Khi hội nhập phát triển các doanh nghiệp cần thiết phải tổ chức lại kênh phân phối. Hiện nay sản phẩm của Công ty phần lớn phải xuất qua một hãng trung gian mới vào được thị trường Mỹ do chúng ta không có kênh phân phối tại Mỹ. Trong tương lai cần thành lập kênh phân phối cho sản phẩm của mình giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhà trung gian đồng thời xây dựng quảng bá thương hiệu đưa thương hiệu của mình trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Khi khách hàng đã nghe nói nhiều đến Sông Hồng thì hẳn người ta sẽ chú ý hơn đến sản phẩm của Công ty từ đó tạo ra ấn tượng nào đó trong tâm trí khách hàng. Chúng ta có thể thuyết phục các nhà phân phối lớn tại Mỹ nhận hàng của Công ty hoặc sử dụng lực lượng Việt Kiều yêu nước giao hàng tận tay người tiêu dùng, tạo lập mối quan hệ ngày càng gắn bó với khách hàng.
68 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1705 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đem lại hiệu quả kinh tế bền vững. Công ty luôn bảo toàn nguồn vốn, không để đọng vốn làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, luôn luôn bảo đảm hoàn thành kế hoạch đề ra.
Thứ nhất : Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đã đáp ứng được yêu cầu của khách nước ngoài. Sản phẩm của Công ty ngày càng đa dạng: để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng Công ty đã học hỏi từ phía khách hàng để đa dạng hoá hàng gia công. Trước đây Công ty mới chỉ gia công được áo Jacket thì ngày nay đã có thể gia công quần , quần áo trẻ em, váy……
Thứ hai : Chất lượng các sản phẩm cũng được nâng cao dần, đem lại uy tín cho Công ty thể hiện qua số lượng hợp đồng ngày càng gia tăng, thị trường xuất khẩu mở rộng .
Thứ ba : Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty hoạt động ngày càng đem lại hiệu quả cao, cơ chế quản lý đó đã tạo được nhiều cơ hội cho mỗi nhiều làm việc có chất lượng hơn, phát huy hết khả năng, kinh nghiệm của bản thân cho sự phát triển của Công ty.
Thứ t : Đội ngũ cán bộ của công ty đã không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, kỹ thuật, trình độ quản lý doanh nghiệp để nắm bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường quốc tế nói chung và trong nước nói riêng.
Thứ năm : Công ty đã không ngừng đổi mới trang thiết bị máy móc, tiến hành sắp xếp lại bộ máy quản lý và chỉ huy sản xuất với mục tiêu “Đúng người, đúng việc”, tiến hành sắp xếp lại phân xưởng may, đầu tư cải tạo lại nhà xưởng, khu làm việc, trang bị nhiều dụng cụ cần thiết để phục vụ quản lý sản xuất. Từ đó tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng.
Thứ sáu : Công ty đã từng bước khắc phục được cách làm việc quan liêu. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho công ty mở rộng nhiều mối quan hệ làm ăn mới, từ đó tăng doanh thu, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
II.Thực trạng xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty cổ phần may Sông Hồng
1.Giai đoạn 1995-2003
Năm 1995, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt 850 triệu USD. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đã vượt trên con số 4,3 tỷ USD; chiếm 16,35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và tiếp tục duy trì được ở vị trí thứ hai trong số các ngành dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2005, Việt Nam đặt chỉ tiêu xuất khẩu đạt 5 tỷ USD và phấn đấu đạt khoảng 8-9 tỷ USD vào năm 2010.
Từ năm 2001, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở cửa thị trường Mỹ cho hàng dệt may Việt Nam, đồng thời kích thích thêm lượng tiêu thụ mặt hàng này. Theo số liệu của Hải quan Hoa kỳ, năm 2001, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70 trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23; năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8 và năm 2004, xếp ở vị trí thứ 6, vượt 64 bậc sau 3 năm. Năm 2004, ngành dệt may Việt Nam chiếm gần 3,5% thị phần nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ với đơn giá xuất khẩu bình quân vượt Trung Quốc và trở thành một trong những nước có đơn giá xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ thuộc loại cao nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể, năm 2001, đơn giá xuất khẩu bình quân là 1,51 USD/m2 sản phẩm, đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m2 sản phẩm; trong khi Trung Quốc từ 2,96 USD/m2 sản phẩm, tụt xuống còn 1,25 USD/m2 sản phẩm. Nếu tính những chủng loại hàng (cat) nóng nhất trên thế giới hiện nay xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng rất mạnh; ví dụ như mặt hàng áo sơ mi dệt kim (cat. 388/339) tính trong 9 tháng đầu năm 2004, Việt Nam được xếp vị trí thứ năm trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ; đặc biệt là cat. 347/348, Việt Nam xếp thứ hai trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ.
Mức tăng trưởng của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ mạnh đến mức có một số nhóm vận động hành lang để Quốc hội Mỹ ban hành qui chế kiểm soát mới (từ năm 2003, Oasinhtơn đã áp dụng qui chế hạn ngạch mới đối với hàng dệt may của Việt Nam). Trong khi đó, các nhóm kinh doanh Mỹ khác, như Hiệp Hội Dệt May Quốc gia (NTA) có trụ sở ở Boston, công khai ủng hộ việc bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam khi quốc gia này trở thành thành viên WTO vào cuối năm nay. Theo ông Karl Spilhous, Chủ tịch Hiệp hội NTA, chủ trương tìm kiếm cơ chế để đảm bảo điều đó thông qua khả năng vận dụng quy định tạm thời của WTO cho phép kiểm soát từng mặt hàng nhập khẩu cụ thể nếu gây thiệt hại cho sản xuất nội địa của một quốc gia.
2.T ừ 2003-2006
Trong quý I/2003, tổng kim ngạch xu t khẩu của ngành dệt, may là 850 triệu USD thì riêng thị trường Mỹ đạt 530 triệu USD, chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch của tất cả các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ. Tuy nhiên, lãnh đạo một số bộ, ngành đưa ra khuyến cáo cho các doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào sân chơi Mỹ thì phải nắm vững luật pháp nước Mỹ và phải ềchơiể theo kiểu Mỹ. Ðây là thị trường tràn ngập cơ hội kinh doanh nhưng cũng đầy cam go, cạnh tranh khốc liệt...Nhiều bất lợi cho cả hai bên.Bộ Thương mại cho biết, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt, may của Việt Nam vào thị trường Mỹ chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt, may của Mỹ (khoảng 1,6%). Vì thế, kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết, hầu hết các doanh nghiệp ngành dệt, may Việt Nam đều tranh thủ đổi mới thiết bị công nghệ, cải tiến mẫu mã, xây dựng chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế ... nhằm chiếm lĩnh thị trường Mỹ còn đầy tiềm năng.Sản phẩm của một số doanh nghiệp như: Công ty may Việt Tiến, Công ty may Nhà Bè, Công ty dệt Phong Phú, Công ty dệt Phước Long, Công ty may Phương Ðông ... bước đầu đã chinh phục được nhiều khách hàng châu Âu và Mỹ. Một tin vui cho ngành dệt, may là Liên minh châu Âu (EU) vừa đồng ý tăng hạn ngạch cho một số sản phẩm dệt, may của Việt Nam và Chính phủ Mỹ cũng đồng ý dành cho Việt Nam hạn ngạch 1,7 tỷ USD hàng dệt, may xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong năm đầu tiên, sau mỗi năm tiếp theo sẽ tăng hạn ngạch từ 2-7% cho từng sản phẩm cụ thể. Tuy nhiên, việc Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch đối với ngành dệt, may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ còn nhiều điều chưa thỏa đáng, gây ra sự phản đối mạnh mẽ trong giới doanh nghiệp hai nước. Nội dung của bản thỏa thuận hạn ngạch còn nhiều điểm thể hiện sự áp đặt vô cớ trong các chính sách phát triển thương mại của Hoa Kỳ, thậm chí đi ngược lại với quyền lợi người dân Mỹ. Bình luận về điều này, một số nhà doanh nghiệp Mỹ đang kinh doanh tại Việt Nam cho biết, việc Chính phủ Mỹ áp dụng hạn ngạch đối với hàng hóa dệt, may của Việt Nam là không công bằng, người tiêu dùng Mỹ sẽ phải chịu thiệt khoảng 20 tỷ USD/năm và trong năm tới sẽ khó đáp ứng được nhu cầu mua sắm của người dân Mỹ. Bên cạnh đó, 50 nhà nhập khẩu bán lẻ Mỹ cũng phản đối gay gắt và cho rằng, hạn ngạch buôn bán hàng dệt may giữa hai nước đã vô tình kìm hãm ngay chính ềđội nhàể vì phát triển hệ thống bán lẻ đang rất có ý nghĩa trong việc khôi phục nền kinh tế Mỹ. Các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ phải bỏ lỡ nhiều cơ hội mua hàng dệt, may từ khu vực có chi phí thấp cho các sản phẩm chất lượng cao như ở Việt Nam. Trong số khoảng 30 mặt hàng dệt, may của Việt Nam bị giới hạn số lượng vì “chuyện hạn ngạch” thì có 4 chủng loại hàng hóa gồm: quần dài, quần Jean, hàng dệt kim, áo sơ mi cộc tay là những mặt hàng quan trọng của các nhà nhập khẩu Mỹ, với số lượng tiêu thụ khoảng gần 300 triệu sản phẩm mỗi năm. Ðiều này sẽ gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp Mỹ khi phải mua hàng ở các khu vực có giá thành sản phẩm cao hơn nhiều so với Việt Nam. Trớ trêu thay, nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng hạn ngạch dệt, may đối với Việt Nam lại bắt nguồn khi một số nhà sản xuất Mỹ kêu ca rằng, sản phẩm giá rẻ của Việt Nam đang tràn ngập thị trường Mỹ làm giảm lợi nhuận của họ.Theo đánh giá của ông Bùi Xuân Khu - Thứ trưởng Bộ Công nghiệp thì trong năm đầu tiên, hạn ngạch dệt, may vào Mỹ cũng có nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng tỷ lệ tăng hạn ngạch trong các năm tiếp theo không tương xứng với năng lực sản xuất và tốc độ phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Trước tình thế bị “ép sân” quá đáng, ngành dệt, may Việt Nam đang có nhiều nỗ lực như: đào tạo lại nguồn nhân lực, đầu tư nâng cấp công nghệ, củng cố các thị trường truyền thống và mở rộng thêm các thị trường mới ở châu Phi và các quốc gia khác. So với năng lực thực tế của ngành dệt, may Việt Nam thì con số 1,7 tỷ USD hạn ngạch vào Mỹ là không tương xứng. Nhưng một nhà nhập khẩu Mỹ lại đưa ra một giả thuyết mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể phát huy nhiều sức mạnh còn tiềm ẩn như: nếu cần áo sơ mi trơn - có thể tìm đến nhà sản xuất ở Trung Quốc vì giá cả rẻ nhất khu vực, nếu cần áo sơ mi thêu - hãy nghĩ tới Việt Là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đã đạt mức tăng trưởng rất ấn tượng với kim ngạch xuất khẩu ước tính sẽ tăng gấp đôi so với so với năm 2000, đạt con số 3,6 tỷ USD, và vượt hơn 400 triệu USD so với mục tiêu đề ra.
Có được kết quả này, theo ông Mai Hoàng Ân, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam (VINATEX), là do Chính phủ đã chuẩn bị tốt khâu đàm phán mậu dịch, xúc tiến thương mại với các nước nhập khẩu để giúp doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường nước ngoài. Kết quả này cũng phản ánh sự cố gắng cao của từng doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đặc biệt ấn tượng là kết quả xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Bất chấp việc phía Hoa Kỳ áp đặt hạn ngạch, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này năm nay có thể đạt con số 2 tỷ USD. Trong 4 tháng đầu năm, trước khi phía Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch, các doanh nghiệp đã nhanh chóng, chủ động ký được các hợp đồng xuất khẩu tự do và đạt kim ngạch xuất khẩu trên 650 triệu USD. Liên Bộ Thương mại, Công nghiệp, Kế hoạch và Đầu tư đã kịp thời triển khai hiệp định đã ký với Hoa Kỳ để phân bổ quota kịp thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Mới đây, trong chuyến khảo sát thị trường Việt Nam, 12 công ty của Mỹ dự kiến sẽ bán bông cho các công ty may Việt Nam và Việt Nam sẽ xuất khẩu sản phẩm may mặc ngược trở lại thị trường Mỹ. Một số doanh nghiệp Mỹ còn cho biết, nếu hàng may mặc Việt Nam có từ 50% nguyên liệu của Mỹ trở lên thì mặt hàng đó sẽ được ưu tiên khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đây là mô hình hợp tác khép kín, mở ra hướng mới cho các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam trong việc khai thác thị trường Hoa Kỳ.
Nếu đến năm 2005, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì Mỹ sẽ dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam.
Những khuyến cáo
Hiện nay đang có thực trạng Hải quan Mỹ luôn tìm cách quy kết hàng dệt, may xuất khẩu của Việt Nam có xuất xứ bất hợp pháp. Nếu doanh nghiệp nào vi phạm, Chính phủ Mỹ sẽ trừ gấp 3 lần số lượng đơn hàng bị giữ lại trong tổng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Ðình Tuyển đã có chỉ thị về việc chống các hành vi gian lận thương mại, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp sang thị trường Mỹ. Theo đó, khi xuất hàng sang Mỹ cần kiểm tra chặt chẽ các vận đơn xuất hàng, phải nghiên cứu thực hiện đúng các quy định của Mỹ về thủ tục hải quan, xuất trình đầy đủ hợp lệ các chứng từ liên quan và lưu trữ cẩn thận tất cả hóa đơn để tiện cho Hải quan Mỹ kiểm tra. Bộ Công nghiệp cũng đưa ra khuyến cáo các doanh nghiệp cần phải bảo đảm tính minh bạch của xuất xứ hàng hóa để tránh việc Mỹ đơn phương áp đặt hạn ngạch dệt, may đối với Việt Nam. Nghiêm cấm các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt, may sử dụng gi y chứng nhận xuất khẩu dệt, may sang Mỹ của Việt Nam để xuất khẩu hàng hóa có xuất xứ từ các quốc gia khác và ngược lại, sử dụng vi sa của các nước khác để xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Kể từ ngày 1/7/2003, hàng dệt, may của Việt Nam vào Mỹ phải có vi sa do phòng quản lý nhập khẩu khu vực thuộc Bộ Thương mại cấp, hoặc cơ quan được Bộ Thương mại ủy quyền cấp. Doanh nghiệp phải xuất theo theo lượng hạn ngạch được giao sau khi đã khấu trừ lượng xuất của 6 tháng đầu năm. Về vấn đề này lại trở nên phức tạp khi thực hiện công tác phân bổ hạn ngạch cho các doanh nghiệp. Bởi vì, hạn ngạch sẽ được phân bổ theo kết quả xuất khẩu của từng doanh nghiệp trong năm trước. Bộ Thương mại cùng Bộ Công nghiệp sẽ xem xét cấp thêm theo yêu cầu thực tế. Như vậy sẽ có trường hợp doanh nghiệp được cấp nhiều hơn năng lực hiện tại và cũng có trường hợp doanh nghiệp được cấp hạn ngạch thấp do mới ký được nhiều hợp đồng ở thời điểm đầu năm nay. Chẳng hạn, trong tháng 4 năm 2003 Công ty may Việt Tiến đã xuất được 20 triệu USD, bằng 50% của cả năm 2002.
Trong khi việc phân bổ hạn ngạch ngành dệt, may còn đang “nóng lên” thì bài học ềvụ kiện cá ba saể một lần nữa lại nhắc nhở các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường quốc tế phải xây dựng tinh thần cộng đồng, tham gia các hiệp hội ngành nghề, chia sẻ thông tin, phối hợp định hướng phát triển chung... Ðặc biệt, kinh nghiệm giao thương với các nước có nền kinh tế thị trường thì sản phẩm phải khẳng định được uy tín của nhãn hiệu, tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đồng thời cũng phải chuẩn bị các giải pháp đối phó trong trường hợp bị “ép sân”
Theo Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của tháng 7 ước đạt 430 triệu USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2003. Tính chung 7 tháng, kim ngạch xuất khẩu của ngành này đã đạt 2.460 triệu USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ nhưng vẫn có nguy cơ không đạt chỉ tiêu của cả năm.Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may vẫn giữ ổn định, trong đó tỉ trọng của thị trường Hoa Kỳ lớn nhất và tiếp tục tăng. Xuất khẩu vào EU tăng nhẹ do có sự mở rộng thêm thị trường 10 nước thành viên mới của EU.Do hạn ngạch sang Mỹ bị khống chế nên các doanh nghiệp đã chủ động tăng cường tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường phi hạn ngạch như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…Dự kiến cả năm 2004 kim ngạch xuất khẩu dệt may chỉ đạt 4.150 triệu USD, thấp hơn mức đề ra 4,2-4,3 tỉ USD.
3.T ừ 2006 đến nay
Bộ Thương mại cho biết, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước trong tháng 3 đạt 500 triệu USD. Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may 3 tháng đầu năm đã lên đến 1,36 tỷ USD, tăng 40% so với cùng kỳ năm ngoái.
Điều đáng nói là tất các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, EU và Nhật Bản đều có sự tăng trưởng khá. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã bắt đầu khai thác thành công thị trường châu Phi. Chỉ riêng trong tháng 1/2006 xuất khẩu sang thị trường này đã tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Theo đánh giá, thị trường châu Phi đã được coi là thị trường mới, đầy tiềm năng với hơn 800 triệu dân thì với những triển vọng về hợp tác và phát triển kinh tế trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sẽ còn tăng cao hơn nữa.
Ngành dệt may về lâu dài vẫn được xem là ngành công nghiệp có lợi thế của Việt Nam. Theo Quy hoạch điều chỉnh ngành dệt may đến năm 2015, tầm nhìn 2020 mới được bộ Công nghiệp xem xét thì dệt may sẽ được tập trung đầu tư nhằm phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu.
Theo đó, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngành dệt may vào khoảng 3 tỷ USD cho giai đoạn từ nay đến năm 2010. Trong đó, vốn đầu tư phát triển nguyên liệu dệt khoảng 180 triệu USD; các dự án dệt nhuộm 2.275 triệu USD; các dự án may 443 triệu USD; các trung tâm thương mại và nghiên cứu triển khai đào tạo vào khoảng hơn 200 triệu USD. Nguồn vốn chính được tính đến là từ các nhà đầu tư nước ngoài, vốn vay từ các quỹ đầu tư, vốn từ quỹ đất khi di dời và một phần vốn từ thị trường chứng khoán.
Mức tăng trưởng xuất khẩu dệt may hàng năm dự kiến đạt từ 14 - 16%, tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt 10 -12%, trong đó đáng chú ý là thị trường Mỹ, Nhật, châu Âu.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, bốn tháng đầu năm 2006 xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,744 tỷ USD, tăng 38,7% so với cùng kỳ năm ngoái, là một trong những ngành hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu "nóng".
Trong các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục dẫn đầu, với tổng giá trị gần 432 triệu USD, tăng 35,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 54,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Thị trường EU đạt khoảng 172 triệu USD, Nhật Bản đạt trên 89,5 triệu USD.
Xuất khẩu sang những thị trường trước đây bị áp đặt hạn ngạch cũng đạt nhịp độ tăng trưởng cao như Canađa tăng 74%, Thổ Nhĩ Kỳ tăng hơn hai lần so với năm 2005. Ngoài các thị trường truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu khai thác thành công thị trường châu Phi. Chỉ riêng trong tháng 1 năm nay, xuất khẩu sang thị trường này đã tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lê Danh Vĩnh, một trong những yếu tố chủ yếu tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may thời gian qua là do cơ chế điều hành hạn ngạch khá rõ ràng, thông thoáng, tạo điều kiện thuận cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc ký kết các hợp đồng.
Hiện, ngành dệt may được xem là ngành công nghiệp có lợi thế của Việt Nam. Theo quy hoạch điều chỉnh ngành dệt may đến năm 2015, tầm nhìn 2020 mới được Bộ Công nghiệp xây dựng, thời gian tới dệt may sẽ được tập trung đầu tư phát triển thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu.
Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngành dệt may cho giai đoạn từ 2006 đến năm 2010 khoảng 3 tỷ USD, trong đó, vốn đầu tư phát triển nguyên phụ liệu dệt khoảng 180 triệu USD; các dự án dệt nhuộm trên 2, 27 tỷ USD; các dự án may 443 triệu USD; các trung tâm thương mại và nghiên cứu triển khai đào tạo vào khoảng 200 triệu USD.
Nguồn vốn chính để đầu tư là từ các nhà đầu tư nước ngoài, vốn vay từ các quỹ đầu tư, vốn từ quỹ đất và một phần vốn từ thị trường chứng khoán.
Việc xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ năm 2006 sẽ được thực hiện theo cơ chế cấp visa tự động trong 6 tháng đầu năm. Đối với những mã hàng (cat.) nóng có tỷ lệ thực hiện cao trong năm nay, liên bộ Công nghiệp - Thương mại khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu với số lượng tối thiểu bằng số lượng đã thực hiện trong năm 2005 để tránh tình trạng vượt mức hạn ngạch chung vào thị trường Mỹ. Theo con số thống kê của bộ Thương mại, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt gần 6 tỷ USD, tăng hơn 22% so với năm trước, trong đó kim ngạch vào thị trường Mỹ đạt 2,2 tỷ USD tăng 26%.
Bắt đầu 12/1/2006, hàng dệt may Việt Nam đã được cấp visa tự động, không còn hạn ngạch. Để tránh tình trạng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ tăng đột biến, hiệp hội dệt may Việt Nam đã xúc tiến những biện pháp trong việc quản lý chặt chẽ giá xuất khẩu, thiết lập cơ chế giám sát giá, chống chuyển tải hàng bất hợp pháp sang Việt Nam để vào Mỹ, tránh nguy cơ Mỹ khởi động vụ kiện bán phá giá hàng dệt may sau WTO.
Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam nói: "Chúng tôi khuyên các doanh nghiệp sản xuất phải đa dạng hóa mặt hàng, chọn sản phẩm có hàm lượng giá trị cao, thời trang, độ phức tạp cao, giá cả hợp lý thì không bao giờ bị điều tra về giá".
Theo ông Lê Quốc Ân, nếu Hoa Kỳ đặt chế độ giám sát chống bán phá giá đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ giảm một nửa và dự báo rằng 80% doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, hàng vạn lao động ở các doanh nghiệp này đã ra sao.
Tuy nhiên, để điều hành xuất khẩu năm 2007, tránh nguy cơ khởi động điều tra chống bán phá giá của phía Hoa Kỳ, ngoài việc mở rộng năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp dệt may có thương hiệu, tên tuổi cũng đã đăng ký số lượng xuất khẩu cũng như giá cả và chuẩn bị các bằng chứng để đối phó khi bất trắc có thể xẩy ra.
Sau năm đầu gia nhập WTO, chúng ta đã thực hiện nhiều cam kết mở rộng thị trường, giảm thuế... nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững và phát triển, GDP tăng 8,5%, xuất khẩu tăng 20,5%. Trong đó ngành dệt may đã có đóng góp xứng đáng, xuất khẩu tăng trên 33%, đưa Việt Nam vào danh sách 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, thị trường trong nước vẫn được giữ vững và phát triển.
III. Đánh giá chung về xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Mỹ
1.Kết quả đạt được
Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 43,5% tức là khoảng 160 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng từ 7,6% đến hơn 15%. Đến nay, hàng dệt may đứng thứ 2 trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam sau dầu thô. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm qua được thể hiện qua biểu đô sau:
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam qua các năm
Đơnvị:TriệuUSD
Năm
KNXK
dệt may
Hàng dệt
Hàng may
KNXK
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ lệ %
Giá trị
Tỷ lệ %
1993
239
4,5
1,88
234,5
98,12
2985
8,006
1994
476
2,8
2,69
463,2
97,31
4054
11,74
1995
850
5,0
0,59
845
99,41
5449
15,6
1996
1150
8,0
0,70
1142
99,3
7256
15,49
1997
1503
6,0
0,40
1497
99,6
9185
16,36
1998
1450
6,5
0,45
1443,5
99,55
9361
15,50
1999
1748
7,2
0,412
1740,8
99,588
11523
15,02
2000
1892
7,8
0,41
1884,2
99,59
14300
13,23
2001
2002
2700
2003
Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu đã chửng lại. Điều này đòi hỏi cần phải có sự phân tích và điều chỉnh hợp lý trong thời gian tới để ngành dệt may đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặc dù hàng dệt may Việt Nam là một mặt hàng xuất khẩu trọng yếu nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được còn khiêm tốn. Năm 1994, riêng Trung Quốc đã xuất khẩu được 15 tỷ USD hàng dệt may, ấn Độ 5,9 tỷ USD và Thái lan là 4,2 tỷ USD.
Về cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may: so với ngành may thì công nghiệp dệt may thì công nghiệp dệt của Việt Nam con rất hạn chế.Đây là ngành yêu cầu lượng máy móc thiết bị hiện đại, đồng bộ và tốn kém. Do vậy, ngành dệt chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của ta chủ yếu vẫn phải nhập ngoại, như vậy, kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng. Hiện tại có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là để chi trả cho việc mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài.
Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã khiến không ít các doanh nghiệp may mặc nước ta lúng túng, bị động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo veston chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo jăcket, áo váy, áo sơ mi đơn giản. Đến nay, những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch nhưng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt kỹ thuật và tay nghề tức là sẽ tự mình làm mất đi một thị trường rất có tiềm năng cho ngành dệt may nước nhà.
Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường hàng dệt may có tiềm năng của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm thị trường hàng dệt may của Mỹ ở trên, Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (hàng năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 60 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm của mình sang Mỹ.
Sau khi Mỹ quyết định huỷ bỏ cấm vân với Việt Nam (03/2/1994), tiếp đó Bộ Thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Cuba, Việt Nam) lên nhóm Y ít hạn chế về thương mại hơn (gồm Liên Xô cũ, các nước thuộc khôi Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia và Việt Nam). Bộ Vận tải và Bộ Thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ của Việt Nam được vào cảng của Mỹ (nhưng còn phải hạn chế xin phép trước 3 ngày). Ngay từ khi chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập mà các nước phát triển cam kết dành cho các nước đang phát triển (GSP), các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Quyết định huỷ bỏ cấm vận này chính là tiền đề, là cơ sở cho sự khai thông quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Hàng dệt may Việt Nam với ưu thế giá rẻ, chất lượng được đánh giá là cao và thời hạn giao hàng được xếp vào loại tốt nhất Châu á đã từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ đầy rẫy những khó khăn này.
Hàng dệt may Việt Nam thâm nhập được vào thị trường Mỹ là cả một sự nỗ lực to lớn của không những bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành và các thành phần kinh tế có liên quan. Tuy còn rất nhiều trở ngại trên con đường thâm nhập vào thị trường Mỹ, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ liên tục tăng qua các năm với một tốc độ tăng trưởng khá cao.
Từ năm 1994, hàng dệt may Việt Nam mới bắt đầu đặt được bước chân nhỏ bé của mình vào thị trường khổng lồ này.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Năm
1994
2,56
0,46
1995
16,87
+4,31
+558,98
2,25
1996
23,60
+6,73
+38,89
2,15
1997
25,928
+2,328
+9,86
1,99
1998
26,40
+0,427
+1,82
1,82
1999
30,00
+3,6
+13,65
1,78
2000
49,87
+19,57
+65,23
2,62
2001
49,34
-0,53
-1,06
2,46
2002
80,00
2003
Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này rất nhỏ bé: 2,56 triệu USD chỉ chiếm một phần không đáng kể trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ năm đó (khoảng 0,05%) và cũng không đóng vai trò gì đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm đó (khoảng 0,46%). Nhưng đây cũng thực sự là một kết quả đáng khích lệ. Vì Việt Nam mới bắt đầu quan hệ thương mại với Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có hiểu biết gì nhiều về thị trường này cả về hệ thống pháp luật, các chính sách quy định của Chính phủ Mỹ…, cũng như đặc điểm của thị trường này.
Nhưng chỉ một năm sau, năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ đã có tốc độ tăng trưởng rất cao 558,98% gấp 6,6 lần, đạt giá trị 16,87 triệu USD tăng 14,31 triệu USD ( xét về trị số tuyệt đối). kim ngạch xuất khẩu như vậy chưa phải thực sự là lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng thì quả là không nhỏ. Lúc này tỷ trọng hàng dệt may của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ vẫn chưa đáng kể, nhưng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thì thị trường Mỹ đã chiếm 2,25%. Sở dĩ có mức tăng trưởng kỷ lục như vậy là do Việt Nam đã đi từ con số 0 đi lên. Hơn nữa quan hệ thương mại Việt - Mỹ ngày càng tiến triển tốt đẹp. Ngày 11/7/1995 Tổng thống Mỹ Bill Clintơn đã tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Trong năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ W.Chirtopher, cựu Tổng thống Mỹ G.Bush đã thăm chính thức Việt Nam, và Chủ tịch Lê Đức Anh cũng có chuyến sang thăm Mỹ và tiếp xúc với nhiều quan chức cao cấp trong Hội nghị về bình thường hoá quan hệ - bước tiếp theo trong quan hệ Việt -Mỹ do hội đồng Mỹ tổ chức, mở ra một trang mới trong quan hệ hai nước.
Năm 1996, kim ngạch đạt 23,60 triệu USD với tốc độ tăng trưởng là 38,89%. Sang năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị trường nhập khẩu hàng dệt may hạn ngạch cũng như phi hạn ngạch của Việt Nam bị giảm sút, thị trường Mỹ xem ra vẫn là thị trường khá ổn định, tuy tốc độ tăng trưởng cũng có giảm sút hơn so với các năm trước. Năm 1997 tốc độ tăng trưởng là 9,86% với kim ngạch xuất khẩu đạt 25,928 triệu USD, năm 1998 tốc độ tăng trưởng là 1,82%, kim ngạch xuất khẩu đạt 26,40 triệu USD. Kết quả giảm sút này là do: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ kéo dài suốt từ năm 1997 đã làm cho giá cả của hàng dệt may Việt Nam vốn đã cao do chênh lệch thuế suất, nay lại càng cao hơn do đồng tiền của các nước chịu khủng hoảng mất giá. Nên các sản phẩm của họ trở lên rẻ hơn một cách tương đối so với hàng của Việt Nam, hàng dệt may của Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh không tương sức trên thị trường này.
Năm 1999, tình hình đã được cải thiện sớm sủa hơn. kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 1999: 30,00 triệu USD, đạt tốc độ tăng trưởng 13,65%.Theo dự đoán năm 1999 giữa Việt Nam và Mỹ sẽ đi đến ký một Hiệp định Thương mại song phương để Việt Nam có thể được hưởng quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ được thông thoáng hơn. Thực tế là trong năm 1999 mặc dù đã trải qua 8 vòng đàm phán, nhưng vẫn chưa đi đến một thoả thuận thống nhất của hai nước trong một số vấn đề (phải sang đến năm 2000 Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ mới được ký kết). Sang đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ là 49,87 triệu USD (tăng khoảng 65,23%). Tuy nhiên, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu lại giảm: 49,34 triệu USD (tăng khoảng -1,06%), lý do của sự giảm sút này là do nền kinh tế thế giới suy thoái, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may thế giới giảm sút nên nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ cũng bị giảm sút đáng kể.
Khó khăn lớn nhất cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam khi xuất sang Mỹ là chịu thuế suất quá cao do Việt Nam chưa được hưởng MFN. Mức thuế suất quá cao này chính là rào cản trực tiếp ngăn không cho hàng dệt may của Việt Nam thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Các sản phẩm may mặc của Việt Nam luôn được đánh giá là có chất lượng khá cao nhưng vẫn không thể cạnh tranh nổi với các sản phẩm dệt may được nhập khẩu từ các nước khác - những nước được hưởng các ưu đãi. Các sản phẩm dệt may của họ có giá rẻ hơn hẳn các sản phẩm của Việt Nam. Hãy thử xem ví dụ sau:
Bảng: So sánh mức giá có MFN và không có MFN.
Áo sơ mi
MFN
Không MFN
Giá trước thuế
12USD
12USD
Thuế
20,7%
45%
Giá sau thuế
14,484 USD
17,4USD
Cùng là một chiếc áo sơ mi nếu được hưởng MFN thì mức thuế suất đánh vào là 20,7%, còn nếu không được hưởng MFN thì mức thuế suất là 45% chênh lệch nhau đến 24,3%. Giả sử giá của một chiếc áo sơ mi chưa tinh thuế là 12USD. Thì giá bán của chiếc áo đó sau khi tính thuế lần lượt là: 14,484USD và 17,4 USD hơn nhau 2,916 USD (xét về số tuyệt đối) và hơn nhau 20,13% (xét về số tương đối). Đây là ví dụ về một mặt hàng có mức chênh lệch về thuế suất chưa phải là lớn lắm. Còn rất nhiều mặt hàng mức chênh lệch thuế suất rất lớn.
Do vậy, Việt Nam mới chỉ xuất sang Mỹ một số các mặt hàng chính có mức chênh lệch về thuế suất không lớn lắm (có thể cạnh tranh được), thuộc các loại (category) sau đây (thứ tự theo kim ngạch từ cao đến thấp đối với những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 triệu USD).
Việt Nam xuất khẩu một số mặt hàng dệt thoi như: găng tay, sơ mi trẻ em… (chiếm khoảng 85% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ) và mặt hàng dệt kim như: sơ mi trẻ em; sơ mi nam, nữ; găng tay dệt kim,… Hàng may mặc dệt thoi thường chiếm phần lớn trong giá trị xuất khẩu nhưng tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu hàng may mặc dệt kim lại cao hơn. thị trường Mỹ có nhu cầu rất lớn về hàng dệt kim, nhưng sở dĩ Việt Nam chưa xuất khẩu sang Mỹ được nhiều sản phẩm dệt kim trong những năm qua do mức chênh lệch thuế như đã nói ở trên là rất cao. Mặt khác, do có sự khác biệt trong tiêu chuẩn về sợi dệt và quy trình ráp sản phẩm như, người tiêu dùng Mỹ thường ưa thích các sản phẩm áo pull liền tay (không ráp tay) nên yêu cầu khổ vải để sản xuất phải là khổ rộng (2,2 mét).
Trong 4 tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đã tăng rất nhiều, đạt gần 80 triệu USD. Lý do chính là, Hiệp định thương mạiđã đi vào hiệu lực, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế suất ưu đãi. Mặt khác, hàng dệt may Việt Nam cũng chưa phải chịu hạn ngạch trong thời gian này.
Tuy nhiên, hiện nay rất ít các doanh nghiệp Việt Nam có đủ khả năng xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ. Vì theo tập quán Thương mại của Mỹ, Mỹ thường giao dịch theo giá FOD trong khi Việt Nam chủ yếu lại gia công xuất khẩu. Chính phủ luôn có các chính sách hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp tìm cách xuất khẩu được sản phẩm của mình sang Mỹ.
2.Những mặt hạn chế
Trình độ và quy mô ngành dệt Việt Nam còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực. Hiện tại ngành dệt chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành may, do đó tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam còn rất thấp. Sản xuất bông trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu nguyên liệu như vậy các doanh nghiệp ngành dệt phải tiếp tục nhập từ nước ngoài mỗi năm khoảng từ 13000 -14000 tấn bông và xơ/ năm, sợi hiện đang nhập khẩu 100%. Khó khăn lớn với người trồng bông là trang thiết bị hạn chế, kỹ thuật chưa được chuyên sâu nên sản lượng thấp dẫn tới giá bông trong nước cao hơn 1/3 so với giá nhập khẩu từ nước ngoài về. Nói chung đối với dệt may các doanh nghiệp chưa được đầu tư đúng mức vào các khâu hoạt động của doanh nghiệp như: thiết kế mẫu mã, nhãn hiệu, thương hiệu, phương thức bán hàng. Nội lực của doanh nghiệp chưa đủ để cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài. Trong hơn 1000 doanh nghiệp chỉ có khoảng hơn 10% là có đủ tiềm lực để cạnh tranh ra thị trường nước ngoài, đặc biệt đối với thị trường còn ít hơn.
Dệt may tuy đã là một ngành mũi nhọn xuất khẩu của nước ta nhưng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khổng lồ Mỹ còn rất khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, chưa tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi thị trường Mỹ yêu cầu rất cao về mọi mặt thì các doanh nghiệp Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động thấp, mẫu mã hàng hoá ngèo nàn, giá cả hàng hoá cao hơn so với các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Thái Lan…Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam chỉ bằng 2/3 so với các nước trong khu vực. Hơn nữa, kỹ năng lao động của công nhân trong các công ty quốc doanh và ngoài quốc doanh cũng có những chênh lệch.
Sản phẩm dệt may của Việt Nam chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng khoảng từ 15 -20%. Do đó kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng thực tế thu được ngoại tệ thì nhỏ. Thị trường mỹ thường ưa nhập khẩu hàng dệt may theo hình thức FOB. Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam lại thiên về phương thức gia công, nên khả năng thâm nhập thị trường Mỹ còn khó khăn. Bên cạnh đó việc thực hiện hợp đồng gia công lại không ổn định phụ thuộc vào giá nhân công tình hình cung cấp nguyên liệu phụ
Năng lực thiết kế thời trang trong nước còn quá yếu và chưa được chú trọng, còn nặng tư tưởng may gia công để tìm lợi nhuận. Chất lượng dịch vụ của ngành dệt may như hệ thống thông tin, giao dịch, chăm sóc khách hàng chưa được hoàn thiện.
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung rất thiếu thông tin về thị trường Mỹ, chưa hiểu biết rõ về môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật của Mỹ, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế do đó thường bị ép giá, giao hàng không đúng thời han đó là một điều nhà nhập khẩu Mỹ không bao giờ chấp nhận.
3. Những nguyên nhân tồn tại
3.1Từ phía nhà nước
Các chính sách và cơ chế quản lý của nhà nước về xuất nhập khẩu tuy đã có nhiều đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn nhiều những bất cập
3.2 Từ phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu hoạt động ở quy mô nhỏ, khả năng về vốn ít trình độ tay nghề công nhân chưa cao. Thiết bị máy móc thì cũ kỹ lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới
4. Những lưu ý khi thâm nhập thị trường Mỹ
Đơn đặt hàng lớn
Tiêu chuẩn kỹ thuật cao
Hệ thống làm thủ tục phức tạp
Thời gian từ lúc đặt hàng đến khi giao hàng ngắn
Trả hàng đúng quy đình về thời gian, số lượng không thừa một cái, không thiếu một cái, chất lượng đồng đều.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HANG DỆT MAY CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY SÔNG HỒNG SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
Định hướng và mục tiêu xuất khẩu sản phẩm dệt may của công ty cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ
Định hướng
Thực hiện chiến lược tăng trưởng gắn với hiệu quả. Khai thác tối đa năng lực sản xuất, bố trí hợp lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động nhất là đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật và công nhân lành nghề.
Tìm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, dịch chuyển cơ cấu, chủng loại mặt hàng, phương thức sản xuất đối với thị trường Mỹ. Khai thác tốt các thị trường xuất khẩu hiện có, mở rộng thị trường mới. Nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết giảm chi phí, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh để hội nhập. Chú trọng hơn nữa thị trường nội địa, đẩy mạnh thị trường nội bộ. Xây dựng và quảng cáo nhãn hiệu và thương hiệu tại thị trường trong nước và quốc tế.
Tập trung đầu tư có trọng điểm theo hướng chuyên môn hoá, sản xuất các mặt hàng tương xứng với trình độ công nghệ của thiết bị đầu tư mới.
Đẩy mạnh mở rộng ngành nghề kinh doanh theo hướng đa ngành bằng việc tham gia mua cổ phần.
Hiện nay Công ty cổ phần may Sông Hồng đang tập trung cho việc cổ phần hoá các công ty thành viên để theo kịp tiến trình đổi mới và huy động được nguồn vốn từ xã hội cho thời kỳ hội nhập.
1.1. Định hướng phát triển thị trường
Để thành công trong kinh doanh thì Công ty cần có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp với từng thời kỳ. Định hướng được những bước đi trong từng thời kỳ có thể giúp Công ty tránh được rủi ro. Công ty sẽ đầu tư khai thác chiếm lĩnh nhiều hơn thị phần trong nước, đa dạng chủng loại hàng để đáp ứng những yêu cầu cao cấp trong nước. Không ngừng mở rộng và phát triển thị trường, trước hết phải đứng vững trên những thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới. Cải tiến máy móc, đầu tư công nghệ mới để đáp ứng yêu cầu của thị trường mới.Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, cụ thể hoá từng mặt hàng kinh doanh để có kế hoạch triển khai từ đầu năm. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tập trung tạo cho sản phẩm những đặc trưng thương hiệu riêng.
1.2. Định hướng phát triển sản phẩm
Đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm xuất khẩu, đa dạng các mẫu thiết kế. Tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tạo ra nhiều mẫu mã mới, làm ra được nhiều sản phẩm có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, vị thế của công ty được nâng cao. Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm mà vẫn đảm bảo tiết kiệm chi phí hạ giá thành từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Công ty vẫn tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh để giữ vững thị trường. Nhóm sản phẩm mũi nhọn luôn được đầu tư, quan tâm theo dõi kịp thời.
Nâng cao uy tín của thương hiệu Sông Hồng tới thị trường trong nước và quốc tế.
2. Mục tiêu
Tăng trưởng kinh tế kỹ thuật 15% so với năm 2007. Thực hiện một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Doanh thu đạt 1750 tỷ
Giá trị tổng sản lượng 1250 tỷ
Kim ngạch xuất khẩu đạt 44,8 triệu USD
Lợi nhuận đạt 13,7 tỷ
Nộp ngân sách 12,5 tỷ
Thực hiện chương trình tiết kiệm, tiết giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí từ 5-10% so với năm 2006.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm theo TTCS và yêu cầu khách hàng. Hạn chế thấp nhất các khiếu nại, không có khiếu nại phải đền bù vật chất
Sản xuất đảm bảo an toàn, môi trường vệ sinh sạch đẹp. Duy trì và phát huy hiệu lực của HTQLCL, duy trì và tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn Wrap trong ngành may mặc
II.Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm dệt may của công ty cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ
1. Giải pháp về sản phẩm
Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Để làm được điều này thì quá trình sản xuất phải tuân thủ đúng qui định và có sự giám sát chặt chẽ theo hệ thống tiêu chuẩn nhằm hạn chế thấp nhất sản phẩm lỗi, hỏng. Khi chất lượng sản phẩm có vấn đề nếu không thể khắc phục được cần phải loại bỏ. Sản phẩm tốt thì uy tín của Công ty mới cao.
Đa dạng hoá sản phẩm cho phù hợp với sự thay đổi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Hiện nay chúng ta mới chỉ tập trung sản xuất ở một số mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật chưa cao, kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu nói chung còn khá đơn giản. Ngày nay khi vấn đề thời trang ngày càng được người tiêu dùng quan tâm thì một sản phẩm dù đơn giản đến mấy cũng cần phải có sự đổi mới, cách điệu ít hay nhiều. Cái yếu của chúng ta là chưa đủ khả năng tự thiết kế mẫu mã riêng để định hướng và thuyết phục được thị trường. Cần đa dạng hoá sản phẩm và đi sâu vào kỹ thuật vì vậy cần đầu tư thiết kế khai thác tối đa nhu cầu thị trường và cập nhật công nghệ phù hợp. Chất liệu và thiết kế phải phù hợp với nhau làm nên tính ưu việt của sản phẩm.
Thương hiệu lại không thể hình thành trong một thời gian ngắn do đó phát triển bằng chính thương hiệu của mình là điều rất khó khăn.Hầu hết sản phẩm của các nước đang phát triển đều phải sử dụng dưới tên các thương hiệu nổi tiếng khác. Khi mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp ngày một gia tăng thì người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn sản phẩm phù hợp yêu cầu của mình là dựa trên thương hiệu. Thương hiệu nổi tiếng đồng nghĩa với đó là sản phẩm có uy tín, chất lượng, sang trọng và hợp thời trang. Sản phẩm có thương hiệu tốt người mặc nó cũng tự tin hơn trong bất cứ việc gì. Để thương hiệu của mình được biết đến công ty cần đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình trên thị trường nước ngoài, vừa để tránh hàng giả hàng nhái. Ngày nay khi đã có hình thức nhượng quyền thương mại thì rất nhiều sản phẩm có chất lượng tốt không thua kém hàng hiệu có thể đăng ký sử dụng dưới tên các thương hiệu nổi tiếng khác.
2. Giải pháp phát triển thị trường
Phát triển thị trường sẽ nâng cao được thế và lực đồng thời tạo thêm sức mạnh cho ngành nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Mở rộng thị trường xuất khẩu là tất yếu trong thời kỳ hội nhập. Mở rộng thị trường gắn liền với phát triển sản phẩm. Để mở rộng thị trường xuất khẩu sang Mỹ chúng ta cần phải:
Đầu tư đổi mới công nghệ thay thế công nghệ cũ lạc hậu bằng công nghệ mới hiện đại hơn, năng suất cao hơn phù hợp với sản phẩm mới. Công nghệ là yếu tố hàng đầu cần thiết là sự bứt phá trong sản xuất công nghệ do đó công nghệ quyết định sự thắng thua giữa các đối thủ cạnh tranh. Ngày nay khi nhân công rẻ không còn là một lợi thế như trước thì phải tính đến cạnh tranh ở những khía cạnh khác như: công nghệ, chất lượng nhân công, nguyên liệu cho đầu vào, thương hiệu,...Một trong những điểm yếu của chúng ta là chưa có công nghệ hiện đại để có thể đi sâu vào chuyên môn hoá sản xuất tạo ra sự năng động linh hoạt và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Yếu tố giá và tiếp thị: Giá bán cao là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Thị trường Mỹ là thị trường đa sắc tộc đa văn hoá bao gồm nhiều dải thị phần trải rộng từ thấp đến cao, mỗi nhóm thị trường sẽ có yêu cầu riêng về giá cả và tiếp thị. Giảm giá thành cần thiết phải giảm chi phí nguyên vật liệu, tức là cần tìm những nguồn nguyên vật liệu đảm bảo với giá rẻ từ đó làm giảm chi phí sản xuất. Tiếp kiệm nguyên vật liệu cần phải có kế hoạch chặt chẽ giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng, lỗi do sản xuất. Có định mức tiêu dùng phù hợp để tiết kiệm vật tư. Giảm chi phí xuất khẩu bằng cách thực hiện nhanh thủ tục xuất hàng giảm chi phí vận chuyển, chi phí bốc dỡ, chi phí lưu kho bãi và làm thủ tục hải quan. Vấn đề tiếp thị và xúc tiến cần được tiến hàng đồng bộ. Cần đổi mới công tác tiếp thị cho phù hợp với từng phân đoạn thị trường và tăng cường năng lực xúc tiến thương mại. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại bằng cách tham gia nhiều hơn các hội chợ thương mại quốc tế giới thiệu hàng tiêu dùng. Thành lập phòng Marketing và đầu tư nghiên cứu đào tạo cán bộ chuyên viên marketing giỏi.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường tìm hiểu sâu về khách hàng và nhu cầu thị trường. Hiện nay công tác nghiên cứu thị trường còn rất sơ khai đơn giản thiếu hẳn nhân viên nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp. Hoạt động chủ yếu của Công ty hiện nay là nghiên cứu qua mạng Internet qua báo chí và một số hội thảo nên còn thiếu kiến thức thực tế. Cần đầu tư và chú trọng hơn nữa cho công tác này bằng cách thành lập nhóm chuyên nghiên cứu về thị trường Mỹ, tạo điều kiện hơn nữa cho cán bộ nhân viên đi sang Mỹ khảo sát thị trường đo lường nhu cầu và tìm hiểu thị hiếu khách hàng một cách trực tiếp. Có khả năng thì Công ty nên thành lập văn phòng đại diện tại Mỹ để thuận tiện cho việc nghiên cứu thị trường nắm bắt thông tin và tìm kiếm khách hàng. Nghiên cứu và đánh giá thị trường Mỹ sẽ giúp công ty phân đoạn thị trường và tiếp cận đúng từng nhóm khách hàng với những tiêu chí lựa chọn khác nhau từ đó nắm bắt những thay đổi trên thị trường này kịp thời để có những chiến lược thay đổi cho phù hợp và tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của công ty.
3. Thành lập kênh phân phối và xây dựng quảng bá thương hiệu
Khi hội nhập phát triển các doanh nghiệp cần thiết phải tổ chức lại kênh phân phối. Hiện nay sản phẩm của Công ty phần lớn phải xuất qua một hãng trung gian mới vào được thị trường Mỹ do chúng ta không có kênh phân phối tại Mỹ. Trong tương lai cần thành lập kênh phân phối cho sản phẩm của mình giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhà trung gian đồng thời xây dựng quảng bá thương hiệu đưa thương hiệu của mình trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Khi khách hàng đã nghe nói nhiều đến Sông Hồng thì hẳn người ta sẽ chú ý hơn đến sản phẩm của Công ty từ đó tạo ra ấn tượng nào đó trong tâm trí khách hàng. Chúng ta có thể thuyết phục các nhà phân phối lớn tại Mỹ nhận hàng của Công ty hoặc sử dụng lực lượng Việt Kiều yêu nước giao hàng tận tay người tiêu dùng, tạo lập mối quan hệ ngày càng gắn bó với khách hàng.
4. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại
Do Công ty chưa có phòng Marketing riêng nên hoạt động xúc tiến không được đầu tư nhiều, sản phẩm của Công ty chưa được nhiều người biết đến. Công ty cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại để sản phẩm của Công ty được trưng bày nhiều hơn nữa tại các trung tâm thương mại, đây sẽ là một hình thức quảng cáo tốt với chi phí rẻ. Cũng cần tạo các mối quan hệ với các hiệp hội may mặc và bảo vệ người tiêu dùng Mỹ để có cơ hội phát triển sản phẩm.
5. Các biện pháp tăng cường nghiệp vụ
Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ của cán bộ nhân viên kinh doanh xuất nhập khẩu.
Rèn luyện tác phong làm việc công nghiệp cho từng bộ phận.
Tăng cường đào tạo đội ngũ thiết kế có năng lực và đội ngũ nhân viên nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp. Điều này sẽ giúp chúng ta am hiểu thị trường và tiếp cận nhu cầu khách hàng một cách dễ hơn.
6. Một số kiến nghị với nhà nước
Cần minh bạch hoá chính sách thương mại, hoàn thiện hệ thống thuế và luật pháp cho phù hợp với yêu cầu của WTO. Hiện nay khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO thì sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, hàng ngoại nhập sẽ tràn vào Việt Nam gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Chính vì vậy nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ như: hỗ trợ vốn, công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực,...
Ban hành cơ chế đãi ngộ với người lao động để khuyến khích họ phát huy tính sáng tạo, ý thức trách nhiệm nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Mở cửa tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, đầu tư và thu hút vốn đầu tư để các doanh nghiệp trong nước mở rộng hoạt động.
Cần có sự quan tâm hơn nữa trong việc sản xuất nguyên liệu đầu vào như: bông, xơ để chủ động được nguyên phụ liệu cho sản xuất giảm bớt việc phải nhập khẩu nguyên liệu dẫn đến bị động trong sản xuất.
Thành lập các trường chuyên đào tạo thiết kế thời trang như ở các nước phát triển
KẾT LUẬN
Trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới các nước đang và kém phát triển cũng có nhiều tiến bộ và đang từng bước đi lên. Trong thời đại công nghệ số hoá những trang thiết bị hiện đại sẽ thay thế cho những máy móc lạc hậu. Những sản phẩm được làm ra không chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người mà còn chứa đựng giá trị thẩm mỹ cao. Xã hội càng tiến bộ, chất lượng cuộc sống càng nâng cao thì con người càng khao khát và vươn tới cái đẹp cũng như mong muốn được làm đẹp. Hàng dệt may là mặt hàng có tính thời trang cao, nhu cầu lại thường xuyên thay đổi vì vậy nó luôn đòi hỏi phải có những sản phẩm mới đẹp, chất lượng cao, sang trọng và hợp thời trang, thậm chí nó còn phải mang lại cho người mặc một phong cách riêng. Với một trang phục phù hợp chắc chắn người mặc nó sẽ cảm thấy tự tin hơn vào bản thân và thực hiện tốt công việc của mình. Với tầm quan trọng của mình ngành dệt may thật sự là một ngành rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta nó không chỉ thoả mãn nhu cầu làm đẹp của con người mà còn giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ kinh tế và xã hội. Ngày nay khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO ngành dệt may sẽ có thêm nhiều cơ hội để phát triển khi ta có thị trường thế giới. Và thực tế cho thấy Mỹ là một thị trường có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này lại có những quy định và đòi hỏi rất cao về chất lượng, mẫu mã, chất liệu,..sản phẩm nhập khẩu. Để những sản phẩm của Công ty được tiêu thụ trên thị trường rộng lớn này không phải là một điều đơn giản. Sản phẩm phải đáp ứng được chất lượng mẫu mã chủng loại và yêu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng trong khi năng lực sản xuất của ta còn thua kém nhiều so với nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu khác. Làm thế nào để Công ty có được thị trường và giữ vững được thị trường Mỹ để phát triển, làm thế nào để thương hiệu Sông Hông được khách hàng biết đến quả là một điều rất khó.
Từng bước cố gắng, nỗ lực thay đổi để phát triển mở rộng thị trường và gia tăng thị phần xuất khẩu, giữ vững được vị trí của Công ty trên thị trường Mỹ là mục tiêu của cán bộ nhân viên phòng xuất nhập khẩu. Để thực hiện được mục tiêu đó cần có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan.
Dù đã cố gắng nhưng do hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên bài viết không trách khỏi những thiếu sót. Em mong được nhận sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo bộ môn và các anh chị phòng XNK công ty Cổ phần may Sông Hồng để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28527.doc