Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi gia nhập WTO

Để ACFTA thực sự có ý nghĩa, doanh nghiệp nước ta cần chủ động đổi mới bắt đầu từ nhận thức về cung cách kinh doanh: sản xuất theo định hướng thị trường, làm tốt công tác phân loại sản phẩm, nâng cấp hệ thống bảo quản, tiếp thị và quảng bá thương hiệu. Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm rõ để đáp ứng những quy định của Trung Quốc về kiểm dịch, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán, bảo hiểm. Các doanh nghiệp cần có sự thay đổi theo hướng tích cực trong tư duy, không nên có thái độ ỷ lại, chờ đợi sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quản, chủ động tìm hiểu nhu cầu thị hiếu, hệ thống pháp luật, tiếp cận, tiếp cận, thâm nhập thị trường để tránh tình trạng bị động trong quan hệ trao đổi hàng hóa. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nếu chỉ hoạt động đơn lẻ thì chỉ dừng lại ở thị trường biên giới, khó có thể tiến sâu vào thị trường nội địa, không những thế còn bị ép cấp, ép giá dẫn tới xuất khẩu thu được hiệu quả thấp. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới nhận thức, liên kết, đồng tâm hiệp lực để tạo lợi thế cạnh tranh tổng lực trên thị trường Trung Quốc. Để có thể liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là nhóm hàng nông sản thực phẩm, chúng ta nên thành lập một ủy ban tăng cường cạnh tranh quốc gia và phát huy sức mạnh các Hiệp hội. Nhiệm vụ chính của ủy ban là liên kết các doanh nghiệp lại thống nhất trong kinh doanh xuất khẩu. Đặc biệt, với doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc cần đăng ký và bảo hộ thương hiệu kịp thời.

doc99 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Gía trị (Nghìn USD) Tỷ trọng (%) Hải sản 67742 2.08 Hàng rau quả 27230 0.84 Hạt điều 103907 3.19 Cà phê 25219 0.77 Chè 17303 0.53 Hạt tiêu 2859 0.09 Gạo 15937 0.49 Lạc nhân 3138 0.10 Dầu mỡ động thực vật 18422 0.57 Đường 643 0.02 Than đá 650599 19.96 Dầu thô 281386 8.63 Sản phẩm nhựa 8673 0.27 Cao su 838845 25.73 Túi xách,ví, vali, mũ, ô dù 4551 0.14 Sản phẩm mây, tre,cói. 1138 0.03 Gỗ và sản phẩm gỗ 167703 5.14 Sản phẩm gốm sứ 2068 0.06 Sản phẩm đá quý và kim loại quý 252 0.01 Hàng dệt may 43606 1.34 giày dép các loại 66022 2.03 Máy vi tính và linh kiện 119574 3.67 Dây điện và dây cáp điện 9981 0.31 Xe đạp và phụ tùng xe đạp 608 0.02 đồ chơi trẻ em 732 0.02 Mặt hàng khác 781862 23.98 Tổng cộng 326000 100 Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Theo báo cáo thương mại nông sản Việt Trung 2008 và triển vọng 2009 của Trung tâm Tông tin PTNNNT (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) năm 2009.Trung Quốc là một đối tác thương mại nông sản quan trọng nhất của Việt Nam. Năm 2008, đa số các mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đều tăng về kim ngạch so với năm 2007 như cao su tự nhiên, cà phê, hạt điều, sắn, dong, khoai (thuộc nhóm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi)...       Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc đạt hơn 1,9 tỉ USD, chiếm 11,9% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản, tăng 39% so với năm 2007.       Trong đó, cao su tự nhiên tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu đứng đầu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, tăng trưởng 29% giai đoạn 2007-2008. Tuy nhiên, Cao su Việt Nam mới chỉ chiếm 3,32% thị phần của Trung Quốc. Theo Trung tâm xúc tiến năng lực lưu thông hàng hóa Trung Quốc, thị trường cao su Trung Quốc vẫn tiếp tục nóng. Do ảnh hưởng của giá thành sản xuất cao, giá dầu thô và do lượng tiền đầu cơ vào thị trường kỳ hạn, nên trong thời gian tới giá cao su trên thị trường Trung Quốc vẫn ở mức cao và nhu cầu tiêu thụ tiếp tục tăng. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Trung Quốc tăng 28% so với năm 2007, đạt hơn 32 triệu USD, chiếm 1,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2008 ra toàn thế giới. Năm 2008, Việt Nam vẫn là nhà xuất khẩu cà phê lớn nhất, tuy nhiên không tăng về thị phần, trong khi đó, đối thủ cạnh tranh Indonesia tăng hơn 2% thị phần chỉ trong vòng 2 năm. Với dân số 1,3 tỷ người và đang có xu hướng chuộng cà phê, Trung Quốc hứa hẹn là một thị trường tiềm năng cho cà phê Việt Nam. Ngành cà phê Việt Nam cũng vì thế mà cũng không ngừng nỗ lực đáp ứng nhu cầu và thói quen tiêu dùng của thị trường này. Hiệp hội cà phê Việt Nam dự báo: trong tương lai, Trung Quốc sẽ là một trong những thị trường chủ lực cho xuất khẩu cà phê Việt Nam       Hạt điều là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong top 10, tăng trưởng với 181,8 triệu USD, chiếm hơn 9% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu điều của Việt Nam lớn thứ ba thế giới (16,6% thị phần), chỉ sau Hoa Kỳ (28,5%) và Hà Lan (17,2%). Ngoài ra, tiêu dùng các sản phẩm nông sản khác của Trung Quốc đền có xu hướng tăng, theo đó lượng nhập khẩu của các hàng nông sản cũng tăng lên. Đây là một cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến, xuất khẩu nông sản Việt Nam khi thị trường Trung Quốc ngày càng tiêu dùng nhiều hơn các sản phẩm nông sản, trong khi việc sản xuất trong nước không đáp ứng kịp nhu cầu của nước này. Tuy nhiên, trên thực tế, cho tới nay, những mặt hàng chủ lực như rau, hoa, quả nông dân sản xuất vẫn chủ yếu theo kinh nghiệm và phương pháp truyền thống, dựa chủ yếu vào khai thác lợi thế tự nhiên, theo mùa vụ chưa tính đến nhu cầu của thị trường. Vào thời kỳ cao điểm của các mùa vụ (mùa đông với rau, mùa hè với quả) thì lượng hàng hoá tập trung quá cao nhưng trái vụ thì hầu như không có, không tạo được sản lượng đủ lớn, ổn định cho XK. Điều đó đã dẫn đến tình trạng, khi thị trường “muốn không được, nhưng không cần thì lại có”. Ví dụ như Dưa hấu: từ giữa tháng ba đến hết tháng tư hằng năm, trên cửa khẩu Tân Thanh, huyện Văn Lãng lại diễn ra cảnh hàng trăm xe tải nối đuôi nhau chờ xuất khẩu, đặc biệt vào thời kỳ chính vụ, chủ hàng tranh mua, tranh bán dẫn đến hàng bị ép giá. Nguyên chính là: Hàng nông sản đều phụ thuộc vào nhu cầu của tư thương tại thị trường Trung Quốc; hàng hoa quả XK qua đây vẫn theo hình thức mua - bán biên mậu giữa chủ hàng vùng biên giới không có hạn ngạch và không hợp đồng ký kết mang tính pháp lý về số lượng hàng và giá cả, dẫn đến có sự ép giá, thừa ế, gây thiệt hại cho hàng nông sản Việt Nam... Đã đến lúc cần có quy hoạch sản xuất cho cây dưa hấu, không thể để nhân dân trồng theo kiểu phong trào như hiện nay. Ngoài ra, một nguyên nhân gây cho hoa quả ùn tắc tại các cửa khẩu là do: Lượng hàng nhập về quá lớn, bến bãi và địa điểm làm thủ tục hải quan lại quá chật hẹp khiến việc giải phóng hàng bị chậm. Trong khi đó, trang bị cho công tác kiểm dịch thực vật tại cửa khẩu còn khá thô sơ nên chưa thể kiểm soát hết được các lô hoa quả có đảm bảo an toàn vệ sinh không. Theo Cục hải quan Lạng Sơn, năm 2008, lượng hoa quả nhập khẩu qua cửa khẩu khoảng 400 triệu USD. Nếu thu thuế VAT 5% ngay tại cửa khẩu, tỉnh Lạng Sơn sẽ thu được hàng trăm tỷ đồng tiền thuế. Tuy nhiên, nếu không khẩn trương đầu tư cải tạo bến bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan và kiểm dịch, e rằng việc thu thuế này sẽ lại càng gây ùn tắc. Hình thức buôn bán, thương mại Là những thành viên của tổ chức thương mại quốc tế, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tuân thủ theo nguyên tắc và quy định của WTO, mọi tranh chấp phát sinh sẽ được xử lý trong khuôn khổ WTO. Nếu như trước đây, vào những năm Thương mại giữa hai nước qua con đường biên mậu đã giảm xuống, chỉ còn chiếm 15-25% kim ngạch song phương. Thay vào đó là thương mại chính ngạch giữa hai nước tăng lên, phù hợp với tình hình chung. Các hình thức xuất khẩu chính ngạch đa dạng theo các phương thức buôn bán quốc tế: hoạt động mua bán, gia công, tạm nhập tái xuất là những hình thức đang có xu hướng phát triển, việc áp dụng các hình thức giao dịch thương mại quốc tế trong quan hệ thương mại Việt - Trung cũng là các yếu tố làm giảm rủi ro cho các doanh nghiệp của Việt Nam. Vấn đề nổi cộm trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc ở giai đoạn này là tình trạng buôn lậu hàng hóa ở biên giới xảy ra phổ biến và khá phức tạp. Hoạt động tiểu ngạch “dường như” đã trở thành hoạt động buôn lậu. Nổi bật lên là vụ buôn lậu than ở Quảng Ninh trong năm 2007, sau những điều tra thì Nhà nước ta đã phát hiện: Chỉ riêng năm 2007, đã có 10 triệu tấn than xuất lậu sang Trung Quốc bằng con đường tiểu ngạch. Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản là do cơ chế chính sách có những bất cập. Trước đây, tình trạng khai thác than thổ phỉ chỉ ở dạng đào bới trong vườn nhà, chỗ nào có than thì bới với số lượng chỉ khoảng vài vạn tấn than. Thế nhưng kể từ năm 2007, thông tư 04, 05 của Bộ Công thương ra đời quy định, than không phải mặt hàng cấm mà là mặt hàng kinh doanh có điều kiện; việc xuất khẩu than theo đường tiểu ngạch không cần quota như trước đây, mà chỉ cần có hóa đơn chứng minh được nguồn gốc than... Tuy nhiên, việc cấp phép cho các doanh nghiệp lỏng lẻo, nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vẫn được cấp phép kinh doanh than... Có rất nhiều bất cập khiến giới buôn lậu than lợi dụng để xuất lậu than sang Trung Quốc. Ngoài những bất cập trong thông tư 04, 05 của Bộ Công thương thì còn một số nguyên nhân nữa là: Xảy ra tình trạng trên cũng có sự buông lỏng quản lý, tiếp tay cho buôn lậu của một số cán bộ chính quyền địa phương cũng như một số cơ quan chức năng của tỉnh; trong đó có cả cán bộ hải quan, biên phòng... Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng là sự buông lỏng quản lý của các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (TKV). Các doanh nghiệp này đã để một số tư thương tự do vào khai thác than trong khu vực mỏ do đơn vị mình quản lý. Cá biệt, có giám đốc còn cho phép tư thương vào khai thác than sau đó chia phần trăm. Chưa hết, tình trạng khai thác than lậu còn phải kể đến trách nhiệm của các cơ quan chức năng của tỉnh trong việc cấp phép khai thác một cách rộng rãi, đơn giản dẫn đến khó quản lý. Thời gian qua, Sở Kế hoạch - Đầu tư của tỉnh đã cấp trên 100 giấy phép cho các doanh nghiệp khai thác than, nhưng trong số này có nhiều đơn vị không đủ năng lực nên lại để cho tư nhân vào khai thác. Ngoài mặt hàng than đã nói trên còn những mặt hàng khác chưa kể đến như buôn lậu gỗ, khoáng sản, động vật quý hiếm… Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng hóa Việt Nam ở Trung Quốc Việt Nam gia nhập WTO, cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng hóa Việt Nam ở Trung Quốc thay đổi không đáng kể so với thời kỳ trước. Thị trường chính vẫn là 4 tỉnh: Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam. Theo số liệu của: Cục Hải quan Quảng Tây, cho biết: Năm 2007, kim ngạch xuất nhập khẩu của Quảng Tây với Việt Nam là 2,38 tỷ USD, chiếm trên 15%; trong đó, Việt Nam nhập khẩu từ Quảng Tây 1,43 tỷ USD và xuất khẩu sang Quảng Tây trên 900 triệu USD.Trong 3 tháng đầu năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Quảng Tây đạt 894.495 nghìn USD trong đó riêng tháng 3 đạt 375,568 nghìn USD tăng 143,2% so với vùng kỳ năm ngoái. Việt Nam nhập khẩu quý 1 là 626.703 nghìn USD (tháng 3 là 263,448 nghìn USD) tăng 280,2%, xuất khẩu là 267,792 nghìn USD (tháng 3 là 112,120 nghìn USD) tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái. Quảng Đông: Quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư Kim ngạch buôn bán hai bên tăng trưởng nhanh chóng, từ 1 tỷ USD năm 2004 lên đến 2,45 tỷ USD năm 2007 chiếm 17% kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc. Năm 2008, kim ngạch thương mại giữa hai bên đạt 3,35 tỷ USD, trong đó, Việt Nam xuất 1 tỷ USD, tăng 48,4%; nhập 2,35 tỷ USD, tăng 32,6%. Hai bên đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 đưa kim ngạch thương mại lên 5 tỷ USD ( theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam). Do cơ cấu kinh tế có tính bổ trợ lẫn nhau và khoảng cách địa lý thuận lợi, giao thông đường bộ, đường sông và đường hàng không đều thuận tiện nên tiềm năng hợp tác hai bên là rất lớn. Những năm qua quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa tỉnh Quảng Đông và các bộ ngành và địa phương của Việt Nam đã có nhiều cải thiện. Phần lớn đối tượng tiêu thụ vẫn là những người thuộc nhóm có thu nhập trung bình và thấp. Một câu hỏi đặt ra cho vấn đề này là: Nền kinh tế Trung Quốc ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ, thu nhập người dân ngày càng cao, đời sống được cải thiện một cách nhanh chóng; như vậy, liệu hàng hóa Việt Nam có đứng vững được trên thị trường Trung Quốc hay không nếu như Việt Nam không chú trọng đến việc nâng cao chất lượng; tạo ra những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao; mẫu mã đẹp, đa dạng, phong phú. Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Những thành tựu Vốn có nhiều thuận lợi, đặc biệt về vị trí địa lý của hai nước có chung tới 1.643km đường biên giới trên bộ và cùng chung Vịnh Bắc bộ, lại có sự tương đồng cao ở nhiều lĩnh vực như phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của hai cộng đồng cư dân, quan hệ thương mại đã  trở thành điểm sáng trong bức tranh quan hệ chung hai nước. Có thể thấy rằng, quan hệ thương mại hai nước thời gian qua đã đạt được những bước tiến tương đối khả quan. Hợp tác thương mại song phương mang những đặc điểm riêng thể hiện rõ sự phong phú, đa dạng trong trao đổi hàng hóa, sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau. Tại nhiều cuộc hội nghị cấp cao, lãnh đạo hai nước đã khẳng định sự thành công và những kết quả đầy khởi sắc trong quan hệ thương mại hai nước. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế, cả hai nước đểu là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, cả ASEAN và Trung Quốc đã thống nhất thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, và bản thân hai nước đều có nhu cầu mong muốn tăng cường hợp tác qua các chương trình như hai hành lang, một vành đai v.v…Các chính sách thương mại của hai nước sẽ dần được quy phạm, phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính những điều này đã làm cho quan hệ thương mại của Việt Nam và Trung Quốc ngày càng sôi động hơn. Trong thời gian qua, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng, đối tác chiến lược lớn nhất của Việt Nam. Nếu tính từ thời điểm bắt đầu khôi phục và phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc, năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc đã tăng lên một cách khá mạnh, từ chỗ mới chỉ đạt 19,3 triệu USD năm 1991, lên hơn 1500 triệu USD năm 2000 và gần 3500 triệu USD vào năm 2007, dự kiến sẽ tăng lên 4 tỷ USD năm 2008.Với những con số ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đã góp phần không nhỏ, nâng cao tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Khối lượng các loại hàng hoá xuất khẩu mà nước ta có tiềm năng như dầu thô, than đá, cà phê, hải sản, rau quả, giày dép đều tăng đáng kể. Đáng chú ý là cơ cấu hàng xuất khẩu đang ngày càng thay đổi theo chiều hướng tích cực. Hàng xuất khẩu của Việt Nam tuy phần lớn vẫn là nông, lâm sản chưa qua sơ chế nhưng chất lượng đã được cải thiện rõ rệt; một số mặt hàng tiêu dùng và thực phẩm đã mở rộng đáng kể thị phần trên thị trường Trung Quốc như giày dép, rau quả, hải sản. Tình trạng buôn bán tiểu ngạch qua biên giới tồn tại từ bao năm nay trong quan hệ thương mại hai nước do đặc điểm “núi liền núi, sông liền sông”, từng gây nhiều bất lợi cho việc quản lý, nay đang được đưa vào nền nếp để phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu. Bên cạnh đó, tỷ trọng buôn bán chính ngạch tăng lên đáng kể, mở rộng sang nhiều loại mặt hàng mà trước đây chỉ được trao đổi qua biên giới bằng đường tiểu ngạch. Việc áp dụng một số cơ chế thông thoáng trong nghiệp vụ thanh toán tại các chi nhánh ngân hàng hai nước ở khu vực biên giới, bước đầu đã thu hút các doanh nghiệp thanh toán qua ngân hàng, giảm đáng kể rủi ro, tranh chấp thương mại qua biên giới. Quan hệ kinh tế đối với Trung Quốc đang dần đi vào chiều sâu hơn với sự thay đổi tích cực về thành phần, tính chất và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp chuyển mạnh từ chỗ chỉ buôn bán với các tỉnh có chung đường biên giới sang vươn sâu tới các tỉnh ven biển như Phúc Kiến, Hải Nam và các đặc khu kinh tế của Trung Quốc. Với những kết quả trên, Trung Quốc hiện đang là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, đứng thứ 3 về xuất khẩu và đứng thứ nhất về nhập khẩu. Những hạn chế và nguyên nhân Sau gần 20 năm bình thường hóa, trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế cần phải khắc phục. Như ta đã biết, trong suốt mấy năm qua (từ năm 2001 đến nay), Việt Nam luôn nằm trong tình trạng nhập siêu đối với bạn hàng Trung Quốc. Bảng 2.9: Cán cân thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Cán cân thương mại (triệu USD) -188.8 -640.5 -1256 -1721 -2818 -4360 -9145 Nguồn: Tổng cục thống kê Tình trạng nhập siêu ngày càng không những không được cải thiện mà ngày một tăng cao. Điều này cũng có nghĩa kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Trên thực tế, xu hướng nhập khẩu nông sản của Trung Quốc vẫn tăng, kim ngạch nhập khẩu nông sản của Trung Quốc từ các nước khác không ngừng tăng lên. Hơn nữa, những mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam là gạo, cà phê, cao su, hạt điều … là những mặt hàng Trung Quốc có nhu cầu lớn. Song so với các nước thuộc ASEAN, có thể thấy rằng hàng hóa Việt Nam trên thị trường Trung Quốc còn rất khiêm tốn. Trong danh sách 10 nước xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc nhiều nhất thì không có sự hiện diện của Việt Nam, trong khi đó các nước này chủ yếu là ở Châu Á – Thái Bình Dương và nhiều nước nằm trong khối ASEAN. Việt Nam đã chưa tận dụng được các cơ hội để khai thác tốt thị trường Trung Quốc, mặc dù nước ta có nhiều thuận lợi hơn hẳn đối với phần lớn các nước khác. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu bất hợp lý, chậm được cải thiện. Phía Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là hàng nông sản và nguyên nhiên vật liệu dưới dạng thô nên giá trị thấp. Ở Việt Nam chưa có quy trình bảo quản và chế biến rau quả, các sản phẩm nông sản tốt. Hầu hết công nghệ bảo quản của Việt Nam đã rất lạc hậu, cũ kỹ. Mẫu mã các hàng hóa của Việt Nam còn ít, chưa đáp ứng được với thị hiếu của phần lớn người tiêu dùng Trung Quốc. Ngoài ra, do cơ chế chính sách bất cập, công tác quản lý còn nhiều yếu kém đã dẫn đến tình trạng buôn lậu khá phổ biến. diễn ra phức tạp. Buôn lậu trên bộ và trên biển giữa hai nước trong thời gian qua là một trong những vấn đề được hai nước quan tâm. Tình trạng này không có chiều hướng thuyên giảm mà ngày càng trở nên trầm trọng hơn, gây khó khăn cho việc quản lý khu vực biên giới, làm hỗn loạn thị trường và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Đầu tư xã hội cho sản xuất hàng hóa nhập khẩu còn thấp, ảnh hưởng đến quy mô xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó còn đầu tư dàn trải và hiệu quả đạt được không cao. Chưa có được những dự án lớn để khai thác tiềm năng ngành thương mại. Công tác thông tin chưa tốt nên nhiều doanh nghiệp của ta chưa thực sự chú trọng tới thị trường này. Kết cấu hạ tầng cơ sở phục vụ thương mại như cảng biển, sân bay, đường giao thông, kho bãi còn thiếu hoặc năng lực thấp. Buôn bán qua biên giới chiếm tỷ trọng lớn, trong khi cơ sở vật chất ở các khu vực cửa khẩu còn nghèo nàn, thiếu thốn. Theo nhiều chuyên gia đánh giá, Việt Nam là nước có lợi nhất từ chương trình “thu hoạch sớm” và việc hình thành khu vực mậu dịch tự do nhưng chúng ta chưa tận dụng được cơ hội này để nâng cao năng lực xuất khẩu bởi vì chúng ta chưa có hiệp định kiểm dịch động – thực vật với Trung Quốc. Trong khi đó bất cứ hàng hóa nào vào thị trường này đều phải có đăng ký xuất xứ bằng tiếng Trung Quốc, phải có nhãn hiệu công khai chất lượng kiểm dịch. Việc kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu còn chưa mang tính thống nhất và tập trung cao, như việc kiểm dịch hàng rau qủa xuất nhập khẩu thì do Chi cục Bảo vệ thực vật đặt tại cửa khẩu chịu trách nhiệm quản lý, kiểm dịch hàng động vật xuất nhập khẩu thì do Chi cục Cục thú y chịu trách nhiệm. Về phía các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ chú trọng vào lợi ích trước mắt mà chưa xây dựng được mối làm ăn lâu dài, hoạt động nhỏ lẻ, mang tính tự phát, tùy tiện theo mùa vụ. Vì vậy, sản lượng xuất khẩu lên xuống thất thường, không ổn định. Doanh nghiệp Việt Nam quá phụ thuộc vào hình thức buôn bán tiểu ngạch qua biên giới nên khi chính sách biên mậu thanh đổi thì kim ngạch xuất khẩu cũng không ổn định. Doanh nghiệp Việt Nam đã không thích ứng kịp với sự thay đổi của chính sách thương mại Trung Quốc, do khả năng cập nhật hệ thống văn bản pháp luật thương mại của Trung Quốc và khả năng tìm hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm, thiết lập mối quan hệ làm ăn của các doanh nghiệp Việt Nam là đang yếu. Những mặt hàng nông sản như rau, hoa quả nông dân sản xuất vẫn chủ yếu theo kinh nghiệm và phương pháp truyền thống, dựa vào lợi thế tự nhiên, theo mùa vụ, chưa tính đến nhu cầu thị trường. Điều đó đã dẫn đến tình trạng, khi thị trường “muốn không được, nhưng không cần thì lại có” dẫn đến ùn tắc hàng hóa xuất khẩu tại các cửa khẩu lại xảy ra. Trong quan hệ buôn bán các doanh nghiệp Trung Quốc rất nhạy bén, linh hoạt thích ứng nhanh với những thay đổi của chính sách , pháp luật và xu hướng tiêu dùng của Việt Nam. Do đó, họ luôn dành thế chủ động để xâm nhập hàng hóa vào Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam tỏ chậm chạp, kém linh hoạt với sự thay đổi của nền kinh tế Trung Quốc nên hoạt động kinh doanh thường bị động. Trên thực tế nhu cầu tiêu dùng tại Trung Quốc đã và đang thay đổi rất nhanh (nhất là khu vực thành thị), đặc biệt là sau khi nước này gia nhập WTO, họ chuyển sang tiêu dùng các sản phẩm chất lượng cao. Trung Quốc đã xóa bỏ ưu đãi giảm 50% thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với hàng hóa nhập khẩu qua đường Quảng Tây và siết chặt hơn các quy định về kiểm định, kiểm nghiệm đối với hàng hóa nhập khẩu theo các quy định của WTO. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược khai thác thị trường một cách hiệu quả, chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động nghiên cứu thị trường này, thiếu tính nhanh nhạy và năng động để nắm bắt kịp thời cơ, cơ hội mà phía Trung Quốc điều chỉnh về chính sách xuất nhập khẩu. Sự thiếu hiểu biết về thị trường này đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam nằm trong thế bị động trong buôn bán với Trung Quốc. Ngoài ra, còn một nguyên nhân quan trọng nữa đó là: các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú ý đến đặc điểm và tâm lý kinh doanh của thương nhân Trung Quốc. Chính điều này đã gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, họ đã không tạo dựng được lòng tin, sự tôn trọng, ủng hộ vào quan hệ hợp tác lâu dài đối với thương nhân Trung Quốc. Trên đây là xét về mặt chủ quan, tuy nhiên cũng có nhiều nguyên nhân khách quan tác động vào gây ra những hạn chế nhất định trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc. * Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc còn khá thấp so với kim ngạch nhập khẩu, dẫn đến tình trạng mất cân đối trong quan hệ thương mại song phương là: Trung Quốc có thế mạnh trong sản xuất là giá rẻ, công nghệ sản xuất khá tiên tiến, mẫu mã đẹp … nên sản phẩm của Trung Quốc có ưu thế rất mạnh trên thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường Châu Á, trong đó có Việt Nam. Làn sóng mới của các hiệp định song phương, đa phương của Trung Quốc với các quốc gia khác đã gây không ít khó khăn đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường này. Đặc biệt là giữa Trung Quốc và Thái Lan đã có thỏa thuận bỏ hẳn thuế quan đối với 188 mặt hàng rau quả và Trung Quốc, từ ngày 1/1/2003, làm cho hàng hóa của Thái Lan có lợi thế hơn hẳn so với Việt Nam. Hơn nữa, Thái Lan đã không bỏ lỡ cơ hội, tập trung đầu tư lớn, để khai thác lợi thế, như mở đường thủy ngược sông Mekong chuyên chở rau quả, thủy sản, hải sản đến các tỉnh phía Tây xa xôi của Trung Quốc; mở đường buôn bán chuyến bằng hàng không chở nông sản, hải sản tươi sống đến các tỉnh Trung Quốc bán tươi ngay trong ngày. Việt Nam trở thành thành viên của WTO, do vậy phải tuân thủ theo nguyên tắc của WTO là sự tự do hóa thương mại. Do đó, nhà nước không có quyền hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu như trước đây. Vì vậy các doanh nghiệp cũng như các sản phẩm của Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới. Do một số hạn chế từ hàng rào kỹ thuật. Trong quá trình hợp tác thương mại với Trung Quốc, một số mặt hàng của Việt Nam vẫn bị áp thuế hoặc bị những quy định khác làm cho khó thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Ví dụ như thị trường xuất khẩu cao su Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc vì nó chiếm khoảng 60% mức xuất khẩu cao su của Việt Nam ra thế giới. Thế nhưng Trung Quốc lại áp dụng biểu thuế lựa chọn đối với cao su Việt Nam, tức là mức giá đánh thuế nhập khẩu cao su của Việt Nam sẽ lựa chọn một trong hai biểu thuế hoặc là 20% trên giá nhập khẩu hoặc là 2600 NDT/tấn cao su. Đây chính là một bất lợi cho Việt Nam khi xuất khẩu vào Trung Quốc. CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG TRUNG QUỐC 3.1. Quan điểm và định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam với Trung Quốc 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc phát triển thương mại với Trung Quốc Trung Quốc là một thị trường lớn cùng chung đường biên giới, có quan hệ hữu nghị truyền thống, lại là đối tác trong Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Vì vậy, phát triển thương mại với Trung Quốc có vị trí rất quan trọng trong quan hệ thương mại của nước ta với các nước. Trung Quốc được xem là đối tác lớn của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập WTO và cả về lâu dài. Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với Chính phủ Trung Quốc “Hiệp định về mậu dịch biên giới và các vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới” để phát triển thương mại hàng hóa trên khu vực thị trường này. “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là cơ sở vững chắc cho quan hệ hợp tác kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng giữa hai nước phát triển với tốc độ nhanh hơn, ổn định hơn. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2020 và chiến lược xuất khẩu đến năm 2020, Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển hoạt động xuất khẩu đối với các nước nói chung và Trung Quốc nói riêng. Đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc, lựa chọn những mặt hàng phù hợp và có tiềm năng, xây dựng cho được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, những điểm tăng trưởng xuất khẩu mới, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh sản xuất hàng xuất khẩu sang Trung Quốc là phương hướng chủ yếu để giảm nhập siêu từ Trung Quốc. Tận dụng tối đa những ưu đãi có được trong các cơ chế hợp tác song phương Việt – Trung và đa phương (như Tổ chức Thương mại thế giới, khu vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, v.v…) để đẩy mạnh hàng hóa sang Trung Quốc. Phát triển thương mại biên giới dựa trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập và duy trì tình bằng hữu. Ngoài việc ký kết hiệp định thương mại tạm thời giải quyết công việc trên vùng biên giới giữa hai nước, chính phủ của hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký tiếp một số hiệp định liên quan đến thương mại như: Hiệp định thanh toán qua ngân hàng, Hiệp định quá cảnh hàng hóa nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác thân thiện và phát triển thương mại giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi. 3.1.2. Định hướng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc * Định hướng chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu: Bộ Công thương vừa chính thức phê duyệt Đề án Phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa với Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2015. Đề án đã đưa ra định hướng chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc đến năm 2010 là 5,4 tỷ USD và đến năm 2015 là 11,1 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình cả giai đoạn 2007 – 2015 đạt 15,5% / năm. Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu, định hướng này Đề án đã đưa ra phương châm là tận dụng tối đa cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc để tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, quản lý tốt thương mại biên giới, xử lý nhanh gọn và tốt hơn nữa các tranh chấp thương mại giữa hai bên trên cơ sở quan hệ kinh doanh bình đẳng theo khuôn khổ WTO. * Định hướng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Bộ Công thương cho rằng: để đạt được kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đúng như dự kiến, Việt Nam cần tạo ra một cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp với thị trường này, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra các mặt hàng mới để tăng kim ngạch. Tận dụng cơ hội từ sự tăng trưởng của Trung Quốc, sự thiếu hụt về nguyên liệu và một số hàng hoá khác như nông sản, thuỷ sản để tăng cường xuất khẩu sang thị trường này. Trước hết, phải củng cố và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và đã đứng chân được tại thị trường Trung Quốc. Từng bước nâng cao chất lượng, tăng hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô. Khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng mới theo hướng đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và vốn FDI. Tận dụng cơ hội của mở cửa thương mại và đầu tư để thu hút FDI để đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị hàng hoá của khu vực. Phấn đấu tăng tỉ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang Trung Quốc. * Định hướng khu vực thị trường: Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào những thị trường truyền thống thuộc miền Tây Nam, Nam Trung Quốc như Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Hải Nam, Trùng Khánh, Qúy Châu… đặc biệt là hai tỉnh giáp biên giới: Vân Nam và Quảng Tây. Tỉnh Vân Nam nói riêng và khu vực Tây Nam - Trung Quốc nói chung là thị trường nhiều tiềm năng đối với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Vân Nam là vùng lãnh thổ rừng núi nằm sâu trong lục địa Trung Quốc, cách xa vùng biển, có dân số đông (trên 42 triệu người). Quan trọng hơn là, thị trường này dễ tính hơn thị trường châu Âu, yêu cầu tiêu dùng chất lượng hàng hóa trung bình, có nhu cầu tiêu thụ lớn các loại thủy sản, đặc biệt thị trường Vân Nam rất ưa chuộng các sản phẩm ăn liền, đóng túi nhỏ và làm sẵn để dễ chế biến. Vì vậy, Việt Nam cần khai thác triệt để tại thị trường khu vực này. Đối với Quảng Tây, mặc dù chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính quốc tế, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và tỉnh Quảng Đông vẫn tăng trưởng 37% trong năm 2008, song những thành quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hợp tác kinh tế và thương mại, vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của Chính phủ và nhân dân hai nước Việt-Trung, Chính phủ Việt Nam sẽ làm hết sức mình, tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc nói chung và Việt Nam-Quảng Đông nói riêng . Ngoài ra, chúng ta cần phải tiến tới mở rộng thêm thị trường mới, thiết lập mạng lưới tiêu thụ hàng ổn định, lâu dài tại các thành phố lớn của Trung Quốc. 3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc 3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước 3.2.1.1. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc Mặc dù đã có những hiệp định song phương về thương mại với Trung Quốc và các ưu đãi mà nước này dành cho Việt Nam trong chương trình thu hoạch sớm nhưng Việt Nam không thể xuất khẩu hàng hóa một cách tùy tiện và ồ ạt sang thị trường Trung Quốc. Nhà nước cần kiểm soát và quản lý chặt chẽ hơn nữa, quản lý từ khâu sản xuất đến khâu đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng Trung Quốc. Đối với các mặt hàng nông sản, thủy hải sản; các ban ngành cần nhanh chóng phối hợp với các cơ quan hữu quan tiến hành nghiên cứu, nắm vững các quy định trong thảo thuận hợp tác kiểm tra, kiểm dịch và giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, từ đó có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với các doanh nghiệp thuộc ngành mình đang và sẽ kinh doanh xuất khẩu thuộc lĩnh vực này sang Trung Quốc để tránh cho doanh nghiệp những tổn thương không đáng có. Các lực lượng hữu quan như bộ đội biên phòng, hải quan, đội chống buôn lậu và gian lận thương mại… cần phối hợp nhanh chóng, hiệu quả để tăng cường công tác kiểm tra, chống xuất khẩu lậu hàng hóa sang Trung Quốc gây thiệt hại cho các doanh nghiệp của ta làm ăn chân chính và gây nguy cơ làm mất uy tín của hàng hóa Việt Nam tại thị trường Trung Quốc do chất lượng không đảm bảo và có thể gây ra những tranh chấp thương mại giữa đôi bên. Ngoài ra, Nhà nước cần phải tiến hành xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa phù hợp với tình hình kinh tế mới trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Với vai trò là người định hướng cho các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu hàng hóa ra thị trường thế giới nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng, nhà nước cần xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia mang tính chất bền vững, lâu dài. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác tiềm năng của cả nước để tham gia xuất khẩu, ưu tiên các sản phẩm thông qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên vật liệu thô. Cụ thể cần xây dựng chiến lược mặt hàng xuất khẩu theo hướng: (1) Chuyển nhanh, mạnh sang chế biến theo chiều sâu, giảm tới mức tối đa hàng sơ chế, nguyên liệu thô. Nghĩa là cần chuyển từ xuất khẩu tài nguyên sang xuất khẩu giá trị thặng dư. (2) Cần mở ra các mặt hàng xuất khẩu mới. Một mặt chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu hàng đã qua chế biến đối với những loại hàng hóa đã có như dầu thô, cao su, than đá…; mặt khác, cần phát triển thị trường cho các mặt hàng mới nhưng có tiềm năng, triển vọng phát triển và phù hợp với xu thế phát triển như máy vi tính, linh kiện điện tử… (3) Nhà nước cần có cơ chế chính sách rõ ràng và mở rộng để thu hút các doanh nghiệp tham gia sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nói trên. Cho phép và ưu tiên các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư để cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất nhằm tăng nhanh khối lượng hàng sản xuất đã qua chế biến và các mặt hàng mới. 3.2.1.2. Tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về thị trường Trung Quốc Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy đầu tư, buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cơ quan cấp cao như Bộ Công thương, là cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động xuất khẩu, cần kiện toàn chi nhánh thương vụ tại các địa phương Trung Quốc. Khi các thương vụ và chi nhánh được hình thành và đã đi vào hoạt động, ta sẽ có đại diện thương mại tại một số thị trường trọng điểm tại Trung Quốc. Từ đó có thể nắm rõ, đầy đủ và chính xác các thông tin về thị trường, đồng thời hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc. Các thông tin đó như là các thông tin về dự báo thị trường, thông tin liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh các mặt hàng hay nhóm mặt hàng, xu hướng giá cả, sự thay đổi nhu cầu các sản phẩm đó tại thị trường này hay các chính sách, quy định liên quan đến quản lý nhập khẩu của Trung Quốc… Các thông tin này có thể cung cấp qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, tivi, internet. Mỗi Bộ liên quan có thể thành lập một bộ phận chuyên trách về vấn đề này. 3.2.1.3. Tiếp tục xây dựng những đề án xuất khẩu cụ thể cho từng ngành hàng và từng địa bàn cụ thể tại thị trường Trung Quốc Chính phủ cần thống nhất lại về mặt nhận thức coi chuyển dịch cơ cấu hướng ra xuất khẩu là động lực chính để Việt Nam hoàn thành CNH – HĐH đất nước. Hơn nữa, Trung Quốc là một đối tác tiềm năng, chiến lược của Việt Nam nên chính phủ cần phải xây dựng các đề án xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này. Mặt khác, để đứng vững được tại thị trường Trung Quốc, Việt Nam cần có chính sách thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong từng phân ngành cũng như trong từng địa bàn cụ thể tại thị trường Trung Quốc. 3.2.1.4. Đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các cửa khẩu Thời gian qua, sự lạc hậu, thiếu thốn, của hạ tầng thương mại (hệ thống giao thông, cửa khẩu, kho ngoại quan, cảng biển, bãi chứa hàng và bãi đỗ xe tại các cửa khẩu…) đã hạn chế sự phát triển thương mại giữa hai bên nói chung và hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc nói riêng. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho chúng ta là cần phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các cửa khẩu, tỉnh biên giới. Cụ thể: Cần chú ý đến việc nâng cấp, bổ sung và hoàn thiện hệ thống nhà công vụ trên toàn tuyến đường biên giới đảm bảo đủ sức phục vụ các hoạt động thương mại ngày càng tăng về cả quy mô lẫn tốc độ. Nhà nước và địa phương cần đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc, thông tin viễn thông, nhanh chóng khắc phục tình trạng thủ công, thiếu chính xác làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Xây dựng hệ thống kho bãi đảm bảo đủ diện tích và các thông số kỹ thuật cần thiết để lưu giữ hàng hóa xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng khu thương mại biên giới chuyên về kinh doanh thủy hải sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về loại hàng hóa này từ Trung Quốc, đặc biệt là khu vực thị trường tỉnh Vân Nam và một số tỉnh thành phố khác ở khu vực Tây Nam Trung Quốc. Xây dựng hệ thống kho lạnh có đủ điều kiện tiêu chuẩn để bảo quản và dự trữ hàng thủy sản nhằm điều tiết theo biến động của thị trường và giảm bớt rủi ro cho các doanh nghiệp. Cần cải tạo nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt nối các tỉnh thành của Việt Nam với các tỉnh thành của Trung Quốc thuộc hai hành lang và một vành đai kinh tế, đến các tỉnh thuộc khu vực Bắc miền Trung của Việt Nam để kích thích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hóa với thị trường Trung Quốc. Đối với các ngành thủy hải sản, nông nghiệp, cần phối hợp với ngành đường sắt để tiến hành xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống kho lạnh chuyên dụng chở hàng thủy hải sản, nông nghiệp của ta sang Trung Quốc. Qua đó sẽ giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa do bị hư hỏng vì thời tiết. 3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.2.2.1. Xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm xuất khẩu, đảm bảo tính bền vững của các mối liên kết Đây là giải pháp quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu, các giải pháp khác chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi doanh nghiệp thực sự coi trọng việc thực hiện giải pháp này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản. Nếu các hộ nông dân tiếp tục tình trạng sản xuất nhỏ lẽ, tự phát, các doanh nghiệp không có hiệp đồng dài hạn với hộ nông dân và các hợp tác xã, tách rời giữa khâu sản xuất, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ … thì tình trạng sản xuất manh mún, giá thành cao, khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng vẫn không thể được khắc phục. Tham gia vào chuỗi cung ứng hàng hóa xuất khẩu phải bao gồm tất cả các chủ thể có liên quan đến quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ. Chừng nào những liên kết trên đây còn chưa chặt chẽ thì những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để. Các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa xuất khẩu cần đóng vai trò là “đầu tầu” – nhân vật trung tâm điều phối và vận hành hiệu quả hoạt động của chuỗi cung ứng. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần chủ động động đặt hàng với các nguồn cung ứng nguyên liệu, đồng thời phải là chủ thể có vai trò trực tiếp trong việc nghiên cứu thị trường, định hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường xuất khẩu và hướng dẫn hoặc đặt hàng các chủ thể có liên quan triển khai các hoạt động một cách phù hợp nhất nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Điểm mấu chốt để đảm bảo tính bền vững của các mối liên kết này là “hài hòa hóa lợi ích của các bên trong liên kết”, đó cũng là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình cũng như thương hiệu các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp trên thị trường Trung Quốc. 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc, đời sống của người dân Trung Quốc không ngừng được nâng cao. Nhu cầu tiêu dùng cũng từ đó mà tăng lên cả về quy mô lẫn chất lượng. Do vậy, việc nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu là cơ sở, tiền đề để hàng hóa Việt Nam chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Trung Quốc. Đặc biệt đối với hàng nông sản – mặt hàng chủ lực, mặt hàng chịu nhiều áp lực về rào cản chất lượng khi xuất khẩu sang Trung Quốc. Yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu là phải nâng cao chất lượng mặt hàng của mình. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nông sản cần tạo được nguồn cung nông sản ổn định trên cơ sở phát triển các chuổi cung ứng nông sản, trong đó doanh nghiệp cần đặt ra các yêu cầu cụ thể đối với người sản xuất trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các công đoạn trong toàn bộ quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến nông sản theo các mô hình quản lý chất lượng hiện đại, tuân thủ tiêu chuẩn mà thị trường xuất khẩu đặt ra. Vấn đề hiện đại hóa công nghệ chế biến nông sản cũng là một yêu cầu tất yếu và cấp bách để các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các mặt hàng nông sản đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường Trung Quốc, giảm thiểu việc xuất khẩu nông sản thô hoặc mới qua sơ chế, tăng tỷ trọng xuất khẩu nông sản chế biến và giá trị gia tăng cho nông sản xuất khẩu. 3.2.2.3. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu Hiện nay, nhận thức về tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của các doanh nghiệp chưa cao, việc giới thiệu quảng bá sản phẩm vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Khả năng thu thập thông tin, phân tích thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Các nghiên cứu sâu về thị trường xuất khẩu được triển khai có tính đơn lẻ, chưa được tập hợp thành tài liệu tham khảo. Vì vậy, các doanh nghiệp hàng hóa của Việt Nam cần nhận thức đúng và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và quảng bá cho sản phẩm của mình, tham gia nhiều hơn vào các hội chợ, triển lãm để tiếp tục thiết lập các mối quan hệ làm ăn trực tiếp với các nhà nhập khẩu Trung Quốc, đồng thời tạo ra sự liên kết, gặp gỡ thường xuyên giữa các đối tác đã có quan hệ buôn bán với nhau. Thực hiện chiến lược “vết dầu loang”. Việt Nam có một điều kiện là có truyền thống buôn bán lâu đời trong quan hệ láng giềng hai nước. Thương nhân Trung Quốc luôn chủ động tìm kiếm nguồn hàng từ các nước láng giềng để mua bán trao đổi tạo thông thương biên giới hai bên. Chỉ cần hàng hóa có mặt tại các dịp hội chợ triển lãm hoặc tại khu thương mại biên giới là thương nhân Trung Quốc đã tìm mua về bán lại. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nên tranh thủ điều kiện đó theo cách thẩm thấu dần và hỗ trợ tích cực cho bạn hàng để có được kênh phân phối với một thị phần nhất định tại Trung Quốc. 3.2.2.4. Nâng cao tính linh hoạt, thích ứng của doanh nghiệp xuất khẩu khi điều kiện thị trường thay đổi Điều này liên quan mật thiết đến khả năng quản trị doanh nghiệp, trong đó cơ chế điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Khi nghiên cứu thị trường Trung Quốc, ngoài việc nắm bắt và cập nhật các thông tin về nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần tìm hiểu kỹ chính sách, pháp luật, tập quán của các quốc gia đối với việc nhập khẩu và tiêu dùng hàng hóa của mình. Nhằm để bảo hộ sản xuất trong nước, Trung Quốc thường xuyên dựng lên những rào cản kỹ thuật, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nắm bắt kịp thời và linh hoạt trong điều chỉnh cơ cấu, quy trình sản xuất sao cho phù hợp. 3.2.2.5. Đổi mới nhận thức và liên kết lại để tạo lợi thế cạnh tranh tổng hợp Để ACFTA thực sự có ý nghĩa, doanh nghiệp nước ta cần chủ động đổi mới bắt đầu từ nhận thức về cung cách kinh doanh: sản xuất theo định hướng thị trường, làm tốt công tác phân loại sản phẩm, nâng cấp hệ thống bảo quản, tiếp thị và quảng bá thương hiệu. Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm rõ để đáp ứng những quy định của Trung Quốc về kiểm dịch, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán, bảo hiểm. Các doanh nghiệp cần có sự thay đổi theo hướng tích cực trong tư duy, không nên có thái độ ỷ lại, chờ đợi sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quản, chủ động tìm hiểu nhu cầu thị hiếu, hệ thống pháp luật, tiếp cận, tiếp cận, thâm nhập thị trường để tránh tình trạng bị động trong quan hệ trao đổi hàng hóa. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nếu chỉ hoạt động đơn lẻ thì chỉ dừng lại ở thị trường biên giới, khó có thể tiến sâu vào thị trường nội địa, không những thế còn bị ép cấp, ép giá dẫn tới xuất khẩu thu được hiệu quả thấp. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới nhận thức, liên kết, đồng tâm hiệp lực để tạo lợi thế cạnh tranh tổng lực trên thị trường Trung Quốc. Để có thể liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là nhóm hàng nông sản thực phẩm, chúng ta nên thành lập một ủy ban tăng cường cạnh tranh quốc gia và phát huy sức mạnh các Hiệp hội. Nhiệm vụ chính của ủy ban là liên kết các doanh nghiệp lại thống nhất trong kinh doanh xuất khẩu. Đặc biệt, với doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc cần đăng ký và bảo hộ thương hiệu kịp thời. 3.2.2.6. Nghiên cứu tìm ra “ngách” thị trường Thị trường Trung Quốc quá rộng lớn, do vậy muốn thâm nhập, các doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứu tìm cho mình một “ngách” thị trường để “len” vào dựa trên những lợi thế so sánh. Ví dụ như đối với doanh nghiệp BITI’S – một doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam đã khá thành công trong việc thâm nhập và tìm cho mình một chỗ đứng vững trên thị trường Trung Quốc, ngách thị trường mà BITI’S phát hiện là ở hai điểm: - Vị trí địa lý: Việc vận chuyển giao thương buôn bán giữa các tỉnh phía đông có kinh tế phát triển và các tỉnh phía tây, đặc biệt là các tỉnh Tây Nam của Trung Quốc diễn ra không thuận do điều kiện về giao thông, xa xôi cách trở. Trong khi đó thì hàng hoá của Việt Nam, mặc dù từ thành phố Hồ Chí Minh đưa ra nhưng vẫn tỏ ra  có ưu thế hơn nhiều trong vấn đề giao thương, vận chuyển. - Sản phẩm và công nghệ: Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới. Do vậy, việc đổi mới công nghệ diễn ra rất nhanh. Từ công nghệ sản xuất dép bằng chất liệu PU, TPR. Chính điều này đã làm các nhà sản xuất Trung Quốc bỏ qua nhu cầu của người tiêu dùng trong nước mà đặc biệt là các tỉnh Tây Nam Trung Quốc đang có mức sống thấp hơn, nhưng lại cần những sản phẩm có chất lượng cao. Những sản phẩm có chất lượng thấp cho dù là giá rất rẻ không còn chiếm ưu thế như trước đây. Nhu cầu này hoàn toàn phù hợp với sản phẩm xuất trên chất liệu EVA mà công ty BITI'S đang có thế mạnh. Do vậy BITI'S nhắm đến mục tiêu chất lượng, với sản phẩm phù hợp với điều kiện khí hậu và địa lý ở đây để dần chinh phục được người tiêu dùng các tỉnh Tây Nam Trung Quốc. 3.2.2.7. Chú ý đặc điểm và tâm lý kinh doanh của thương nhân Trung Quốc Với một thị trường hàng tỉ dân và có hàng triệu thương hiệu lớn nhỏ, thì doanh nghiệp cũng không nên đặt tham vọng là sẽ dễ dàng chiếm lĩnh ngay một thị phần lớn mà cần biết lượng sức mình và tranh thủ vào các "ngách" thị trường, sự ủng hộ của khách hàng lập mạng lưới kinh tiêu. Mỗi nhà phân phối sẽ tự chọn khu vực thị trường cho mình rất hợp lý. Khi làm việc với đối tác, doanh nghiệp cần tôn trọng quyết định về thị trường của bạn hàng nhưng không bỏ qua mục tiêu tìm kiếm thị trường mới cho công ty. Các thương nhân Trung Quốc có kinh nghiệm sẽ biết nơi nào tiêu thụ tốt sản phẩm của doanh nghiệp và sẽ tập trung đầu tư, làm hết sức để đạt đến thành công như dự tính. Tuy vậy, doanh nghiệp phải biết kiên trì thuyết phục khách hàng một chính sách kinh doanh thống nhất. Thương nhân Trung Quốc luôn muốn có một sự quan tâm đặc biệt, được hưởng những ưu đãi hơn hẳn người khác và ngược lại họ càng không muốn thua thiệt bất kỳ ai. Do vậy, khi giao dịch với họ, doanh nghiệp phải luôn thể hiện sự công bằng, kiên định và có một quan điểm chính kiến thống nhất. Chính điều đó làm cho doanh nhân Trung Quốc tôn trọng và tin tưởng hơn vào sự ổn định lâu dài trong quan hệ hợp tác. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải biết đón nhận góp ý của họ. Khi đã hợp tác họ luôn có những góp ý chân tình và có trách nhiệm với nhau. Nghe những góp ý, có khi là chê trách sản phẩm của các kinh tiêu Trung Quốc sẽ giúp đôi bên cùng có lợi trong việc chinh phục người tiêu dùng. Ngoài ra, trước khi đi đến quyết định hợp tác, để giúp các doanh nhân Trung Quốc quyết định nhanh, chúng ta phải tạo điều kiện cho họ có niềm tin bằng cách so sánh giữa cái lợi và hại, đưa họ đi thăm một số nơi đang kinh doanh sản phẩm của doanh nghiệp. KẾT LUẬN Việt Nam – Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, cùng có quan hệ gần gũi và thân thiết. Điều đáng tự hào là hai bên đã giữ gìn tình hữu nghị truyền thống và duy trì tiếp xúc buôn bán với nhau từ rất lâu. Kể từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc liên tục tăng, đã có sự chuyển dịch cơ cấu hàng hóa theo chiều giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu chưa qua chế biến. Đây thực sự là một tín hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục, giải quyết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà những quy định trong WTO đã đi vào thực tiễn, buộc hai phía Việt Nam – Trung Quốc phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Nắm bắt được thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong giai đoạn từ 1991 đến nay, chuyên đề đã đánh giá, phân tích được những thành công, hạn chế cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những hạn chế đó. Từ đó, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO. Do thời gian nghiên cứu và hiểu biết của em có hạn nên chuyên đề còn gặp nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các anh chị, các cô, các chú trong ban Tổng hợp – Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã rất nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại Ban. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế phát triển, 2005. Khoa kế hoạch và phát triển, ĐH Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản lao động. 2. Giáo trình kinh tế quốc tế. ĐH Kinh tế quốc dân, nhà xuất bản thống kê. 3. Quan hệ Trung Quốc – ASEAN – Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 4. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Nhà xuất bản lí luận chính trị, Hà Nội 2006. 5. Niên giám thống kê xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2006. Tổng cục Thống kê Việt Nam 6. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2005). Tổng cục Thống kê Việt Nam. 7. Trung Quốc gia nhập WTO – Thời cơ và thách thức. 8. Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội. 9. Tạp chí Châu Á – Thái Bình Dương. Số 35/12. năm 2007 10.Tạp chí cộng sản. Số 1/1/2006 11. Tạp chí kinh tế đối ngoại. Số 1+ 2 / 2008. 12. Tạp chí kinh tế & phát triển. Số 4/4/2008 13. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc. Số 1+2+3+5/2008. 14. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. 7/2008 15. Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2(84) 2-2008 16. Tạp chí Khao học thương mại, số 23/2008 17. Website: www.tinthuongmai.com www.laocai.gov.vn/home www.langson.gov.vn/home www.laichau.gov.vn/home www.quangninh.gov.vn/home www.vietnamnet.vn www.vietbao.vn www.bienphong.com.vn www.cpv.org.vn www.vneconomy.vn www.vietnamchina.vn Vụ thương mại điện tử - Bộ công thương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21926.doc
Tài liệu liên quan