Thực tế đã chứng minh vai trò của KTNQD là không thể phủ nhận, đặc biệt trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Sự phát triển của khu vực kinh tế này góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung và của hệ thống NHTM nói riêng. Đồng thời các NHTM cũng đóng góp một vai trò rất lớn vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Trong tương lai khu vực KTNQD sẽ là thị trường đầy tiềm năng mà NH cần phải khai thác. Mở rộng hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh vừa là nhiệm vụ vừa là quyền lợi của NH cũng như là xu thế tất yếu của kinh tế thị trường. Trong những năm gần đây, SGDI với vai trò trung gian dẫn vốn đã mặn mà hơn đối với cho vay ngoài quốc doanh song dư nợ vẫn còn hạn chế, một phần do các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước và của ngành NH còn nhiều bất cập, bản thân SGDI vẫn còn rất e dè khi cho vay.
Từ việc phân tích tình hình thực tế hoạt động cho vay KTNQD tại SGDI - NHCTVN, Khoá luận đã tập trung giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
1. Khoá luận đã tổng hợp những cơ sở luận về TD NH và mở rộng TD NH đối với việc phát triển khu vực KTNQD từ đó làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan của vấn đề mở rộng TD của SGDI đối với khu vực KTNQD. Khoá luận đã tổng kết những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để từ đó rút ra mhững bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong quá trình mở rộng TD đối với khu vực KTNQD ở Việt Nam.
2. Khoá luận đã phân tích thực trạng về KTNQD ở Việt Nam cũng như thực trạng tín dụng đối với khu vực KTNQD tại SGDI - NHCTVN, chỉ ra những kết quả, tồn tại cùng nguyên nhân của tồn tại. Việc khắc phục những nguyên nhân đó sẽ cho phép SGDI hạn chế những tồn tại để tiếp tục mở rộng tín dụng nói chung cũng như đối với khu vực KTNQD nói riêng.
3. Trên cơ sở phân tích thực trạng để khắc phục những tồn tại, bản Khoá luận đã đưa ra được các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng TD của SGDI đối với sự phát triển KTNQD.
Với kết quả của bản Khoá luận này bản thân em hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết những khó khăn của thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất phức tạp và rộng lớn, trong khi đó thời gian thực tập cũng như khả năng nhận thức, khả năng tìm hiểu thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định vì vậy bản Khoá luận này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô và cơ quan thực tế cùng với bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn NCS. Nguyễn Thị Thanh Sơn, người hướng dẫn thực hiện cùng các cán bộ của SGDI - NHCTVN đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện trong thời gian thực tập để hoàn thành bản Khoá luận này.
89 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t: Năm 2002 doanh số cho vay trung, dài hạn đạt 98,28 tỷ đồng (với số tương đối là 26%) thì bước sang năm 2003 con số đó đã lên tới 171,5 tỷ đồng (35%).
Nợ quá hạn khu vực KTNQD năm 2003 giảm hơn so với các năm trước, khối lượng cho vay đối với thành phần kinh tế này ngày một tăng lên. Như vậy, bằng việc cấp TD cho khu vực KTNQD, SGDI đã gián tiếp tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội. Mặc dù số DNNQD có quan hệ TD với SGDI còn ít nhưng đó đều là những DN làm ăn có hiệu quả, luôn bảo đảm trả nợ đúng hạn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác TD NH.
SGDI đạt được kết quả như vậy là do:
Trong quan hệ TD với khách hàng là các DNNQD, SGDI đã giải quyết cho vay nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn tôn trọng đầy đủ nguyên tắc TD, đặc biệt chú ý đến việc an toàn và hiệu quả vốn TD. Đặc biệt, Ban lãnh đạo SGDI thường xuyên nắm bắt chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, xu hướng phát triển của nền kinh tế, kịp thời đưa ra sách lược phù hợp cho từng thời kỳ.
Tập trung lực lượng thực hiện tốt chiến lược kinh doanh và chính sách khách hàng thống nhất. Đối với khách hàng có uy tín, vay với khối lượng lớn thì SGDI có chính sách ưu đãi để tăng sức cạnh tranh với các TCTD khác nhằm thu hút khách hàng.
Thêm vào đó SGDI luôn chú trọng dến công tác thẩm định trước khi cho vay và làm công tác kiểm tra sau khi cho vay, từ đó phân loại khách hàng nhằm có chính sách phù hợp đáp ứng hiệu quả kinh doanh.
Một nguyên nhân không thể bỏ qua đó là công tác tổ chức và đào tạo đội ngũ cán bộ của SGDI. Đội ngũ cán bộ của Sở phần lớn là những nhân viên trẻ, năng động, sáng tạo, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, nhiệt tình với công việc, không ngừng học hỏi kinh nghiệm. Ngoài ra, Đảng uỷ, Ban Giám đốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên hoạt động đều tay, cùng tập thể cán bộ nhân viên đoàn kết thống nhất, quyết tâm xây dựng ngôi nhà chung ngày càng an khang thịnh vượng.
Hoạt động cho vay DNNQD của SGDI thuận lợi hơn nhờ các DNNQD cũng đang tự thay đổi theo hướng tích cực. Những khó khăn do cơ chế, chính sách đang được tháo gỡ dần khi các luật định đang được từng bước hoàn thiện và gần gũi hơn với thực tế. Chính phủ cũng đã có những biện pháp cụ thể nhằm cải thiện môi trường kinh doanh như cho ra đời Luật DN mới, khuyến khích thành lập DNNQD để phát triển kinh tế đất nước... Điều này đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho cả phía NH và khách hàng.
2.2.3.2. Những hạn chế và tồn tại trong cho vay khu vực KTNQD tại SGDI.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu phân tích thực trạng TD đối với thành phần KTNQD tại SGDI - NHCTVN trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả mà SGDI đã đạt được vẫn còn một số hạn chế trong công tác cho vay đối với khu vực KTNQD:
SGDI chưa thực hiện được kế hoạch mở rộng TD đối với khu vực KTNQD do còn có nhiều khó khăn vướng mắc, đặc biệt là tài sản đảm bảo tiền vay nên thời gian qua SGDI chỉ tập trung vào một số DN có uy tín, làm ăn có hiệu quả. Mặt khác, chính sách lãi suất mà SGDI đang áp dụng cũng có sự phân biệt đối với KTQD và KTNQD. Mặc dù trong thời gian gần đây lãi suất cho vay của SGDI đối với khu vực KTNQD tuy đã giảm xuống song nhìn chung vẫn còn cao hơn lãi suất cho vay đối với khu vực KTQD.
Năng lực cán bộ không đồng đều, vẫn còn một số cán bộ công nhân viên còn bị động, lúng túng trong quá trình xem xét cho vay các DNNQD, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và chưa biết gợi mở nhu cầu cho khách hàng.
Công tác thẩm định của cán bộ TD còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc quyết định cho vay hay không cho vay đối với khách hàng dựa nhiều vào công tác thẩm định của cán bộ TD. Việc tuân thủ quy trình thẩm định đồng thời vừa cắt giảm được những thủ tục rườm rà không cần thiết lại vừa đảm bảo đúng và chặt chẽ về quy trình cho vay. Tuy nhiên, việc thẩm định gặp rất nhiều khó khăn bởi các DNNQD hay các hộ kinh doanh nhỏ chỉ quan tâm đến việc làm sao để tối đa hoá lợi nhuận còn chế độ kế toán tài chính thường không đúng quy định, có trường hợp gian lận nhằm vay được vốn NH và để trốn thuế. Chính vì vậy, khi cho vay SGDI rất khó đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính cũng như mục đích sử dụng vốn vay... của khách hàng này và không dám mạo hiểm cấp TD cho họ, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn.
Khối lượng cho vay đối với thành phần KTNQD thấp, quy mô còn nhỏ bé. Trong những năm qua, số lượng khách hàng thuộc thành phần KTNQD có quan hệ TD với SGDI tăng lên đáng kể. Nhưng trên thực tế, khối lượng cho vay vẫn còn thấp, quy mô nhỏ bé, chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh số cho vay của SGDI, trong đó SGDI hầu hết tập trung vào các khoản TD ngắn hạn. Điều này đã làm cho thu nhập của SGDI giảm đi do lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn lãi suất cho vay dài hạn... Như vậy SGDI chưa thể đáp ứng được nhu cầu của các DN về mở rộng sản xuất, kinh doanh... Đây cũng là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận của SGDI và kìm hãm sự phát triển của các DNNQD trong quá trình hội nhập.
Ngoài ra, tình trạng yếu kém về vốn tự có của các DN hiện nay là khá phổ biến, gây khó khăn trong việc đổi mới thiết bị công nghệ, sản phẩm làm ra khó cạnh tranh trên thị trường. Sự hạn chế về vốn này đã gây khó khăn cho SGDI khi cho vay các dự án. Mặt khác tình hình tài chính của DNNQD chưa phản ánh đầy đủ trên sổ sách kế toán, do vậy công tác kiểm tra kiểm soát gặp nhiều khó khăn, có DN tình hình tài chính qua sổ sách chưa phản ánh hết thực trạng của đơn vị như công nợ, nguồn vốn..., cộng thêm trình độ quản lý còn bất cập nên việc đầu tư vào các DN này khiến SGDI phải thận trọng.
Về thực trạng xử lý tài sản thế chấp của NH. Tài sản thế chấp là điều kiện bắt buộc hàng đầu khi quyết định cho vay, coi nó là vật thay thế khoản vay đến hạn không trả được. Các DNNQD, đặc biệt là DN mới thành lập thì đôi khi tài sản thế chấp lại không có hoặc có nhưng các giấy tờ hợp pháp về quyền sở hữu lại mập mờ, khó xác định, hơn nữa đôi khi tài sản thế chấp cũng còn có nhiều rủi ro. Bên cạnh đó các đơn vị KTNQD còn chưa có những dự án khả thi thuyết phục SGDI cho vay. Như vậy, cho vay đối với thành phần KTNQD thường chứa đựng nhiều rủi ro nhưng luật pháp lại chưa có quy định cụ thể để bảo vệ NH khi xử lý phát mại tài sản thế chấp. Ngoài ra, việc phát mại thế chấp để thu hồi nợ phải tiến hành qua nhiều bước gây tốn kém, mất thời gian.
Trong nhiều trường hợp, khi SGDI cho vay vốn với hình thức có đảm bảo bằng tài sản, đến khi khách hàng không có khả năng trả được nợ thì tài sản đã cầm cố thế chấp không thể phát mại được để thu hồi vốn cho SGDI hoặc do sự biến động của thị trường mà những tài sản đó được phát mại (đặc biệt là bất động sản) có sự chênh lệch lớn về giá, có thể làm cho SGDI không thu hồi đủ vốn so với khoản vốn vay. Một số trường hợp có thể do hao mòn vô hình của tài sản đem thế chấp mà đến khi phát mại đã làm giá trị của nó giảm đi so với ban đầu cũng là một trong những nguyên nhân làm thất thu vốn. Chính vì vậy SGDI cũng phải có các biện pháp hạn chế cho vay đối với khu vực KTNQD.
Ngoài ra còn phải kể đến những hạn chế về chính sách của Nhà nước. Nhiều cơ chế chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, việc hướng dẫn thực hiện luật, pháp luật mới về cơ chế chính sách còn chưa kịp thời. Một số văn bản luật của Nhà nước và của Ngành còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho NH trong việc áp dụng luật vào thực tế.
Tóm lại ta thấy trong những năm gần đây, sự đổi mới hoạt động của SGDI - NHCTVN đã mang lại kết quả hoạt động kinh doanh tốt như nguồn vốn huy động cao, dư nợ tăng trưởng liên tục, lợi nhuận ngày một tăng. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau SGDI dường như vẫn còn e dè trong việc mở rộng TD đối với khu vực KTNQD và chỉ tập trung vào các khoản TD ngắn hạn. Điều này làm giảm đi một phần thu nhập cho SGDI và làm ảnh hưởng đến quá trình hội nhập, phát triển của khu vực KTNQD.
Chương 3
giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế Ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN.
3.1 Định hướng TD NH đối với việc phát triển KTNQD tại SGDI.
Phát huy những thành tựu đã đạt được và bài học kinh nghiệm của 15 năm xây dựng và phát triển, với vị thế đặc biệt quan trọng trong hệ thống NHCTVN (chiếm 19% tài sản có của NHCTVN), Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên SGDI nhận thức sâu sắc niềm vinh dự và trách nhiệm lớn lao của mình, quyết tâm xây dựng SGDI trở thành một chi nhánh NHTM hiện đại, có vai trò chủ đạo, chủ lực trong hệ thống NHCTVN, góp phần nâng cao vị thế của NHCTVN trên thị trường trong nước và quốc tế và đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Từ những kết quả hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2003, SGDI - NHCTVN đăng ký các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2004 cụ thể như sau:
- Tập trung mọi nỗ lực để khai thác nguồn vốn, thường xuyên khảo sát, nghiên cứu các hình thức huy động vốn, kỳ hạn, lãi suất của các NHTM trên địa bàn để xây dựng chiến lược huy động vốn có hiệu quả. Tiếp tục duy trì và tăng nguồn vốn huy động từ 5 - 10% so với năm 2003.
- Chấp hành nghiêm túc các quy chế TD hiện hành và chỉ đạo của Ban lãnh đạo trong từng thời kỳ nhằm tăng trưởng TD đối với mọi thành phần kinh tế an toàn, hiệu quả, cho vay phải thu hồi được cả vốn gốc và lãi; tập trung sàng lọc khách hàng, phân tích và đánh giá toàn diện về khách hàng để có giải pháp tổng thể trong hoạt động đầu tư TD.
- Tiếp tục cơ cấu lại dư nợ theo hướng mở rộng thêm các đối tượng cho vay: cho vay tiêu dùng, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ; đẩy mạnh cho vay vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở, khu kinh tế năng động. Tăng cường công tác tiếp thị để thu hút khách hàng mới có dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả để đầu tư vốn.
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 15 - 20%, trong đó dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng 65% trong tổng dư nợ, cho vay ngoài quốc doanh chiếm 45%.
- Nợ quá hạn - nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ đầu tư.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của xu thế hội nhập, với chặng đường mới ẩn chứa nhiều cơ hội và cũng đầy thách thức khó khăn nhưng với truyền thống không ngừng đổi mới và phát triển, SGDI - NHCTVN quyết tâm phấn đấu hoàn thành vượt mức mọi chỉ tiêu kế hoạch đề ra, với phương châm kinh doanh “phát triển bền vững - an toàn - hiệu quả”.
3.2. Giải pháp TD nhằm thúc đẩy phát triển KTNQD tại SGDI.
3.2.1. Giải pháp mở rộng TD đối với khu vực KTNQD.
3.2.1.1. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chiến lược Marketing.
3.2.1.1.a. Hoàn thiện và đổi mới chiến lược khách hàng.
Bất cứ trong lĩnh vực kinh doanh nào, khách hàng là yếu tố quan trọng nhất. Trong tiến trình phát triển của một NHTM thì chiến lược khách hàng phải luôn luôn đồng hành và như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động của một NH.
Nhận thức thì như vậy nhưng thực tế vận dụng lại rất khó. Làm thế nào để có được khách hàng đủ điều kiện vay vốn theo cơ chế tín dụng hiện hành, có tình hình tài chính mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tín nhiệm với NH... trong điều kiện NH hoạt động đan xen, cạnh tranh trong lĩnh vực NH ngày càng mạnh mẽ.
Khách hàng của SGDI - NHCTVN hiện nay chủ yếu là Tổng công ty và công ty 90, 91 có hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính mạnh. Vì khách hàng là nhân tố không thể thiếu đối với bất cứ NH nào. Để phát triển khách hàng hơn nữa SGDI cần thực hiện các hoạt động sau:
- SGDI phải tiến hành đổi mới chính sách khách hàng. Việc đổi mới này nhằm thu hút hơn nữa những khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần TD trên địa bàn thành phố và các vùng lân cận. SGDI cần xây dựng cho mình chính sách khách hàng, chiến lược kinh doanh có định hướng vào KTNQD trong cơ cấu chung của NH; đa dạng hoá đối tượng cho vay; mở rộng hơn nữa trong việc cho vay các Công ty TNHH, Công ty cổ phần, DN tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể vì đây có thể là những khách hàng nhỏ nhưng số lượng ấy ngày càng đông đảo, ngành nghề kinh doanh đa dạng, phong phú; do vậy trong tương lai họ sẽ là những khách hàng tiềm năng mà SGDI cần phải khai thác triệt để, nhằm đưa nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả cho nền kinh tế.
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, xây dựng và quảng bá thương hiệu, uy tín của SGDI cả trong nước và quốc tế để tất cả các khách hàng, mọi người dân biết, hợp tác, hỗ trợ cho sự phát triển đi lên của SGDI. Xây dựng phong cách văn hoá kinh doanh riêng, chú ý giới thiệu chi tiết các dịch vụ cung cấp, những lợi ích mà khách hàng có được khi quan hệ với SGDI.
- Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt quan hệ với khách hàng, áp dụng chính sách lãi suất, dự thưởng... để hấp dẫn, thu hút khách hàng.
Khi có quan hệ TD với khách hàng, cán bộ TD phải hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay vốn để khách hàng có thể hoàn thành bộ hồ sơ một cách nhanh nhất, tiết kiệm được thời gian và công sức, tạo cho khách hàng sự thoải mái, vui vẻ.
Trong quá trình cung cấp TD, SGDI phải giữ mối quan hệ với khách hàng, cùng giải quyết những khó khăn mà khách hàng gặp phải và tiếp tục khai thác những nhu cầu mới để kịp thời đáp ứng.
- Với những khách hàng có quan hệ thường xuyên với SGDI, SGDI có thể cho các đối tượng này vay với lãi suất thấp hơn, nhận tiền gửi của họ với lãi suất cao hơn một chút, tạo điều kiện khi họ vay vốn để duy trì lâu dài mối quan hệ giữa SGDI với khách hàng.
3.2.1.2.b. Cần có chính sách lãi suất linh hoạt đối với KTNQD.
SGDI là chi nhánh trực thuộc NHCTVN, là một trong những đơn vị lớn, có uy tín. SGDI có nguồn vốn tiền gửi thanh toán lớn và ổn định từ các công ty 90, 91 và các DNNN. Trong hoạt động tín dụng của SGDI thì lãi suất luôn được khách hàng quan tâm nhất, vì nó là yếu tố quyết định chi phí, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận giữ lại của dự án vay vốn. Hiện nay, các mức lãi suất mà SGDI đang áp dụng có sự phân biệt giữa KTQD và KTNQD. Điều đó là do KTNQD luôn vay với số lượng nhỏ, chưa đáp ứng được các điều kiện đảm bảo tiền vay của SGDI, rủi ro tiềm ẩn còn rất lớn... Tuy nhiên không phải tất cả các DNNQD đều thể hiện những khó khăn, vướng mắc như trên mà còn có rất nhiều các DNNQD làm ăn thực sự có hiệu quả, chi trả nợ gốc và lãi sòng phẳng cho NH. Thực tế cho thấy không phải DNQD nào cũng làm ăn hơn hẳn các DNNQD, mà các DNQD cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, thành phần KTNQD vẫn chưa được hưởng chính sách lãi suất ngang bằng với KTQD. Rõ ràng điều này là quá thiệt thòi đối với thành phần kinh tế này. Vì vậy để có thể thu hút được khách hàng, đặc biệt là thành phần KTNQD đến vay vốn tại SGDI với mức lãi suất cho vay bình đẳng thì trước hết thành phần kinh tế này phải tự hoàn thiện mình, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu đảm bảo tiền vay, kinh doanh có hiệu quả hơn, đóng góp vào sự phát triển bền vững của SGDI... Lúc đó SGDI cũng nên có mức lãi suất cho vay thống nhất đối với KTQD và KTNQD. Như vậy sẽ áp dụng các mức lãi suất khác nhau phù hợp với tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của từng DN. Bên cạnh đó, căn cứ vào tính chất đặc điểm của từng ngành nghề kinh doanh mà SGDI có thể áp dụng các mức lãi suất khác nhau. Chẳng hạn đối với DN kinh doanh xuất nhập khẩu đang được Nhà nước khuyến khích như thực phẩm, may mặc... SGDI có thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn với cho vay để sản xuất thông thường. Ngoài ra, căn cứ vào mối quan hệ truyền thống, có uy tín, hay vay với các món lớn thì SGDI có thể cho vay với mức lãi suất ưu đãi, khuyến khích và động viên các khách hàng nhằm duy trì mối quan hệ lâu dài.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các NH thì lãi suất là một công cụ để cạnh tranh nhằm thu hút các khách hàng là các DNNQD có số lượng ngày càng tăng. Lãi suất là một yếu tố nhạy cảm mà bất cứ NH nào cũng quan tâm và theo dõi rất chặt chẽ. Tuy nhiên, việc chủ động dùng lãi suất để cạnh tranh chỉ là biện pháp nhất thời trong một thời điểm nào đó và phải tính toán cẩn trọng để không rơi vào tình trạng lợi bất cập hại khi các đối thủ cạnh tranh đưa ra chiến lược.
3.2.1.2. Bổ sung thêm hoạt động tư vấn.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về DN và NH. Hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc việc đánh giá để ra quyết định cho vay của NHTM và của các nhà quản lý. Trung tâm thông tin TD NH (CIC) của NHNN đã hoạt động được hơn 10 năm nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm DN một cách độc lập. Đó cũng là thách thức lớn cho hệ thống NH trong việc mở rộng TD cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng TD trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì nguy cơ nợ xấu tất yếu sẽ phát sinh.
Mặt khác, trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin rộng khắp thì việc đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người trở nên rất cần thiết. Với thực tế là sự hiểu biết về hoạt động NH của dân cư hiện nay còn rất ít thì việc mở rộng các hoạt động tư vấn là hợp lý. Đặc biệt là các loại hình DNNQD, họ thường không hiểu biết nhiều về lĩnh vực đầu tư, thể lệ hoạt động TD của NH... Chính vì vậy mà việc đầu tư TD của NH cũng như việc đầu tư vào các công trình của DN chưa thu được kết quả như mong muốn, mức độ rủi ro cao.
Cũng như các hoạt động tư vấn khác, tư vấn NH là một lĩnh vực nhằm đánh giá, phân tích, dự báo thông tin về tình hình kinh tế xã hội, pháp luật và các thông tin về các thông tin NH... có liên quan đến vấn đề đầu tư TD, giải đáp mọi thắc mắc về lĩnh vực NH của các DN, của dân cư giúp họ đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn.
Bởi vậy, để phổ biến rộng khắp, cung cấp những thông tin cần thiết về hoạt động của NH, giải đáp thắc mắc cho khách hàng thì SGDI cần mở các hoạt động tư vấn. Các hoạt động này, ngoài nhiệm vụ nói trên thì còn phải phát triển những nhu cầu mới của khách hàng để phục vụ, để tiết kiệm chi phí hoạt động. SGDI có thể lồng ghép các hoạt động này vào các quỹ tiết kiệm, quầy giao dịch; đào tạo cán bộ để họ có đủ kiến thức hiểu biết, tận tình hướng dẫn khách hàng khi khách hàng đến giao dịch.
3.2.1.3. Mở rộng cho vay vốn trung và dài hạn đối với khu vực KTNQD.
Do đặc thù riêng của DNNQD và xét trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế, hiện tại DNNQD đang đứng trước những khó khăn cần tháo gỡ và quá trình phát triển KTNQD đã và đang bộc lộ một số hạn chế chủ yếu.
Đó là do quá trình phát triển của KTNQD đang trong giai đoạn khởi đầu nên khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế là khó khăn tất yếu. Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tình trạng thiếu vốn đang là khó khăn lớn nhất đối với các DN. Các DN lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính trước hết do bản thân các DN thiếu tài sản thế chấp NH, trong khi đó mức cho vay vẫn bị hạn chế. Do vậy, các DNNQD có kế hoạch mở rộng sản xuất thì họ lại thiếu vốn để đưa các kế hoạch đó vào thực hiện. Hơn nữa, do hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên khu vực KTNQD khó tìm được nguồn vốn trung và dài hạn.
Khó khăn tiếp theo cũng bắt nguồn từ nguồn vốn hạn hẹp của các DNNQD, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, nên khu vực KTNQD không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cấp công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Vì vậy, bên cạnh việc mở rộng cho vay ngắn hạn cần đặc biệt quan tâm tới việc nâng tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn cho khu vực KTNQD.
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay KTNQD đối với SGDI.
Một trong những đặc điểm của hoạt động kinh doanh NH là càng mở rộng TD thì rủi ro có nguy cơ càng tăng, nhất là đối với khu vực KTNQD. Vì vậy mở rộng TD phải gắn với việc hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng TD. Chất lượng TD được phản ánh trên nhiều mặt: Tỷ lệ quá hạn cao hay thấp, nợ khó đòi nhiều hay ít, cơ cấu dư nợ có hợp lý không...? Chất lượng TD liên quan tới cả hai phía: NH - Khách hàng và những yếu tố bất khả kháng.
3.2.2.1. Giải pháp về nghiệp vụ.
Về phía SGDI - NHCTVN để nâng cao chất lượng TD, hạn chế bớt những rủi ro trong quá trình mở rộng TD đối với khu vực KTNQD thì cần giải quyết những vấn đề như:
- Xác định đúng hướng đầu tư đối với khu vực KTNQD:
Chọn đúng hướng đầu tư là công việc quan trọng hàng đầu của các nhà kinh doanh. Bên cạnh cung cấp TD cho các dự án của khu vực KTNQD, SGDI cũng nên cử cán bộ nghiên cứu tìm hiểu thế mạnh của dự án đó để từ đó có thể đưa ra những hỗ trợ khác đạt hiệu quả cao nhất.
- Ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh trong quá trình cho vay bằng các biện pháp sau:
+ Làm tốt khâu thẩm định dự án phát triển KTNQD trước khi cho vay, thẩm định tài sản thế chấp, thủ tục hồ sơ cho vay là những yếu tố cần thiết, song yếu tố quyết định chính là hiệu quả kinh tế của dự án xin vay chứ không phải là thủ tục pháp lý của hồ sơ TD hoặc tài sản thế chấp.
Nền kinh tế phát triển ngày càng cao tất yếu dẫn đến các doanh nghiệp phải mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, từ đó nhu cầu về vốn cũng tăng mạnh, và vốn vay NH là một trong những giải pháp hàng đầu cho việc đáp ứng này. Thực tế, ngày càng có nhiều dự án đầu tư mới, cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp gửi đến xin vay vốn. Việc thẩm định cho vay những dự án này là công việc vô cùng quan trọng và hết sức phức tạp. Điều này lại một lần nữa đặt ra vấn đề về trình độ thẩm định một dự án xin vay của bộ phận thẩm định. Vì vậy, cần điều tra xem xét kỹ hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư phát triển KTNQD để hoàn thành thủ tục vay là công việc quan trọng hàng đầu đối với cho vay KTNQD.
+ Tìm những hình thức thích hợp để nắm chắc đối tượng vay. Cán bộ TD cần theo dõi sát tình hình sử dụng vốn, thu nhập, trả nợ của DNNQD để có biện pháp tác động kịp thời, ứng phó linh hoạt với các DN vay vốn; ngoài ra, cần kết hợp với các TCTD khác để nắm thực trạng vay và sử dụng vốn vay, nợ quá hạn, thái độ đối với việc trả nợ vay của khách hàng.
+ Hỗ trợ các DNNQD giải quyết các khó khăn: Tư vấn cho các DN sử dụng vốn vay. Cùng các DN tìm các biện pháp giải quyết khó khăn trong kinh doanh. Đề nghị kịp thời tới cấp trên các trường hợp khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ, gia hạn nợ hợp lý khi có thiên tai, rủi ro xảy ra.
+ Tổ chức tốt việc thu hồi nợ quá hạn: Phân loại chính xác nguyên nhân nợ quá hạn và nguyên nhân không muốn trả nợ để có biện pháp xử lý hợp lý.
- Mở rộng cho vay khách hàng có tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay.
Theo Khoản 2 Điều 2 Chương 1 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP này 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay thì cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của TCTD mà theo đó, nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng hoặc bảo lãnh tài sản của bên thứ ba.
Trong nhiều trường hợp, NH yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận TD. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho NH do thu nhập từ hoạt động kinh doanh giảm sút mạnh. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho NH những tổn thất lớn.
Trong các hoạt động TD của NH thì chỉ có DNQD là có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp, còn 100% DNNQD khi vay vốn NH đều phải có tài sản đảm bảo, kể cả các DNNQD làm ăn rất tốt, có uy tín và phương án sản xuất đầu tư hiệu quả.
Tuy nhiên, không phải DNNQD nào cũng có khả năng đáp ứng được yêu cầu này, mà thậm chí xét cho cùng thì việc bảo đảm bằng tài sản cho món vay cũng chỉ mang tính an ủi tâm lý cán bộ TD khi mà họ quyết định cho vay, là phương án cuối cùng thu nợ mà thôi. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTNQD phát triển mà không có tài sản để thế chấp có được nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình, SGDI cần mở rộng cho vay bằng tài sản đảm bảo được hình thành từ nguồn tài trợ của SGDI. Đây là biện pháp cuối cùng để SGDI có thể mở rộng hoạt động TD của mình đối với KTNQD mà có thể hạn chế việc người vay bán tài sản hình thành từ vốn vay, hạn chế được tổn thất cho SGDI. Mặt khác, khi người vay không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài sản thế chấp loại này không đảm bảo cho SGDI thu đủ gốc và lãi.
Đối với khách hàng vay: phải có tín nhiệm với NH, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ khả thi... Ngoài ra, đối với thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay hợp đồng phải được lập thành văn bản; có thể ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc lập thành văn bản riêng do các bên thoả thuận. Khi tài sản được hình thành và đưa vào sử dụng, các bên phải lập phụ lục hợp đồng thế tài sản hình thành từ vốn vay, trong đó mô tả đặc điểm, xác định giá trị tài sản đã được hình thành...
- Xử lý lãi suất cho vay.
Cùng với nguồn vốn, lãi suất là vấn đề cốt lõi thể hiện trong kết quả hoạt động NH. Nó phải được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế và hoạt động NH. Xử lý lãi suất huy động và lãi suất cho vay là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp. Cái khó nhất hiện nay trong xử lý lãi suất NH là làm thế nào vừa đảm bảo tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường để SGDI thực hiện kinh doanh, vừa đảm bảo sự ưu tiên nhất định đối với khu vực KTNQD. Lãi suất huy động (đầu vào) phải đảm bảo sát với chỉ số giá cả thị trường có thể cạnh tranh và huy động được, còn lãi suất đầu ra phải tương đối thấp mới có tác động đến sự phát triển sản xuất (trong phạm vi giới hạn chấp nhận được) để SGDI đảm bảo có thu nhập. Vì vậy, lãi suất cho vay DNNQD nên xử lý theo các hướng như: Lãi suất phân chia theo từng khu vực, từng đối tượng vay, từng dự án theo nguyên tắc đối tượng nào, khu vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao thì lãi suất cho vay cao; cần thực hiện cơ chế thưởng lãi suất cho DNNQD nào trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi nhằm khuyến khích các DN này sử dụng vốn đúng mục đích và trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
3.2.2.2. Tích cực cải cách thủ tục hành chính, tăng cường quản trị kinh doanh.
Quản trị điều hành phải được thực hiện bằng các công cụ: cơ chế chính sách, thông tin, thanh tra - kiểm tra. Mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh phải phù hợp với trình độ, năng lực quản lý, kiểm soát của bộ máy tổ chức, cán bộ và nhu cầu thực tế khách quan của thị trường, đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, đồng thời nâng cao vai trò tham mưu, tính tự chủ, năng động và tự chịu trách nhiệm của các bộ phận công tác.
Trong quá trình cho vay DNNQD, thủ tục hồ sơ đã có nhiều cải tiến song còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Thủ tục phải đơn giản ở mức tối đa nhưng vẫn phải đảm bảo cơ sở pháp lý. Đây là một vấn đề khó, cần hoàn thiện dần, nhằm nâng cao năng lực quản lý phục vụ và tiện ích cho khách hàng. SGDI cần:
+ Tổ chức lại mạng lưới cho vay DNNQD.
Tổ chức mạng lưới NH phù hợp, bảo đảm gọn nhẹ, năng động, hiệu quả và thuận tiện là đòi hỏi khách quan. Nơi có môi trường kinh doanh cần phải có các Phòng giao dịch, Quỹ tiết kiệm để huy động vốn và cho vay vốn một cách nhanh chóng, kịp thời tới các DNNQD.
+ Hiện đại hoá công nghệ, phát triển dịch vụ NH.
Để phát triển các dịch vụ tiện ích cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của SGDI, đòi hỏi phải đổi mới công nghệ, trang bị thêm máy tính cùng các thiết bị đồng bộ, các phương tiện hiện đại như máy ATM, máy in sổ tiết kiệm... để đổi mới phương pháp giao dịch đảm bảo thuận tiện cho yêu cầu quản lý và phục vụ tại các đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng, bố trí lại nhân viên để tăng cường nhân viên TD cho vay các DNNQD.
3.2.2.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực thẩm định dự án.
Con người là yếu tố quyết định thành bại trong kinh doanh. Không thể tạo ra bước đột phá, giữ vững ổn định và phát triển nhanh nếu thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực, bản lĩnh vững vàng, hết lòng tận tâm vì sự nghiệp chung. Do đó, trong chiến lược phát triển kinh doanh, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu và phải dành nhiều sự đầu tư thoả đáng cho công tác này. Hoạt động TD đòi hỏi một đội ngũ cán bộ TD không chỉ tinh thông nghề nghiệp mà còn có phẩm chất đạo đức. Cán bộ TD không chỉ nắm chắc thể lệ, chế độ của ngành mà phải am hiểu các lĩnh vực khác liên quan, nắm vững đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, hiểu biết luật pháp để vận hành tốt nghiệp vụ. Cần có chế độ thưởng phạt nghiêm minh, xử lý thích đáng những cán bộ TD cố ý làm sai, phát động phong trào thi đua, có khen thưởng kịp thời các điển hình, tiên tiến - từ đó động viên người lao động hăng say công việc và đạt kết quả tốt.
Mọi nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng TD không phải đổ lỗi hết cho khách quan, mà điều quan trọng trước hết, đầu tiên tác động đến chất lượng TD là con người, là những cán bộ TD trực tiếp liên quan đến những khoản đầu tư, những người thẩm định đến chất lượng TD. Chính vì con người có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng TD, cho nên mỗi NH không thể không từng bước nâng cao chất lượng cán bộ, không ngừng bồi dưỡng nghiệp vụ, chấn chỉnh tư tưởng, đạo đức.
Ngoài vấn đề về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, đòi hỏi cán bộ TD cần phải có những kỹ năng sau:
- Kỹ năng bán hàng: đòi hỏi cán bộ TD phải có những kỹ năng nhất định về Marketing để thu hút khách hàng, nắm vững nghiệp vụ TD để cho vay được nhiều, với chất lượng tốt.
- Kỹ năng tìm hiểu điều tra: kỹ năng này yêu cầu cán bộ TD phải biết cách thu thập và khai thác thông tin có ích từ khách hàng và từ các nguồn khác.
- Kỹ năng phân tích: đòi hỏi cán bộ TD phải biết nhận định, đánh giá tình hình có cơ sở khoa học, từ đó rút ra được những rủi ro có thể gặp phải khi đặt quan hệ tín dụng dưới hình thức văn bản có tính thuyết phục để trình lên xin ý kiến chỉ đạo.
- Kỹ năng đàm phán với khách hàng: cán bộ TD phải biết thương lượng với khách hàng, về các vấn đề có liên quan tới việc tuân thủ các điều khoản đã quy định trong chế độ, thể lệ cho vay, để khoản vay được tiến hành trong điều kiện thuận lợi nhất.
Trên cơ sở những yêu cầu đòi hỏi đó, SGDI cần rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại để bổ sung những mặt còn thiếu, còn yếu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục tình trạng bất cập về trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của cán bộ TD, nhất là số cán bộ do sắp xếp lại tổ chức đang làm các nghiệp vụ khác chuyển sang làm tín dụng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà lựa chọn hình thức đào tạo.
Cần phải khẳng định rằng phát triển hoạt động đào tạo có hiệu quả là yếu tố quyết định trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mỗi NH. Đồng thời để đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, hoạt động đào tạo ngày nay không chỉ đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức kỹ năng các sản phẩm dịch vụ mới hiện đại mà còn phải có chiến lược cụ thể để đào tạo được nhiều nhân lực có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu hội nhập theo phương châm “đi trước đón đầu”. Vì vậy yếu tố hợp tác đào tạo cần được đẩy mạnh. Chỉ có vậy mới tiếp cận được khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại, kinh nghiệm quản lý điều hành... Hợp tác có thể được thực hiện trong nước như NH có thể hợp tác với các trường đại học và các Trung tâm đào tạo về tài chính NH để giao lưu trao đổi phương pháp, kỹ năng dạy và học, cập nhật được những kiến thức kỹ năng hiện đại, ngoài ra có thể hợp tác đào tạo khu vực và quốc tế...
Nhiều năm qua, việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên của SGDI đã có những bước chuyển biến rõ rệt, phần nào đáp ứng được yêu cầu phát triển trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sự biến đổi đó vẫn còn chậm so với sự biến đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ NH cùng các công cụ quản lý mới hiện đại. Vì vậy mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, văn hoá giao tiếp và kỹ năng quản lý điều hành đang là vấn đề bức bách, là chiến lược ưu tiên hàng đầu của NHCTVN nói chung và của SGDI nói riêng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đã đề ra.
SGD có đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo, không thể đào tạo được hết trong một thời gian ngắn mà phải có quá trình, có bước đi thích hợp, nhưng phải hết sức cấp bách. Có như vậy SGDI mới nhanh chóng trở thành một chi nhánh NHTM hiện đại, có vai trò chủ đạo, chủ lực trong hệ thống NHCTVN, góp phần nâng cao vị thế của NHCTVN trên thị trường trong nước và quốc tế và đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng.
Để giúp các NHTM mở rộng hoạt động cho vay đối với khu vực KTNQD thì Chính phủ cần phải đề ra các biện pháp để thúc đẩy các thành phần KTNQD phát triển nhằm tạo ra được một đối tượng khách hàng rộng lớn và an toàn cho các NHTM để các NH này có thể yên tâm đầu tư. Muốn vậy, Chính phủ và các cơ quan có chức năng cần phải có các biện pháp sau:
Trong khi các nước láng giềng như Trung Quốc và các nước thuộc khối ASEAN đang ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lý với nỗ lực tạo ra sân chơi bình đẳng giữa DNQD và DNNQD thì hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam còn chồng chéo, thiếu minh bạch và thiếu ổn định, các thủ tục về thuế và hành chính tuy đã được cải thiện song vẫn còn phức tạp. Vì vậy phải tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước đã ban hành liên quan đến việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động cạnh tranh lành mạnh; tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý theo hướng nâng cao vai trò tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao hơn trong kinh doanh của các NHTM; cụ thể hoá và thể chế hoá các biện pháp khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động NH.
ở điều kiện nước ta hiện nay việc xây dựng các văn bản, bộ luật dành riêng cho các DNNQD đặc biệt là các DN vừa và nhỏ là hết sức cần thiết. Trước mắt, phải có sự hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan tới loại hình DN này và giám sát thật kỹ quá trình áp dụng của các cơ quan chức năng. Về lâu dài cần phải xây dựng một bộ luật DN vừa và nhỏ trong đó quy định về: tư cách pháp nhân, ngành nghề kinh doanh, các chính sách khuyến khích bảo hộ... Đồng thời trong quá trình xây dựng Luật phải tiến hành song song với việc xây dựng các văn bản thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngay vào cuộc sống. Các văn bản phải được đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các DN yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Hướng dẫn các DN phát triển kinh doanh theo Pháp luật, tạo điều kiện cho các DN hiểu pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, nhanh chóng đưa pháp luật vào cuộc sống; đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các DN. Bên cạnh đó cũng phải xử lý nghiêm và kịp thời những DN cố ý kinh doanh trái pháp luật, cùng với việc sử dụng biện pháp kinh tế để xử lý những hành vi vi phạm đó. Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ tín dụng giữa NH với DNNQD khi xảy ra các tranh chấp do DN không trả được nợ cho NH.
Chính phủ có biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá các DNNN có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng, tạo ra sự đột phá tăng tốc, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN, thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, muốn phát triển nhanh và bền vững khu vực tư nhân phải phát triển mạnh khu vực KTQD, đặc biệt nên tập trung cho các DN lớn làm mũi nhọn, làm đầu tàu cho nền kinh tế, yểm trợ cho các DN nhỏ của khu vực tư nhân là một điều rất quan trọng.
Chính phủ thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB... về cải tổ DNNN, chống bao cấp, bảo trợ quá mức cho DNNN, thúc đẩy phát triển DNNQD.
Do vốn và tài sản của DNNQD không lớn, nên mức độ đảm bảo an toàn cho các khoản vay không cao, các NHTM thường ngại cho các DNNQD vay vốn. Để khuyến khích các NHTM cho DNNQD vay vốn, Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp như hỗ trợ lãi suất đối với các khoản cho vay đối với các DNNQD, giảm thuế thu nhập DN nếu NH cho vay đối với các DNNQD đạt được một tỷ lệ nhất định trong tổng TD của NH.
Chính phủ cần sớm thành lập các tổ chức định mức tín dụng đối với các DN, trong đó có các DN loại vừa để làm cơ sở cho việc đầu tư vốn. Quy chế cho vay và nghị định đảm bảo tiền vay cần chú ý tới nhu cầu, khả năng, thực trạng của các DNNQD để có tín dụng phù hợp đối với họ, nhất là hình thức tín dụng trung và dài hạn.
Chính phủ cần có chính sách xử lý rủi ro đối với các NH cho vay vốn DNNQD, bình đẳng đối với các DN như: khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ, ưu đãi lãi suất...
Trước đây cơ quan công chứng Nhà nước không chịu chứng nhận cho các NHTM trong việc chủ động bán tài sản, bởi vì yêu cầu việc bán tài sản phải thông qua Trung tâm đấu giá. Đến nay vướng mắc này đã được giải toả, không bắt buộc phải qua Trung tâm do Bộ Tư pháp và NHNN có hướng dẫn cụ thể thì lại gặp rắc rối mới, đó là Sở Địa chính - Nhà đất không cho chuyển tên sở hữu tài sản. Vì vậy, đối với việc xử lý tài sản cầm cố thế chấp, Sở Địa chính - Nhà đất khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các giao lưu dân sự nói chung và điều kiện cho thế chấp tài sản nói riêng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý tài sản thế chấp, đề nghị UBND và cơ sở ban ngành của Thành phố tạo điều kiện hỗ trợ NH trong việc hợp pháp hoá các tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ, hỗ trợ khi kê biên và đấu giá tài sản. Bên cạnh đó, các cơ quan pháp luật, công an, viện kiểm soát, toà án tạo điều kiện cho NH thu giữ tài sản thế chấp, giải quyết nhanh các vụ án để thu hồi vốn cho NH.
Để giúp các DN có dự án khả thi cần vốn tín dụng đầu tư song thiếu một phần thế chấp, bảo lãnh theo hợp đồng vốn vay, nhanh chóng đưa Quỹ bảo lãnh cho DN vừa và nhỏ đi vào hoạt động. Mục đích của Quỹ là để bảo lãnh một phần, nhằm hỗ trợ cho các DN tiếp cận được các khoản vay ngắn, trung và dài hạn tại các TCTD thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh TD; đồng thời chia sẻ rủi ro giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng và DN với TCTD khi gặp rủi ro bất khả kháng không trả được nợ vay. Hình thành Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu. Chính phủ cần hỗ trợ cho các DN thuộc thành phần KTNQD thực hiiện nhanh quá trình đổi mới như: tiếp nhận thông tin và công nghệ mới hiện đại, hướng dẫn cải tiến công nghệ kỹ thuật truyền thống, hỗ trợ vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để có thể tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ. Đồng thời giúp các DN lựa chọn cho mình những máy móc thiết bị công nghệ phù hợp. Ngoài ra, trong điều kiện nước ta hiện nay, bên cạnh việc đầu tư kỹ thuật công nghệ mới để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì các DN cần lưu ý khai thác các kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động, kết hợp với việc cải tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Chính phủ cần trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo lại nguồn lao động có trình độ, đặc biệt là tư vấn, đào tạo cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Chính phủ cần phải quan tâm hơn nữa hoạt động của các trung tâm thông tin, trung tâm xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin cho các DN tư nhân về các lĩnh vực sản phẩm, thị trường, chiến lược ngoại thương... Việc cung cấp thông tin cần thiết cho các DN thuộc thành phần KTNQD là hết sức cần thiết, thông tin cung cấp phải được chọn lọc, cập nhật thường xuyên; đồng thời xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các DNNQD, giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập DN.
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ các DN tiếp cận với thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ hỗ trợ bằng các chính sách thuế quan ưu đãi để kinh tế tư nhân phát triển, đó là điều rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp kích cầu của Chính phủ cần được tiếp tục đẩy mạnh để giúp tháo gỡ những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho khu vực kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, nhập lậu, chống hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu, mẫu mã...
Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc quyền của các DNNN. Bên cạnh đó, phải có sự hoàn thiện hơn nữa đối với một số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách thương mại và công nghiệp, chính sách thuế, chính sách đầu tư... nhằm tạo điều kiện cho các DNNQD phát triển mạnh mẽ, ổn định và đúng hướng đồng thời tạo ra một sân chơi bình đẳng đối với mọi loại hình DN thuộc mọi thành phần kinh tế.
3.3.2. Kiến nghị đối với NHCTVN.
NHCTVN là cơ quan chủ quản của SGDI do đó cần phải tạo điều kiện giúp SGDI trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy mặt mạnh để cùng hệ thống phát triển. Để làm được vấn đề đó cần thực hiện các nội dung sau:
Tổ chức giải quyết nhanh, rõ ràng các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của SGDI như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư... Sửa đổi cơ chế, chính sách cho vay, bảo lãnh phù hợp với NHNN theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hệ thống NHCTVN nói chung và SGDI nói riêng.
Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, của các nước khác, hỗ trợ SGDI về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động NH theo lộ trình quốc tế; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ NH; trang bị công nghệ NH hiện đại.
Mở rộng hình thức TD thuê mua và cung cấp các khoản TD trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các DNNQD mới khởi sự hoặc đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Đơn giản hoá các thủ tục NH trong việc cho vay, đặc biệt là các khoản cho vay trung và dài hạn bị quy định bởi các thủ tục rườm rà, phức tạp làm cho chi phí giao dịch tăng cao.
Hỗ trợ SGDI trong việc lắp đặt thêm trang thiết bị hiện đại cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy ATM, nối mạng trong toàn bộ hệ thống NH... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ NH cho cán bộ nhân viên trong SGDI. Phải có chiến lược đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo lại cán bộ về chuyên môn, chính trị, trình độ ngoại ngữ và tin học, ý thức trách nhiệm để xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng đủ đức đủ tài, tinh thông nghề nghiệp.
Thường xuyên hỗ trợ SGDI tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm bắt được các thông tin về tình hình hoạt động của NH, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm, kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động.
Cần có chính sách khen thưởng hợp lý đối với những chi nhánh làm ăn có hiệu quả, huy động được nguồn vốn lớn và hoạt động tín dụng không làm thiệt hại đến lợi nhuận của NH. Đồng thời cần sớm nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách, chế độ, thể lệ làm việc, nghĩa vụ quyền lợi của đội ngũ cán bộ TD, có chính sách ưu đãi cán bộ về thu nhập, đi lại. Thường xuyên quan tâm đến việc động viên khen thưởng cho đội ngũ cán bộ TD giỏi để có cơ sở đề nghị xét chọn, khen thưởng hàng năm. Rõ ràng là quyền lợi vật chất cũng là một vấn đề cần phải quan tâm xem xét, nhất là trong điều kiện săn lùng chất xám hiện nay, để có thể khuyến khích động viên kịp thời những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, gắn bó thuỷ chung với NH.
Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin TD nhằm ngày càng nâng cao chất lượng TD, giúp SGDI phòng ngừa rủi ro.
NHCTVN cần nâng cao hơn nữa hiệu suất sử dụng các phần mềm tin học trong công tác kế toán, đào tạo cán bộ kế toán có trình độ, khai thác các phần mềm ứng dụng nghiệp vụ và đáp ứng yêu cầu thông tin báo cáo đảm bảo nhanh chóng chính xác, hiệu quả cao.
Thực hiện tốt công tác chỉ đạo điều hành từ Trung ương xuống các NH cơ sở; tuân thủ đúng từ việc thẩm định các dự án, tổ chức kiểm tra đến việc quy định cụ thể về chế độ thông tin kiểm tra, chế độ thông tin thống kê, tổng kết, kiểm tra.
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống NH nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các các sai sót, phòng ngừa rủi ro.
Hiện nay, xu thế hội nhập và hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ngày càng trở nên rõ nét và cần thiết. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngành NH đang đứng trước những cơ hội mới của quá trình hội nhập, nhưng bên cạnh đó, cũng đứng trước nhiều thách thức gay gắt từ bên ngoài.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM của Việt Nam sẽ đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn của các NH nước ngoài với rất nhiều thế mạnh vượt trội so với hệ thống NHTM trong nước. Cụ thể nhất là tiềm lực về tài chính với số vốn điều lệ lên tới hàng trăm triệu USD thậm chí lên tới hàng tỷ USD. Chúng ta cũng sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các NH nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động lâu năm, có trình độ quản lý rất chặt chẽ và khoa học với nhiều dịch vụ NH đa dạng, phong phú và hiện đại. Do vậy, việc nâng cao năng lực về tài chính và trình độ công nghệ, quản lý... là công việc cấp bách mang tính sống còn của các NHTM trong nước, đặc biệt là hệ thống NHTM Nhà nước. Nếu các NHTM trong nước không kịp đổi mới để phát triển thì chúng ta sẽ đánh mất khả năng cạnh tranh trên chính thị trường trong nước, vai trò là “bà đỡ” của nền kinh tế của các NHTM trong nước nói chung và các NHTM nói riêng sẽ trở nên mờ nhạt và không phát huy tác dụng, thậm chí sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hi vọng với chính sách thông thoáng của Nhà nước, cùng với sự phối hợp của các Bộ ngành, NHNN ban hành chính sách tín dụng, tiền tệ riêng cho khu vực KTNQD và các NHTM chủ động tiếp cận, khai thác, mở rộng hoạt động trong khu vực này sẽ góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển KTNQD... và các hoạt động trong lĩnh vực NH cũng ngày càng đa dạng, chiếm lĩnh thị phần ngày càng cao với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo được khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập hiện nay.
Trên đây là những giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy và phát triển KTNQD. Tuỳ từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế mà có những giải pháp và kiến nghị hữu hiệu với thực tiễn hoạt động NH. Hy vọng rằng với gì đã đề cập ở trên tuy không phải là tuyệt đối nhưng cũng phần nào giúp thêm cho SGDI - NHCTVN trong việc thúc đẩy phát triển KTNQD nhằm không ngừng đưa khu vực KTNQD ngày càng đi lên theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
Kết luận
Thực tế đã chứng minh vai trò của KTNQD là không thể phủ nhận, đặc biệt trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Sự phát triển của khu vực kinh tế này góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung và của hệ thống NHTM nói riêng. Đồng thời các NHTM cũng đóng góp một vai trò rất lớn vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Trong tương lai khu vực KTNQD sẽ là thị trường đầy tiềm năng mà NH cần phải khai thác. Mở rộng hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh vừa là nhiệm vụ vừa là quyền lợi của NH cũng như là xu thế tất yếu của kinh tế thị trường. Trong những năm gần đây, SGDI với vai trò trung gian dẫn vốn đã mặn mà hơn đối với cho vay ngoài quốc doanh song dư nợ vẫn còn hạn chế, một phần do các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước và của ngành NH còn nhiều bất cập, bản thân SGDI vẫn còn rất e dè khi cho vay.
Từ việc phân tích tình hình thực tế hoạt động cho vay KTNQD tại SGDI - NHCTVN, Khoá luận đã tập trung giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
1. Khoá luận đã tổng hợp những cơ sở luận về TD NH và mở rộng TD NH đối với việc phát triển khu vực KTNQD từ đó làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan của vấn đề mở rộng TD của SGDI đối với khu vực KTNQD. Khoá luận đã tổng kết những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để từ đó rút ra mhững bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong quá trình mở rộng TD đối với khu vực KTNQD ở Việt Nam.
2. Khoá luận đã phân tích thực trạng về KTNQD ở Việt Nam cũng như thực trạng tín dụng đối với khu vực KTNQD tại SGDI - NHCTVN, chỉ ra những kết quả, tồn tại cùng nguyên nhân của tồn tại. Việc khắc phục những nguyên nhân đó sẽ cho phép SGDI hạn chế những tồn tại để tiếp tục mở rộng tín dụng nói chung cũng như đối với khu vực KTNQD nói riêng.
3. Trên cơ sở phân tích thực trạng để khắc phục những tồn tại, bản Khoá luận đã đưa ra được các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng TD của SGDI đối với sự phát triển KTNQD.
Với kết quả của bản Khoá luận này bản thân em hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết những khó khăn của thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất phức tạp và rộng lớn, trong khi đó thời gian thực tập cũng như khả năng nhận thức, khả năng tìm hiểu thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định vì vậy bản Khoá luận này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô và cơ quan thực tế cùng với bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn NCS. Nguyễn Thị Thanh Sơn, người hướng dẫn thực hiện cùng các cán bộ của SGDI - NHCTVN đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện trong thời gian thực tập để hoàn thành bản Khoá luận này.
Danh mục các tài liệu tham khảo
Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002 và năm 2003 của SGDI - NHCTVN
Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ
TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo
Ngân hàng thương mại - Eward W.Read & E.K.Gill
Tiền tệ, Ngân hàng & Thị trường Tài chính - Frederic S.Mishkin
Quản trị Ngân hàng thương mại - Peter S. Rose
Tạp chí Ngân hàng
Tạp chí kinh tế phát triển
Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ
Tạp chí Thông tin Ngân hàng Công thương Việt Nam
Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng tháng 1/1998
Và một số Khóa luận khác
Bảng ký hiệu các chữ viết tắt
SGDI - NHCTVN : Sở Giao Dịch I - Ngân hàng
Công thương Việt Nam
Nh : Ngân hàng
Nhnn : Ngân hàng Nhà nước
Nhtm : Ngân hàng thương mại
Tctd : Tổ chức tín dụng
Tckt : Tổ chức kinh tế
Tnhh : Trách nhiệm hữu hạn
Htx : Hợp tác xã
Dn : Doanh nghiệp
Dnnn : Doanh nghiệp Nhà nước
Dnqd : Doanh nghiệp quốc doanh
Dnnqd : Doanh nghiệp quốc doanh
Ktqd : Kinh tế quốc doanh
Ktnqd : Kinh tế ngoài quốc doanh
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
Cnh, hđh : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Td : Tín dụng
Td nh : Tín dụng Ngân hàng
Danh mục các bảng, biểu
Ký hiệu
Nội dung bảng, biểu
Trang
2.1
Hoạt động huy động vốn tại SGDI – NHCTVN
37
2.2
Hoạt động tín dụng của SGDI
41
2.3
Tỷ lệ nợ quá hạn tại SGDI – NHCTVN
45
2.4
Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ đối với KTNQD
49
2.5
Tình hình tín dụng đối với các DNNQD từ 2001 - 2003
50
2.6
Tình hình thu nợ ngoài quốc doanh theo thời gian
52
2.7
Nợ quá hạn phân theo thành phần kinh tế
54
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0333.doc