quốc tế. Môi trường đầu tư sẽ hấp dẫn hơn, các rào cản thương mại sẽ được giảm hoặc gỡ bỏ, thủ tục hành chính thuận tiện hơn. Vào WTO chính là vào một thị trường rộng lớn cho hàng hóa Việt Nam. Đây là một cơ hội rất lớn cho các KCN cả nước nói chung và các KCN miền Trung nói riêng trong việc thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Với nguồn tài nguyên cùng hệ thống cảng biển nước sâu, hệ thống sân bay, hệ thống đường cao tốc miền Trung đang nổi lên như một địa điểm sáng lôi cuốn đầu tư trong và ngoài nước. Việc tăng nguồn vốn đầu tư vào các KCN là tiền đề để doanh nghiệp trong KCN miền Trung tập trung vào sản xuất, ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, trong xu thế hội nhập quốc tê, Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN từ ngày 25/7/1995, tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA vào năm 2003 và là thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998 chắc chắn cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu đối với hàng hóa của các KCN miền Trung sẽ còn nhiều triển vọng hơn nữa.
3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG
3.2.1. Các giải pháp từ phía nhà nước
3.2.1.1. Tăng cường và đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại
Thúc đẩy xuất khẩu là vấn đề quan trọng đối với doanh nghiệp trong các KCN miền Trung hiện nay, nhất là khi tiến trình hội nhập ngày càng mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn. Vì vậy, hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước trở nên vô cùng cần thiết, nhất là khi các trợ cấp xuất khẩu đang phải dỡ bỏ. Các hoạt động xúc tiến này cần phải được đổi mới cho phù hợp với thực tiễn, phải chuyên nghiệp hơn, mang lại hiệu quả đích thực góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường cho ngành hàng hoặc địa phương.
Cần phải tăng cường phối hợp giữa các tổ chức XTTM với các thương vụ. Cho đến nay, đã có rất nhiều các văn bản phát quy để thực thi một cách có hiệu quả về quản lý nhà nước đối với XTTM toàn quốc. Toàn quốc đã hình thành một hệ thống XTTM xuyên suốt từ Trung ương đến các địa phương, đến các Bộ ngành, các hiệp hội ngành hàng và các Tổ chức phi chính phủ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã thiết lập được 55 thương vụ tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nhằm phụ trách các thị trường ở các nước khác nhau trên thế giới. Quan hệ giữa các tổ chức XTTM trong nước với các thương vụ đã được thiết lập từ lâu, đã phát huy tác dụng của XTTM, song các thông tin qua lại vẫn theo những vụ việc cụ thể, chưa có tính bài bản, chưa mang tính chiến lược mở rộng thị trường, phát triển xuất khẩu. Trong các biện phát tăng cường phối hợp giữa các tổ chức XTTM với các tham tán, thì việc tăng cường quan hệ giữa cục XTTM với các tham tán thương mại ở nước ngoài là một mắt xích quan trọng vì hai bên đều có chung nhiệm vụ và ở vị trí đầu mối, cùng có điều kiện, môi trường để thực hiện. Việc tăng cường phối hợp giữa các tổ chức XTTM với các thương vụ có thể đi theo các hướng sau:
Tăng thời lượng, hàm lượng, đầy đủ kịp thời thông tin kế hoạch XTTM ở trong và ngoài nước để các tổ chức XTTM và tham tán cùng biết, cùng phối hợp thực hiện.
Cùng nhau tìm ra những hình thức mới, phong phú trong việc thực hiện các hạng mục trong Chương trinh XTTM quốc gia ở nước ngoài.
Các tổ chức XTTM làm đầu mối duy trì quan hệ giữa các tham tán và doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Cần giải quyết vấn đề kinh phí cho hoạt động XTTM sao cho có trọng điểm, không lãng phí, thuận lợi cho các tham tán cũng như các tổ chức XTTM hoạt động; đồng thời cần đa dạng hóa việc huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau để các tổ chức thuộc hệ thống XTTM ở trong nước và nước ngoài mở mang hoạt động, nhất là cho các thương vụ.
…
Xây dựng các chương trình XTTM trong và ngoài nước dành cho các hàng hóa của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. Do có điều kiện kinh tế - xã hội không giống nhau, nên đã tạo ra những lợi thế, bất lợi riêng cho sản phẩm của từng vùng trong cả nước. Sản phẩm thủy sản của miền Trung có thể nói là đa dạng với trữ lượng lớn hơn các vùng khác; sản phẩm máy móc linh kiện điện tử của miền Trung có thể có chất lượng không bằng với sản phẩm của miền Bắc và miền Nam do nơi đây thiếu nhiều lao động có trình độ… Chính vì có sự khác biệt này mà nên phải có các chương trình XTTM riêng cho miền Trung cũng như cho các KCN trong miền.
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Hầu hết doanh nghiệp trong các KCN miền Trung còn yếu về cả thế và lực, vì thế công tác nghiên cứu thị trường dường như còn nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp này. Thế nên, Nhà nước cần phải cùng phối hợp với các cơ quan tham tán, thương vụ của Việt Nam tại thị trường nước ngoài để nâng cao chất lượng của công tác dự báo thông tin thị trường, nắm bắt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhãn mác, tình hình cạnh tranh… Nhà nước cần xây dựng và tăng cường hoạt động của các sàn giao dịch thương mại điện tử; kinh nghiệm của các nước cho thấy, đây là một biện phát rất hiệu quả bởi nó giúp các doanh nghiệp tìm hiểu được thông tin nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí giao dịch, chi phí đi lại. Ngoài ra Nhà nước có thể tổ chức đoàn khảo sát cho doanh nghiệp trong các KCN miền Trung đi thị sát, tìm hiểu nhu cầu thị trường để nắm bắt cơ hội kinh doanh, gia tăng khả năng thâm nhập thị trường.
Tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt động XTTM. Đẩy mạnh các hoạt động XTTM cấp cao để thúc đẩy hợp tác đầu tư, buôn bán, đặc biệt với việc thu hút các tập đoàn lớn vào đầu tư SXKD trong các KCN miền Trung, tạo bước tiến cho hoạt động xuất khẩu của các KCN trong vùng. Đồng thời, tích cực chủ động tham gia các diễn đàn kinh tế, các tổ chức liên kết khu vực và quốc tế để tranh thủ cơ hội, học tập kinh nghiệm quốc tế và truyền đạt lai cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngoài ra cần vận dụng các cam kết song phương và đa phương để tìm kiếm cơ hội mới.
3.2.1.2. Cải thiện hệ thống pháp lý gắn với thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN
Mặc dù được hưởng quy chế một cửa, nhưng doanh nghiệp trong các KCN miền Trung còn gặp khá nhiều khó khăn đối với các thủ tục hành chính hay chính sách của Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Cần phải cải thiện môi trường pháp lý linh hoạt, đơn giản, hiệu quả hơn để thúc đẩy doanh nghiệp trong các KCN gia tăng kim ngạch xuất khẩu.
Cần có sự thay đổi trong chính sách tiền tệ. Việt Nam nên thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay, Việt Nam đang ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD. Mặc dù USD là một ngoài tệ mạnh, có vị thế mạnh hơn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá rằng buộc vào ngoại tệ đó. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức quan hệ tỷ giá của USD và VND sẽ chịu ảnh hưởng, và tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm chưa đầy 20% kim ngạch xuát khẩu. Nên xét về mặt phát triển thương mại quốc tế, Việt Nam nên xem xét sử dụng hệ thống rổ tiền tệ để xác định tỷ giá ngoại hối hợp lý, làm tăng tính ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa, nhằm góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ổn định và cho phép đồng tiền dao động linh hoạt theo cùng với xu thế kinh tế thế giới.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” tại các KCN miền Trung. Với cơ chế này, các doanh nghiệp sẽ thuận tiện về thời gian, địa điểm và tiết kiệm cả chi phí trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Thế nhưng trên thực tế hiện nay, có chế “một cửa, tại chỗ” vẫn chưa được hoàn thiện tại các KCN. Phần lớn các quyết định vẫn phải xin ý kiến chỉ đạo của các cấp cao hơn. Chẳng hạn, giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường… BQL các KCN vẫn chưa đủ thẩm quyền để cấp. Cần phải thực hiện ủy quyền hơn nữa cho các UBND tỉnh và BQL KCN cấp tỉnh, để tạo điều kiện cho những cơ quan này thực hiện triệt để cơ chế “một cửa, tại chỗ”. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường mối quan hệ giữa BQL, doanh nghiệp phát triển hạ tầng, doanh nghiệp SXKD KCN theo hướng đảm bảo một đầu mối giải quyết.
3.2.1.3. Quy hoạch lại hệ thống KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng
Vấn đề liên kết giữa các địa phương ở miền Trung đang là yếu tổ cản trở sự phát triển chung của toàn vùng. Giữa các tỉnh không có sự khác biệt lớn về điều kiện kinh tế - xã hội, không tạo nên được sự nổi bật của địa phương mình để tạo lợi thế so sánh so với các địa phương khác trong vùng.
Cần phải có một kế hoạch phát triển các KCN trong vùng một các hợp lý. Các KCN cần phải được xây dựng ở những khu vực gần nguồn nguyên nhiên vật liệu cung cấp cho sản xuất, hay gần thị trường đầu ra, hoặc gần các cảng biển, sân bay để thuận lợi cho việc sản xuất và vận chuyển hàng hóa đến thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, để miền Trung phát triển bền vững và ổn định, đã đến lúc cần phải có chiến lược thu hút đầu tư vào các ngành trong KCN một cách hợp lý, phải định hướng thu hút đầu tư sang một giai đoạn mới. Trong đó, dựa trên điều kiện lợi thế của mình, các địa phương nên khuyến khích, chọn lọc các dự án đầu tư vào các ngành dịch vụ, công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng chất xám và tạo ra giá trị gia tăng cao; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, điện tử… Đây chính là điều kiện tiền đề để tạo ra sự bứt phá mới, cũng như xây dựng một hình ảnh mới của khu vực đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Tăng cường đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng bên trong và bên ngoài KCN. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN phục vụ xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN là một yêu cầu cấp bách. Cần nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, để sớm đưa các KCN miền Trung vào giai đoạn vận hành, đồng thời cũng phải nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng KCN như hệ thống thông tin liên lạc, điện – nước…phục vụ tốt nhất cho quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.
Hệ thống cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN được xây dựng tràn lan, không có điểm nhấm, tạo ra sự lãng phí và không hiệu quả. Do các tỉnh ở miền Trung đều có bờ biển, các bờ biển này tương đối ngắn nên rất cần sự liên kết với nhau. Mỗi tỉnh không nhất thiết cần có riêng một cảng biển, một sân bay mà nên tạo ra những cảng biển, sân bay lớn để giải quyết về vận tải, xuất nhập khẩu hàng hóa cho cả miền Trung. Miền Trung nền đầu tư vào 5 cảng trong điểm như Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn và cảng chuyên dùng Dung Quất, đầu tư vào các sân bay lớn như sân bay Đồng Hới (Quảng Bình), Phú Bài (Huế), Đà Nẵng (Đà Nẵng).
3.2.1.4. Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN miền Trung
Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản đế phát triển xã hôi, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nguồn nhân lực chất lượng cao và giá rẻ luôn là yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn được ưu tiên trong kế hoạch phát triển của mọi quốc gia trong thời kỳ hội nhập. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO nên yêu cầu hiện tại là phải nhanh chóng chuyển hướng đào tạo nhân lực phù hợp với yêu cầu mới.
Các KCN miền Trung hiện nay đang rất thiếu nguồn lao động có chuyên môn, có tay nghề. Do vậy cần phải tập trung tăng nhanh quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Phải cải cách phương pháp đào tạo cho sát với thực tế. Mở rộng và nâng cấp hệ thống đào tạo về cả cơ sở vật chất lẫn đội ngũ cán bộ đào tạo. Quán triệt phương pháp lý thuyết đi đôi với thực hành, thực hành tại trường, tại các doanh nghiệp. Tăng cường sự tham gia và phối hợp của các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo.Cần tăng cường đầu tư đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề hiện có. Các địa phương, doanh nghiệp trong vùng cũng cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích thu hút nhân tài, lao động có chất lượng cao đến làm việc tại khu vực miền Trung. Ngoài ra đối với từng KCN, ngay từ giai đoạn đầu khi lập dự án xây dựng KCN cần có sự phối hợp giữa các ban, ngành liên quan với các chủ đầu tư hạ tầng để nắm bắt cơ cấu ngành nghề trong KCN, từ đó dự báo nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong KCN, chủ động tổ chức các khóa đào tạo lao động cho các doanh nghiệp trong KCN.
Với đội ngũ XTTM, đội ngũ đóng vai trò xung kích trên thị trường thế giới, cần có các chương trình đào tạo nâng cao nghiệp vụ, kiến thức kinh nghiệm cho đội ngũ này. Để có thể thực hiện được điều này, nhà nước có thể tổ chức các cuộc hội thảo dành cho các cán bộ hoạt động xúc tiến thương mại trao đổi kinh nghiệm trong quá trình công tác.
Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực gồm các bộ quản lý KCN các cấp theo chương trình, chiến lược đào tạo cụ thể. Đồng thời, địa phương cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp và quản lý việc đào tạo, dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao động của KCN.
3.2.3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Khi kinh doanh trên thị trường thế giới, có rất nhiều các yếu tố tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, có những yếu tố thuận lợi góp phần thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa ra thị trường thể giới như rào cản thuế quan giảm, nhưng cũng gặp không ít khó khăn cản trở như công nghệ sản xuất biến đổi rất nhanh. Bởi vậy, để có thể đứng vững và phát triển trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt cơ hội, và hạ chế những nguy cơ có thể xảy ra.
Các doanh nghiệp cần có thái độ chủ động hơn trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu, nắm bắt thông tin thị trường nước ngoài có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam tránh khỏi tình trạng xuất khẩu theo hình thức tự phát. Ngoài ra, nhờ quá trình nghiên cứu các doanh nghiệp mới có thể nâng cao được chất lượng hàng hóa, gia tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. Để thực hiện được điều này, các doanh nghiệp có thể trực tiếp liên hệ với các cơ quan XTTM tại địa phương và Trung ương, cơ quan XTTM trong BQL KCN, các thương vụ ở nước ngoài để tìm hiểu thông tin một cách gián tiếp; doanh nghiệp có thể trực tiếp mở các cuộc điều tra tại thị trường nước ngoài để lấy thông tin, tuy nhiên phương án này có chi phí rất cao, do vậy để giảm chi phí các doanh nghiệp nên kết hợp mục đích này trong các lần tham gia hội trợ trong và ngoài nước.
Tăng đầu tư vào SXKD để đổi mới công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN có mặt bằng cao hơn các doanh nghiệp ngoài KCN, nhưng so với khu vực và thế giới thì trình độ công nghệ của doanh nghiệp trong các KCN cả nước nói chung và miền Trung nói riêng còn rất thấp. Do vậy các doanh nghiệp nên tăng cường đầu tư vào sản xuất, thay đổi dần công nghệ sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Doanh nghiệp là nơi sử dụng trực tiếp lao động, hiểu rõ mình cần lao động như thế nào, bao nhiêu và khi nào. Do vậy, để thuận lợi cho qua trình SXKD các doanh nghiệp nên có một chiến lược cụ thể về nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho chính mình. Trường hợp của các doanh nghiệp FPT là một ví dụ sáng chói về chủ động tạo nguồn nhân lực cho quá trình hoạt động. FPT đã mở các trường đào tạo ngay trong doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cao. Do đại học nằm trong doanh nghiệp nên nhu cầu đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp được xác định rõ ràng, các chương trinh huấn luyện, đào tạo và nghiên cứu phục vụ cho sự phát triển của FPT đều được đưa vào giảng dạy. Vì vậy, hoạt đông đào tạo của các doanh nghiệp FPT không chỉ tiết kiệm được chi phí và thời gian mà sinh viên khi ra trường có thể đảm nhận ngay được công việc, mang lại hiệu quả cao. Cách làm của FPT đáng được các doanh nghiệp quan tâm, học hỏi và rút kinh nghiệm để triển khai trên diện rộng. Nếu các doanh nghiệp trong KCN miền Trung không có đủ điều kiện để làm theo cách của các doanh nghiệp FPT thì có thể trực tiếp liên hệ với các trung tâm đào tạo, các trường đại học, cao đẳng để cùng tham gia vào quá trình đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực cho mình trong tương lai.
Thay đổi ngoại tệ trong thanh toán. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp khi ký kết các hợp đồng xuất khẩu thường sử dụng USD là đồng tiền thanh toán. Thị trường Mỹ tuy là một thị trường mục tiêu của rất nhiều doanh nghiệp nhưng đây không phải là thị trường duy nhất. Để giảm ảnh hưởng do biến động của đồng USD, các doanh nghiệp nên sử dụng các ngoại tệ mạnh khác làm đơn vị thanh toán như đồng Euro, đồng Yên Nhật, đồng Bảng Anh…
Tóm lại, xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung có nhiều triển vọng lớn. Hội nhập đã đem đến nhiều cơ hội mới cũng như thách thức mới đối với các doanh nghiệp miền Trung nói chung cũng như các doanh nghiệp trong KCN miền Trung nói riêng. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong KCN miền Trung trong thời gian tời thì cần có sự nỗ lực, sự quan tâm, phối hợp thực hiện một của Nhà nước và doanh nghiệp trong các KCN miền Trung.
KẾT LUẬN
Những năm gần đây, miền Trung đã có những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập của người dân được cải thiện, GDP không ngừng tăng cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng… Đóng góp vào thành quả đó là sự nỗ lực hoạt động của các KCN miền Trung. Các KCN miền Trung đã và đang trở thành một điểm sáng thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt là các KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của miền Trung thông qua chính sách thu hút đầu tư vào các KCN.
Bên cạnh đó, xu thế hội nhập đã lan tỏa rộng khắp trên khắp các vùng tổ quốc. Hội nhập đã mang đến cho các vùng một cơ hội lớn về đầu tư, một thị trường rộng lớn cho hoạt động xuất khẩu. Năm 2006 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, thúc đẩy cho quá trình hội nhập diễn ra nhanh và sâu rộng. Đây là một triển vọng lớn cho doanh nghiệp trong các KCN miền Trung nâng cao khả năng xuất khẩu, xâm nhập thị trường quốc tế và khu vực.
Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề về xuất khẩu và thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung thời gian qua, đề tài “giải phát thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung” sẽ góp phần vào việc đánh giá thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. Qua đó thấy được những mặt được, mặt hạn chế và các nguyên nhân tồn tại. Đây cũng là cơ sở quan trọng trong việc đưa ra các định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS . Nguyễn Thị Hường (2001), “Kinh doanh quốc tế”, Tập 1, NXB Thống Kê, Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2003), “Kinh doanh quốc tế”, Tập 2, NXB Lao động – Xã Hội, Hà Nội.
PGS.TS. Đỗ Đức Bình – TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), “Giáo trình Kinh tế quốc tế”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
PGS. Vũ Hữu Tửu (2006), “Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ giao dịch ngoại thương”, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
PGS. Vũ Hữu Tửu (2006), “Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
GS.TS Lê Văn Tư (2000), “Tín dụng tài trợ xuất, nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ”, NXB Thống Kê.
Viện nghiên cứu thương mại – Ban nghiên cứu thị trường (2003), “Xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Khoa Luật – trường ĐH Kinh tế Quốc dân (2006), “Những văn bản pháp luật kinh tế”, NXB Lao động – Xã Hội, Hà Nội.
Tổng cục thống kê (2007), “Niêm giám thống kê 2006”, NXB Thống Kê, Hà Nội.
TS. Nguyễn Xuân Thu – TS. Nguyễn Văn Phú (2006), “Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
TS. Đinh Quý Xuân (2007), “Triển vọng phát triển KT- XH Việt Nam đến 2010”, NXB Thống Kê, Hà Nội.
“Hệ thống văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
Luật Thương mại 2005
Nghị định số 57/1998/NĐ – CP ngày 31/7/1998, Quy đinh chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài.
Luật đầu tư 2005
Nghị định số 29/2008/NĐ – CP ngày 14/3/2008, Quy định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu kinh tế.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), “báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam”, Long An
TS. Trần Ngọc Hưng (2008), “xây dựng và phát triển KCN, KKT – kết quả đạt được trong năm 2007 và nhiệm vụ cần thực hiện trong năm 2008”, Báo cáo của Vụ Quản lý KCN và KCX.
Th.S Nguyễn Văn Hùng (2008), “Vai trò của Khu kinh tế, Khu công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội miền Trung”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, số 88(124), tháng 1/2008.
“Vai trò nhà nước trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ở nước ta”, Tạp chí thương mại số 16 (2007).
“Chính sách đẩy nhanh xuất khẩu của Trung Quốc”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam số 90(126), tháng 3/2008.
“Đồng USD thăng trầm tác động tới XNK Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, số 11(206) ngày 11/3/2008.
Nguyễn Anh Tuấn (2007), “Chuyển giao công nghệ qua FDI: thực tiễn ở một số nước đang phát triển và Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344, tháng 1/2007.
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
(vụ quản lý khu công nghiệp và chế xuất)
(Bộ ngoại giao)
(Thời báo kinh tế)
(Diễn đàn kinh tế miền Trung)
(Bộ công thương)
Phụ lục 1: Bản đồ khu vực Việt Nam
Phụ lục 2: Danh sách các tỉnh thành thuộc miền Trung Việt Nam
STT
Tên tỉnh, thành phố
Ghi chú
1
Thanh Hóa
2
Nghệ An
3
Hà Tĩnh
4
Quảng Bình
5
Quảng Trị
6
Thừa Thiên Huế
Thuộc vùng KTTĐ miền Trung
7
Đà Nẵng
Thuộc vùng KTTĐ miền Trung
8
Quảng Nam
Thuộc vùng KTTĐ miền Trung
9
Quảng Ngãi
Thuộc vùng KTTĐ miền Trung
10
Bình Định
Thuộc vùng KTTĐ miền Trung
11
Phú Yên
12
Khánh Hòa
13
Ninh Thuận
14
Bình Thuận
Phụ lục 3: Bản đồ các khu công nghiệp Việt Nam
Phụ lục 4: Danh sách các KCN miền Trung
STT
Tên KCN
Địa phương
Năm cấp giấy phép
Chủ đầu tư xây dựng CSHT
Diện tích
(ha)
I. KCN đã thành lập và vận hành
1
Đà Nẵng
Đà Nẵng
1994
Malaysia – Việt Nam
50
2
Liên Chiểu
Đà Nẵng
1998
Việt Nam
374
3
Hòa Cầm
Đà Nẵng
2003
Việt Nam
137
4
Hòa Khánh (GĐ1+MR)
Đà Nẵng
1997
Việt Nam
572
5
Long Mỹ (GĐ1)
Bình Định
2004
Việt Nam
100
6
Phú Tài (GĐ1,2,3+MR)
Bình Định
1998
Việt Nam
348
7
Phan Thiết (GĐ1&2)
Bình Thuận
1998
Việt Nam
164
8
Suối Dầu ( GĐ1&2)
Khánh Hòa
1997
Việt Nam
137
9
Bắc Vinh
Nghệ An
1998
Việt Nam
60
10
Hòa Hiệp
Phú yên
1998
Việt Nam
102
11
Tây Bắc Đồng Hới
Quảng Bình
2005
Việt Nam
66
12
Điên Nam – Điện Ngọc
Quảng Nam
1996
Việt Nam
390
13
Tịnh Phong
Quảng Ngãi
1997
Việt Nam
142
14
Quảng Phú
Quảng Ngãi
1998
Việt Nam
120
15
Nam Đông Hà
Quảng Trị
2004
Việt Nam
99
16
Lễ Môn
Thanh Hóa
1998
Việt Nam
88
17
Phú Bài ( GĐ1,2,3)
Thừa Thiên Huế
1998
Việt Nam, Hàn Quốc
269
II. KCN đã thành lập và đang xây dựng cơ bản
1
Hàn Kiệm I
Bình Thuận
2007
Việt Nam
143
2
Hàn Kiệm II
Bình Thuận
2007
Việt Nam
436
3
Hòn La
Quảng Bình
2005
Việt Nam
98
4
Phước Nam
Ninh Thuận
2006
Việt Nam
370
5
Phong Thu
Thừa Thiên Huế
2007
Hàn Quốc
100
Phụ lục 5: Danh sách các KCN dự kiến thành lập mới và mở rộng đến năm 2015 của miền Trung
Tỉnh, Thành phố
STT
KCN dự kiến thành lập mới đến năm 2015
STT
KCN dự kiến mở rộng đến năm 2015
Tên KCN
Diện tích (ha)
Tên KCN
Diện tích (ha)
Đà Nẵng
1
KCN Hòa Cầm 2
150
2
KCN Hòa Ninh
200
Bình Định
3
KCN Nhơn Hòa
320
1
KCN Long Mỹ
100
4
KCN Hòa Hội
340
Bình Thuận
5
KCN Tân Đức
900
Hà Tĩnh
6
KCN Hạ Vàng
100
7
KCN Gia Lách
100
Khánh Hòa
8
KCN Nam Cam Ranh
200
9
KCN Bắc Cam Ranh
150
Nghệ An
10
KCN Cửa Lò
50
Ninh Thuận
11
KCN Du Long
410
Quảng Bình
12
KCN Bắc Đồng Hới
150
2
KCN Hòn La
203
Quảng Nam
13
KCN Thuận Yên
230
14
KCN Đông Quế Sơn
200
Quảng Ngãi
15
KCN Phổ Phong
140
3
KCN Quảng Phú
48
Quảng Trị
16
KCN Quán Ngang
140
Phú Yên
17
KCN Đông Bắc Sông Cầu
105
4
KCN Hòa Hiệp
221
18
KCN An Phú
100
19
KCN Hòa Tâm
150
Thừa Thiên Huế
20
KCN Tứ Hạ
100
5
KCN Phú Bài
35
Thanh Hóa
21
KCN Bỉm Sơn
450
22
KCN Lam Sơn
200
Tổng
4885
607
NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26367.doc