Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng

Cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, trình độ công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may. Thực tế, trình độ công nghệ của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam hiện nay còn ở mức thấp, năng lực quản lý không cao, vì thế chưa có khả năng sản xuất dược những sản phẩm chất lượng cao, như các loại thuốc nhuộm, các loại xơ sợi tổng hợp, các máy móc thiết bị phức tạp Do đó, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngànhc ông nghiệp phụ trợ dệt may, phải quan tâm rất lớn đến việc đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao, giá cả cạnh tranh. Trước hết, có thể tiếp tục sử dụng các máy móc thiết bị vẫn còn khả năng sản xuất. Bởi trong những năm tới, chúng ta vẫn chưa có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Mặt khác, việc đào tạo cán bộ, công nhân để tiếp thu công nghệ.mới và sử dụng có hiệu quả các thiết bị cũng cần có thời gian. Tất nhiên, việc đầu tư thiết bị công nghệ mới là tất yếu, nhưng nó sẽ được thực hiện từng bước, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ cũ. Bên cạnh đó, đẩy nhanh đầu tư, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thịt rường. Để làm được điều này, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: Cần xây dựng cơ chế tài chính hợp lý hơn và đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có năng lực công nghệ hoạt động công nghệ thực sự. Có cơ chế xây dựng, xét duyệt và đánh giá khách quan giá trị của các đề tài nghiên cứu khoa học, các công nghệ được chuyển giao. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Có những ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển một số doanh nghiệp nội địa phát triển công nghiệp phụ trợ. Khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2038 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á là điểm đến ổn định về chính trị, an toàn về xã hội, đang hấp dẫn các thương nhân và nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư và làm ăn. Nhiều nhà nhập khẩu trên thế giới nhận định rằng sản phẩm của VN sẽ có khả năng cạnh tranh không thua kém bất cứ nước nào, về mặt chất lượng cũng đã nổi trội chẳng hạn như mặt hàng sơ mi dệt kim (cat 338, 339) Việt Nam hiện là nước xuất khẩu mạnh nhất vào thị trường Mỹ. Đặc biệt là năng lực cạnh tranh mặt hàng sơ mi của Việt Nam hiện nay đang đứng số 1 thế giới, còn xuất lớn hơn cả Trung Quốc. 2. Tồn tại   Hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu Công nghệ của các doanh nghiệp vẫn còn lạc hâu. Ngành công nghiệp dệt và phụ trợ còn yếu, dẫn đến 70% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị gia tăng không cao, thiếu linh hoạt và hạn chế khả năng đáp ứng nhanh. May xuất khẩu phần nhiều vẫn theo phương thức gia công, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB còn thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Kỹ năng quản lý sản xuất, kỹ thuật còn kém, năng lực quảng cáo tiếp thị hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu, các sản phẩm xuất khẩu phải sử dụng nhãn mác nước ngoài, chưa xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn cho doanh nghiệp. Cải cách hành chính còn chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia về hạ tầng cơ sở còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh, 1 số chi phí chung như vận chuyển, cảng khẩu...còn khá cao so với các nước. Thiếu công nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Mối quan hệ lao động, tiền lương đang có chiều hướng phức tạp. Nhiều cuộc đình công tự phát đã xảy ra tại các thành phố và khu công nghiệp tập trung đã ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh. Thiếu lao động kỹ năng trung cao cấp về công nghệ, thương mại, quản trị. Lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Bên cạnh đó, mức độ ổn định của nguồn lao động trong ngành may mặc không cao khiến cho các doanh nghiệp may thường xuyên phải quan tâm đến việc tuyển dụng lao động mới. 3. Nguyên nhân của tồn tại - Phần giá trị tạo mới do ngành đem lại không lớn, vì hoạt động chủ yếu nhờ vào việc khai thác tối đa sức lao động phổ thong trình độ thấp. Các công ty may VN đang sử dụng nguồn lao động không qua trường lớp chuyên nghiệp. Phần lớn các công ty tự đào tạo theo cách riêng của mình. Duy chỉ một vài công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại VN mới cử người đi học ở Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông. Nhưng số lượng này rất ít. - Do phần lớn là gia công, phải phụ thuộc đến 70% - 80% vào nguồn nguyên phụ liệu (NPL) nhập khẩu nên giá trị XK vẫn rất thấp. Trong khi tốc độ và giá trị tăng trưởng của ngành dệt may phụ thuộc rất nhiều vào sản xuất FOB (mua NPL, bán thành phẩm) và khả năng chủ động nguồn NPL thì tỷ lệ sản xuất hàng FOB ở Việt Nam đến nay chỉ chiếm khoảng 20% - 25%. Nếu hiểu đúng nghĩa của sản xuất FOB thì các doanh nghiệp (DN) Việt Nam cũng mới dừng lại ở dạng sản xuất FOB “cấp 2” (một hình thức gia công thông qua hợp đồng trung gian). Do không đủ năng lực để tự thiết kế mẫu, chủ động lựa chọn NPL, tự chào bán sản phẩm, nên các DN Việt Nam phải nhận sản xuất lại hàng theo chỉ định của nhà sản xuất FOB “cấp 1”. Trên thực tế, các DN sản xuất FOB của Việt Nam tự mua NPL, nhưng phải mua theo mẫu của FOB “cấp 1” đưa ra (với đơn hàng FOB này DN được hưởng thêm 5% - 10% trên giá trị NPL). Trong khi đó, ở thời điểm này, khi Trung Quốc đã chào hàng cho thị trường năm 2009 - 2010 thông qua những catalogue về mẫu mã, chất liệu vải may, xu hướng thời trang, thì các DN Việt Nam đang phải tìm mua lại các tài liệu này để… nghiên cứu thị trường! Các DN dệt may Việt Nam đang thiếu tính liên minh, liên kết. Mà đang tồn tại theo kiểu “ mạnh ai nấy làm”. Việc cạnh tranh lẫn nhau giữa các DN trong nước, đã tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu ép giá, thậm chí chuyển từ đơn hàng sản xuất FOB trước đây sang gia công. Hiện nay mỗi DN tự đưa ra một mức giá riêng, nên nhà nhập khẩu “chảnh”, ép giá, sẵn sàng chuyển đơn hàng sang công ty khác nếu DN không chịu mức giá thỏa thuận. Vì nhà nhập khẩu đã nắm được điểm yếu này và cũng biết rõ là đang có nhiều DN xếp hàng để nhận làm với giá thấp hơn. Và dù bị ép giá, nhưng vì sự sống còn của DN và để có việc làm cho công nhân, DN đành phải chấp nhận gia công với cái giá không mong muốn. Đó là nỗi bức xúc rất lớn, nhưng tự một vài DN không thể làm thay đổi được điều này. Thực tế đó cho thấy, rõ ràng, các DN trong nước đang tự giết nhau, nhận phần thiệt về mình, còn cái lợi thì để cho nhà nhập khẩu hưởng. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU KHỦNG HOẢNG I.CƠ SỞ CHO VIỆC ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG 1. Cơ hội và thách thức 1.1 Cơ hội Theo thống kê của Tổng cục thống kê, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc sang một số thị trường đang giảm, thị phần của Trung Quốc đang bị thu hẹp, tạo cơ hội cho các sản phẩm dệt may đến từ Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Có thể nói đây là cơ hội tốt cho việc xuất khẩu dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong thời kỳ hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v). Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác mới. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa có dân số 84 triệu dân với mức sống ngày càng được nâng cao thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và các doanh nhân. Trong chiến lược phát triển ngành dệt may của Việt Nam, Chính phủ đã có định hướng phát triển các lĩnh vực phụ trợ, phát triển các nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành may. Những kế hoạch này nếu thực hiện tốt sẽ giúp cung cấp những nguyên liệu có chất lượng cao, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu vốn đang là vấn đề lớn của ngành may xuất khẩu hiện nay. Khi đó, các doanh nghiệp may trong nước sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Triển vọng xuất khẩu của các doanh nghiệp may Việt Nam cũng rất lớn. Với thị trường EU, triển vọng tăng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất lớn khi các doanh nghiệp Việt Nam thoả mãn được những yêu cầu về môi trường của thị trường này. Đây là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Nếu biết tận dụng tốt những cơ hội cũng như có sự chuẩn bị phù hợp và đúng hướng thì trong tương lai, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đạt được những kết quả phát triển ấn tượng. 1.2 Thách thức Ngành dệt may của Việt Nam cũng đang phải đương đầu với những thách thức không nhỏ. Một mặt, xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới... là thách thức khi hội nhập kinh tế toàn cầu.  Mặt khác, môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng.  Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa, không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương mại. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó còn là các hạn chế trong khâu sản xuất vải và nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu, yếu về mẫu mã, chủng loại nhãn mác, phần lớn DN chưa có thương hiệu sản phẩm, năng suất lao động thấp, chi phí giao dịch lớn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng chung của ngành là rất ấn tượng, nhưng sự phát triển của từng doanh nghiệp trong ngành lại không hề dễ dàng, đặc biệt khi giá vật liệu đầu vào và chi phí nhân công tăng nhanh chóng. Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc Trung Quốc với giá thành rẻ và kiểu dáng mẫu mã đa dạng, phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam và các nước trên thế giới. Các quốc gia nhập khẩu thường có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với chất lượng của hàng may mặc nhập khẩu vào, bao gồm cả hàng hóa của Việt Nam 2. Dự báo nhu cầu về hàng dệt may Việt Nam trên thế giới Năm 2010 được dự báo kinh tế thế giới sẽ phục hồi, nhưng chứa đựng nhiều rủi ro khó lường, vì thế doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phải tiếp tục bảo vệ lợi thế cạnh tranh của mình, chủ động đón cơ hội kinh doanh sau khủng hoảng. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững, ngành dệt may Việt Nam sẽ tập trung chú trọng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là những người làm thiết kế thời trang. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật ngành dệt may đã ngày càng tăng về chất lượng, đặc biệt là đội ngũ thiết kế thời trang đã có sự lớn mạnh, chuyển về chất. Sản phẩm dệt may Việt Nam đã khẳng định được đẳng cấp. Vị thế và uy tín của ngành dệt may Việt Nam đang ngày càng tăng cao. Giai đoạn 2011-2015, ngành dệt may Việt Nam chủ trương tăng cường XK, xác định lại chiến lược về thị trường nhằm thiết lập thị trường XK ổn định. Đặc biệt, trong giai đoạn mới, ngành dệt may không chỉ phải cạnh tranh về chất lượng, về giá cả mà phải cạnh tranh ngay từ khâu đấu giá trên mạng. Bây giờ, kiểu đặt hàng mang mẫu đến rồi bảo anh làm cho tôi mẫu mã như thế này, giá cả thế kia… đã quá lạc hậu, mà phải đấu giá trực tiếp trên mạng. Chẳng hạn một công ty thời trang ở Pháp ra một mẫu thiết kế mới, mời đấu giá ngay trên mạng internet. Hàng loạt đối thủ từ các nước có thế mạnh trong làng dệt may trên thế giới cùng đấu giá. Do vậy, phải có nguồn nhân lực đáp ứng được những yêu cầu này. Phải có những chuyên gia tính toán được ngay trong thời gian ngắn, với mẫu mã như vậy thì cần những nguyên phụ liệu gì, thời gian thực hiện bao lâu và đưa ra giá hợp lý, có như vậy mới có thể giành được những hợp đồng may giá trị cao. Do vậy, khâu quan trọng nhất đối với ngành dệt may trong thời gian tới vẫn là tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao. 2.1.Đối với ngành Dệt Do ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế thế giới, ngành dệt may Việt Nam tiếp tục hứng chịu nhiều rủi ro. Nếu như trong khoảng thời gian đầu năm 2008, ngành dệt may đã đạt được những bước tăng trưởng khá mạnh thì cuối năm 2008, đầu năm 2009, dệt may Việt Nam lại vấp phải những khó khăn, thách thức do phụ thuộc khá nhiều vào các đơn hàng từ nước ngoài. Đi kèm theo đó là tình trạng nhiều công nhân mất việc, nhà xưởng giảm ca, và kéo dài ngày nghỉ cho người lao động. Bên cạnh đó, 70% nguyên phụ liệu dệt may Việt Nam phải nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, dao động tỷ giá ngoại tệ và sự bất ổn của thị trường quốc tế sẽ là những bất lợi cho sự phát triển của cả ngành. Tuy vậy, BMI vẫn lạc quan cho rằng dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua sóng gió và đạt được kết quả ấn tượng. Giá trị gia tăng mà ngành dệt mang lại đã tăng 9,2% trong năm 2008 thì nay năm 2009 sẽ giảm chỉ còn 8% và 5,9% vào năm 2010 nhưng năm 2011 sẽ phục hồi và tăng trở lại lên 9,3% 2.2.Đối với ngành May Mặc Ngành công nghiệp may mặc sẽ bớt ảm đạm và có nhiều khả năng phục hồi hơn ngành dệt vì quy mô ngành hàng này lớn hơn, linh hoạt hơn và có nhiều lựa chọn để bù đắp trong thời kỳ suy thoái (ví dụ như phát triển thị trường xuất khẩu mới). Vì vậy, BMI dự báo cho dù giá trị gia tăng hàng may mặc năm 2009 giảm xuống chỉ còn 3% và năm 2010 sẽ giảm mạnh hơn chỉ còn 0,9% thì đến năm 2011 sẽ phục hồi với tốc độ tăng trưởng là 10,3%. Từ năm 2003 đến 2008 tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của giá trị gia tăng mà ngành dệt may mang lại đạt 11,9% vượt tốc độ tăng trưởng GDP tới 7,8%. Nhưng trong vòng năm năm tới, tốc độ này chỉ còn 4,8% thấp hơn so với tốc độ GDP ở mức 7%. BMI dự báo tốc độ xuất khẩu hàng dệt may sẽ giảm 18,6% (tương đương khoảng 8,74 tỉ đô-la Mỹ) trong năm 2009; còn nhập khẩu giảm 20,4% (tương đương khoảng 5,04 tỉ đô-la Mỹ). Tăng trưởng xuất khẩu bình quân ở mức 22,4%/năm giai đoạn 2003 - 2008 có thể giảm xuống chỉ còn 1,8% trong giai đoạn 2008 - 2013. Bảng 3: Số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2013 Sản xuất 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Giá trị gia tăng, triệu đô la Mỹ 3.205,5 3.899,6 5.136,8 4.789,3 4.764,5 5.721,1 6.847,6 7.759,3 Giá trị gia tăng, % trong GDP 5,3 5,5 5,7 5,2 4,9 5,0 5,0 5,1 Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng, % 13,2 13,5 9,2 -3,0 -0,9 9,8 9,2 9,0 Giá trị gia tăng ngành dệt, triệu đô la Mỹ 325,0 368,9 402,8 390,7 387,2 423,2 460,0 499,2 Thương mại quốc tế Kim ngạch XK hàng dệt, triệu USD 1.058,0 1.352,0 1.690,0 1.318,2 1.453,5 1.598,8 1.742,7 1.912,7 Kim ngạch NK hàng dệt, triệu USD 3.988,0 4.940,0 5.874,8 4.699,8 5.056,9 5.166,8 4.990,7 5.096,5 Cán cân thương mại ngành dệt, triệu USD -2.930,0 -3.588,0 -4.184,8 -3.381,6 -3.603,4 -3.568,0 -3.247,9 -3.183,8 Kim ngạch XK hàng may mặc, triệu USD 5.579,0 7.186,0 9.054,4 7.424,6 8.335,4 8.898,6 8.929,0 9.505,3 Kim ngạch NK hàng may mặc, triệu USD 271,0 426,0 449,8 337,3 379,8 414,0 451,3 497,3 Cán cân thương mại ngành may mặc, triệu USD 5.308,0 6.760,0 8.604,6 7.087,2 7.955,6 8.484,6 8.477,7 9.008,0 Nguồn: BMI (tháng 7/2009) Theo đó, triển vọng của ngành may mặc sẽ là sáng sủa hơn một chút so với ngành dệt, do có quy mô lớn hơn, mức độ linh hoạt cao hơn, và có nhiều lựa chọn thay thế ngay cả trong thời kỳ suy thoái (chẳng hạn, phát triển thị trường xuất khẩu mới) Giá trị gia tăng của ngành hàng may mặc được dự báo sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2011-2013, mặc dù có giảm lần lượt 3,0% và 0,9% vào các năm 2009 và 2010. Đây là triển vọng khá tích cực, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2011-2013 còn thấp hơn so với mức trung bình trong các năm 2003-2008 (11,9%). Cũng do tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với GDP mà tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành may mặc trong GDP trong giai đoạn 2009-2013 sẽ thấp hơn so với mức trong giai đoạn 2006-2008. Tương tự, giá trị gia tăng của ngành dệt cũng giảm nhẹ từ mức gần 403 triệu USD vào năm 2008 xuống còn xấp xỉ 391 triệu USD và hơn 387 triệu USD lần lượt vào các năm 2009-2010, trước khi tăng liên tục lên khoảng 500 triệu USD vào năm 2013. Tuy giá trị gia tăng có giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may chỉ giảm trong năm 2009, và sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2010-2013. Theo BMI (2009), kim ngạch xuất khẩu hàng dệt tăng liên tục từ mức hơn 1,3 tỷ USD vào năm 2009 lên hơn 1,9 tỷ USD vào năm 2013, với tốc độ tăng trung bình khoảng 9,8%/năm trong 2010-2013. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cũng tăng từ mức hơn 7,4 tỷ USD lên hơn 9,5 tỷ USD trong giai đoạn 2009-2013. Mặc dù vậy, triển vọng xuất khẩu này cũng đi kèm những diễn biến đáng lo ngại. Trước hết, cán cân thương mại ngành dệt vẫn có mức thâm hụt lớn, mặc dù mức thâm hụt đã giảm mạnh trong năm 2009 và trong giai đoạn 2011-2013. Điều này cho thấy ngành may mặc của Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phải dựa vào nguyên liệu dệt nhập khẩu để phục vụ cho các đơn hàng xuất khẩu của mình. Triển vọng nhập khẩu các nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc cũng được trình bày trong bảng sau. Bảng 4: Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đoạn 2005-2020 Mặt hàng Đơn vị 2005 2010 2020 Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Năng lực Nhu cầu Nhập khẩu Bông 1000 tấn 11 165 154 20 255 235 60 430 370 Sợi nhân tạo 1000 tấn 140 140 260 220 600 370 Chỉ và filamen 1000 tấn 260 510 250 350 790 440 650 1.350 700 Vải Triệu m2 618 2.280 1.662 1.000 3.525 2.525 2.000 5.950 3.950 Nguồn: Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội Trong điều kiện kinh tế bình thường, vấn đề nguyên liệu đối với ngành may mặc sẽ không phải là quá nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện khủng hoảng, khi các đơn hàng xuất khẩu không còn nhiều và các doanh nghiệp may mặc phải chuyển hướng sang phục vụ thị trường trong nước, việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu sẽ làm các doanh nghiệp mất tính chủ động trong kế hoạch kinh doanh và còn gặp khó khăn về nguồn ngoại hối để chi trả cho nhập khẩu. 3. Chiến lược phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng tạo sự phát triển bền vững của ngành Dệt may Việt Nam. Phát triển ngành Dệt may theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng của sản phẩm, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững, hiệu quả. Phát triển tối đa thị trường nội địa đồng thời với việc mở rộng thị trường xuất khẩu; lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành. Phát triển thị trường thời trang Việt Nam tại các đô thị, thành phố lớn. Chuyển dịch mạnh các cơ sở Dệt may sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn. Đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa quy mô và loại hình doanh nghiệp; huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển ngành Dệt may Việt Nam. Phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu dệt may, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của ngành. II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ SAU KHỦNG HOẢNG 1. Định hướng 1.1. Sản phẩm a) Tập trung phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc. Chú trọng công tác thiết kế thời trang, tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu hội nhập trong ngành Dệt May. Tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt may, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. b) Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp, nguyên phụ liệu, phụ tùng thay thế và các sản phẩm hỗ trợ để cung cấp cho các doanh nghiệp trong ngành. c) Xây dựng Chương trình sản xuất vải phục vụ xuất khẩu. Tập đoàn Dệt May Việt Nam giữ vai trò nòng cốt thực hiện Chương trình này. d) Xây dựng Chương trình phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây dựng các vùng trồng bông có tưới nhằm tăng năng suất và chất lượng bông xơ của Việt Nam để cung cấp cho ngành dệt. 1.2.  Đầu tư và phát triển sản xuất a) Đối với các doanh nghiệp may: Từng bước di dời các cơ sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao động nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Xây dựng các trung tâm thời trang, các đơn vị nghiên cứu thiết kế mẫu, các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu và thương mại tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn. b) Đối với các doanh nghiệp sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất vải: Xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt may có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường theo quy định của Nhà nước. Thực hiện di dời và xây dựng mới các cơ sở dệt nhuộm tại các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để có điều kiện xử lý nước thải và giải quyết tốt việc ô nhiễm môi trường. c) Xây dựng các vùng chuyên canh bông có tưới tại các địa bàn có đủ điều kiện về đất đai, thổ nhưỡng và khí hậu nhằm nâng cao sản lượng, năng suất và chất lượng bông xơ. 1.3.  Bảo vệ môi trường a) Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường. b) Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp. c) Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000. d) Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường. e) Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. g) Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Mục tiêu phát triển của dệt may Việt Nam đến năm 2020 Nhằm tạo được bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm,ngành dệt may Việt Nam đã có chiến lược phát triển đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong đó, mục tiêu phát triển ngành dệt may thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu ; thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước,tạo nhiều việc làm cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp dệt may cố gắng phát triển bền vững, đạt hiệu quả cao trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Từ đó, ngành đề ra các mục tiêu tăng trưởng sản xuất bình quân :đạt 16% đến 18% (2008 -2010); 12% đến 14% (2011- 2015); 12% đến 14% (2016 - 2020) Bên cạnh việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển cho ngành dệt may, toàn ngành cố gắng mở rộng việc xuất khẩu trong đó phấn đấu : Giai đoạn 2008 – 2010: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 20% và kim ngạch xuất khẩu đạt 12,0 tỷ USD vào năm 2010. Giai đoạn 2011 đến 2015: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 18 tỷ USD vào năm 2015. Giai đoạn 2016 đến 2020: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020. Ngoài ra ngành dệt may sẽ tập trung phát triển và nâng cao năng lực về nguồn nhân lực, nguồn nguyên, phụ liệu để có nguồn nhân lực chuyên môn cao, tạo nên sản phẩm chất lượng cao gắn với thương hiệu uy tín; có thể phát triển được khoa học kĩ thuật đồng thời bảo vệ được môi trường; đầu tư để sản xuất và nguyên phụ liệu gắn liền với hợp tác quốc tế; cung ứng nguyên phụ liệu bằng việc xây các trung tâm cung ứng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn, thu hút đầu tư nước ngoài và nội địa để đầu tư sản xuất các sản phẩm hoá chất (xơ, sợi, hóa chất…). Bảng 5: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015 với tầm nhìn đến năm 2020 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 1. Kim ngạch XK Triệu USD 12.000 18.000 25.000 2. Sử dụng lao động 1000 người 2.500 2.750 3.000 3. Sản phẩm chủ yếu - Bông xơ 1000 Tấn 20 40 60 - Xơ, sợi tổng hợp 1000 Tấn 120 210 300 - Sợi các loại 1000 Tấn 350 500 650 - Vải các loại Triệu m2 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may Triệu sản phẩm 1.800 2.850 4.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 50 60 70 Nguồn: Bộ Công Thương III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU KHỦNG HOẢNG 1. Nhóm giải pháp từ phía nhà nước Để thúc đẩy xuất khẩu dệt may việt Nam thì nhà nước càn có các giải pháp sau đây: 1.1. Phát triển nguyên phụ liệu cho ngành dệt may Một điểm bất lợi cho dệt may Việt Nam là không có sẵn nguồn nguyên phụ liệu. Theo thống kê, hàng năm dệt may Việt Nam phải nhập 70% Nguyên phụ liệu dệt may để phục vụ cho sản xuất dệt may xuất khẩu. Chính vì phải nhập khẩu quá lớn nên giá thành sẽ bị đẩy lên cao, so với Trung Quốc, giá thành sản phẩm cùng loại của ta đắt hơn từ 20-30%. Thêm nữa, do việc nhập khẩu là quá lớn nên các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chịu sức ép của các nhà cung cấp nguyên phụ liệu và gặp khó khăn khi thực hiện những đơn giá đặt hàng. Tình trạng thiếu hụt nguyên phụ liệu này một phần là do sự phát triển không cân đối giữa ngành dệt và ngành may. Hiện nay,chỉ có khoảng 30% sản phẩm ngành dệt đủ đáp ứng nhu cầu cho hàng may xuất khẩu. So với các nước trong khu vực thì năng suất lao động của ngành dệt chỉ bằng 30-50% Với thực trạng trên, nhà nước cần có chiến lược quy hoạch nhằm phát triển vùng phụ liệu trong nước. Ngành dệt may cần kết hợp với ngành nông nghiệp để phát tiển các vùng trồng bông, tăng diện tích trồng bông ở khu vực Tây Nguyên và các vùng khác. Cần mời chuyên gia giỏi ở các nước nổi tiếng trên thế giới như Hoa kỳ, Úc tư vấn, giám sát về kỹ thuật trồng bông để tạo ra bông có chất lượng cao đấp ứng tiêu chuẩn để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Phát triển ngành dệt để theo kịp ngành may, cần tạo ra các sản phẩm sợi, vải đủ tiêu chuẩn cho hàng dệt may xuất khẩu hay đảm bảo cho mặt hàng dệt. Muốn vậy nhà nước cần có quy hoạch cụ thể về việc phát triển nguyên phụ liệu cho ngành tơ phát triển, có các chính sách ưu đãi cho phát triển ngành này. Và để đảm bảo đầu ra cho nguyên phụ liệu sản xuất trong nước, nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nâng tỷ lệ nội địa hóa thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. 1.2. Phát triển công nghệ Phát triển công nghẹ là khâu trọng yếu trong chiến lược tăng tốc của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Phát triển công nghệ giúp năng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Thực tế,Việt Nam chủ yếu nhận chuyển giao công nghệ có khi còn nhập khẩu cả những công nghệ từ thập niện 70. Sự hạn chế trong công nghệ đã làm hạn chế đến năng suất và chất lượng của sản phẩm dệt may. Do đó nhà nước cần có những biện pháp phát triển công nghệ cho ngành dệt may Trước mắt là vẫn phát triển qua con đường chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên nhà nước cần phát triển hoạt động của bộ phận đánh giá công nghệ nhằm giúp các doanh nghiệp trong khâu đánh giá công nghệ. Với góc độ của nhà nước, việc đánh giá công nghệ sẽ có tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn. Đánh gía công nghệ phải xác định được công nghệ nào là hiện đại, là phù hợp với trình độ sản xuất của đất nước tránh tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu, hay công nghệ quá hiện đại mà không sử dụng được. Về lâu dài, nhà nước cần phát triển các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp dệt may tự nghiên cứu và phát triển công nghệ của chính mình nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của dệt may Việt Nam. 1.3 Đào tạo và phát triển nhân lực Nguồn nhân lực của ngành dệt may Việt Nam còn yếu và thiếu cả đội ngũ lao động có trình độ cao và cả đội ngũ lao động sản xuất trực tiếp. Với đội ngũ lao động có trình độ cao, ngành dêt may thiếu những nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ cao, có khả năng tạo ra các mẫu mã phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng, thiếu đội ngũ cán bộ quản lý tốt thậm chí thiếu cả những cán bộ nhân viên am hiểu thị trường Với đội ngũ lao động trực tiếp,theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70% trong khi các nươc tỏng khu vực là 90% Trước tình hình đó, nhà nước cần đẩy mạh công tác giáo dục, đào tạo, chú trọng đến đội ngũ thiết kế, đội ngũ quản lý và đội ngũ nhân viên kinh doanh am hiểu thị trường thông qua việc - Đầu tư cho các trường đại học Công Nghiệp, đại học Bách Khoa hay đại học Kiến Trúc phát triển khoa thiết kế thời Trang - Khuyến khích các sinh viên theo học thiết kế thời Trang - Tổ chức các buổ biểu diễn thời trang và các cuộc thi thời trang để tạo điều kiện cho các nhà thiết kế có điều kiện thử sức và khẳng định mình - Tạo điều kiện cho các sinh viên học ở các trường kinh tế có điều kiện tiếp xúc với thực tế để rèn luyện kinh nghiệm thực tế ngay khi còn là sinh viên. Còn đối với đội ngũ lao động trực tiếp thì nhà nước cần đầu tư cho các trường đào tạo công nhân ngành may nhằm tiêu chuẩn hóa các thao tác và từ đó nâng cao năng suất lao động 1.4. Các giải pháp về vốn Vốn là nguồn lực hạn chế của các công ty khi muốn mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Theo như dụ kiến của các doanh nghiệp dệt may cần 6-7 tỷ USD vào năm 2010 để đầu tư cho chiều sâu, phát triển sản xuất và thúc đẩy sản xuất. Do đó,nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn được dễ dàng và được hưởng ưu đãi thông qua - Phát triển hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng trong nước và quốc tế để tạo nguồn cung vốn phong phú. - Nới lỏng các quy định về vay vốn như tỷ lệ thế chấp, ký quỹ… - Có các ưu đãi về lãi suất - Thu hút nguồn vốn nước ngoài thông qua thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho ngành dệt may. 1.5.Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm Sự hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp trong công tác này được thể hiện thông qua xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại nên tăng cường tổ chức hoặc liên hệ cho các doanh nghiệp dệt may tham gia các hộ chợ chuyện ngành dệt may, hội chợ hàng tiêu dùng và hỗ trợ các doanh nghiệp chi phí tham gia hội chợ - Thương vụ Việt Nam chịu trách nhiệm cung cấp các thông tin chung về thị trường như quy mô, tốc độ tăng trưởng, xu hướng tiêu dùng, sức mua…của hàng dệt may và các thông tin của các đối thủ cạnh tranh hay quan trọng hơn đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may là thông tin về nhà nhập khẩu - Các cơ quan thuộc chính phủ sẽ đóng vai trò là cầu nối cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam với các nhà nhập khẩu có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam. Việc gắn kết này sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giảm được các chi phí tìm kiếm bạn hàng và có được các thông tin xác thực về nhu cầu nhập khẩu hàng của các nhà nhập khẩu. - Tư vấn cho các nhà doanh nghiệp về cách điều tra thông tin hiệu quả nhất - Giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tìm kiếm nguồn thông tin đáng tin cậy từ các dịch vụ cung cấp tin Với sự giúp đỡ trên của nhà nước,các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sẽ được thuận lợi hơn rất nhiều trong qua trình thực hiện công tác nghiên cứu mở rộng thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm, giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí tài chính và rút ngắn được thời gian, tận dụng được cơ hội kinh doanh. 1.6.Các chính sách ưu đãi về thuế Thuế quan sẽ tác động đến giá cả hàng hóa và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh. Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về thuế Giảm thuế quan là biện pháp mà các công ty trông đợi nhất ở chính sách thuế. Ngành dệt may là ngành phải nhập khẩu 70% nguyên phụ liệu để sản xuất sản phẩm cho nên nhà nước nên giảm thuế hoặc miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên phụ liệu chính như bông, vải, sợi giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, nhà nước cũng cần giảm thuế VAT, thuế xuất khẩu giúp hạ giá thành sản phẩm. Nhà nươc phải có các văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp về việc thực thi luật thuế hay thông báo cho các doanh nghiệp khi có sự thay đổi Hoàn thiện các quy định về thuế giúp các doanh nghiệp dễ dàng trong việc khai thuế và nộp thuế Ngoài các chính sách trên nhà nước cần cải cách các thủ tục Hải quan theo hướng đơn giản hóa nhằm tiết kiệm thời gian cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu Hỗ trợ cho các doanh nghiệp bằng việc lập các quỹ hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường Hay cập nhập các thông tin về luật pháp của các thị trường nhập khẩu. Xây dựng chế độ quản lý hạn ngạch minh bạch tránh tinh trạng mua bán chuyển nhượng hạn ngạch trái phép, có kế hoạch phân bổ hạn ngạch sớm để giúp các doanh nghiệp có định hướng khi sản xuất hàng xuất khẩu vào thị trường nhập khẩu, giảm chi phí hạn ngạch giúp các doanh nghiệp giảm thêm khoản chi phí. Trên đây là các biện pháp nhà nước cần thực hiện để thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam. 2.Nhóm giải pháp đối với ngành dệt may Việt Nam 2.1.Chủ động tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các nước nhập khẩu lớn của hàng dệt may Việt Nam đều cắt giảm sản lượng, như thị trường Mỹ giảm 4,4%, EU giảm 3,8%...Đó là những thị trường xuất khẩu lớn của dệt may Viêt Nam, cho nên việc giảm kim ngạch vào các thị trường này gây bất lợi rất lớn đối với ngành dệt may. Trước thực trạng đó, việc mở rộng và xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường mới là việc làm cần thiết của dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp dệt may cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến nghiên cứu thị trường ngoài nước, phân tích đến dự báo để có biện pháp kịp thời ứng phó và đặc biệt quan tâm tổ chức mời khách hàng tiềm năng vào thương lượng tại Việt Nam. Ngoài ra doanh nghiệp dệt may cần có những sản phẩm mang tính khác biệt hóa, ít cạnh tranh. Bên cạnh đó,doanh nghiệp dệt may VIệt Nam cần có chiến lược tiếp cận với thị trường Nhật Bản để khai thác tốt Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản, đồng thời khai thác thị trường mới đầy tiềm năng tại Trung Ðông, Nam Phi, Nga…Những thị này này là vô cùng mới mẻ đối với ngành dệt may nhưng chắc chắn sẽ không phải là những thị trường quá khó tính và nhiều hạn ngạch như thị trường Mỹ hay EU. Khi lập được mối làm ăn với thị trường mới, ngành dệt may sẽ ít bị phụ thuộc hơn vào các thị trường xuất khẩu truyền thống. 2.2.Giải pháp về thiết kế: “Thực hiện chiến lược thời trang hoá ngành Dệt may” Những năm qua, công nghiệp thời trang Việt Nam đã phát triển ngược, thay vì phải bắt đầu từ thiết kế, kế đến là sản xuất và phân phối thì ngành lại bắt đầu đi từ phân phối (xuất khẩu sang các nước) rồi mới quay lại khâu thiết kế. sản phẩm công nghiệp thời trang Việt Nam trong các đơn hàng xuất khẩu chỉ chứa 30% hàm lượng sáng tạo nội địa; trong khi 70% còn lại là sao chép từ nước ngoài.Do đó ngành dệt may chỉ đóng vai trò ở khâu cung cấp sản phẩm thô. Đây là khâu ít lợi nhuận nhất. Vì thế dệt may Việt Nam cần chuyển hướng phát triển sang các vị trí khác và phát triển theo chủ trương “thời trang hoá” ngành dệt may là một trong những hướng phát triển quan trọng. Thời trang hóa sẽ tạo ra thương hiệu cho dệt may Việt Nam. Đây cũng là xu hướng tất yếu và lâu dài của ngành công nghiệp dệt may thế giới, vì nó mang lại nhiều lợi ích và giá trị hơn so với làm gia công. Dệt may nước ta cũng sẽ trải qua các giai đọan từ sản xuất gia công, tiến đến sản xuất hàng thời trang tại thị trường trong nước và vươn ra thế giới . Các doanh nghiệp Việt Nam cần dùng thiết kế để tạo cho sản phẩm có sự khác biệt, nhiều ưu điểm hơn sản phẩm thông dụng để tìm đến các thị trường tiêu thụ mới . Thành lập trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá, tổ trưởng - chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu. Các công ty tìm hiểu thị trường, đưa các thiết kế mới thăm dò nhu cầu khách hàng; từ đó tổ chức đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp hơn. Để làm được điều này, các công ty phải đầu tư nguồn vốn khá lớn. Việc nâng cấp có thể được tiến hành bằng nhiều con đường khác nhau, như phát triển năng lực thầu trọn vẹn, tích hợp dọc, đa dạng hoá mạng lưới xuất khẩu, hoặc dịch chuyển tới khâu thiết kế và marketing. Tuy nhiên, chính sự linh động và thích nghi trong thay đổi điều kiện kinh tế và chính sách mới thực sự cần thiết cho cạnh tranh vững vàng. Để có được điều đó ngành dệt may Việt nam cần xác định phải đầu tư cho nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực thiết kế , marketing và kinh doanh. è Quá trình thời trang hóa ngành dệt may có thể sẽ phải tốn công sức và thời gian nhiều hơn. 2.3. Giải pháp cho mạng lưới phân phối và Marketing: “Thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu”. Hàng dệt may Việt Nam đang phải đối đầu với những nước có khả năng cạnh tranh cao, có nhiều thuận lợi và kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị trường về các mặt như: vật tư, thiết bị, quản lý, tài chính, tiếp thị, nghiên cứu và phát triển. Vì vậy, để ngành dệt may đạt được mục tiêu xuất khẩu năm 2020 ngành dệt may cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược sau đây: Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh vào các cụm công nghiệp dệt may theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt - nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ lệ hàng gia công. Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại các địa phương có tiềm năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên kết và giúp đỡ các địa phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn hàng lớn; hỗ trợ các doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm năng khác. Thực hiện chuyên môn hoá các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” đủ mạnh về tài chính, công nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ, ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Triệt để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam thông qua việc: áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO 14000, SA 8000; tham gia các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế; xác định cấp tiêu chuẩn sản phẩm trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính. Qua đó, xác định cơ cấu mặt hàng và định hướng cho các doanh nghiệp. Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng. Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường. Nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình hình thị trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài... 2.4. Giải pháp tăng cường và phát triển nguồn nhân lực. Để phát triển và tăng khả năng cạnh tranh, ngành Dệt May Việt Nam đang xác định hướng dịch chuyển của ngành theo hướng thời trang – công nghệ - thương hiệu. Để đáp ứng yêu cầu dịch chuyển và mục tiêu phát triển bền vững, ngành Dệt May cần có nguồn nhân lực chất lượng cao  Với cán bộ quản lý: cần đào tạo cho họ một hệ thống kiến thức đầy đủ, bài bản về nền kinh tế thị trường, kiến thức về quản lý và các kỹ năng quản lý, kinh doanh. Bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý về quan điểm tư tưởng kinh doanh trong giai đoạn mới.  Nhà quản lý biết cách tiếp cận và sử lý thông tin, để kinh doanh có hiệu quả, biết cách đánh giá thị trường và lĩnh vực doanh nghiệp đang kinh doanh, có kiến thức toàn diện về tâm lý-xã hội để làm việc tốt với con người. Đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn cần có đội ngũ  thiết kế mẫu và thời trang chuyên nghiệp, có khả năng gắn kết thời trang với sản xuất, đạt trình độ quốc tế. Đối với công nhân lao động cần đào tạo cho người công nhân có tay nghề vững vàng, nắm vững khoa học- công nghệ tiên tiến. Với yêu cầu như vậy cần có quan điểm: Đào tạo giữ vị trí ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng nguồn nhân lực; Đào tạo nguồn nhân lực của ngành Dệt May cần gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, của ngành, gắn với tiến bộ của khoa học - công nghệ; Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May là công việc chung của chính quyền, của các cơ sở đào tạo, của doanh nghiệp và của chính bản thân người lao động. Để hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của ngành Dệt May hướng đến sự phát triển bền vững của ngành cần: Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với đặc điểm nguồn nhân lực của ngành Dệt May. Chương trình đào tạo –phát triển cần được tính toán từ hai phía: kế hoạch đào tạo-phát triển của doanh nghiệp và một hệ thống cơ sở đào tạo  đủ sức đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp. Từng doanh nghiệp Dệt may chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo theo các bước: (1) Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của doanh nghiệp; (2) Xác định kế hoạch đào tạo; (3) Tổ chức thực hiện; (4) Xác định nguồn kinh phí cho đào tạo; (5) Đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt việc đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp dệt may  cần xEM xét như đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, để giúp doanh nghiệp có thể mạnh dạn bỏ những khoản tiền lớn cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra doanh nghiệp cũng xây dựng các chính sách hỗ trợ để kích thích công nhân tự nâng cao tay nghề như chế độ tiền lương, tiền thưởng vượt định mức, chính sách thưởng, phạt trong doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đối với khâu tuyển dụng đầu vào:   Các chương trình đào tạo xây dựng phải phù hợp với nguồn nhân lực của ngành Dệt May:   Đào tạo cán bộ quản lý sẽ kết hợp ngắn hạn với dài hạn, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài, kết hợp đào tạo chính qui, tại chức, bằng 2...với các lớp không chính qui như các lớp cập nhật lại, đào tạo lại, chuyên đề. Liên tục mở các lớp đào tạo cán bộ công nghệ trình độ Đại học và cao đẳng. Thường xuyên mở các lớp cập nhật kiến thức. Đối với công nhân trong doanh nghiệp ưu tiên cho phương pháp đào tạo tại nơi làm việc, kết hợp với các phương tiện hỗ trợ để đào tạo trong thời gian nghỉ của công nhân và thời gian rỗi việc.   Đối với nguồn công nhân đào tạo mới để cung cấp cho doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống đào tạo nghề có sự liên kết bền vững với doanh nghiệp.   Thứ hai, đầu tư củng cố và phát triển hệ thống các trường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May. Chính phủ hoàn thiện hệ thống đào tạo nghề cho ngành Dệt-May để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể gửi CBCNV đến học tập nâng cao trình độ, tay nghề. Các cơ sở đào tạo cần có khả năng cung ứng chất lượng, hiệu quả và linh hoạt để đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp dệt may. Thứ ba, về lâu dài song song với sự phát triển bền vững của ngành dệt may sẽ hướng đến xây dựng mô hình liên kết bền vững giữa doanh nghiệp dệt may và các cơ sở đào tạo Dệt May. Đó là liên kết phải giải quyết được các vấn đề như: đảm bảo hoạt động đào tạo bền vững của cơ sở đào tạo; đảm bảo hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp thông qua việc có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu; các mối liên kết phù hợp với luật pháp và xã hội, góp phần tạo ổn định xã hội; thỏa mãn nhu cầu của người học và người lao động để họ gắn bó lâu dài với ngành dệt may. 2.5. Nâng cao trình độ công nghệ. Cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, trình độ công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may. Thực tế, trình độ công nghệ của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam hiện nay còn ở mức thấp, năng lực quản lý không cao, vì thế chưa có khả năng sản xuất dược những sản phẩm chất lượng cao, như các loại thuốc nhuộm, các loại xơ sợi tổng hợp, các máy móc thiết bị phức tạp … Do đó, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngànhc ông nghiệp phụ trợ dệt may, phải quan tâm rất lớn đến việc đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao, giá cả cạnh tranh. Trước hết, có thể tiếp tục sử dụng các máy móc thiết bị vẫn còn khả năng sản xuất. Bởi trong những năm tới, chúng ta vẫn chưa có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Mặt khác, việc đào tạo cán bộ, công nhân để tiếp thu công nghệ.mới và sử dụng có hiệu quả các thiết bị cũng cần có thời gian. Tất nhiên, việc đầu tư thiết bị công nghệ mới là tất yếu, nhưng nó sẽ được thực hiện từng bước, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ cũ. Bên cạnh đó, đẩy nhanh đầu tư, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thịt rường. Để làm được điều này, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: Cần xây dựng cơ chế tài chính hợp lý hơn và đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có năng lực công nghệ hoạt động công nghệ thực sự. Có cơ chế xây dựng, xét duyệt và đánh giá khách quan giá trị của các đề tài nghiên cứu khoa học, các công nghệ được chuyển giao. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Có những ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển một số doanh nghiệp nội địa phát triển công nghiệp phụ trợ. Khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển và đổi mới công nghệ… Khuyến khích các tổ chức cung cấp và thông tin công nghệ để giúp các doanh nghiệp có cơ hội cập nhật thông tin công nghệ, lựa chọn và xác lập phương án đổi mới công nghệ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và yêu cầu của thị trường. 3. Một số giải pháp khác Một là, tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống thông tin chiến lược toàn ngành để cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Hai là, tiếp tục vận động hành lang và đấu tranh chống lại cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và tự khởi động điều tra chống bán phá giá của chính phủ Hoa Kỳ. Ba là, tiếp tục đổi mới cơ cấu sản phẩm, tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, mở rộng thị trường xuất khẩu tránh tập trung quá lớn vào một vài thị trường chính. Hơn nữa các doanh nghiệp dệt may cần đẩy nhanh quá trình xây dựng tiêu chuẩn SA8000 để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đặc biệt là đối với thị trường Hoa Kỳ KẾT LUẬN Bài viết này nghiên cứu thực trạng của ngành dệt may thời kỳ hậu khủng hoảng như một công cụ để có thể xác định vị trí của ngành dệt may trong hệ thống dệt may thế giới. Qua đó có thể thấy rằng, ngành Dệt may Việt Nam tuy đã có những kim ngạch xuất khẩu cao nhưng trước tình hình biến động của thế giới cụ thể là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì vẫn chịu những ảnh hưởng không nhỏ. Việt Nam hiện nay mới chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, mà chủ yếu là hình thức gia công. Sự phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, vốn đầu tư hạn chế, yếu tố con người chưa được xem xét đầu tư thích đáng… dẫn đến sản phẩm của Dệt May Việt Nam không có sức canh tranh trên thị trường quốc tế, giá trị gia tăng thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, canh tranh gay gắt như hiện nay, nhất là khi thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoảng mang tính nặng nề thì để đạt được mục tiêu phát triển ngành dệt may thì trong thời gian tới, Dệt May Việt Nam cần có những biện pháp phù hợp. Đề tài nghiên cứu này được hoàn thành cũng không nằm mục đích đó. Bài viết còn nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài ngày càng được hoàn thiện. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PSG.TS. Ngô Thắng Lợi, Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển KT- XH , NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh Tế Phát Triển, NSX Lao Động- Xã hội GS.TS. Đỗ Đức Bình, Giáo trình Kinh Tế quốc tế, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010. Quy hoạch phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn 2020, Bộ công nghiêp- tập đoàn Dệt may Việt Nam. Báo cáo đề tài nghiên cứu cấu trúc ngành và hiệu quả kinh tế, Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp- Bộ Công nghiệp Báo cáo tình hình hoạt động và triển vọng của ngành Dệt May Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam, tháng 12/2006 Các tạp chí: con số và sự kiện; tạp chí công nghiệp; tạp chí kinh tế và phát triển… Các trang Web của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các trang khác có liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25660.doc
Tài liệu liên quan