Cần có chính sách hỗ trợ và hỗ trợ hơn nữa khuyến khích thu hút các học sinh có khả năng theo học về ngành công nghiệp Dệt – May, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư Dệt may trầm trọng đã xuất hiện và có thể kéo dài trong một vài năm tới. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây truyền hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành Dệt – May Việt Nam.
Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và Marketing nhằm khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành May xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Đồng thời có chính sách hỗ trợ đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao bị các doanh nghiệp liên doanh thu hút.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1735 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu cao của khách hàng và của thị trường. Do đó, doanh thu của công ty thời kỳ này tăng nhanh chóng, đạt mức tăng trưởng cao.
Đóng góp vào thành công này là sự phát triển mạnh của phòng Xuất nhập khẩu dệt may với doanh thu tăng dần trong các năm 2002-2004, năm 2003 tăng135,47% so với năm 2002, chiếm 26,77% trong tổng doanh thu, năm 2004 tăng 165,72% so với năm 2002, chiếm 24,76% trong tổng doanh thu. Đây là giai đoạn nước ta đang dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, vì thế chủ trương của công ty là phải tăng cường đẩy mạnh hợp tác với các đối tác bên ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu, do đó doanh thu về xuất khẩu thời kỳ này tăng rõ rệt.
Tuy nhiên, đến năm 2005, doanh thu của công ty bị chững lại, giảm tương đối so với năm 2004 (giảm 25,98%), xuất khẩu dệt may cũng giảm so với năm 2004 (13,76%). Điều này là do trong năm 2004 đã có một số biến động làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của công ty. Giá nguyên liệu như bông, xơ, tơ sợi, hóa chất…luôn biến động ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm và gây rủi ro lớn trong kinh doanh; giá xăng dầu tăng 3 lần trong năm làm cho chi phí vận tải tăng mạnh, giảm sức cạnh tranh; Việt Nam vẫn bị áp dụng hạn ngạch trong khi thế giới đã bỏ hạn ngạch ngành dệt may; các sản phẩm dệt may luôn chịu sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đơn vị trong ngành và tư nhân…
Bước sang năm 2006, công ty đã có những điều chỉnh kịp thời nhằm cải thiện tình hình kinh doanh, tăng doanh thu cho công ty và trong 6 tháng đầu năm 2006, công ty đã đạt được những bước tiến quan trọng, đặc biệt là phòng KDVT có doanh thu cao, đạt được 50,01% kế hoạch năm do công ty đặt ra, hứa hẹn sẽ còn tăng mạnh trong những tháng cuối năm. Mặc dù doanh thu 6 tháng đầu năm của công ty chỉ đạt 355,128 tỉ đồng (đạt 42,4% so với kế hoạch) nhưng toàn công ty đang cố gắng nỗ lực để có thể đạt được chỉ tiêu kế hoạch thậm chí vượt so với kế hoạch.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty các năm 2002 - 2006)
BIỂU ĐỒ 2.1: DOANH THU 2002 – 2005
Năm 2004
Năm 2002
Năm 2005
Năm 2003
Tỉ đồng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty)
2.1.4. Tình hình tài sản - nguồn vốn của Công ty
Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may là đơn vị thành viên phụ thuộc hạch toán đầy đủ thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam, được Tổng công ty giao vốn, tài sản và các nguồn lực khác. Công ty có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn đựơc giao, Công ty được phép huy động vốn theo quy định của pháp luật để hoạt động kinh doanh nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của Công ty, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả huy động vốn và được Tổng công ty bảo lãnh trong trường hợp cần thiết phải vay vốn kinh doanh.
BẢNG 2.2: CƠ CẤU TÀI SẢN – NGUỒN VỐN CỦA CÔNG TY
Đơn vị: triệu đồng
Các chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tổng tài sản
221.048
234.134
240.156
Trong đó:
- TSLĐ và ĐTNH
- TSCĐ và ĐTDH
216.774
4.274
230.464
3.67
235.257
4.899
Tổng nguồn vốn
221.048
234.134
240.156
Trong đó:
- Nợ phải trả
- Nguồn vốn CSH
192.809
28.239
210.725
23.409
220.143
20.013
(Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty )
Trên thực tế, do được cấp vốn lưu động ít nên trong quá trình hoạt động kinh doanh, để huy động vốn, Công ty thường huy động từ hai nguồn lực chủ yếu: một là từ nguồn vốn bên trong Công ty, từ tập thể cán bộ công nhân viên, hai là vay ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn vốn vay ngân hàng là nguồn vốn huy động chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Với tình hình đó, trong cơ cấu nguồn vốn của mình, nợ phải trả của Công ty luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn (tới 87,23% năm 2004; 90% năm 2005 và 97,96% năm 2006). Điều này sẽ là một khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Công ty khi chi phí trả lãi vay sẽ lớn và nếu hạn mức vốn vay tại các ngân hàng hiện nay giảm mạnh thì Công ty sẽ gặp khó khăn trong thanh toán.
Vì là doanh nghiệp thương mại, chức năng chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu nên ta có thể thấy trong cơ cấu tài sản, nguồn vốn của Công ty, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn (98,07% năm 2004; 98,43% năm 2005 và 91,67% năm 2006).
(Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty )
2.1.5. Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước
BIỂU ĐỒ 2.2: NỘP NGÂN SÁCH CỦA CÔNG TY 2002-2005
Tỉ đồng
(Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty)
Có thể thấy tình hình nộp ngân sách của công ty đã tăng nhanh từ năm 2002 đến năm 2004 (20,12 tỉ VNĐ) là do thời gian này doanh thu mà công ty đạt được cũng tăng nhanh chóng. Giai đoạn này công ty đã mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu, nâng cao chất lượng các mặt hàng làm cho doanh thu ngày càng tăng, % nộp ngân sách cũng tăng theo.
Tuy nhiên, năm 2005 là năm mà công ty đã gặp một số khó khăn, chính vì thế mà doanh thu của công ty đã giảm rõ rệt, điều này tác động không nhỏ tới việc nộp ngân sách của công ty cũng đã giảm nhanh(18,7 tỉ VNĐ). Mặc dù vậy, toàn công ty đã rất cố gắng điều chỉnh để đạt mức doanh thu năm 2006 cao và điều chỉnh nộp ngân sách 6 tháng đầu năm cho phù hợp 12,66 tỉ VNĐ (tăng 26,6% so với cùng kỳ năm 2005).
(Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty các năm 2002 - 2005)
2.2. Tình hình hoạt động xuất khẩu của Công ty
2.2.1. Về kim ngạch xuất khẩu của Công ty
BẢNG 2.3: KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY
Đơn vị: tỷ đồng
Phòng
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
XNK Dệt – May
3,325
5,722
3,517
KDVT
0,014
0,02
0,13
Khác
0,14
0,1
0,19
Tổng
3,479
5,842
3,837
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty )
Có thể thấy kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã tăng từ 3,479 triệu USD năm 2004 lên 5,842 triệu USD năm 2005, nhưng lại giảm xuống chỉ còn 3,837 triệu USD vào năm 2006, điều này làm ảnh hưởng một cách đáng kể đến doanh thu của Công ty. Nguyên nhân của sự sụt giảm này chủ yếu là do kim ngạch xuất khẩu Dệt may mặc dù chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty nhưng doanh thu xuất khẩu thì lại ngày càng giảm. Bắt nguồn là do từ năm 2005, hạn ngạch dệt may vào một số thị trường trọng điểm như Mỹ, Canada bị hạn chế, bên cạnh đó Công ty còn gặp một số khó khăn từ khâu nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm nên doanh thu xuất khẩu đã bị giảm một cách đáng kể, kéo theo sự sụt giảm trong doanh thu của toàn Công ty.
Tuy nhiên, cuối năm 2006 đầu năm 2007, Công ty đã có thực hiện một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng xuất khẩu cho sản phẩm dệt may như áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao tỷ trọng xuất khẩu FOB, mở rộng sang một số thị trường xuất khẩu tiềm năng… Điều này hứa hẹn trong năm tới, việc xuất khẩu của Công ty sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ, tiếp cận với phương thức kinh doanh mới và có hướng đi đúng đắn. Hy vọng, với những thuận lợi đó và dần khắc phục được những khó khăn trong thời gian qua, kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu của Công ty sẽ tăng nhanh để có thể hoàn thành chỉ tiêu mà Tổng Công ty đã giao cho.
2.2.2. Phân tích tình hình xuất khẩu của Công ty theo thị trường xuất khẩu
BẢNG 2.4: CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU 2002-2006Đơn vị: tỉ đồng
Thị trường
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
(6 th đầu năm)
Châu Âu
1.87
2.48
0.93
0.74
0.35
Châu Á
2.51
3.33
4.35
5.26
2.48
Châu Mỹ
1.08
1.43
2.57
0.87
0.41
Châu Úc
0.012
0.015
0.082
0.002
0.0013
(Nguồn: Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh của Công ty)
Thị trường xuất khẩu của công ty là khá rộng, các thị trường có mặt trên hầu hết thế giới, thể hiện công ty đã và đang có nhiều đối tác ở khắp các nước và khu vực lớn trên thế giới. Tuy nhiên, nhìn vào bảng biểu chúng ta có thể thấy những thị trường này biến động khá mạnh, ngoại trừ thị trường Châu Úc là hầu như thay đổi không đáng kể, còn lại các thị trường khác đều có những biến động lớn, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu của công ty hàng năm.
Đối với thị trường xuất khẩu Châu Âu mà tập trung chủ yếu vào khu vực thị trường EU, là thị trường lớn nhất ở Châu Âu. Những năm 02, 03 doanh thu xuất khẩu vào thị trường này đều tăng do thời kỳ này công ty đang phát triển mạnh, có nhiều đối tác, doanh nghiệp đặt mua hàng. Nhưng từ năm 2004 trở đi, do EU áp dụng hạn ngạch dệt may, áp dụng các biện pháp tiêu chuẩn kỹ thuật đối với nước ta do đó sản lượng xuất khẩu vào thị trường này giảm một cách rõ rệt (từ 2.48 triệu USD năm 2003 xuống chỉ còn 0.93 triệu USD vào năm 2004 và tiếp tục giảm còn 0.74 triệu USD vào năm 2005). Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của toàn công ty, mặt khác, nó làm công ty gần như mất đi một thị trường đầy tiềm năng, mang lại nguồn lợi lớn cho công ty.
Cũng giống như thị trường Châu Âu, thị trường Châu Mỹ mà chủ yếu tập trung vào hai quốc gia lớn là Mỹ và Canada. Kim ngạch xuất khẩu của công ty sang các thị trường này tăng đều cho đến năm 2004 và giảm một cách rõ rệt vào năm 2005 (từ 2.57 triệu USD xuống còn 0.87 triệu USD). Nguyên nhân là do Mỹ cũng đã thay đổi những điều kiện cho phép nhập khẩu sản phẩm dệt may từ Việt Nam, đưa ra những kiểm định nghiêm ngặt, những biện pháp bảo hộ ngành dệt may của Mỹ, rồi chính sách chống bán phá giá. Điều này khiến cho rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường này trong đó có công ty sản xuất xuất nhập khẩu dệt may. Sự thay đổi này đã làm cho công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường ở các khu vực này. Buộc công ty phải có những chiến lược nhằm mở rộng thị trường ở khu vực Châu Á, một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng trong khi thị trường Châu Úc hầu như không thể phát triển hơn được nữa.
Có thể nói, thị trường Châu Á là thị trường chính của công ty trong nhiều năm, đặc biệt là thị trường Nhật Bản hàng năm vẫn nhập khẩu một số lượng lớn các sản phẩm dệt may của công ty. Doanh thu xuất khẩu vào thị trường Châu Á liên tục tăng trong các năm, khẳng định đây là một thị trường lâu dài, bên cạnh thị trường đã quen thuộc như Nhật Bản thì Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ là những nước có tiềm năng rất lớn do đây là những nước công nghiệp mới, dân số đông, nhu cầu về hàng may mặc là rất lớn. Công ty cần phải có những biện pháp và chiến lược nhằm tiếp cận với các thị trường mới này và dần biến họ trở thành những đối tác quen thuộc, tạo ra những thị trường chiến lược cho tương lai.
2.2.3. Phân tích tình hình xuất khẩu của Công ty theo cơ cấu mặt hàng
BẢNG 2.5: CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT KHẨU
Đơn vị: tỷ đồng
Mặt hàng
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Khăn bông
29,166
71,957
42,096
Dệt kim
4,886
3,118
6,656
Thủ công
9,425
7,265
5,296
May mặc
12,189
11,127
7,344
Tổng
55,666
93,467
61,392
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty)
Thực tế những năm qua cho thấy, loại hình kinh doanh khăn bông đã giúp cho Công ty tăng trưởng rất lớn về doanh thu, và đây là mặt hàng chủ lực để tính doanh thu của Công ty. Tuy nhiên, kinh doanh mặt hàng này lại gây ra nhiều áp lực rất lớn về vốn đối với Phòng kinh doanh vật tư và Công ty, vì vốn lưu động của Công ty là không nhiều, kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Mặc dù vậy, với sự chỉ đạo rất sát của Giám đốc, Phòng kinh doanh vật tư kết hợp với Phòng Tài chính-Kế toán đã lo được vốn, thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu đáp ứng đúng tiến độ, chất lượng. Là mặt hàng nhạy cảm, luôn biến động về giá cả nhưng khăn bông vẫn được lựa chọn là mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty vì đây là mặt hàng mà Công ty đã có kinh nghiệm kinh doanh trong nhiều năm và sẽ tiếp tục duy trì và phát triển trong tương lai. Mặc dù luôn ở trong tình trạng phải cạnh tranh quyết liệt với các công ty tư nhân, bị khách hàng nước ngoài liên tục ép giá, giá nguyên liệu đầu vào biến động khó lường nhưng khăn bông vẫn luôn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của Công ty với doanh thu năm 2005 là 71,957 tỷ đồng, tăng 146,71% so với năm 2004. Tuy vậy, bước sang năm 2006, do vấp phải một số vấn đề khó khăn về thị trường, hạn chế hạn ngạch của các thị trường lớn như Mỹ, Canada đã làm cho kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này giảm đáng kể, chỉ còn 42,096 tỷ đồng, giảm 41,5% so với năm 2005. Công ty đang cố gắng khắc phục những khó khăn này bằng cách tìm kiếm mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đưa mặt hàng này trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Công ty trong thời gian tới.
Bên cạnh mặt hàng chủ lực là khăn bông, Công ty vẫn chủ trương duy trì một số mặt hàng khác như dệt kim, may mặc, thủ công nhằm đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường thế giới. Do các sản phẩm này trên thị trường thế giới gần như đã bão hoà nên kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này là tương đối thấp và có xu hướng ngày càng giảm. Có thể thấy như mặt hàng may mặc giảm từ 12,189 tỷ đồng năm 2004 xuống còn 7,344 tỷ đồng năm 2006; hàng thủ công giảm từ 9,425 tỷ đồng xuống còn 5,296 tỷ đồng năm 2006.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty)
2.2.4. Phân tích tình hình xuất khẩu của Công ty theo thời gian
Mặt hàng may mặc tuy là có tính thời vụ rất cao, song do phạm vi mặt hàng kinh doanh rộng nên kim ngạch xuất khẩu của Công ty cũng không thay đổi nhiều giữa các quý. Có những mặt hàng tiêu thụ mạnh vào mùa đông như khăn bông, bông…nhưng mặt hàng may xuất khẩu, dệt kim xuất khẩu lại xuất được nhiều vào mùa hè. Chính vì vậy, tổng giá trị hàng xuất giữa các quý biến động không đáng kể. Tình hình xuất khẩu qua các quý được thể hiện trong bảng sau:
BẢNG 2.6: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THEO THỜI GIAN
Đơn vị: tỷ đồng
Thời gian
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Quý I
10,256
15,355
12,142
Quý II
13,825
20,467
15,237
Quý III
11,434
18,352
13,964
Quý IV
20,151
39,293
20,049
Tổng
55,666
93,467
61,392
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty)
Nhìn vào bảng biểu có thể thấy quý II và quý IV của các năm có tỷ trọng xuất khẩu cao nhất, đặc biệt là quý IV. Do gần cuối năm là Noel và Năm mới nên thị trường may mặc tiêu thụ mạnh, cao nhất là quý IV của năm 2005 với kim ngạch xuất khẩu đạt 39,293 tỷ đồng. Với khối lượng xuất khá lớn vào quý IV nên Công ty cần chú trọng đến công tác chuẩn bị tốt nguồn hàng để có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường và giao hàng đúng tiến độ, tạo uy tín cho Công ty.
Tuy nhiên, sang năm 2006, Công ty đã gặp một số khó khăn làm cho kim ngạch xuất khẩu của cả bốn quý đều giảm khiến cho tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty cũng giảm theo từ 93,467 tỷ đồng năm 2005 xuống còn 61,392 tỷ đồng năm 2006. Công ty đang chú trọng cải tiến mẫu mã, chất lượng hàng dệt may xuất khẩu nhằm cạnh tranh sản phẩm trên thị trường, dẫn tới tăng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này trong thời gian tới.
Quý I là quý có tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu thấp nhất của các năm, những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong thời gian này là sợi bông, xơ các loại…Mặc dù chỉ đạt mức 12,142 tỷ đồng vào năm 2006, giảm 3,213 tỷ đồng so với năm 2005 nhưng nó cũng đóng góp một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty, giúp doanh thu của Công ty tăng.
Như vậy, mặc dù hàng dệt may có tính thời vụ rất cao, nhưng do Công ty đã chủ động về nguồn hàng, có dự trữ tốt nên Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may đã hoàn thành tốt chỉ tiêu của Tổng Công ty đề ra, nâng dần kim ngạch xuất khẩu qua từng năm.
2.2.5. Phân tích tình hình xuất khẩu của Công ty theo phương thức xuất khẩu
Hiện nay, phương thức xuất khẩu chủ yếu của Công ty nói riêng và của toàn ngành dệt may nói chung vẫn là gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp chỉ chiếm một phần trong kim ngạch xuất khẩu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chính là hàng dệt may của Việt Nam ít có sự thay đổi về mẫu mã, kiểu dáng lạc hậu, trong khi nguyên vật liệu chưa đáp ứn được nhu cầu của thị trường các nước nhập khẩu. Tình hình xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu của Công ty cụ thể như sau:
BẢNG 2.7: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THEO PHƯƠNG THỨC XK
Đơn vị: tỷ đồng
Phương thức XK
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Gia công
40,435
63,984
41,151
XK trực tiếp
15,231
29,483
20,241
Tổng
55,666
93,467
61,392
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của Công ty)
2.2.5.1. Xuất khẩu trực tiếp
Phương thức xuất khẩu trực tiếp hay “mua đứt bán đoạn” là phương thức chiến lược của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới đây. Hiện tại do có những khó khăn trong vấn đề chứng nhận xuất sứ, hiểu biết về thị trường còn hạn chế cùng với việc chưa thiết lập được hệ thống phân phối nên rất ít doanh nghiệp may có thể xuất khẩu trực tiếp. Do vậy, doanh thu xuất khẩu theo phương thức này còn khá thấp, chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhìn vào bảng có thể thấy, doanh thu xuất khẩu của năm 2004 là 15,231 tỷ đồng, chiếm 27,36% tồng kim ngạch xuất khẩu ; năm 2005 là 29,483 tỷ đồng, chiếm 31,54% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2006 là 20,241 tỷ đồng, chiếm 32,97% tổng kim ngạch xuất khẩu . Mặc dù doanh thu xuất khẩu trực tiếp của năm 2006 giảm so với năm 2005 là 9,242 tỷ đồng nhưng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 2006 lại tăng hơn so với năm 2005, điều này chứng tỏ Công ty đang chú trọng tập trung vào phương thức xuất khẩu này, đưa xuất khẩu trực tiếp trở thành phương thức xuất khẩu chính trong những năm tới.
Ưu điểm của phương thức này là các doanh nghiệp có thể chủ động trong sản xuất và xuất khẩu. Chi phí về nguyên vật liệu và các phụ phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất sẽ được giảm thiểu tối đa.
Tuy nhiên, trong quá trình xuất khẩu trực tiếp thì các doanh nghiệp cũng khó tránh khỏi các rủi ro bởi vì thị trường này còn tương đối mới mẻ với Việt Nam.
2.2.5.2. Gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu là một tất yếu không chỉ đối với Việt Nam mà còn với nhiều nước Châu Á khác, nó là nguồn đóng góp rất lớn cho kim ngạch xuất khẩu, qua gia công các doanh nghiệp cũng tiếp thu được nhiều kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, điều hành của các nước tiên tiến hơn.
Xuất phát từ nguồn nguyên liệu trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu về chất lượng cũng như về màu sắc, thị hiếu tiêu dùng của nước nhập khẩu, Việt Nam phải nhập nguyên liệu của khách hàng rồi gia công theo các mẫu mã họ đặt ra. Phương thức này phần nào đã khắc phục được những hạn chế về vốn, nguyên liệu và trình độ công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Kim ngạch xuất khẩu của năm 2004 là 40,435 tỷ đồng, chiếm 72,64% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2005 là 63,984 tỷ đồng, chiếm 68,56% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2006 là 41,151 tỷ đồng, chiếm 67,03% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy doanh thu của gia công xuất khẩu năm 2005 tăng 23,549 tỷ đồng so với năm 2004 nhưng tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu thì lại giảm, cho thấy Công ty mặc dù vẫn chú trọng vào gia công xuất khẩu nhưng đã có sự quan tâm hơn đến phương thức xuất khẩu khác nhằm đa dạng hoá các phương thức xuất khẩu.
Trong điều kiện trước mắt, chúng ta vẫn phải tập trung nhiều hơn đến gia công xuất khẩu nhưng về lâu dài cần phải nâng cao tỷ trọng của xuất khẩu trực tiếp để có thể độc lập chiếm lĩnh thị trường, tăng doanh thu cho Công ty, thu về nhiều ngoại tệ hơn cho đất nước.
Chương 3: Định hướng và một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may
3.1. Định hướng nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty
Với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai (chỉ sau dầu khí) trên cả nước, dệt may đang được xem là ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam hiện nay, đóng góp rất lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, phần lớn hoạt động của ngành dệt may là “gia công thuần tuý”, chưa tạo lập được bản sắc cũng như thương hiệu cho chính mình. Vì vậy, em xin đưa ra một số định hướng nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt may trong thời gian tới.
Nhanh chóng chuyển đổi từ hình thức gia công sang xuất khẩu trực tiếp (FOB). Xuất khẩu trực tiếp là một biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chúng ta có thể xuất trực tiếp cho khách hàng nước ngoài mà không cần qua bất cứ một trung gian nào để thu được lợi nhuận cao nhất có thể. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt phương thức này, Công ty cần phải tìm hiểu kỹ lưỡng về khách hàng như về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, thị trường…nhằm tránh gặp phải những rủi ro trong quá trình xuất khẩu.
Chủ động tìm nguồn nguyên phụ liệu trong nước và nước ngoài. Trong những năm vừa qua, Công ty đã phải nhập khá nhiều nguyên phụ liệu để phục vụ cho hoạt động sản xuất xuất khẩu của mình. Do đó, nếu tìm kiếm được một nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước ổn định sẽ giúp Công ty giảm bớt được nguồn nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài. Điều này dẫn đến làm giảm giá thành cho sản phẩm và nâng cao sự canh tranh về giá cho sản phẩm dệt may.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ điều hành, đặc biệt là các cán bộ công nhân viên làm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác thủ tục xuất khẩu giúp cho việc tiến hành các thủ tục xuất khẩu một cách nhanh chóng, tránh việc tắc nghẽn ở một công đoạn nào của quá trình xuất khẩu, làm chậm tiến độ giao hàng dẫn đến làm ảnh hưởng lợi nhuận cũng như uy tín của Công ty.
Nâng cao chất lượng của sản phẩm đồng thời tạo lập một thương hiệu cho sản phẩm dệt may nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khi xuất khẩu sang một số thị trường như Mỹ, EU thì chất lượng và thương hiệu của sản phẩm là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Vì vậy, Công ty cần quan tâm đúng mức đối với việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm và của chính Công ty nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường thế giới.
Cải tiến mẫu mã, thiết kế. Công tác thiết kế mẫu mã của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung là còn yếu kém, các mẫu thường đơn điệu, lạc hậu so với nhu cầu của khách hàng. Các mẫu thiết kế này còn mang nặng tính biểu diễn, chưa đi vào thực tế cuộc sống. Đây cũng là một phần quan trọng nhằm giúp Công ty nhanh chóng chuyển đổi sang phương thức xuất khẩu trực tiếp. Vì vậy, Công ty cần xây dựng phòng thiết kế, sản xuất mẫu mã thử để có thể đáp ứng nhu cầu thị trường và đẩy nhanh quá trình chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường nhằm tìm kiếm thêm những thị trường tiềm năng bên cạnh những thị trường truyền thống. Đặc biệt phải quan tâm nghiên cứu về văn hoá, truyền thống, xu hướng thời trang của thị trường đó. Xác định thị trường mục tiêu cho từng sản phẩm của Công ty, cần biết được thế mạnh cũng như những hạn chế của sản phẩm để tìm được thị trường phù hợp với sản phẩm đó.
3.2. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty
3.2.1. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
3.2.1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu
Có thể nói khó khăn chủ yếu nhất của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may cũng như toàn ngành dệt may Việt Nam hiện nay và cả trong những năm trước mắt là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu cần tiến hành đồng bộ một số biện pháp sau:
- Cần phải quan tâm tới mọi khu vực thị trường với những mức độ khác nhau nhằm thích ứng và khai thác tối đa ưu thế của mỗi thị trường. Nghiên cứu các khu vực thị trường khác nhau với những tiềm năng và đặc điểm của nó về tiêu thụ sản phẩm dệt may nhằm tìm ra mối liên hệ chặt chẽ giữa khả năng sản xuất của mình và đặc điểm tiêu dùng của từng thị trường trên từng khu vực thị trường nhằm thích ứng được với nó cũng như có định hướng trọng tâm với những mức độ khác nhau trong chiến lược thị trường nhằm khai thác tối đa ưu thế của mỗi thị trường là giải pháp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp thị. Đây là giải pháp then chốt để khai thác và phát triển thị trường. Cả hai hình thức mua bán nguyên liệu thành phẩm và gia công đòi hỏi các nhà sản xuất và kinh doanh phải am hiểu thị trường. Muốn am hiểu về thị trường thì cần phải nghiên cứu thị trường và nên tổ chức công tác nghiên cứu thị trường để có thể thích ứng với thị trường luôn biến đổi là biện pháp quan trọng để tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu nào. Chú trọng công tác nghiên cứu phát triển thị trường nhiều khi là yếu tố quyết định cho thành công của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Để có thể nắm bắt thông tin về thị trường thì không ai khác mà chính là doanh nghiệp cần chủ động tổ chức công tác nghiên cứu thị trường, coi trọng công tác thị trường phải trở thành nguyên tắc trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Rõ ràng khi đưa một loại sản phẩm có sẵn hay triển khai một sản phẩm mới vào một thị trường xuất khẩu nào đó như thị trường Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, hay Nhật Bản thì điều cốt lõi để đảm bảo sản phẩm có phù hợp và thích ứng với người tiêu dùng của nước nhập khẩu do vậy cần phải nắm vững các đặc điểm, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng sản phẩm dệt may của thị trường đó.
Để thực hiện tốt công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, trước hết các doanh nghiệp cần quan tâm, chú trọng đến công tác nghiên cứu phát triển thị trường và phải đặt thành nội dung quan trọng trong chiến lược Marketing của mình. Từ đó cần có kế hoạch, biện pháp tổ chức và đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường. Chi phí cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường phải được xem là bộ phận không thể thiếu được trong kế hoạch tài chính của doanh nghiệp. Với điều kiện của chúng ta, mặc dù kinh phí còn hạn hẹp thì cần phải vận dụng tối đa biện pháp nghiên cứu thị trường, nắm bắt thông tin qua các nguồn tài liệu và đặc biệt là qua bạn hàng là rất quan trọng.
Thông qua các mối quan hệ với bạn hàng đang tìm hiểu hoặc đang làm ăn với doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tìm hiểu để nắm bắt được bí quyết kinh nghiệm của họ trong việc nghiên cứu thị trường vì đây là cách hiệu quả nhất để hiểu biết về thị trường một cách sát thực trong khi điều kiện khảo sát thị trường trực tiếp còn khó khăn và khôn phải lúc nào cũng thực hiện được.
Để nắm thông tin và tìm bạn hàng, một vấn đề cơ bản là các doanh nghiệp cần phải duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan chức năng trong và ngoài nước như Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội dệt may , Thương vụ của ta tại các nước…để có thể nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng một cách có hiệu quả nhất.
- Tổ chức tốt các đầu mối tiếp thị. Những yếu kém và hạn chế trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nước ta như không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, thiếu thông tin, thiếu thị trường, bị ép giá gia công, tỷ lệ bán FOB nhỏ…đều bắt nguồn từ những yếu kém trong việc tổ chức các đầu mối tiếp thị của ngành Dệt may xuất khẩu nước ta. Vì vậy tổ chức thật tốt, có hệ thống các đầu mối tiếp thị để các đầu mối này hoạt động có hiệu quả là giải pháp quan trọng đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng.
3.2.1.2. Tăng dần tỷ trọng xuất FOB, tiến tới xuất CIF, giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu và xuất khẩu qua nước thứ ba
Xuất khẩu trực tiếp là biên pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp cần:
- Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu: các doanh nghiệp dệt cần cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm của ngành dệt để có thể đáp ứng được nhu cầu của ngành may, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa các ngành dệt và ngành may. Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm dệt may.
- Từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế: để có thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng các nhãn mác của chính mình trên thị trường quốc tế. Muốn vậy:
+ Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm dệt may.
+ Tổ chức công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
+ Trước mắt các doanh nghiệp nào chưa có khả năng tạo mốt thị cần phải hợp tác với các Viện mốt thời trang hoặc thuê các chuyên gia thiết kế mẫu của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hòa nhập vào thị trường thế giới.
- Chú trọng công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hóa. Ở nhiều nước, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện tại, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để có thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí của chính mình trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của chính mình. Tuy nhiên, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa chịu nhiều chi phí có khi lên tới hàng ngàn USD. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để cùng đăng ký nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm.
- Nâng cao hiệu quả của gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
Cần khẳng định rằng trong thời gian tới, các doanh nghiệp của ta vẫn sẽ gia công hàng may xuất khẩu rất lớn, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may của chúng ta cũng chưa thể hoàn chỉnh để có thể hoàn toàn xuất khẩu trực tiếp.
Gia công là bước đi cần thiết và quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt như giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn… Đồng thời thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích lũy đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
3.2.1.3. Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm
Một trong những ưu thế của hàng dệt may Việt Nam là chất lượng cao và thời hạn giao hàng đúng hạn. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, khi hạn ngạch và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu hàng dệt may phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
- Cải thiện chất lượng sản phẩm: đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh phi giá cả, trước hết là chất lượng hàng hóa, trong rất nhiều trường hợp trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Chẳng hạn các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như EU, Nhật Bản, Mỹ…đều là những thị trường rất khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng ở các thị trường khó tính này có khả năng thanh toán cao nên yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm được chú ý hơn là giá cả.
Như vậy, yếu tố chất lượng là yếu tố sống còn đối với ngành dệt may nước ta, do vậy cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp. Cần chú ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hóa hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng.
+ Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì…
+ Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu.
+ Để đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất khẩu, giữ và nâng cao uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết.
+ Để cho sản phẩm dệt may của Việt Nam chiếm lĩnh và phát triển được thị trường thế giới (nhất là theo phương thức FOB) gắn liền với các biểu tượng có uy tín chất lượng cao của nhãn hiệu Việt Nam thì việc phổ cập ISO 9000, ISO 14000, SA 9000 phải trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay.
+ Trong thời gian tới chúng ta cần nâng cao tỷ trọng xuất FOB và tiến tới xuất CIF, chủ động trong thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm, tránh rủi ro tổn thất và suy giảm chất lượng thành phẩm. Đây chính là biện pháp để đảm bảo yêu cầu về thời hạn giao hàng.
- Chú trọng việc nghiên cứu và phát triển mẫu mới: khi tham gia vào thị trường dệt may thế giới, các nhà doanh nghiệp luôn phải đương đầu với cạnh tranh. Thị trường dệt may thế giới là thị trường cạnh tranh mạnh giữa các nhà sản xuất với nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, giá trị thẩm mỹ của sản phẩm được coi trọng do tác động của mốt thời trang, hay nói cách khác đi là mẫu mốt thời trang tạo nên sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm dệt may.
Đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta, để chuyển sang phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì việc nghiên cứu mẫu mốt là một yêu cầu không thể thiếu được. Nó giúp cho các doanh nghiệp của ta phát triển theo hướng tự chủ, không phụ thuộc vào khách đặt hàng nước ngoài, nhờ đó nâng cao khả năng sản xuất kinh doanh, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa phương thức kinh doanh, thị trường kinh doanh.
Để việc nghiên cứu phát triển mẫu mốt thực sự trở thành vũ khí cạnh tranh sắc bén, các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Cần chú trọng quan tâm đặc biệt và tổ chức xây dựng hệ thống trung tâm nghiên cứu mẫu mốt có qui mô lớn. Bên cạnh đó cần hình thành một hệ thống các cơ sở nghiên cứu mẫu mốt trong từng doanh nghiệp để có thể vươn kịp các nước trong khu vực.
+ Xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như trang bị hệ thống máy móc hiện đại, đồng bộ cho các cơ sở nghiên cứu sáng tạo mẫu mốt một cách hệ thống và cung cấp kịp thời để đảm bảo cho sự tiếp cận nhanh nhất của người sáng tác với thế giới thời trang, mang lại hiệu quả cao hơn.
+ Chăm lo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao, chuyên làm công tác nghiên cứu sáng tác mẫu mới.
+ Để công tác nghiên cứu mẫu mốt có thể triển khai được tốt, kế hoạch tài chính của các doanh nghiệp phải dành một phần chi phí nghiên cứu sáng tác, thiết kế, chế thử mẫu mốt mới một cách thích đáng.
3.2.1.3.3. Đảm bảo yêu cầu về giao hàng
Giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do đặc điểm về thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này.
- Chủ động vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa.
- Sắp xếp, tổ chức sản xuất một cách hợp lý các mã hàng, tránh để tình trạng có lúc dây truyền sản xuất để trống nhưng có lúc thì sản xuất không kịp để giao hàng đúng thời hạn.
Có những cán bộ có kinh nghiệm chuyên trách khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu, đặc biệt là những cán bộ đã qua đào tạo trường ĐH Ngoại Thương, tránh để tình trạng hàng sản xuất xong nhưng lại không thể xuất được.
3.2.1.3.4. Tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
Hiện nay, Công ty vẫn theo đuổi chủ trương đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu để tận dụng các cơ hội của thị trường khi cần thiết. Tuy nhiên, Công ty nên tập trung vào vài mặt hàng có triển vọng nhất và quyết tâm thực hiện chiến lược này. Thực tế trong thời gian qua Công ty đã xuất khẩu tương đối nhiều mặt hàng nhưng lại không đạt về chỉ tiêu khối lượng và chất lượng của từng mặt hàng nên hiệu quả đạt được chưa cao hơn. Hơn nữa, với khả năng tài chính như hiện nay thì việc ôm đồm quá nhiều mặt hàng là vượt quá khả năng. Vả lại, nhiều khi lo quá sa đà vào nhiều mặt hàng dẫn đến việc phân bố các nguồn lực cho từng mặt hàng không đủ mạnh làm cho không mặt hàng nào đem lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì những lý do này mà việc tập trung vào những mặt hàng có thế mạnh là việc rất cần thiết cho Công ty. Sau khi Công ty đã có thế và lực đủ mạnh thì việc thực hiện chiến lược đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu cũng chưa muộn. Các mặt hàng Công ty nên tập trung vào đó là bông, khăn bông, thiết bị may, may xuất khẩu. Với các mặt hàng này Công ty nên tập trung cho việc thu mua, tổ chức bảo quản, chế biến để nó trở thành những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế và có giá trị kinh tế cao.
Để thực hiện được chiến lược này, Công ty nên thu thập thông tin về tình hình xuất khẩu của Việt Nam để biết mặt hàng nào là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, mặt hàng nào còn ít được xuất khẩu, mặt hàng nào chưa được xuất khẩu. Đồng thời Công ty cũng cần có thông tin về tình hình thị trường xuất khẩu thế giới như mặt hàng nào của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường xuất khẩu nào, khối lượng xuất khẩu và khả năng xuất khẩu dự đoán, mặt hàng nào có nhu cầu nhưng ít được xuất khẩu…tình hình cạnh tranh và khả năng tham gia. Qua sự phân tích này, Công ty sẽ phán đoán được tình hình và sự tiến triển của các mặt hàng xuất khẩu, qua đó tìm ra cho mình mặt hàng xuất khẩu phù hợp để lập kế hoạch xuất khẩu và thực hiện kế hoạch này.
3.2.1.4. Không ngừng nâng cao uy tín của Công ty
Về nâng cao uy tín của Công ty có thể trực tiếp liên quan đến việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hoặc cũng có thể tác động gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của Công ty. Hiện nay, có rất nhiều các hoạt động để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc lựa chọn hình thức nào là rất quan trọng đảm bảo phù hợp với khả năng hiện tại của Công ty. Sau đây là một số biện pháp Công ty nên áp dụng nhằm nâng cao uy tín của mình trong hoạt động xuất khẩu:
- Thực hiện tốt và đầy đủ các cam kết đã thỏa thuận trong các hợp đồng xuất khẩu. Hiện nay có một vấn đề là Công ty thường ít quan tâm đến những hiệu ứng sau khi bán hàng. Vì vậy, nhiều khi Công ty không quan tâm đến việc làm tốt và đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Ta đã biết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình trong đó nhà xuất khẩu cung cấp một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó cho khách hàng nước ngoài theo đúng những quy định đã ghi trong hợp đồng. Nói chung, khách hàng sẽ rất hài lòng khi họ nhận được hàng hóa có chất lượng đúng nhu cầu, có khối lượng đúng như thỏa thuận. Ngoài ra, nếu có các điều kiện khác được thuận lợi thì cũng làm cho khách hàng hài lòng trong việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Để được như vậy Công ty nên quan tâm một số vấn đề sau:
+ Chuẩn bị hàng hóa đúng chất lượng và khối lượng quy định. Để thực hiện yêu cầu này, Công ty nhất thiết phải am hiểu hàng hóa, chọn được nguồn hàng có uy tín.
+ Có kế hoạch thu gom hàng hóa, vận chuyển hàng hóa hợp lý: Công ty nên đề ra kế hoạch về thời gian thu gom và vận chuyển hàng hóa phù hợp. Điều đó có nghĩa là Công ty phải căn cứ vào thời gian thực hiện hợp đồng đã ký kết với khách hàng nước ngoài để lên kế hoạch thu mua và chuẩn bị hàng hóa.
+ Công ty nên quan tâm hơn nữa đến “bộ mặt” của Công ty: hiện nay, các phòng làm việc của Công ty nhất là phòng may mặc còn chưa được khang trang và đẹp. Vì vậy, Công ty sớm có kế hoạch trang trí lại các phòng làm việc của Công ty để tăng thêm uy tín của của Công ty bởi vì khách hàng sẽ để ý đến cả vấn đề này trong quá trình quan hệ với Công ty.
3.2.1.5. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng cho các doanh nghiệp.
Ngoài các biện pháp huy động vốn hiện có, Công ty có thể huy động vốn bằng cách sau:
- Doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào Công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn cũng phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên doanh liên kết. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới.
Có thể nói, liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
- Trong nhiều trường hợp, để huy động vốn Công ty phải yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng: cụ thể với một số trường hợp xuất khẩu, Công ty nên yêu cầu người mua (người nhập khẩu) ứng trước một phần toàn bộ gía trị hợp đồng và Công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đối với những hợp đồng có giá trị lớn hơn, vượt quá khả năng của Công ty thì Công ty nên áp dụng hình thức này hoặc có thể thực hiện hợp đồng bằng cách mời một số nhà xuất khẩu Việt Nam cùng tham gia và hai bên cùng chia sẻ lợi nhuận.
Như vậy, vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi vì có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng là làm thế nào để sử dụng đồng vốn đó một cách có hiệu quả. Vì vậy, Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh chóng vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở khâu này mà lại thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
3.2.1.6. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ xuất nhập khẩu
Trình độ cán bộ công nhân viên trong Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may là một trong những nguồn lực cơ bản của Công ty. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng trách nhiệm của mình.
Hàng năm, thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt.
Vì vậy, để dảm bảo co Công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công ty phải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn do các giáo sư, tiến sĩ đầu ngành trực tiếp giảng dạy.
Ngoài ra, Công ty cũng cần có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ công nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý sẽ khuyến khích được cán bộ công nhân viên tích cực tham gia kinh doanh , tạo sự tương đối công bằng trong thu nhập và thực hiện nhiệm vụ. Công ty cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là các khâu giao chỉ tiêu và gắn bó chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu.
3.2.2. Những giải pháp từ phía Nhà nước
3.2.2.1. Chính sách về thị trường xuất khẩu
Phát triển thị trường xuất khẩu theo phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa. Bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản… cần sớm khôi phục lại các thị thị trường SNG và Đông Âu, phát triển các thị trường đầy tiềm năng như Mỹ, Canada, Trung Đông…
Tăng cường vai trò các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác Marketing. Bên cạnh việc tìm hiểu và cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, các đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như bản sắc, truyền thống dân tộc của các quốc gia cần phải có những chính sách tiếp cận, khai thông và phát triển tới từng thị trường cụ thể, trước hết là những thị trường xuất khẩu tiềm năng như đã nêu trên.
3.2.2.2. Chính sách đầu tư phát triển
Quan điểm chung là đầu tư phải được tính toán trên phạm vi toàn ngành, tập trung cho ngành Dệt và sản xuất phụ liệu may mặc, đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị. Ngành Dệt đòi hỏi có vốn đầu tư lớn, cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, đặc biệt là khâu nhuộm và khâu hoàn tất. Ưu tiên các công trình đầu tư 100% vốn nước ngoài trong ngành dệt. Khuyến khích các nhà đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên phụ liệu may đồng thời ưu tiễn các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được và sản phẩm xuất khẩu các thị trường phi hạn ngạch.
Đầu tư của Nhà nước tập trung cho các công trình trọng điểm – các xí nghiệp dệt – nhuộm – hoàn tất có quy mô lớn, sản xuất các sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa ngành May nhằm tự túc nguồn vốn sản xuất kinh doanh và lựa chọn một số xí nghiệp để đưa vào cổ phần hóa.
3.2.2.3. Chính sách về nguyên liệu
Có quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành Dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của ngành dệt đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành và phát triển sản xuất sợi hóa học. Kết hợp với ngành sản xuất hóa chất để có thể cung cấp hóa chất và thuốc nhuộm cho ngành Dệt.
Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất đủ tiêu chuẩn xuất khẩu giảm bớt sự phụ thuộc của ngành May vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước.
3.2.2.4. Chính sách về phát triển sản phẩm
Nâng cao hiệu quả và chất lượng hàng may gia công, tạo dựng và củng cố uy tín trên thị trường thế giới, đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, tạo điều kiện đưa các sản phẩm với thương hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới.
3.2.2.5. Chính sách về tài chính tín dụng
Trước mắt Nhà nước cần có chính sách về tài chính và tín dụng nhằm hỗ trợ cho việc đầu tư phát triển ngành Dệt, làm cho ngành Dệt đứng vững và từng bước đáp ứng yêu cầu của ngành May. Thực tế là hiện nay nhập nguyên liệu ngoại vào may để bán sản phẩm xuất khẩu thì được miễn thuế nhập khẩu song nếu dùng nguyên liệu trong nước thì vô hình chung các doanh nghiệp phải chịu thuế giá trị gia tăng vào vải. Như vậy Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng vải trong nước để thay thế vải nhập ngoại may hàng xuất khẩu.
Hơn nữa, khi mua hàng của nước ngoài buộc phải đặt tiền trước và thanh toán hết một lần khi nhận hàng, điều đó buộc các doanh nghiệp May phải chọn phương thức nào có lợi hơn. Do vậy, Nhà nước cần có những chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho Dệt và May có thể hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, ngành May giúp ngành Dệt tiêu thụ vải và ngược lại ngành Dệt tạo điều kiện để ngành May sử dụng vải trong nước để may xuất khẩu đạt hiệu quả cao hơn.
3.2.2.6. Chính sách về tổ chức quản lý
Khắc phục những bất cập trong công tác quản lý, xuất nhập khẩu, các chính sách tài chính – thuế, vốn, ưu đãi đầu tư… cải cách thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống chính sách hợp lý, thông thoáng.
Tiếp tục công tác tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gần vùng công nghiệp Dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp May với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu. Cụ thể là:
- Gắn vùng công nghiệp Dệt – May với các ngành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành.
- Gắn các công trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với khu vực quy hoạch của Nhà nước về dầu khí; các công trình chế biến kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu tằm.
- Gắn công nghiệp Dệt – May (là công nghiệp sử dụng nhiều lao động) vào các vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện hạ tầng giao thông, dịch vụ văn hóa, thông tin, vận chuyển…
- Gắn công nghiệp Dệt – May quy mô nhỏ, xí nghiệp cổ phần, xí nghiệp tư nhân và các hộ cá thể với vùng làng nghề truyền thống để phát huy mạnh mọi thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển ngành.
- Gắn công nghiệp Dệt – May thành khu liên hoàn nguyên liệu sợi, dệt, nhuộm, may, dịch vụ… giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm nâng cao một bước công nghiệp hóa và có điều kiện thu hút vốn nước ngoài.
3.2.2.7. Chính sách lao động và phát triển nguồn nhân lực
Cần có chính sách hỗ trợ và hỗ trợ hơn nữa khuyến khích thu hút các học sinh có khả năng theo học về ngành công nghiệp Dệt – May, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư Dệt may trầm trọng đã xuất hiện và có thể kéo dài trong một vài năm tới. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây truyền hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành Dệt – May Việt Nam.
Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và Marketing nhằm khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành May xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Đồng thời có chính sách hỗ trợ đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao bị các doanh nghiệp liên doanh thu hút.
KẾT LUẬN
Xuất khẩu hàng dệt may được xem như là một động lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế với những nước đang phát triển và ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá như nước ta hiện nay. Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may thuộc Tổng Công ty dệt may Việt Nam luôn dẫn đầu ngành dệt may trong sản xuất và xuất khẩu của cả nước, trong những năm qua luôn đóng góp kim ngạch đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang khẳng định vị thế của mình trên thị trường thế giới. Trong những năm tới, Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may đang có những cơ hội cũng như những thách thức lớn trong việc thâm nhập thị trường thế giới cũng như khẳng định tên tuổi, thương hiệu của mình trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả sản xuất cao, Công ty còn phải giải quyết nhiều vấn đề còn tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu. Đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may” bằng việc phân tích tình hình và đánh giá hiệu quả xuất khẩu cũng như đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, hy vọng phần nào tháo gỡ được những vướng mắc hiện đang tồn tại trong hoạt động sản xuất hàng dệt may của Công ty, nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả xuất khẩu, đưa hàng dệt may lên vị trí xứng đáng với tiềm năng phát triển của mình.
Do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên chuyên đề thực tập của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô, cũng như các cô chú công tác tại Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may nhằm hoàn thiện hơn bài chuyên đề này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương
Báo cáo hàng năm của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may
Kinh tế 2004-2005 Việt Nam và thế giới
Thời báo kinh tế thế giới
Tạp chí dệt may
Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới” năm 2005
Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010, Bộ Thương mại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29470.doc