Chuyên đề Giải pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005

1.1.Mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu theo hướng đa phương hoá thị trường, tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có, đẩy mạnh việc xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng tỷ trọng hiện còn thấp (EU, Bắc Mỹ) mở các thị trường mới (Mỹ Latinh, Châu Phi). Xác định các ưu thế cạnh tranh tương đối để tập trung đầu tư vào các mặt hàng có ưu thế nhất, tránh đầu tư tản mạn, hiệu quả thấp. Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để tránh những khu vực thị trường mặt hàng khó cạnh tranh hay chưa có khả năng cạnh tranh. Tìm hiểu các chính sách nhập khẩu và thuế quan của thị trường trọng điểm để tìm các cánh cửa mới cho hàng xuất khẩu . Phát huy những ưu thế cạnh tranh tương đối của nước ta như: . Nguồn tài nguyên thiên nhiên: yếu tố sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ. . Lực lượng lao động: yếu tố giá thành lao động. . Vị trí địa lý: yếu tố ảnh hưởng lớn đến điều kiện và chi phí vận tải. . Điều kiện thời tiết, khí hậu: yếu tố làm nên đặc tính riêng của sản phẩm. Muốn mở rộng và phát triển thị trường thì cần năng cao hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh. Sự hạn chế thông tin về các đối thủ cạnh tranh thường dẫn tới những hạn chế và làm cho ưu thế cạnh tranh trở nên không bền vững. Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ mạnh hơn và tìm ra các thị trường riêng của mình, điều này hoàn toàn đúng ở hai cấp độ quốc gia và công ty. 1.2. Thúc đẩy việc đầu tư mới và đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh hàng Việt Nam sản xuất trên thị trường thế giới.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường quốc, ta còn có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để giải quyết các tranh chấp thương mại với các nước thành viên. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong quan hệ của nước ta với Hoa Kỳ, một cường quốc còn phân biệt đối xử với Việt Nam, chưa dành cho ta đãi ngộ tối huệ quốc, còn áp đặt những cản trở về thuế và phi thuế trong quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. 1.2.Hưởng những ưu đãi thương mại, mở rộng thị trường WTO, ASEAN, ASEM đều có mục tiêu chung là giải quyết vấn đề thị trường. Mục tiêu này được thực hiện thông qua việc giảm dần từng bước đi tới triệt tiêu hàng rào phi thuế quan, dùng thuế là công cụ bảo hộ chủ yếu, đồng thời tiến hành giảm thuế, thực hiện các chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật nhằm hỗ trợ nhau phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. Trong khuôn khổ GATT/WTO, các cuộc đàm phán của hiệp định Urugoay với sự tham gia của 117 quốc gia đã kết thúc với việc giảm 36% mức thuế đối với hàng nông sản, 33% đối với hàng công nghiệp, 32% với hàng dệt may, và nhờ vậy kim ngạch mậu địch toàn thế giới đã tăng khoảng 200 tỷ USD/năm. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) đã được hình thành với việc ký kết hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm mục tiêu thực hiện tự do hoá mậu dịch toàn khối ASEAN trong vòng 10 năm kể từ 1/1/1993. Mức thuế của các nhóm mặt hàng tham gia CEPT đều sẽ giảm xuống 0-5% vào năm 2003 đối với Brunay, Indonesia, Malaysia, Philippine, Singapore, Thái Lan và năm 2006 đối với Việt Nam, năm 2008 đối với Lào và Myanmar, đồng thời xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan và hạn chế số lượng để mở đường cho thương mại ASEAN phát triển, tạo thế và lực mới cho ASEAN trong cạnh tranh toàn cầu. Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế, ngoài việc được hưởng các cam kết ưu đãi, mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên trong cùng một tổ chức cam kết dành cho nhau như nói trên, tổ chức thương mại thế giới (WTO) còn dành những ưu đãi riêng về miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ thành viên cho các nước đang phát triển, chậm phát triển và các nước trong thời kỳ chuyển đổi (có mức thu nhập dưới 1000USD/người) ở tất cả các lĩnh vực và được ưu đãi hơn trong việc tiếp cận thị trường để bán các sản phẩm của mình, các nước phát triển phải hạn chế đặt ra và áp dụng hàng rào thương mại mới mà trước kia chưa có đối với hàng xuất khẩu có lợi thế đặc biệt từ các nước kém phát triển hơn. Trong một số trường hợp các nước đang phát triển còn được miễn trừ nghĩa vụ có đi có lại trong quan hệ thương mại với các nước phát triển. Điều này sẽ tạo dựng được môi trường thông thoáng cho phát triển kinh tế, mở rộng thị trường về mọi mặt, đặc biệt là cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam với những mặt hàng đòi hỏi nhiều nhân công hoặc những mặt hàng nông sản mà ta có ưu thế như: gạo, cà phê, thuỷ-hải sản, chế hạt điều, hàng dệt may, giày dép... 1.3.Tăng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước Việc Việt Nam tham gia và chấp nhận các luật lệ chung của các thể chế kinh tế quốc tế, đặc biệt là WTO, sẽ dần dần tạo lập và củng cố lòng tin của các nước vào cơ chế, chính sách của Việt Nam, tạo niềm tin để thu hút các nước công nghiệp phát triển an tâm đầu tư vào nước ta. Đồng thời ta có cơ hội tiếp cận các nguồn vay vốn ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài trợ của các định chế tài chính quốc tế như ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... Với tư cách là thành viên ASEAN ta có điều kiện tham gia chương trình hợp tác công nghiệp (AICO), hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) với những ưu đãi đặc biệt. Đây là những điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư trong nội bộ khối đầu tư chéo sang nhau cũng như khai thác công nghệ, bí quyết kỹ thuật của các quốc gia phát triển hơn thông qua việc mở ra một thị trường rông lớn, thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng hoạt động đầu tư vào các nước trong khu vực. 1.4.Nâng cao vị trí quốc tế của Việt Nam và tạo thế đứng vững chắc hơn cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Chúng ta hiện đang chứng kiến hàng loạt các liên minh ra đời với mục đích tăng cường sức mạnh làm đối trong với các liên minh khác. liên minh Châu Âu (EU), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) giữa Hoa Kỳ, Canada và Mêhicô là những thí dụ điển hình trong nhiều liên minh khu vực khác. Cũng như vậy, sự ra đời của APEC không những chỉ nhằm củng cố và phát huy thế và lực của các quốc gia thành viên trong tương quan khu vực và quốc tế mà trên thực tế mỗi nước thành viên đều có ý thức được rằng nền tảng kinh tế này còn tạo đối trọng trong đàm phán đa biên giới với EU và các cường quốc khu vực khác, không chỉ nhằm mục tiêu liên minh kinh tế, thương mại mà còn góp phần đắc lực vào việc củng cố vị thế vững chắc hơn cho các nước trong quan hệ quốc tế, làm cơ sở hậu thuẫn bảo vệ hoà bình và an ninh khu vực. Mục tiêu chung của GATT/WTO từ khi ra đời đến nay là nhằm xây dựng những luật lệ, nguyên tắc, khuôn khổ và chuẩn mực chung dể điều tiết, tạo dựng môi trường công bằng và thuận lợi cho thương mại thế giới. Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế chính là cơ hội để ta tham gia vào việc thiết lập những “luật chơi” quốc tế này, góp thêm tiếng nói tập hợp lực lượng đấu tranh cho lợi ích của những nước đang phát triển, nắm bắt tốt hơn các xu hướng quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các nước khác, từ đó xác định được hướng điều chỉnh vừa phù hợp với tiến trình chung, vừa khai thác triệt để những cơ hội có lợi ích cho mình. Nếu không phải là thành viên các tổ chức kinh tế quốc tế ta sẽ mất đi cơ hội tham gia những cuộc thương thuyết phân chia quyền lợi và thị trường. Điều này cũng có nghĩa là ta sẽ mất đi cơ hội đàm phán, đấu tranh bảo vệ quyền lợi của Việt Nam nếu các thoả thuận đó gây phương hại đến lợi ích cho quốc gia mình. Trong điều kiện thế giới đang hình thành xu thế đa cực, việc ta tham gia vào các tổ chức kinh tế thương mại thế giới và khu vực sẽ tạo những mối quan hệ đa dạng, đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau cho phép khai thác lợi thế tập thể của các khối kinh tế thương mại này trong quan hệ với các nước lớn, bảo vệ tốt hơn lợi ích của ta, tạo dựng được thế và lực, góp phần đảm bảo hoà bình và giữ gìn an ninh quốc tế và khu vực. Tiến trình Việt Nam tham gia WTO, ASEAN, APEC, ASEM có thể hình dung như những vòng tròn đồng tâm thúc đẩy lẫn nhau, tạo thêm cơ sở để Việt Nam mở rộng hơn quan hệ với các nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, nhất là trong đàm phán đa phương về những lợi ích của ta. Mục tiêu quan trọng của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực là: Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trước mắt là thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010) của Đảng và Nhà nước, thị trường cũng là đòi hỏi cấp bách đối với Việt Nam. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 9,3 tỷ USD và nhập khẩu đạt 11,4 tỷ USD. Nếu ta phấn đấu tăng kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK) mỗi năm trung bình từ 10-15% thì tới năm 2010 kim ngạch XNK của ta đạt khoảng 50 tỷ USD, đó là chưa tính tốc độ gia tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các con số trên cho thấy vấn đề thị trường là một đòi hỏi cấp bách. Tham gia các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực chúng ta mới có tư cách và cơ hội để vươn ra quốc tế, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Đứng ngoài cuộc, chúng ta sẽ bị các nước áp dụng nguyên tắc có đi có lại, phân biệt đối xử với các nước ngoài khối, đóng cửa thị trường đối với hàng hoá và thương nhân nước ta, và tổn thất này sẽ khó lường. Có thể nói rằng, xu thế hội nhập là tất yếu, là một đòi hỏi của phát triển. Chính vì thế Trung Quốc đã qua 13 năm đàm phán nhưng họ vẫn kiên trì trong việc gia nhập WTO. 1.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để các nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam mở rộng quan hệ, học tập phong cách quản lý, tiếp thu khoa học kỹ thuật mới của quốc tế, xoá bỏ được tư duy ỷ lại bao cấp, dám đương đầu cới cạnh tranh, hình thành được phong cách làm ăn mới, lấy chất lượng và hiệu quả làm động lực để phấn đấu vươn lên 2. Những thách thức cần có giải pháp xử lý đúng trong quá trình hội nhập Việc tham gia hợp tác kinh tế quốc tế tạo cho Việt Nam cơ hội vào khai thác một thị trường thế giới rộng mở có tiềm năng lớn về khoa học và công nghệ cũng như về vốn mà Việt Nam đang rất cần cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, những thách thức phải đương đầu là rất lớn, những thách thức đó cần nhìn nhận và đánh giá một cách nghiêm túc, chính xác để có phương án vượt qua một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thành công. Từ thực trạng nền kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay cho thấy quá trình hội nhập kinh tế thế giới ta sẽ phải đối mặt với những hạn chế và thách thức chủ yếu như sau: 2.1. Sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ và đội ngũ các nhà doanh nghiệp của Việt Nam còn yếu kém Mặc dù đã đạt được những thành tựu kinh tế bước đầu đáng khích lệ, nhưng thực tế trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn ở mức rất thấp so với nhiều nước thành viên WTO, ASEAN, APEC, ASEM. Sản xuất trong nước còn nhiều khó khăn, quá trình chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm chạp, với một nền sản xuất hàng hoá nhỏ và phân tán, sức cạnh tranh của hàng hoá rất kém. Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện để hàng hoá và dịch vụ Việt Nam có thêm cơ hội để xâm nhập thị trường quốc tế, tuy nhiên sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của ta rất kém nên cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng, trong khi đó hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài với sức cạnh tranh cao với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện xâm nhập thị trường Việt Nam. Nếu như hàng hoá và dịch vụ Việt Nam không có sự thay đổi và nâng cao về chất (như phải có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã phong phú, đa dạng, điều kiện thanh toán và giao hàng thuận lợi...) thì chắc chắn sẽ không có chỗ đứng ngay cả trên thị trường nội địa và điều đó cũng có nghĩa những nghành sản xuất và dịch vụ non trẻ của Việt Nam sẽ khó có cơ hội vươn lên cạnh tranh. Đối với Việt Nam, việc thực hiện nguyên tắc không phân biệt đổi xử, nhất là đãi ngộ quốc gia còn rất nan giải. Thực tế sự bảo hộ đối với hàng hoá trong nước vẫn là nhu cầu cấp bách. Nói khác đi việc cam kết mức độ bình đẳng, không phân biệt đổi xử giữa hàng nội địa và hàng ngoại nhập phải được cân nhắc, tính toán hết sức thận trọng, thực hiện dần từng bước. Phải tính toán để thực hiện chính sách bảo hộ có điều kiện, có chọn lọc, có thời gian, đồng thời phải đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên cơ sở phân tích rõ lợi thế so sánh của ta để xác định và xây dựng những ngành hàng có tính đột phá mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao, đủ sức đương đầu với hàng hoá của nước ngoài khi điều kiện bảo hộ trong nước không còn nữa. Đối với các doanh nghiệp, việc thực hiện các nguyên tắc về không phân biệt đối xử (MFN) nhất là đãi ngộ quốc gia (NT) dành cho các doanh nghiệp của các nước thành viên WTO, ASEAN, APEC và ASEM sẽ đặt ra những thức gay go. Theo nguyên tắc này, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép thành lập các công ty và triển khai hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ trên thị trường Việt Nam, đương nhiên theo lộ trình từng bước. Hiện nay các doanh nghiệp lớn của nước ta vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung nay chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các doanh nghiệp này chưa đủ thời gian để thích ứng với cơ chế mới. Các doanh nghiệp khác, mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân có quy mô rất nhỏ dù có sự mềm dẻo linh hoạt trong hoạt động nhưng rõ ràng xét về mặt quy mô và trình độ quản lý thì khả năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Trong điều kiện như vậy, áp dụng các nguyên tắc về đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT) chúng ta sẽ khó khăn. Có một thực tế là 2/3 thành viên của WTO là các nước đang phát triển, các nước thành viên ASEAN, APEC, ASEM cũng còn những nước có trình độ phát triển thấp, hoàn cảnh cũng có những mặt tương đồng như Việt Nam. Do vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là hoàn toàn có thể, nếu chúng ta có các chính sách phát triển kinh tế thương mại đúng đắn, thực hiện các cam kết với WTO, ASAN, APEC, ASEM theo phương châm từng bước vững chắc nhằm nâng cao nội lực của nền kinh tế kết hợp với khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Những thách thức nói trên không chỉ hoàn toàn tiêu cực mà nó còn chứa đựng các yếu tố tích cực, bởi vì thông qua việc phải đối mặt với những thách thức, đương đầu với cạnh tranh, chúng ta sẽ tìm ra những biện pháp hữu hiệu vượt qua những trở ngại thách thức, sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam sẽ được tăng cường, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng trở nên năng động hơn và hoạt động hiệu quả hơn. Nhận định này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng minh trong những thời điểm có bước ngoặt. 2.2. Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế-thương mại chưa hoàn chỉnh Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế đòi hỏi hệ thống chính sách kinh tế quốc tế, thương mại của nước ta phải điều chỉnh phù hợp với những quy tắc và luật chơi quốc tế trong khi hệ thống pháp lý và hệ thống chính sách kinh tế thương mại của ta chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, để một mặt đáp ứng được các nguyên tắc của WTO, ASEAN, APEC, ASEM, một mặt hỗ trợ đắc lực cho sản xuất hàng hoá và thương nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ và tạo thành một công cụ đắc lực cho đàm phán mở cửa thị trường. Cho tới nay, hệ thống chính sách này của Việt Nam còn nhiều điều bất cập, kỹ thuật xây dựng còn thô sơ, nhất là hệ thống chính sách thuế quan và phi thuế quan. Việc xây dựng những chính sách này còn áp đặt ý muốn chủ quan nên thường xuyên phải điều chỉnh, thay đổi thất thường, gây tâm lý mất lòng tin trong giới doanh nghiệp và ngoài nước. Đặc biệt những biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế và thương mại mà WTO, ASEAN, APEC, ASEM thừa nhận (đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT), chế độ hạ ngạch thuế quan (tariff quota), quyền tự vệ, chống bán phá giá..) ta lại chưa có. Trong khi đó những chính sách, biện pháp mà WTO, ASEAN, APEC, ASEM không thừa nhận, không phù hợp với nguyên tắc của các tổ chức này thì ta vẫn còn áp dụng. Đây là một điểm yếu của Việt Nam cần phải lưu ý để nhanh chóng khắc phục. Nếu hệ thống chính sách của ta được xây dựng chu đáo, áp dụng các kỹ thuật quốc tế và đồng bộ, sẽ tạo ra một công cụ hữu hiệu, góp phần khắc phục được các yếu kém của hàng hoá và thương nhân của Việt Nam trong quá trình phấn đấu vươn lên. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước, tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh, tổ chức, hỗ trợ xúc tiến mậu dịch của chúng ta còn nhiều bất cập, thiết hiệu quả, gây tình trạng vưa chồng chéo, vừa không rõ ràng về trách nhiệm, trong khi hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi một bộ máy làm việc năng động có hệ thống, đảm bảo hội nhập một cách chủ động, giữ vững định hướng XHCN. 2.3. Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay ngắt, nhưng nhận thức của các ngành các cấp còn chưa nhất quán, tư tưởng bảo hộ, ỷ lại còn nặng Chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với 135 nước hiện nay đã trải qua 51 năm hợp tác với 8 vòng đàm phán mở cửa thị trường với những nội dung, yêu cầu đòi hỏi ngày một cao, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong khi đó, tuy Bộ Chính trị đã quyết định phải đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng sự nhận thức của các ngành, các cấp, các địa phương, các doanh nghiệp về sự cần thiết và tính bức xuc phải hội nhập vì lợi ích phát triển kinh tế đất nước vẫn chưa được thống nhất, kiên định thậm chí còn mơ hồ, điều này gây khó khăn để đạt tới quyết tâm cao tìm biện pháp khắc phục khó khăn vươn lên. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy vướng mắc lớn nhất hiện nay tập trung ở khâu xây dựng các cam kết quốc tế cụ thể về mở cửa thị trường về thuế, về các biện pháp phi thuế quan trong thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ tư tưởng bảo hộ, ỷ lại còn nặng. Quan điểm đúng đắn của Đảng thể hiện trong nghị quyết TW4 “bảo hộ có điều kiện, có chọn lọc, có thời gian” chưa được thể hiện đầy đủ trong các chính sách quản lý. 2.4. Năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế Mặc dù trong những năm gần đây chúng ta đã tăng cường công tác đào tạo, những về cơ bản độ ngũ cán bộ các cấp trong cả nước còn rất mỏng, trình độ và kinh nghiệm còn hạn chế nhất là lĩnh vực xây dựng chính sách và đàm phán quốc tế. Thực tế này đặt ra một nhiệm vụ cấp bách là phải tìm ra mọi biện pháp tăng cường hơn nữa công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, xem đây là lĩnh vực ưu tiên. Vấn đề đào tạo cần thực hiện từ trung ương đến địa phương, chú ý đào tạo cho các doanh nghiệp, đào tạo cả kỹ thuật, nghiệp vụ, nhưng vấn đề đào tạo pháp lý, xây dựng chính sách cho hoạt động hợp tác quốc tế, nhất là ngoại ngữ tiếng Anh cần được đặt lên hàng đầu. Cán bộ là yếu tố quyết định thành công của quá trình hợp tác kinh tế quốc tế. III. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực thời kỳ 2001-2005 1. Quan điểm phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 1.1. Tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động; chủ động hội nhập và kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia; đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý. 1.2. Gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; gắn thị trường với sản xuất; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa hạng hoá thị trường ngoài nước. 1.3. Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu; đẩy mạnh xuất khẩu hang hoá chế biến sâu và có hàm lượng kỹ thuật cao. Xây dựng nên kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế hướng về xuất khẩu. 1.4. Hoàn thiện cơ chế xuất khẩu ổn định và phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp chính sách bảo hộ sản xuất trong nước theo nguyên tắc “bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn” 1.5. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp nhẹ, và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản xuất khẩu để vừa tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, vừa tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến sâu nhằm giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Nhà nước cần hỗ trợ để nâng cao uy tín của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới. 2. Một số chỉ tiều chủ yếu xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 Tổng kim ngạch xuất khẩu hang hóa đến năm 2005 đạt 29,4% tỷ USD; 5 năm 2001-2005 đạt khoảng 111,7 tỷ USD, tăng bình quân 16%/năm; trong đó, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước (không kể dầu thô) đạt 60,4 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 54%, tăng 16,4%/năm; các doanh nghiệp FDI đạt 51,3 tỷ USD (kể cả dầu thô), chiếm 46%, tăng khoảng 15,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm của các nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (CNN và TTCN) đạt 17,2%/năm, công nghiệp nặng và khoáng sản (CNN và KS) đạt 14,5%/năm, nông-lâm-thuỷ sản (NLTS) đạt 16%/năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ ngoại tệ đến năm 2005 đạt 5 tỷ USD; 5 năm 2001-2005 đạt khoảng 18,6 tỷ USD, tăng bình quân 18%/năm. 3. Định hướng phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 3.1.Gạo Dự báo thời kỳ 2001-2005 giá gạo thế giới sẽ có xu hướng xững dần lên so với năm 2000, cung có triển vọng tăng nhanh hơn cầu. Tuy nhiên giá gạo xuất khẩu bình quân vẫn ở mức thâp hơn năm 1998. Cạnh tranh giữa Việt Nam và Thái Lan trong việc bán gạo càng gay gắt quyết liệt. Dự kiến xuất khẩu gạo đạt khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm, với kim ngạch khoảng 1 tỷ USD/năm. Dự kiến các thị trưởng xuất khẩu chủ yếu: khu vực Châu á-Thái Bình Dương chiếm khoảng 51% (trong đó các nước ASEAN chiếm 48%); Trung Đông và Châu Phi chiếm 35%; Châu Mỹ chiếm 10%; Châu Âu 4%. 3.2. Cà phê Dự kiến giá trị cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng khoảng 8,7%/năm; giá cà phê sẽ xấp xỉ với cà phê Indonesia và các nước khác. Dự kiến các thị trường xuất khẩu chủ yếu là EU chiếm 60%; Mỹ 15%; Singapore chiếm 10%, Nhật Bản 6%; còn lại các thị trường khác chiếm 9%. Khối lượng cà phê xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 dự kiến 2901 ngàn tấn đạt kim ngạch 3481 triệu USD. 3.3. Nhân điều Dự báo nhân điều Việt Nam sẽ bị nhân điều ấn Độ và Brazil cạnh tranh gay gắt. Tuy vậy, nhu cầu và giá hạt điều thế giới đang vững lên. Dự kiến tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nhân điều hàng năm khoảng 13% khối lượng nhân điều xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 đạt 134 ngàn tấn, đạt kim ngạch 669 triệu USD. Dự kiến thị trường xuất khẩu là Trung Quốc chiếm 45%; Hoa Kỳ 25%; EU 15%; Australia 10%; các nước Châu á khác chiếm 5%. 3.4.Cao su Dự kiến tốc độ tăng giá trị xuất khẩu cao su hàng năm 13%; giá xuất khẩu đạt xấp xỉ giá các nước. Khối lượng cao su xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 dự kiến đạt 1774 ngàn tấn với kim ngạch khoảng 1419 triệu USD. Dự kiến xuât sang thị trường Trung Quốc chiếm 35%; Singapore 20%, Nhật Bản 2%, EU 15%, Malaysia 6%, Đài Loan 5%, Hàn Quốc 4%, Hông Kông 3%, Liên Bang Nga 2%, các thị trường khác 8%. 3.5. Chè Dự kiến giá trị xuất khẩu chè tăng 17,8%/năm; giá xuất khẩu sẽ cao hơn thời kỳ 1996-2000 do có khả năng tìm được một số thị trường tiều thụ với khối lượng lớn như Irăc, Nga... Dự kiến xuất khẩu chè thời kỳ 2001-2005 đạt 241 ngàn tấn, với kim ngạch đạt khoảng 338 triệu USD. 3.6. Hạt tiêu Việt Nam có sản lượng sản xuất chiếm khoảng trên 10% và xuất khẩu chiếm 15% tổng lượng hạt tiêu buôn bán trên toàn thế giới. Dự báo giá hạt tiêu thế giới tiếp tục tăng do cung không đủ cầu. Dự kiến giá trị xuất khẩu hạt tiêu tăng 8,4%/năm; giá xuất khẩu đạt xấp xỉ giá xuất khẩu của các nước. Khối lượng hạt tiêu xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 dự kiến đạt 268 ngàn tấn, với kim ngạch đạt khoảng 939 triệu USD. 3.7. Thuỷ-hải sản Dự kiến kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này tăng14%/năm và kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 đạt7986 triệu USD. Dự kiến xuất sang các thị trường: Nhật Bản chiếm 35%, Hoa Kỳ 20%, EU 10%, Trung Quốc 7%, Hồng Kông 6%, Đài Loan 5%, Singapore 2%, Hàn Quốc 3% và các thị trường khác 11%. 3.8. Hàng dệt may Dự kiến kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân 15%/năm; đến năm 2005 đạt 4-4,5 tỷ USD. Dự kiến xuất sang thị trường EU 4%, Hoa Kỳ 20%, Nhật Bản 20%, các nước Châu á khác 10% và các thị trường còn lại 10%. 3.9. Giày dép Tuy có chậm hơn trước nhưng dự báo thời kỳ 2001-2005 xuất khẩu giày dép vẫn là một trong những mặt hàng tăng nhanh nhất. Dự kiến năm 2005 xuất khẩu đạt khoảng 3-3,5 tỷ USD, thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 11,979 tỷ USD; giá trị xuất khẩu bình quân hàng năm tăng 13%. Dự kiến tỷ trọng thị trường xuất khẩu hàng giày dép vào EU 55%, Hoa Kỳ 15% (với điều kiện Hiệp định thương mại giữa hai nước được ký kết), Nhật Bản 5%, Hàn Quốc 5%, Đài Loan 5%, Hồng Kông 55, Nga, SNG và Đông Âu 5% và các thị trường còn lại 5%. 3.10. Hàng thủ công mỹ nghệ Đây là nhóm sản phẩm góp phần giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động nên ý nghĩa xã hội của ngành hàng này rất lớn. Dự báo trong thời kỳ 2001-2005, nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường thế giới có xu hướng tăng lên. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng hàng năm la 23%, năm 2005 đạt 500-600 triệu USD, cả thời kỳ 2201-2005 đạt 1732 triệu USD. 3.11. Dầu thô Dự báo trong thời kỳ 2201-2005, giá dầu thô thế giới có xu hướng vững do Tổ chức các nước sản xuất dầu mỏ (OPEC) vẫn muốn duy trì hạn ngạch sản xuất. Bởi vậy giá dầu thô của Việt Nam cũng sẽ vững giá. Dự kiến xuất khẩu tăng trong 2 năm 2001-2002, từ năm 2003 khi Nhà máy lọc dầu hoàn thành thì số lượng xuất khẩu sẽ giảm xuống; năm 2005 đạt 12 triệu tấn; thời kỳ 2201-2005 đạt 73 ngàn triệu tấn với kim ngạch đạt khoảng 10950 triệu USD. Dự kiến thị trường xuất khẩu chủ yếu là: Australia chiếm 24%, Nhật Bản 20%, Singapore 20%, Trung Quốc 13%, Inđônêsia 10%, Malaysia 3% và các thị trường còn lại 10%. 3.12. Hàng điện tử và linh kiện máy tính Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế , nhu cầu hàng điện tử-tin học trên thị trường thế giới sẽ phục hồi và phát triển trong giai đoạn 2001-2005, giá cả sẽ có xu hướng giảm nhanh do tiến bộ của khoa học – công nghệ thông tin, do đó hàng Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực như: Malaysia, Thái Lan, Phillipine... Tuy vậy, đánh giá kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử – tin học Việt Nam vẫn là một trong những nhóm hàng có tốc độ tăng nhanh nhất, dự kiến tăng khoảng 29%/năm; đến năm 2005 đạt kim ngạch 2,5-3 tỷ USD; cả thời kỳ 2001-2005 đạt 8,009 tỷ USD. Dự kiến các thị trường xuất khẩu chủ yếu là: Philipine 30%, Thái Lan 20%, Malaysia 10%, Nhật Bản 8%, Singapore 7%, Hàn Quốc 6%, Mêxico 5%, các thị trường còn lại 14%. 4. Định hướng phát triển các khu vực thị trường 4.1. Định hướng phát triển thị trường khu vực Châu á - Thái Bình Dương Thị trường Châu á - Thái Bình Dương là thị trường rộng lớn, chiếm 30% tổng kim ngạch buôn bán của thế giới. Tuy nhiên, có một số nước Châu á là những thị trường trung gian, nên giá xuất khẩu vào các thị trường này thường thấp hơn giá chung trên thị trường thế giới. Dự kiến xuất khẩu sang thị trường Châu á - Thái Bình Dương tăng bình quân 22,2%/năm. Tuy kim ngạch càng tăng nhưng tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường này sẽ có xu hướng giảm dần, năm 2001 chiếm 63%, đến năm 2005 chỉ còn chiếm 53,5% (trong đó: ASEAN từ 20% giảm xuống 12%, Đài Loan từ 6% giảm xuống 4%, Hồng Kông từ 3% giảm xuống 2%, Nhật Bản và Hàn Quốc giữ tỷ trọng ổn định ở mức 13% và 4%, còn Trung Quốc tăng từ 8% lên 10%, úc tăng từ 7% lên 9%). 4.2. Định hướng phát triển thị trường Âu – Mỹ Dự kiến xuất khẩu vào thị trường Âu – Mỹ tăng bình quân 20,1%/năm. Thị trường Châu Âu là thị trường tiêu thụ trực tiếp, chiếm 40% kim ngạch buôn bán thế giới ( trong đó EU chiếm35%) và đang có xu hướng tăng lên; giá thường cao hơn các thị trường khác. Tuy nhiên, thị trường EU đòi hỏi rất cao về chất lượng hàng hoá. Dự kiến tỷ trọng xuất vào thị trường Châu Âu tăng nhanh: Năm 2001 chiếm 26%, đến năm 2005 chiếm 305 ( trong đó: EU từ 21% tăng lên 23%, Nga từ 2% tăng lên 3%). Thị trường Châu Mỹ (nhất là Hoa Kỳ) là thị trường tiêu thụ trực tiếp, với dân số gần 800 triệu người, chiếm 22% kim ngạch buôn bán thế giới (trong đó Bắc Mỹ chiếm 16%) và đang có xu hướng tăng lên; giá xuất khẩu sang đây cũng thường cao hơn các thị trường khác; nhu cầu đa dạng nhưng không đòi hỏi chất lượng hàng hoá khắt khe như thị trường EU. Định hướng tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ năm 2001 chiếm 75, đến năm 2005 sẽ chiếm 10,5% ( trong đó Hoa Kỳ từ 6% lên 9%). 4.3. Định hướng phát triển thị trường Tây Nam á - Châu Phi Dự kiến xuất khẩu vào thị trường Tây Nam á - Châu Phi tăng bình quân 25,8%/năm, đạt khoảng 1000-1500 triệu USD/năm; năm 2001 chiếm tỷ trọng 4%, đến năm 2005 chiếm 6%. Một số thị trường chủ yếu: Irăc đạt từ 300-500 triệu USD/năm, Iran đạt từ 150-200 triệu USD/năm, ấn Độ từ 50-100 triệu USD/năm, các Tiểu Vương Quốc ả Rập Thống Nhất từ 50-100 triệu USD/năm, Thổ Nhĩ Kỳ từ 50-100 triệu USD/năm. III. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong 2 năm 2001-2002 1. Năm 2001 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt 17,5 tỷ USD, bằng 90,4% kế hoạch, tăng 5,1% so với năm 2000, trong đó: Xuất khẩu hàng hoá đạt 15,1 tỷ USD, bằng 90,1% kế hoạch, tăng khoảng 4,5% so với năm 2000. trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8,352 tỷ USD, bằng 89,2% kế hoạch, tăng 9,2% và của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,748 tỷ USD, bằng 91,2% kế hoạch, giảm 0,9% so với năm 2000. Xuất khẩu dịch vụ đạt 2,4 tỷ USD, bằng 92,3% kế hoạch, tăng khoảng 9,1% so với năm 2000. Năm 2001 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá không đạt chỉ tiêu theo kế hoạch đề ra. Tốc độ xuất khẩu năm 2001 đạt 4,5%. Giá cả của nhiều hàng hoá trên thị trường thế giới giảm mạnh làm cho giá xuất khẩu của ta bị giảm như: hạt tiêu giảm 39,3%, cà phê 38%, hạt điều 28,3%, dầu thô 17,5%, gạo 13,7%, giá gia công hàng dệt may giảm bình quân 15-20%, thậm chí có chủng loại giảm tới 30%... nên lượng xuất khẩu tăng nhanh nhưng lại giảm về giá trị hoặc kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng lại tăng chậm hơn lượng hàng xuất khẩu. Cơ cấu hàng xuất khẩu tuy đã được cải thiện: tỷ trọng hàng qua chế biến tăng dần, chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu; tỷ trọng nhóm nguyên liệu thô và sơ chế đã có xu hướng giảm dần nhưng mức giảm chưa đáng kể; tỷ trọng hàng chế tạo nhất lá sản phẩm công nghệ còn rất nhỏ, khả năng cạnh tranh còn thấp, còn ít mặt hàng mới với kim ngạch xuất khẩu lớn. So với yêu cầu của thị trường, sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Đây là một tồn tại hết sức cơ bản tác động đến xuất khẩu nước ta năm 2001 và những năm tiếp theo.\ Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng chậm, nhưng hoạt động xuất khẩu năm 2001 cũng đạt được một số thành tựu đáng lưu ý sau: Xuất khẩu của nhóm hàng hoá ngoài dầu thô là chịu tác động mạnh của cơ chế, chính sách cũng như các giải pháp được đưa ra trong năm 2001, tăng trưởng tới 8,9% so với năm 2000. Đa số các nông sản chủ lực đều được tổ chức tiêu thụ tốt, mức tăng trưởng khá về số lượng. Kim ngạch của nhóm hàng hoá khác có kim ngạch từ 30 triệu USD trở lên như thực phẩm chế biến, hàng cơ khí, đồ gỗ... lại có tốc độ tăng trưởng 27,6%-mức cao nhất từ trước đến nay, tỷ trọng nhóm hàng này trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 21% năm 2000 lên tới 26% năm 2001. Công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường có nhiều tiến bộ. Số lượng các hợp đồng Chính phủ đã tăng lên. Công tác đàm phán để mở rộng thị trường được coi trọng, nhờ vậy thị trường truyền thống tiếp tục được mở rộng và số thị trường mới ngày càng càng tăng. 2. Năm 2002 Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16.530 triệu USD, tăng 10%, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8.761 triệu USD tăng 6,5%, của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7.769 triệu USD, tăng 4,3%. Về khối lượng hàng hoá xuất khẩu: cả năm, tăng 11,6% (góp phần tăng 1.476 triệu USD), trong đó 5 tháng đầu năm xấp xỉ cùng kỳ, nhiều mặt hàng giảm sút hoặc tăng chậm, nhưng từ tháng 6 tăng nhanh như: thuỷ sản, cao su, hạt tiêu, nhân điều, chè... Tốc độ xuất khẩu hàng hoá năm 2002 tăng 10%. Tốc độ xuất khẩu năm 2002 tăng 2,2 lần so với năm 2001 (4,5%). Nếu không kể dầu thô thì xuất khẩu hàng hoá tăng 11,8%, đạt mục tiêu do Quốc hội đề ra. Về giá xuất khẩu: cả năm, giảm 1,4% (làm giảm 243 triệu USD), một số mặt hàng giảm giá đáng lưu ý là: gạo, rau quả, hạt tiêu, điều nhân, linh kiện điện tử và máy tính. Cơ cấu hàng xuất khẩu: tỷ trọng nhóm hàng chủ yếu tăng dần, nhóm hàng khác giảm dần, cụ thể là: nhóm hàng chủ yếu 6 tháng đầu năm chiếm 75% tổng kim ngạch, tốc độ tăng trưởng giảm 5% so với cùng kỳ năm 2001; cả năm chiếm 77%, tốc độ tăng trưởng tăng 13,1%. Về thị trường: cơ cấu thị trường cũng chuyển dịch theo hướng tích cực; so với năm 2001, tỷ trọng của thị trường Châu Mỹ tăng từ 9,7% lên 95,9%, trong đó Hoa Kỳ tăng từ 7% lên 14%; Châu Đại Dương tăng từ 7,2% lên 8,1%; Châu Âu ổn định, giữ nguyên tỷ trọng; Châu á giảm từ 58,4% xuống 51,9%, Châu Phi giảm từ 1,2% xuống 0,8%. Các tháng cuối năm tăng nhanh xuất khẩu vào: Hoa Kỳ, EU, Hàn Quốc, Irắc...Một số thị trường 6 tháng đầu năm giảm mạnh, nhưng 6 tháng cuối năm đã tăng khá như: Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore... Các mặt hàng chủ lực: Gạo: Xuất khẩu gạo năm 2002 đạt 3.241 ngàn tấn, đạt 726 triệu USD, bằng 86,9% về lượng và tăng 16,1% về trị giá. Xuất khẩu gạo vào so thị trường chủ yếu, trong đó: khu vực Trung Đông chiếm gần 30% (năm 2001 chiếm 14%), khu vực Châu Phi chiếm 10% (năm 2001 chiếm 25%), các khu vực còn lại tỷ trọng tương đối ổn định so với 2001. Xuất khẩu gạo giảm 13% về lượng và tăng 33,6% về giá, có khoảng 70% khối lượng xuất khẩu thông qua các hợp đồng Chính Phủ. Có nhiều thời điểm ta không đủ hàng xuất khẩu, do giá trong nước cao so với giá xuất khẩu. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu đã được nâng lên, vì vậy những tháng cuối năm giá xuất của ta tương đương với Thái Lan. Gạo loại chất lượng cao khoảng 7% (năm 2001 chiếm 40%), loại chất lượng trung bình chiếm khoảng 85% (năm 2001 chiếm 15%), loại chất lượng thấp và loại khác chiếm khoảng 8% (năm 2001 chiếm 45%). Thuỷ sản: Xuất khẩu thuỷ sản năm 2002 đạt 2.024 triệu USD, tăng 13,8% và bằng 96,4% kế hoạch năm. Xuất khẩu thuỷ sản vào 37 thị trường chủ yếu. Đang có sự chuyển dịch từ Trung Quốc, EU sang Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đài Loan. Hiện nay Việt Nam là một trong bốn nước hàng đầu xuất tôm và mực vào Nhật Bản. Xuất khẩu tương đổi ổn định, bình quân mỗi tháng đạt khoảng 170 triệu USD, tăng 13%. Cơ cấu hàng hoá: tôm đông lạnh chiếm 46%, các loại khác chiếm 54%. Giá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản và Trung Quốc tăng 4-5%, còn các thị trường khác ổn định. Năm 2002 Việt Nam có 68 doanh nghiệp được xếp vào danh sách loại I xuất khẩu vào EU, có 105 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Cao su: Xuất khẩu cao su năm 2002 đạt 444 ngàn tấn, đạt 263 triệu USD, tăng 44,2% về lượng và 58,6% về trị giá. Xuất khẩu cao su sang 34 thị trường chủ yếu: 10 thị trường có tỷ trọng lớn nhất là: Trung Quốc 32,9%, Singapore 14,3%, Đài loan 5,9%, Malaysia 5,8%, Hàn Quốc 5,4%, Nhật Bản 3,9%, Đức 3,7%, Hoa Kỳ 3,5%, Hồng Kông 3,2%, Tây Ban Nha 2%. Cả 10 thị trường này đều tăng trưởng so với năm 2001, nhất là Hoa Kỳ, Hồng Kông, Malaysia, Nhật Bản, Singapore. Giá xuất khẩu so với năm 2001 tăng 10%, tương đương 23 USD/tấn. Kể từ 20/11/2002, phụ thu xuất khẩu mủ cao su là 10% (tăng 4%). Cà Phê: Xuất khẩu cà phê năm 2002 đạt 710 ngàn tấn, đạt 315 triệu USD, bằng 76,3% về lượng và 86,3% về trị giá. Xuất khẩu cà phê vào 35 thị trường chủ yếu. Cơ cấu thị trường tương đối ổn định. Trong 12 thị trường có tỷ trọng lớn nhất (có tỷ trọng từ 3,3% đến 15%) có 9 thị trường giảm là: Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Anh, Thụy Sỹ, Hà Lan và 3 thị trường tăng là: Ba Lan, Philipin, Italia. Giá xuất khẩu không ổn định, bình quân 10 tháng đầu năm đạt 414,5 USD/tấn, các tháng cuối năm giá khoảng 500-600 USD /tấn, tăng khoảng 80-100 USD/ tấn. Khối lượng xuất khẩu cà phê tăng chậm chủ yếu do nông dân găm hàng chờ giá lên, doanh nghiệp thiếu vốn mua gom để dự trữ, cộng với tâm lý nông dân nợ tiền doanh nghiệp, nếu bán hàng sợ bị doanh nghiệp trừ nợ. Hạt tiêu: Năm 2002 xuất khẩu hạt tiêu đạt 77 ngàn tấn, đạt 108 triệu USD, tăng 35,4% về lượng và 18,45 về trị giá. Xuất khẩu hạt tiêu vào 32 thị trường chủ yếu, 4 thị trường có tỷ trọng lớn nhất là: Hoa Kỳ 15,3%, Hà Lan 13,5%, Singpore 10,2%, Đức6,9%. Thị trường đang có sự chuyển dịch từ Singapore, Các tiểu vương quốc ả Rập thống nhất, Trung Quốc...sang Hoa Kỳ, Hà Lan, LB Nga. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ 2 về sản lượng và đứng đầu thế giới về khối lượng xuất khẩu. Giá xuất khẩu thấp hơn các nước khác 20-30%. 70% khối lượng phải xuất qua nước thứ 3. Dầu thô: Xuất khẩu dầu thô năm 2002 đạt 16,872 triệu tấn, đạt 3,270 tỷ USD, tăng 0,8% về lượng và 4,6% về trị giá. Dầu thô được xuất sang 9 thị trường chủ yếu. Tăng xuất khẩu vào Ôxtrâylia, Malaysia, Trung Quốc; giảm xuất khẩu vào Nhật Bản, Hoa Kỳ, Inđonêsia, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore. Giá xuất khẩu biến động liên tục. Bình quân năm 2002 đạt khoảng 193,8 USD/tấn (25,8u/thùng), so với năm 2001 tăng 7 USD/tấn (0,93 USD/thùng). Giày dép: Xuất khẩu giày dép năm 2002 đạt 1.828 triệu USD, tăng 17,2% và bằng 96,2% kế hoạch năm. Xuất khẩu giày dép sang 154 thị trường, trong đó 39 thị trường chủ yếu. Đang có sự chuyển dịch từ Bỉ, Nhật Bản, Đài Loan sang Anh, Đức, Hoa Kỳ, Hà Lan, Italia...EU vẫn là thị trường chủ yếu ( chiếm khoảng 80%) đang có xu hướng tăng cả về khối lượng và giá trị. 5 thị trường có tỷ trọng lớn nhất đều tăng trưởng nhanh là: Anh chiếm 17,4% (tăng 29,4%), Đức chiếm 13,3% (tăng 21,7%), Hoa Kỳ chiếm 10,8% (tăng 75,7%), Hà Lan chiếm 9,8% (tăng 20,9%). Một số thị trường có tỷ trọng nhỏ nhưng tăng trưởng nhanh là: Mexico chiếm 1,7% (tăng 59%), Canada chiếm 1,6% (tăng 46,8%), Hy Lạp chiếm 1% (tăng 94%)... Có 464 đơn vị tham gia xuất khẩu. Hàng dệt may: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2002 đạt 2.710 triệu USD, tăng 37,2% và bằng 112,9% kế hoạch năm. Xuất khẩu vào 42 thị trường chủ yếu, đang có sự chuyển dịch từ EU, Nhật Bản sang Hoa Kỳ, Nga, Canada. Thị trường Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu lớn, đang mở rộng buôn bán với Việt Nam (cả năm khoảng 900 triệu USD). Hàng gia công chiếm khoảng 80% với nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Những tháng cuối năm 2002 giá xuất khẩu và gia công may mặc tăng khoảng 10-20% so với các tháng đầu năm. Các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu từng bước áp dụng các tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, ISA 8000. Tổ chức liên kết giữa các công ty dệt may Trung ương và địa phương trong việc thực hiện các đơn hàng lớn, Hàng thủ công mỹ nghệ: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2002 đạt 328 triệu USD, tăng 39,5% và bằng131,2% kế hoạch năm. Xuất khẩu vào 38 thị trường chủ yếu, trong đó có 23 thị trường kim ngạch tăng trưởng trên 20%. Cơ cấu thị trường nhìn chung ổn định. Có 10 thị trường tỷ trọng lớn nhất là: Pháp (15,4%), Nhật Bản (13,2%), Hoa Kỳ(9,7%), Đức (8,2%), Hồng Kông (6,7%), Anh (5,9%), Đài Loan (5,7%), Hà Lan (4,3%), Ôxtralia (3,9%), Hàn Quốc (3,7%), Tây Ban Nha (2,3%). Nhiều thị trường, nhất là Nhật Bản đánh giá mẫu mã, mã hàng của ta phong phú, đa dạng, tinh xảo hơn hàng Trung Quốc, đáp ứng được yêu cầu của tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp ký được các hợp đồng xuất khẩu dài han (nếu tổ chức tốt công tác xúc tiến thị trường thì tăng trưởng có thể còn cao hơn). Các doanh nghiệp mong muốn các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà nước mở nhiều gian hàng ở nước ngoài, giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam và cung cấp thông tin thị trường ngoài nước cho các doanh nghiệp. 3.Nhiệm vụ các năm 2003-2005 Tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 71.134 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 16%. Trong đó: Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn trong nước ước đạt 50.959 triệu USD với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 14%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 19.975 triệu USD với tốc độ tăng trưởng bình quân là 21,8%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực: Gạo: Dự kiến xuất khẩu gạo các năm 2003-2005 đạt 15.000 ngàn tấn, về trị giá đạt 3750 triệu USD. Gạo có sự chuyển dịch từ Singapore, Philipin, Malaysia sang Inđônêsia, Irắc. Cà phê: Dự kiến xuất khẩu cà phê đạt 1825 ngàn tấn, về trị giá đạt 2190 triệu USD. Nhân điều: Dự kiến xuất khẩu nhân điều đạt 88 ngàn tấn, về trị giá đạt 439 triệu USD. Cao su: Dự kiến xuất khẩu cao su đạt 1145 ngàn tấn, về trị giá đạt 916 triệu USD. Chè : Dự kiến xuất khẩu chè đạt 156 ngàn tấn, về trị giá đạt 218 triệu USD. Hạt tiêu: Dự kiến xuất khẩu hạt tiêu đạt 175 ngàn tấn, về trị giá đạt 615 triệu USD. Hạt tiêu có sự chuyển dịch từ Singapore, Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất, Trung Quốc sang Hoa Kỳ, Hà Lan, LB Nga. Thuỷ hải sản: Dự kiến xuất khẩu thuỷ hải sản đạt 5350 triệu USD. Hàng dệt may: Dự kiến xuất khẩu hàng dệt may đạt 10.475 triệu USD. Xuất khẩu hàng dệt may có sự chuyển dịch từ EU, Nhật Bản sang Hoa Kỳ, Nga, Canada. Giày dép: Dự kiến xuất khẩu giày dép đạt 8024 triệu USD. Xuất khẩu giày dép có sự chuyển dịch từ Pháp, Bỉ sang Đức, Hoa Kỳ. Hàng thủ công mỹ nghệ: Dự kiến xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 1246 triệu USD. Dầu thô: Dự kiến xuất khẩu dầu thô đạt 36000 ngàn tấn, về trị giá đạt 54.000 triệu USD. Hàng điện tử và linh kiện máy tính: Dự kiến xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính đạt 5941 triệu USD. IV. Những giải pháp nhằm thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005 1. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách xuất khẩu 1.1.Mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu theo hướng đa phương hoá thị trường, tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có, đẩy mạnh việc xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng tỷ trọng hiện còn thấp (EU, Bắc Mỹ) mở các thị trường mới (Mỹ Latinh, Châu Phi). Xác định các ưu thế cạnh tranh tương đối để tập trung đầu tư vào các mặt hàng có ưu thế nhất, tránh đầu tư tản mạn, hiệu quả thấp. Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để tránh những khu vực thị trường mặt hàng khó cạnh tranh hay chưa có khả năng cạnh tranh. Tìm hiểu các chính sách nhập khẩu và thuế quan của thị trường trọng điểm để tìm các cánh cửa mới cho hàng xuất khẩu . Phát huy những ưu thế cạnh tranh tương đối của nước ta như: . Nguồn tài nguyên thiên nhiên: yếu tố sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ. . Lực lượng lao động: yếu tố giá thành lao động. . Vị trí địa lý: yếu tố ảnh hưởng lớn đến điều kiện và chi phí vận tải. . Điều kiện thời tiết, khí hậu: yếu tố làm nên đặc tính riêng của sản phẩm. Muốn mở rộng và phát triển thị trường thì cần năng cao hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh. Sự hạn chế thông tin về các đối thủ cạnh tranh thường dẫn tới những hạn chế và làm cho ưu thế cạnh tranh trở nên không bền vững. Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ mạnh hơn và tìm ra các thị trường riêng của mình, điều này hoàn toàn đúng ở hai cấp độ quốc gia và công ty. 1.2. Thúc đẩy việc đầu tư mới và đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh hàng Việt Nam sản xuất trên thị trường thế giới. 1.3.Tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến từ 60/40 hiện nay lên 75/25 vào khoảng thời gian 5 năm 2005. 1.4. Hoàn thiện chính sách đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, và khu công nghệ cao để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước khai thác sản xuất, kinh doanh xuất khẩu. 1.5. Triển khai tổ chức thực hiện tốt Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy sớm việc thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu để giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu. 1.6. Tiếp tục đổi mới và cải cách thủ tục hành chính trong quản lý xuất khẩu nhất là thủ tục hải quan, áp dụng công nghệ thông tin vào việc kê khai hàng hoá tính thuế xuất khẩu. 2. Hình thành đồng bộ khung khổ pháp luật tạo môi trường kinh doanh bình đẳng nhằm khuyến khích cạnh tranh lành mạnh Trước hết, cần sớm ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền. Những năm qua, thực hiện chính sách mở cửa trong nền kinh tế Việt Nam đã có mặt nhiều công ty nước ngoài có tiềm lực mạnh về công nghệ và già dặn về thủ thuật kinh doanh, không ít công ty đã dùng các thủ đoạn thôn tính các doanh nghiệp trong nước như ngành giải khát, hoá mỹ phẩm. Mặt khác, hiện tượng bán phá giá hàng củaTrung Quốc vào nước ta, buôn lậu qua biên giới, gian lận thương mại đã làm cho một số ngành sản xuất trong nước bị phá sản. Nhiều ngành sản xuất của nước ta như ngành cơ khí, nếu được bảo vệ tôt, chắc chắn hiện nay đã có nhiều mặt hàng có khả năng không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước. Hệ thống luật pháp của nước ta hiện nay có nhiều luật khác nhau để điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp như Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Các luật này đã có nhiều quy định xích lại gần nhau, nhưng vẫn tồn tại những ranh giới làm cho môi trường kinh doanh kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước; trong lĩnh vực xuất khẩu vẫn còn nhiều đặc quyền dành cho khối doanh nghiệp nhà nước. 3. Cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến sâu, phát triển sản xuất tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch lớn Chú trọng phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: gạo, rau quả, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thuỷ hải sản, dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô, than đá, điện tử và linh kiện máy tính, hàng cơ khí...; trong đó có những mặt hàng đạt kim ngạch xấp xỉ 1 tỷ USD trở lên như: gạo, cà phê, thuỷ sản, dệt may, giày dép, dầu thô, điện tử và linh kiện máy tính. 4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới . Xây dựng và nâng cao uy tín sản phẩm quốc gia. . Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại. . Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài. . Thành lập Quỹ hỗ trơ xúc tiến thương mại. . Tổ chức các trung tâm xúc tiến thương mại trong nước. . Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh thương mại. . Tổ chức cung cấp thông tin thị trường phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. . Tạo điều kiện thuận lợi về sự lãnh đạo cho thương nhân nước ngoài. . Tăng cường quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại. . Đầu tư cho công nghệ cao, công nghệ mới để tăng năng suất, nâng cao thu nhập cho người lao động, đảm bảo hạ giá thành, khấu hao nhanh. . Đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới. Ngày nay, sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao, có giá trị cao gấp bội lần so với sản phẩm lao động giản đơn. Do đó, muốn tạo ra giá trị xuất khẩu cao, phải kịp thời đào tạo và bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động để đáp ứng yêu cầu công nghệ hiện đại. 5. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách, cơ chế, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phát triển sản xuất và xuất khẩu Đầu tư nước ngoài đóng vai trò chủ đạo trong 3 mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam là dầu thô (100% kim ngạch), điện tử và linh kiện máy tính (gần 100% kim ngạch) và giày dép (55% kim ngạch). 5.1. Mở rộng thêm mặt hàng mà doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được phép mua để xuất khẩu (chẳng hạn như cà phê) 5.2. Tạo thống nhất và bình đẳng về pháp lý thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi như nhau đối với một số biện pháp tài chính đang áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam như: .Thưởng khuyến khích xuất khẩu đối với doanh nghiệp FDI như đối với các doanh nghiệp Việt Nam. . Doanh nghiệp FDI được hưởng trợ giúp xuất khẩu như đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 5.3. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính để giảm chi phí hoạt động của các doanh nghiệp FDI, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. . Bãi bỏ việc duyệt kế hoạch nhập khẩu phụ tùng thay thế, vật tư tiêu hao trong sản xuất hàng năm của doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp được trực tiếp làm việc với cơ quan hải quan để nhập khẩu phụ tùng thay thế cho sản xuất của chính họ. . Bãi bỏ việc duyệt kế hoạch nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu (tự do như đối với gia công hàng hoá) . Quy định thủ tục xuất khẩu tại chỗ đơn giản hơn nữa đối với các công trình mà nhà thầu nước ngoài trúng thầu nhưng sử dụng hàng sản xuất trong nước; khuyến khích nhà thầu nước ngoài sử dụng hàng hoá Việt Nam để giảm chi phí. 5.4. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các cơ quan được Bộ Thương mại uỷ quyền. Nâng cao và tiêu chuẩn hoá trình độ cán bộ của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài trong các liên doanh. Cần xây dựng tiều chuyển hoá cho cán bộ quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, đặc biệt là ở các cơ quan địa phương; cần quy định đào tạo tại chức bắt buộc về nghiệp vụ, luật pháp đối với cán bộ đương nhiêm chưa đủ tiêu chuẩn nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về luật pháp, chính sách, nghiệp vụ và trách nhiệm trong việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Bộ thương mại mở rộng một số lớp tập huấn ngắn hạn tại chỗ hoặc tập trung để hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao nhận thức và áp dụng cơ quan được Bộ Thương mại uỷ quyền. 6. Xây dựng chương trình phát triển xúc tiến Thương mại Bộ thương mại phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng chương trình triển khai kế hoạch xúc tiến Thương mại thời kỳ 2001-2005, đề ra nhiệm vụ cho cơ quan quản lý Nhà nước các cấp đối với ngành hàng và doanh nghiệp kinh doanh. Tổ chức tốt việc thu nhập và phân tích thông tin về thị trường trong nước và thế giới, phổ biến qua mạng điện tử, qua các hiệp hội. Tăng cường quản lý Nhà nước về xúc tiến Thương mại: Tiếp tục hoàn thiện Luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý đối với hoạt động xúc tiến Thương mại. Thành lập cục xúc tiến Thương mại trực thuộc Bộ Thương mại để thực hiện việc quản lý Nhà nước về xúc tiến Thương mại, đồng thời tiến hành các hoạt động xúc tiến Thương mại của Nhà nước. Kết luận T rong nền kinh tế toàn cầu hoá, khi mà thương mại của mỗi quốc gia hoà nhập vào thương mại khu vực và thương mại thế giới thì đẩy mạnh xuất khẩu thông qua xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ nói chung, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng là chiếc phong vũ biểu phản ánh trình độ phát triển, thương mại quốc tế của một đất nước cũng như đánh giá sự đúng đắn hoặc sai sót của các chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước với sự nỗ lực của các doanh nghiệp một cách nhanh nhạy nhất. Trong việc tìm lối ra cho hoạt động xuất khẩu, vấn đề quan trọng là xác định rõ nguyên nhân của thực trạng để từ đó có quyết định xử lý đúng đắn. Do vậy, thông qua những nội dung đã trình bày, đề tài đã xác định được các nhiệm vụ sau: Khái quát và phân tích có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu các mặt hàng chủ lực; nêu ra vai trò của xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đối với phát triển nền kinh tế Việt Nam cũng như sự cần thiết và nội dung của kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực. Nghiên cứu, phân tích và làm rõ thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam và rút ra nhận xét từ thực trạng đó. Nêu rõ phương hướng, mục tiêu phát triển của kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2005, dự báo các chỉ tiêu chủ lực và đề ra giải pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thời kỳ 2001-2005. Để hoàn thành bài viết này là một sự cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo cùng các cô, bác, anh chị trong Vụ Kế hoạch Thống Kê-Bộ Thương mại. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình: “Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội” – Nhà xuất bản Thống kê. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – NXB Chính trị quốc gia. Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam số 12/2001. Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam số 6/2000. Tạp chí kinh tế và dự báo số 4/2001. Giáo trình: “kinh tế quốc tế”-Nhà xuất bản Thống kê.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28764.doc
Tài liệu liên quan