Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài) đã và đang trở thành bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển.
75 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính đơn giản hóa, thời gian giải quyết nói chung nhanh hơn. Thay vì phải mất nhiều thời gian thực hiện các thủ tục rườm rà như trước đây thì bây giờ các doanh nghiệp chỉ việc gửi và nhận hồ sơ tại một cửa chính là có thể nhận được giấy phép kinh doanhh. Vì vậy, thời gian cấp giấy phép đầu tư chỉ còn từ 1 đến 3 ngày (theo quy định là 15 ngày làm việc), việc cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài cũng được rút ngắn từ 15 ngày xuống còn 2 ngày. Nề nếp của cơ quan hành chính có tiến bộ rõ và trách nhiệm, năng lực cán bộ, công chức được nâng lên một bước.
Công tác tư pháp: đã thẩm định 59 văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành, tăng 7 văn bản so với năm 2008. Tổ chức 3 đợt kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật năm 2009 gồm 56 văn bản cấp thành phố và kiểm tra theo thẩm quyền 17 văn bản của các quận, huyện, đã ra Quyết định xử lý 3 văn bản vi phạm quy phạm pháp luật. Ban hành Quyết định số 1627/QĐ-UBND ngày 20/8/2009 về việc phân định thẩm quyền công chứng, chứng thực các hợp đồng giao dịch trên địa bàn thành phố. Tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 03/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị số 30-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Công tác thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý có chuyển biến tích cực.
Thành phố cũng đã tiếp nhận và triển khai các chính sách, quy định từ trung ương. Đó là các chính sách kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư, các chính sách liên quan đến thuế, lệ phí, chính sách quản lý ngoại hối quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài…
2.3.5. Môi trường lao động, tài nguyên
Dân số năm 2009 của Hải Phòng là 1.837.302 người trong đó có khoảng 935 nghìn người trong độ tuổi lao động sinh sống tại 7 quận (Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân, Dương Kinh, Đồ Sơn, Hải An, Kiến An) và 8 huyện (An Dương, An Lão, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thụy, Thủy Nguyên, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo). Năm 2009, số lao động được giải quyết việc làm là 45.500 lượt người tăng 0,8% so với năm 2008; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,82%, số lao động mất việc làm do suy giảm kinh tế là 9000 lao động, trong đó tại các doanh nghiệp là 5.410 lao động, còn lại là tại các hợp tác xã và làng nghề. Công tác hướng dẫn, quản lý các đơn vị sử dụng lao động về việc thực hiện Bộ luật lao động nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động được tăng cường. Đã xảy ra 03 vụ đình công tập thể với 1.167 người lao động tham gia; xảy ra 11 vụ tai nạn lao động chết người làm 11 người chết. Phong trào đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được nhân rộng, đến nay đã xây mới và sửa chữa 523 nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, đạt 104,6% so với kế hoạch. Đã quyết định cho 817 người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học đủ điều kiện hưởng lại trợ cấp theo Quyết định số 26/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; triển khai 02 dự án thí điểm mô hình dạy nghề tạo việc làm tại chỗ cho người nghèo ở Hải Phòng; đã cấp 25.294 thẻ bảo hiểm y tế năm 2009 - 2010 cho đối tượng hộ nghèo. Tổ chức cai nghiện và hỗ trợ sau cai nghiện cho 3.047 đối tượng, tăng 1,26% so với năm 2008. Tổ chức 33 đợt thu gom 541 đối tượng nghiện ma túy lang thang trên địa bàn thành phố đưa vào các Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội để cai nghiện, chữa trị, giáo dục phục hồi.
Thành phố cũng đã triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước có đổi mới về nội dung, phương pháp. Thực hiện tinh giản biên chế và tuyển dụng công chức năm 2009 một cách nghiêm túc.
Về công tác quản lý đất đai, môi trường tài nguyên: UBND thành phố thực hiện giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân, giao đất tái định cư, thực hiện các công trình công cộng và các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ với diện tích 643,29 ha, bằng 107% kế hoạch năm 2009; thu hồi 855,59 ha phục vụ 82 dự án đầu tư. Thu hồi quỹ đất 10% của 5 dự án với diện tích 3,06 ha; thẩm định bản đồ địa chính 179 dự án, diện tích 5.629,24 ha; thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng 161 dự án với diện tích 2.154,9 ha, trong đó đã giải phóng mặt bằng bàn giao 822 ha, bố trí 1.183 hộ tái định cư. Đã cấp 24.819 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Lập quy hoạch xây dựng quy hoạch thăm dò khai thác khoáng sản thành phố đến năm 2025; phê duyệt quy hoạch khoanh vùng cấm hoạt động khoáng sản đến năm 2025 với 579 điểm thuộc các lĩnh vực. Cấp 06 giấy phép thăm dò, 03 giấy phép khai thác, phê duyệt 5 báo cáo đánh giá trữ lượng khoáng sản.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, việc sử dụng các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp, đã phát hiện xử phạt hành chính và yêu cầu khắc phục hậu quả đối với 18 đơn vị. Kiểm tra sau đánh giá tác động môi trường 31 doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn các quận Kiến An, Hồng Bàng và các huyện Thủy nguyên, An Dương. Cấp 45 sổ đăng ký Chủ nguồn thải chất thải nguy hại, 18 báo cáo đánh giá tác động môi trường; 32 Đề án bảo vệ môi trường. Hướng dẫn 28 chủ dự án thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với các dự án sau khi có quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Uỷ ban nhân dân thành phố.
2.4. Đánh giá thực trạng môi trường đầu tư trong việc thu hút FDI ở Hải Phòng
2.4.1. Một số kết quả nổi bật
Một là, môi trường chính trị xã hội ổn định, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh biên giới cảng, biển. an sinh xã hội có nhiều mặt tiến bộ, nhiều chính sách hỗ trợ an sinh xã hội của Chính phủ và thành phố đã được triển khai kịp thời có hiệu quả. Kết quả này có ảnh hưởng tích cực đến việc thu hút FDI bởi nó tạo được niềm tin về mức độ an toàn cho nhà đầu tư.
Hai là, một số công trình, dự án trọng điểm có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đã hoàn thành đưa vào sử dụng như: công trình cảng biển PTSC Đình Vũ, nhà máy phân bón DAP, nhà máy nước Kiến An, Trung tâm Hội nghị thành phố, Nhà thi đấu đa năng khu liên hợp thể thao, thử nghiệm phát điện thành công tổ máy số 1 Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng 1 hòa vào mạng lưới điện quốc gia; khởi công xây dựng một số dự án lớn như: Nhà máy xơ sợi tổng hợp Polyeste Đình Vũ, Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Hải Phòng, trường trung học phổ thông chuyên Trần Phú, công trình Nút giao thông Quán Mau... Tiến độ các dự án, công trình trọng điểm có chuyển biến tích cực; công tác giải phóng mặt bằng được quan tâm chỉ đạo. Công tác quản lý quy hoạch được chính quyền các cấp quan tâm. Hạn chế được tình trạng úng, lụt khi trời mưa to, triều cường; hiện tượng ô nhiễm tại hệ thống hồ điều hòa, kênh mương dẫn nước hở giảm nhiều so với những năm trước; công tác vệ sinh môi trường có chuyển biến tích cực, không còn tình trạng tồn đọng rác thải trên các tuyến phố chính.
Cơ sở hạ tầng xã hội của Hải Phòng cũng được cải thiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, vui chơi, khám chữa bệnh,… cho không chỉ người dân thành phố mà còn cho cả người dân các tỉnh vùng duyên hải Bắc bộ và các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang sống và làm việc tại Hải Phòng. Nhiều khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí đã và đang được đầu tư như: làng quốc tế Hướng dương, khu vui chơi giải trí tổng hợp Casino Đồ Sơn, Hòn Dáu Resort, sân golf quốc tế 18 lỗ Đồ Sơn. Tại Hải Phòng, có rất nhiều các chi nhánh, văn phòng đại diện của các hãng tàu lớn đến từ các nước trên thế giới, các hãng hàng không, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, các hãng viễn thông,…
Có thể nói cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của Hải Phòng đang ngay càng được quan tâm phát triển để có thể trở thành một yếu tố hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào Hải Phòng
Ba là, về tăng trưởng và phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt kế hoạch đề ra, cao gần gấp 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP chung của cả nước. Hầu hết các ngành, lĩnh vực đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra như: thương mại, viễn thông, nông nghiệp, thủy sản, sản lượng hàng hóa qua cảng, thực hiện vốn đầu tư phát triển, thu ngân sách nhất là thu Hải quan, tín dụng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng.
Bốn là, tập trung cải cách hành chính: Công tác cải cách hành chính tiếp tục được nâng cao chất lượng và mở rộng về nội dung, số lượng cơ quan, đơn vị tham gia. Cải cách hành chính trong các cơ quan công quyền được thành phố đặc biệt chú trọng. Hải Phòng đã trở thành một trong những địa phương đi đầu cải cách thủ tục hành chính trong cả nước, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó có môi trường pháp lý đồng bộ, thông thoáng, thủ tục thuận tiện, minh bạch, giảm thiểu các thủ tục hành chính. Thành phố chú trọng đến vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả và chủ động trong công tác phối hợp giữa các ban, ngành chức năng của thành phố đối với việc hỗ trợ, giải quyết khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thời gian giải quyết công việc của các ban, ngành. Sau khi cải cách hành chính, thủ tục đầu tư đã được đơn giản hóa hơn rất nhiều, điều đó đã góp phần không nhỏ đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Năm là, tạo việc làm cho người lao động và quản lý sử dụng tài nguyên: thành phố đã giải quyết việc làm cho 45.500 lượt lao động, tăng 0,8% vượt kế hoạch (kế hoạch tăng 0,7%), đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động. Các nguồn tài nguyên được quy hoạch và có kế hoạch khai thác sử dụng hợp lý.
Đạt được những thành tích trên là do sự cố gắng vượt bậc của toàn Đảng bộ, quân và dân thành phố, sự điều hành kịp thời, có hiệu quả của Ủy ban nhân dân thành phố trong điều kiện khó khăn bất thường hơn những năm trước, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
2.4.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, thực tiễn ĐTNN vào Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại và hạn chế ở cả môi trường đầu tư và tình hình đầu tư. Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới phát sinh cũng đang bắt đầu có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư làm hạn chế khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế.
Trước hết, về cơ sở hạ tầng: Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa. Hệ thống cơ sở hạ tầng tuy đã được cải thiện nhiều nhưng chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân trong cũng như ngoài nước.
Nguyên nhân của hiện tượng này là do công tác quy hoạch xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội chưa cụ thể, rõ ràng, chưa có sự đồng bộ, thứ tự ưu tiên hợp lý giữa các thành phần cụ thể; nguồn lực huy động đầu tư bị hạn chế, chưa tranh thủ tối đa được các nguồn lực.
Thứ hai, GDP tăng trưởng thấp nhất so với 10 năm trở lại đây. Cơ cấu kinh tế bộc lộ một số bất cập, phát triển thiếu bền vững, tăng trưởng còn dựa nhiều vào xuất khẩu và sự gia tăng năng lực sản xuất của các dự án mới; ô nhiễm môi trường gia tăng chưa được khắc phục. Một số ngành kinh tế của thành phố đã hồi phục nhưng còn chậm như giá trị sản xuất công nghiệp tăng không đạt kế hoạch (+7,7% so với kế hoạch + 10-11%), làm tốc độ tăng trưởng GDP công nghiệp - xây dựng tăng trưởng không đạt kế hoạch (+6,15% so với kế hoạch +7-7,3%). Thu hút khách du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, khách du lịch quốc tế giảm (-5,8%). Vận tải hàng hóa, mặc dù khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 2,3%, luân chuyển tăng 10,6% so với cùng kỳ nhưng doanh thu giảm 29,4%, làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP dịch vụ và tăng GDP chung của thành phố. Các khoản thu từ doanh nghiệp đạt thấp (thu từ doanh nghiệp nhà nước Trung ương chỉ đạt 86% kế hoạch, doanh nghiệp nhà nước địa phương đạt 93,9% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng 90,5% kế hoạch giao).
Bên cạnh nguyên nhân khách quan do tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, thiếu việc làm cho người lao động, dịch bệnh luôn có nguy cơ bùng phát trở lại còn có một số nguyên chủ quan. Đó là: do thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội nên việc cân đối ngân sách gặp nhiều khó khăn; việc rà soát, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội ở một số địa phương chưa kiên quyết, thiếu chủ động, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên, còn đùn đẩy, né tránh trước việc khó
Thứ ba, các chính sách cũng như công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Quy hoạch sử dụng đất chưa hoàn chỉnh, tiến độ công tác giải phóng mặt bằng còn chậm và chưa hợp lý. Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Nhiều địa phương cấp phép tràn lan, khai tăng vốn đăng ký của dự án để có thành tích, để cạnh tranh nhau, dẫn đến cùng cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp (ví dụ như trường hợp cấp phép các dự án sản xuất thép, dự án sân Golf, dự án cảng biển...).
Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ tư, về cải cách thủ tục hành chính tuy có tiến bộ song nhận thức về công tác cải cách hành chính của một số cấp, ngành, đơn vị còn hạn chế, ảnh hưởng tới kết quả chung. Một bộ phận nhân dân còn chưa nhận thức đúng chủ trương phát triển của thành phố, còn gây khó khăn cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãng phí được tập trung chỉ đạo nhưng hiệu quả chưa cao.
Thứ năm, về nguồn lao động. Thực tế cho thấy vẫn còn tồn tại tình trạng người lao động đình công bất hợp pháp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của chủ đầu tư.
Nguyên nhân là chế độ tiền lương, nghỉ ngơi cho người lao động chưa hợp lý, các dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu cần thiết của người lao động chưa được đáp ứng đầy đủ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chưa được đầu tư đúng mức.
Ngoài ra còn một số hạn chế khác như chưa có các dịch vụ để tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các chủ đầu tư, hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa hiệu quả, còn mang tính hình thức...
Chương III: Giải pháp góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng
3.1. Cơ hội thách thức đối với Hải Phòng trong việc thu hút FDI
Hải Phòng là thành phố công nghiệp lâu đời, có hải cảng lớn, là cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh), là điểm cuối của 2 hành lang kinh tế Côn Minh-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng, Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng và vành đai kinh tế ven biển từ phía Nam Trung Quốc sang Việt Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của Hải Phòng gắn liền với cảng biển. Qua hàng trăm năm phát triển, thành phố đã hội tụ đầy đủ các lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ, hàng không, là cửa chính ra biển của vùng Bắc bộ, giao lưu thuận lợi với cả trong và ngoài nước. Trong những năm tới, song song với việc đầu tư nâng cấp hệ thống cảng container, nạo vét luồng vào cảng và xây dựng một số cầu cảng tại bán đảo Đình Vũ, việc đầu tư xây dựng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng sẽ tăng năng lực thông qua hàng hóa của cảng Hải Phòng lên tới 60 triệu tấn vào năm 2020 và 150 triệu tấn vào năm 2030.
Cùng với việc đầu tư hiện đại hóa hệ thống cảng biển, mạng lưới giao thông huyết mạch trên bộ nối Hải Phòng với thủ đô Hà Nội bằng tuyến quốc lộ 5 và các tỉnh vùng duyên hải Bắc bộ thông qua tuyến quốc lộ 10 đã được nâng cấp tiêu chuẩn quốc tế, góp phần quan trọng cho việc phát triển kinh tế vùng đồng bằng Bắc bộ. Tháng 5/2008, tuyến đường cao tốc Hà Nội- Hải Phòng kéo dài tới Đình Vũ với tổng chiều dài 105,5km sẽ khởi công xây dựng, hoàn thành và đi vào khai thác sử dụng vào năm 2010; cùng với việc hoàn thành cây cầu biển dài nhất Việt Nam: cầu Đình Vũ – Cát Hải sẽ tạo thành một trục giao thông hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng được nhu cầu lưu thông, vận chuyển nguyên liệu, hàng hoá cho khu vực phía Bắc Việt Nam và các tỉnh khu vực Tây Nam - Trung Quốc. Hệ thống đường sắt phục vụ chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu qua cảng biển quốc tế Hải Phòng đến Hà Nội và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) đang được Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ xem xét đầu tư vốn để nâng cấp và điện khí hóa thành đường sắt hai chiều tiêu chuẩn quốc tế, nhánh đường sắt nối cảng Chùa Vẽ với khu kinh tế Đình Vũ đang khẩn trương triển khai. Sân bay Cát Bi được cải tạo và nâng cấp trở thành Cảng hàng không quốc tế là những điều kiện thuận lợi để chuyển tải hàng hóa xuất nhập khẩu cho các tỉnh vùng Bắc Bộ, các tỉnh phía Nam Trung Quốc, đồng thời có khả năng thiết lập mối quan hệ hàng hải và hàng không với các nước trong vùng Đông Nam Á và thế giới.
Các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác của Hải Phòng như hệ thống cấp điện, cấp nước sạch, thoát nước thải, xử lý chất thải rắn,.... đã và đang tiếp tục được quan tâm đầu tư, sẵn sàng phục vụ, đáp ứng nhu cầu sử dụng của dân sinh và của nhà đầu tư khi đến Hải Phòng. Liền kề với mỏ than đá lớn nhất cả nước, than Quảng Ninh có thể dễ dàng tới Hải Phòng bằng đường biển và đường sông. Tận dụng lợi thế này, một nhà máy nhiệt điện công suất 1.200MW đã được khởi công xây dựng tại Thủy Nguyên, giai đoạn 1 công suất 600MW sẽ được hoàn thành và đưa vào sử dụng vào cuối năm 2008. Một loạt các nhà máy nước trên địa bàn thành phố đã và đang được đầu tư bằng nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Phần Lan và Ngân hàng Thế giới với mạng lưới cấp nước đang được hoàn thiện đã đưa Hải Phòng trở thành địa phương đi đầu về khả năng cung cấp nước sạch cho nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Để thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư tại thành phố. Trong những năm gần đây, thành phố đã tập trung quy hoạch và đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp, sẵn sàng mặt bằng cho các nhà đầu tư để xây dựng nhà máy sản xuất. Ngoài 3 khu công nghiệp liên doanh với nước ngoài như KCN Nomura Hải Phòng (liên doanh với tập đoàn Nomura của Nhật Bản), KCN Đình Vũ và KCN Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng đã quy hoạch và tích cực huy động các nguồn vốn trong nước và tập trung vốn ngân sách để đầu tư hạ tầng cho các khu, cụm công nghiệp khác như: Vĩnh Niệm, Sài Gòn - Hải Phòng, Vinashin-Shinec, Nam Cầu Kiền, Tân Liên, …. Năm 2007, thành phố đã rà soát lại toàn bộ quỹ đất cho phát triển các khu công nghiệp, trong đó sẽ loại bỏ một số khu công nghiệp đã được quy hoạch nhưng không còn phù hợp và đề xuất Chính phủ xem xét phê duyệt một loạt các khu công nghiệp quy mô lớn phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020.
Cơ sở hạ tầng xã hội của Hải Phòng cũng đã được cải thiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, vui chơi, khám chữa bệnh,… cho không chỉ người dân thành phố mà còn cho cả người dân các tỉnh vùng duyên hải Bắc bộ và các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang sống và làm việc tại Hải Phòng. Nhiều khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí đã và đang được đầu tư như: làng quốc tế Hướng dương, khu vui chơi giải trí tổng hợp Casino Đồ Sơn, Hòn Dáu Resort, sân golf quốc tế 18 lỗ Đồ Sơn. Tại Hải Phòng, có rất nhiều các chi nhánh, văn phòng đại diện của các hãng tàu lớn đến từ các nước trên thế giới, các hãng hàng không, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, các hãng viễn thông,… Ngành y tế Hải Phòng đang đầu tư để trở thành một trung tâm khám chữa bệnh cho vùng; hiện có 22 bệnh viện với 3.480 giường, chưa kể 24 phòng khám khu vực và 217 trạm y tế xã phường với khoảng 1420 giường; đang triển khai các chương trình nâng cao chất lượng khám chữa bệnh chuyên sâu như: ghép thận tự thân, mổ tim hở, hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm… Các trung tâm y tế quận huyện được đầu tư xây dựng và nâng cấp, đảm bảo chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân.
Hải Phòng còn được biết đến là một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước. Ngoài 2 khu du lịch nổi tiếng là Cát Bà, khu dự trữ sinh quyển thế giới đã được UNESCO công nhận vào cuối năm 2004 và Đồ Sơn, một số thắng cảnh liền kề như Hạ Long (Quảng Ninh) và Đồng Châu (Thái Bình) đã và đang tạo nên hệ thống quần thể du lịch khu vực gắn kết với Hải Phòng.
Hải Phòng được coi là nơi có nguồn lực lao động dồi dào, có chất lượng và có khả năng huy động lực lượng lao động lớn cung ứng đủ cho nhu cầu sử dụng lao động. Thành phố tập trung nhiều trường đại học và cao đẳng đào tạo nhân lực cho các tỉnh duyên hải Bắc bộ như Đại học Hải Phòng, Đại học Hàng Hải, Đại học Y, Đại học Dân lập, Cao đẳng cộng đồng, Viện Nghiên cứu hải sản, Viện Hải dương học, Viện Y học biển và hàng chục trường học, trung tâm dạy nghề... với nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng chuyên môn cao, được xếp thứ 2 ở miền Bắc sau thủ đô Hà Nội và đứng thứ 3 cả nước. Đây là yếu tố quan trọng và cũng là thế mạnh của Hải phòng, đứng thứ 2 ở miền Bắc sau thủ đô Hà nội và đứng thứ 3 trong cả nước. Có đội ngũ cán bộ giỏi thuộc nhiều lĩnh vực và các ngành then chốt, có đủ nguồn lực để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Người Hải phòng nhanh nhạy với cái mới, có truyền thống văn minh, lịch sự, có tác phong công nghiệp với những ngành nghề tinh xảo cũng là nguồn lực tiềm ẩn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Có thể nói các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và xã hội của Hải Phòng tương đối phát triển, hệ thống giao thông thuận lợi và cảng biển ngày càng được phát triển là một yếu tố hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào Hải Phòng với mục đích trước hết giảm thiểu chi phí vận chuyển.
Quan trọng hơn cả, cải cách hành chính trong các cơ quan công quyền được thành phố đặc biệt chú trọng. Hải Phòng đã trở thành một trong những địa phương đi đầu cải cách thủ tục hành chính trong cả nước, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó có môi trường pháp lý đồng bộ, thông thoáng, thủ tục thuận tiện, minh bạch, giảm thiểu các thủ tục hành chính. Hàng năm, thành phố đều chọn chủ đề năm, từ đó, xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Uỷ ban nhân dân thành phố và triển khai đến các Sở ngành, quận huyện, xã phường. Thành phố chú trọng đến vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả và chủ động trong công tác phối hợp giữa các ban, ngành chức năng của thành phố đối với việc hỗ trợ, giải quyết khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thời gian giải quyết công việc của các ban, ngành.
Những điều kiện đó tạo cho thành phố có được nhiều cơ hội để thu hút vốn từ các nhà ĐTNN. Tuy nhiên, từ những hạn ché được trình bày trong phần thực trạng bên trên cũng cho chúng ta thấy được những khó khăn thách thức của thành phố trong việc thu hút FDI. Bởi vậy, để thu hút được tối đa nguồn lực đầu tư từ nước ngoài cần có những chính sách nhằm cố gắng khắc phục những hạn chế yếu kém của thành phố đã chỉ ra.
3.2. Mục tiêu thu hút FDI của Hải Phòng trong thời gian tới.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của Hải Phòng đến năm 2010, kinh tế đối ngoại tiếp tục được xác định là lĩnh vực kinh tế động lực của thành phố. Trong đó hoạt động đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển KT- XH của thành phố theo định hướng CNH- HĐH.
Phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố được xác định dành ưu tiên cho các dự án đầu tư phát triển khu nhà ở, văn phòng, khách sạn, khu vui chơi giải trí, bệnh viện và trường học quốc tế. Phát triển các khu du lịch, dịch vụ và vui chơi giải trí tại Đồ Sơn, Cát Bà, Núi Voi, Kiến An, công viên An Biên, công viên nước, cáp treo Đồ Sơn - Hòn Dáu. Tiếp tục hoàn thiện, phát triển và đẩy mạnh thu hút FDI vào các KCN và KCX bao gồm: cụm công nghiệp Vật Cách- Quán Toan với KCN Nomura- Hải Phòng, KCN luyện kim, cơ khí và các KCN dọc theo quốc lộ 5; cụm công nghiệp Bắc Thủy Nguyên, tiếp tục phát triển nhà máy xi măng Chinfon - Hải Phòng giai đoạn II (4 triệu tấn/năm), xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng mới, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào các ngành phá dỡ tàu cũ, luyện thép, sản xuất thép hình, thép tấm,các dự án về công nghiệp hoá chất và dầu khí…; xây dựng và phát triển khu kinh tế tổng hợp Đình Vũ; phát triển CCN dọc đường 353 (Đồ Sơn - Hải Phòng), trong đó có KCX Hải Phòng - 96666; từng bước phát triển các CCN dành cho các doanh nghịêp vừa và nhỏ. Ưu tiên thu hút vốn đầu tư cho các dự án đầu tư sản xuất, chế biến xuất khẩu, chế biến nông sản, thủy sản xuất khẩu, sản xuất cây giống, con giống chất lượng cao.
3.3. Giải pháp chung của nhà nước nhằm tăng cường thu hút FDI
Chiến lược FDI phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược phát triển KT- XH cũng như chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, các vùng quan trọng. Cần có chiến lược hợp lý không chỉ để kêu gọi mà còn giám sát việc thu hút FDI cho đúng trọng tâm, đúng yêu cầu dài hạn của nước nhà.
3.2.1 Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp.
Để thu hút các nhà ĐTNN, Chính phủ cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến FDI theo hướng thông thoáng, hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng thiết lập một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tưu nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kì. Bên cạnh đó, cần đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh đầu tư mới, nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn…. Nâng cao trình độ thực thi luật pháp của các cấp chính quyền, thể chế hoá các quy định về đầu tư sang hình thức luật để có giá trị pháp lý cao hơn.
3.2.2 Cải cách thủ tục hành chính
Nhà nước cần cải cách thủ tục hành chính, cải tiến hệ thống tài chính ngân hàng, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thủ tục hành chính rắc rối, phiền hà được xem như một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Do đó, cần xây dựng cơ chế quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung Ương và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, theo các nhà đầu tư, các quy định liên quan đến hệ thống tài chính là ít hiệu quả. Như việc ngân hàng quốc doanh nắm giữ nguồn tiền lớn và ít cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay, các khoản vốn vay thường ngắn hạn và ít các nguồn vốn dài hạn.
Ngoài ra còn có các khó khăn khác như chuyển đổi từ đồng USD sang VND, khoản vay hợp vốn khó phân chia tài sản, chuyển dịch ngoại tệ,can thiệp phi kinh tế trong giao dịch thương mại. Những yếu tố này gây khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận cuả nhà đầu tư. Vì vậy chính phủ cần cải thiện hệ thống thanh toán, tăng mức huy động tiền gửi VND cho các chi nhánh ngân hàng nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp không được ưu tiên mua ngoại tệ, kết hối 40% ngoại tệ của các doanh nghiệp từ nguồn thu vãng lai, nới lỏng quy định hiện hành về hạn chế mức tiền kí gửi bằng đồng Việt Nam tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tiến tới xoá bỏ khi điều kiện cho phép. Tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ của chính sách thị trường như tỉ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường và có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm tăng thêm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Chính phủ còn thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Các trung tâm xúc tiến tại các lĩnh vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhập và luôn được chia sẻ giữa văn phòng thị trường và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tính thống nhất và liên kết giữa các địa phương.
3.2.3 Đào tạo nguồn nhân lực
Thời gian tới, chính phủ sẽ đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu đang tăng của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài, phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước mở các trung tâm đào tạo lao động kĩ thuật cao. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.2.4. Cải thiện cơ sở hạ tầng
Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
2.3.5. Một số giải pháp khác
Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
3.4. Giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng
Năm 2010, nhu cầu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn TP Hải Phòng bình quân trên 10.000 tỷ đồng. Nhu cầu này đòi hỏi thành phố phải cân đối, huy động tối đa các nguồn vốn trong nước đảm bảo tỷ trọng 70%, bao gồm các nguồn vốn từ ngân sách tập trung, vốn tín dụng, vốn do doanh nghiệp đầu tư và vốn do dân đầu tư; đồng thời, cần thu hút và khai thác triệt để nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo chiếm 30% tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, thành phố đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách và trọng tâm là tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thu hút đầu tư phát triển. Theo đó, các giải pháp đưa ra bao gồm:
3.4.1. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Phát triển hệ thống cảng. Tiếp tục xây dựng phát triển cảng khu vực Đình Vũ, hoàn thành giai đoạn II Cảng Đình Vũ, xây dựng thêm cảng dầu; xây dựng khu chuyển tải Bến Gót - Lạch Huyện; xây dựng hệ thống các cảng nội địa, trước tiên là cảng ICD - Lào Cai. Triển khai, đẩy nhanh xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng để đến năm 2010 bắt đầu đưa vào khai thác; phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu, báo cáo Chính phủ cho xây dựng quân cảng Nam Đồ Sơn kết hợp với hoạt động kinh tế. Quy hoạch, đầu tư sớm bến tàu du lịch quốc tế.
Phát triển hệ thống giao thông sắt - bộ. Đẩy nhanh tiến độ cải tạo, xây mới hệ thống giao thông đối nội, nhất là tuyến Đình Vũ - Cát Bà, xây dựng tuyến đường vành đai 3, hoàn thành xây dựng Cầu Rào II, Cầu Khuể, nghiên cứu sớm triển khai xây dựng cầu Niệm II; xây dựng tuyến đường sắt từ cảng Chùa Vẽ đến Đình Vũ; xây dựng ga lập tàu tại Cam Lộ và các tuyến đường sắt Cam Lộ - Minh Đức, Cam Lộ - Đình Vũ, Cam Lộ - Đồ Sơn. Phát triển hệ thống giao thông đối ngoại: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, cầu nối Đình Vũ với Cát Hải; nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng thành tuyến đường đôi và điện khí hoá; sớm triển khai xây dựng đường cao tốc ven biển Thanh Hoá - Quảng Ninh qua Hải Phòng... Nâng cấp, mở rộng sân bay Cát Bi thành Cảng hàng không quốc tế.
Đẩy nhanh phát triển các khu, cụm công nghiệp: Xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong các khu công nghiệp Tân Liên, Tràng Duệ, Shinec, Đình Vũ để có sẵn mặt bằng sạch với đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật thuận lợi cho sản xuất- kinh doanh. Thực hiện tốt quy hoạch hình thành một số khu, cụm công nghiệp chuyên ngành quy mô lớn, xây dựng quy hoạch chi tiết những khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 180/QĐ-Ttg về điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp của Hải Phòng đến năm 2020 bằng các nguồn vốn khác nhau.
Tiếp tục phát triển hạ tầng mạng lưới điện, nguồn cung cấp điện đáp ứng yêu cầu đủ, ổn định, an toàn, chất lượng: Đảm bảo tiến độ xây dựng nhà máy nhiệt điện Tam Hưng, giai đoạn 1 công suất 600MVA đưa vào hoạt động cuối năm 2008. Xây dựng thêm các trạm biến áp mới; cải tạo nâng cấp, xây dựng lưới điện cao thế (220KV và 110 KV), lưới điện trung thế (22KV) và lưới điện hạ áp trên địa bàn thành phố.
Tiếp tục đẩy nhanh xây dựng, cải tạo hệ thống cấp nước đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, ổn định, chất lượng, giảm thất thoát, giá cả hợp lý: Cải tạo nâng cấp, mở rộng nhà máy nước An Dương, Cầu Nguyệt, Hoà Bình... cải tạo nâng cấp mạng lưới truyền dẫn, phân phối nước, đặc biệt đến chân hàng rào các KCN
Tiếp tục hiện đại hoá mạng lưới bưu chính - viễn thông đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng, giảm giá thành của các dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông, vận tải hàng hoá, khách du lịch, dân đô thị (hệ thống xe buýt),dịch vụ liên quan đến cảng.
Phát triển các cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội chất lượng cao đồng bộ với phát triển hạ tầng kỹ thuật: đầu tư xây dựng, nâng cấp Bệnh viện đa khoa Việt Tiệp, khuyến khích đầu tư xây dựng bệnh viện đạt chuẩn quốc tế, bệnh viện quốc tế với hệ thống trang thiết bị khám chữa bệnh đồng bộ, hiện đại cùng với đội ngũ thầy thuốc giỏi; xây dựng các trường học quốc tế, đạt chuẩn quốc tế với các cấp học từ tiểu học đến trung học phổ thông; phát triển các khu vui chơi, giải trí, các trung tâm thương mại chất lượng cao. Quy hoạch, xây dựng các khu nhà ở cho thuê dành riêng người nước ngoài đang làm việc tại Hải Phòng.
3.4.2. Tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý.
Rà soát các văn bản thành phố đã ban hành, điều chỉnh, huỷ bỏ để đảm bảo phù hợp văn bản pháp luật Trung ương, phù hợp những cam kết với WTO.
Các cấp chính quyền tăng cường đối thoại, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất- kinh doanh. Tiếp tục giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố.
3.4.3. Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến, vận động, thu hút vốn FDI
Nâng cao tính chuyên nghiệp trong tuyên truyền xúc tiến đầu tư, bổ sung kịp thời những thông tin phục vụ thiết thực cho xúc tiến, vận động đầu tư trên các công cụ, tài liệu cả giấy và điện tử, bằng các ngôn ngữ thông dụng như: Anh, Trung, Nhật, Hàn... nhằm kip thời quảng bá hình ảnh, môi trường đầu tư Hải Phòng ra ngoài nước. Nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả các trang thông tin điện tử: Website của UBND thành phố, Website về đầu tư nước ngoài của Sở Kế hoạch và Đầu tư phục vụ tốt nhất nhu cầu tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh, du lịch tại thành phố của các nhà đầu tư từ nước ngoài.
Chú trọng tranh thủ phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương, văn phòng đại diện của các tổ chức xúc tiến đầu tư và thương mại quốc tế đặt tại Việt Nam, các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp về xúc tiến đầu tư, các doanh nghiệp FDI hoạt động thành công trên địa bàn để tổ chức các hoạt động triển lãm, hội thảo về xúc tiến đầu tư, chiến dịch quảng bá hình ảnh của thành phố.
Kết hợp chặt chẽ giữa xúc tiến đầu tư với xúc tiến thương mại, du lịch tại các nước có tiềm năng về thương mại như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Bắc Mỹ, ASEAN, các nước Châu Phi và vùng lãnh thổ Đài Loan; các nước có tiềm năng về du lịch (khách du lịch tới Việt Nam) như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các nước ASEAN, EU, Bắc Mỹ, Nga... Kết hợp xúc tiến đầu tư FDI với vận động nguồn ODA, nguồn viện trợ NGO, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Cần tranh thủ sự hỗ trợ, kết hợp với các bộ, ngành Trung ương, các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp về xúc tiến đầu tư để tổ chức các hoạt động triển lãm, hội thảo về xúc tiến đầu tư, chiến dịch quảng bá hình ảnh của thành phố.
Tập trung kêu gọi đầu tư vào ngành, lĩnh vực, dự án khai thác có hiệu quả lợi thế của thành phố, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, góp phần tích cực tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tạo sự tác động lan tỏa; phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội. Một số lĩnh vực trong đó như phát triển dịch vụ cảng biển, dịch vụ tài chính, thương mại; công nghiệp: sản xuất các thiết bị siêu trường, siêu trọng, sản xuất phôi thép, thép tấm, động cơ và linh kiện phục vụ ngành đóng tàu biển, sản xuất container, cần trục, sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ ngành may mặc, giầy dép, các phụ tùng, chi tiết phục vụ ngành ô tô, sản xuất hàng điện tử phục vụ sản xuất và tiêu dùng; phát triển du lịch: xây dựng các khu vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng khách sạn tại Đồ Sơn, Cát Bà; thủy sản: nuôi trồng, chế biến hải sản... Khuyến khích các dự án có công nghệ cao, hạn chế ảnh hưởng xấu đến môi trường, mang hiệu quả kinh tế-xã hội cao trên 1 đơn vị diện tích đất sử dụng. Đồng thời chú trọng dự án phát triển hạ tầng đô thị, công nghiệp như: Khu đô thị Bắc Sông Cấm, Khu công nghiệp công nghệ cao ở Thuỷ Nguyên...
3.5. Một số kiến nghị
Thứ nhất, giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng. Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Vừa kêu gọi vốn đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng, vừa phải đẩy nhanh tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
Thứ hai, giải pháp khắc phục những hạn chế của các yếu tô trong môi trường kinh tế. Thực hiện nghiêm túc những chính sách kinh tế mà nhà nước đã đưa ra để hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kích thích nhu cầu người tiêu dùng, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp cho người lao động, hạn chế khả năng bùng phát dịch bệnh. Ngoài ra cần chú ý việc cân đối ngân sách cho phù hợp khi thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Nâng cao tính chủ động, ý thức tự giác, làm việc có trách nhiệm cho một số cán bộ địa phương để nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội toàn thành phố,tránh hiện tượng đùn đảy, né tránh việc khó.
Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. àn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. Nâng cao trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư, khả năng phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương. Cụ thể hóa các văn bản pháp luật một cách dễ hiểu., dễ áp dụng.tránh tính trạng tạo ra các cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho việc thực hiện.
Thứ tư, về cải cách thủ tục hành chính. Trước hết cần đổi mới quan điểm về thủ tục hành chính. Các cơ quan nhà nước cần có tư duy sát thực hơn về hoạt động đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng trước hết đây vừa là lợi ích, vừa là trách nhiệm của họ. Cơ quan quản lý nhà nước phải nhận thức, quán triệt quan điểm phục vụ trong chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính là nhiệm vụ trung tâm theo hướng nhận khó khăn về phía mình để tìm cách đơn giản hoá thủ tục hành chính tới mức cao nhất, đem lại thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, mọi thủ tục hành chính cần hướng vào việc tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được thiết kế theo hướng để khi doanh nghiệp thực hiện với thời gian ngắn nhất và chi phí thấp nhất. Từ điều này sẽ tìm ra nhiều cách sáng tạo thực hiện. Ngoài ra, thủ tục mới nhưng con người cũ, tư tưởng cũ sẽ là một vật cản lớn trong cải cách hành chính. Trên thực tế, có những vấn đề đã quy định cụ thể, thủ tục thông thoáng nhưng do nhận thức, thói quen nuối tiếc với cơ chế “xin - cho” của một bộ phận cán bộ, công chức hành chính nên sự việc tuy dễ hoá khó khăn. Thủ tục hành chính dù hay đến mấy nhưng chỉ nằm trên giấy tờ văn bản, muốn đi vào cuộc sống phải thông qua con người áp dụng. Do đó, sự công tâm của cán bộ, công chức hành chính cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công khai sẽ là những yếu tố quan trọng để Hải Phòng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, giải pháp về lao động, tiền lương. đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực (cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật cao, lành nghề) luôn được coi trọng, vì đó là nhân tố quyết định và là cầu nối cực kỳ quan trọng giữa nhà đầu tư với địa phương. Vì vậy, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đồng bộ với các mặt: giáo dục - đào tạo, sử dụng và tạo việc làm là yêu cầu không thể thiếu trong thu hút đầu tư. Tăng cường đầu tư các dịch vụ phục vụ ăn, ở, đi lại, học hành, khám và điều trị bệnh, nhu cầu vui chơi, giải trí cho người lao động tại các khu công nghiệp. Trước mắt tập trung giải quyết hiệu quả vấn đề nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp trên địa bàn nhằm ổn định lâu dài nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư.
Ngoài các giải pháp trên, cần chủ động gặp gỡ các nhà đầu tư, qua đó nắm bắt các nhu cầu và tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp. Tổ chức tuyên truyền, vận động, thuyết phục các nhà đầu tư đồng tình ủng hộ việc thành lập các tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức này hoạt động. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển; bảo đảm hài hòa lợi ích của doanh nghiệp, Nhà nước và người lao động.
KẾT LUẬN
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài) đã và đang trở thành bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển.
Những năm vừa qua, tình hình thu hút vốn FDI trên địa bàn thành phố khá lạc quan nhưng không vì thế mà Hải Phòng coi nhẹ công tác này. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn FDI, thành phố Hải Phòng đã và đang thực hiện nhiều biện pháp để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, nhưng cũng không đánh giá thái quá vai trò của nó dẫn tới tình trạng ưu tiên một cách quá mức cho hoạt động này.
So với trước đây, môi trường đầu tư của thành phố đang được cải thiện tốt hơn, đặc biệt trong thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài cũng trở nên thông thoáng hơn rất nhiều. Bởi vậy, ngoài các nhà đầu tư đến từ các quốc gia truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, đã xuất hiện thêm các nhà đầu tư mới đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như: Hoa Kỳ, Singapo, các nước thuộc liên minh Châu Âu EU.
Như vậy, bằng chính nỗ lực của mình, Hải Phòng đang cố gắng rất nhiều để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đầu tư nước ngoài nhằm phát triển cơ cấu kinh tế thành phố theo hướng CNH- HĐH, góp phần đưa Hải Phòng trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục sách, giáo trình tham khảo:
Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động xã hội, 2005.
Nguyễn Bạch Nguyệt, Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2007.
Võ Thanh Thu, Giáo trình Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, NXB Thống kê.
Đinh Đào Ánh Thủy, Bài giảng Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, Khoa Đầu tư Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2008.
Lê Xuân Bá, Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Khoa học kỹ thuật, 2006.
Đan Đức Hiệp, Phạm Vũ Can, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát triển, NXB Thống kê, 2005.
20 năm đầu tư nước ngoài, Nhìn lại và hướng tới 1987- 2007, NXB Tri thức.
Thời báo kinh tế Việt Nam 2008 – 2009
Phùng Xuân Nhạ, Giáo trình Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Danh mục các văn bản pháp luật tham khảo:
Quyết định số 369/QĐ – UB của UBND Thành phố Hải Phòng về việc ban hành một số chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng.
Kế hoạch xúc tiến đầu tư năm 2010, UBND Thành phố Hải Phòng.
Tình hình chung về FDI tại Hải Phòng năm 2009, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng.
Báo cáo Tổng kết thực hiện công tác năm 2009, Phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2010.
Cục Thống kê Hải Phòng, Niên giám Thống kê Hải Phòng từ 2000 - 2008.
Danh mục các trang web tham khảo:
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM KẾT
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư. 3
1.1. Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm 3
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư 3
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài 5
1.1.2. Các hình thức FDI cơ bản 7
1.1.2.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) 8
1.1.2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh 8
1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài 9
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 10
1.1.3.1. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư 10
1.1.3.2. Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư 11
1.2. Những lý luận cơ bản về môi trường đầu tư 15
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường đầu tư 15
1.2.2. Nội dung của môi trường đầu tư 17
1.2.2.1. Môi trường chính trị - xã hội 17
1.2.2.2. Môi trường cơ sở hạ tầng 18
1.2.2.3. Môi trường kinh tế 19
1.2.2.4. Môi trường luật pháp, chính sách 19
1.2.2.5. Môi trường lao động, tài nguyên 20
1.2.3. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư 21
1.3. Kinh nghiệm thu hút FDI ở một số tỉnh, thành phố 22
Chương II: Thực trạng thu hút vốn FDI và môi trường đầu tư ở thành phố Hải Phòng. 29
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên thành phố Hải Phòng 29
2.2. Tình hình thu hút vốn FDI vào Hải Phòng từ 2005 đến 2009 31
2.2.1. Quy mô và tốc độ thu hút FDI tại Hải Phòng 31
2.2.2. Tình hình thu hút FDI theo đối tác 33
2.2.3. Tình hình thu hút vốn FDI theo hình thức đầu tư 34
2.2.4. Tình hình thu hút vốn FDI theo ngành, lĩnh vực đầu tư 35
2.2.5. Đánh giá kết quả hoạt động thu hút FDI 36
2.3. Thực trạng môi trường đầu tư ở Hải Phòng 41
2.3.1. Môi trường chính trị - xã hội 41
2.3.2. Môi trường cơ sở hạ tầng 42
2.3.3. Môi trường kinh tế 45
2.3.4. Môi trường luật pháp, chính sách 47
2.3.5. Môi trường lao động, tài nguyên 48
2.4. Đánh giá thực trạng môi trường đầu tư trong việc thu hút FDI ở Hải Phòng 50
2.4.1. Một số kết quả nổi bật 50
2.4.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân 51
Chương III: Giải pháp góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng 55
3.1. Cơ hội thách thức đối với Hải Phòng trong việc thu hút FDI 55
3.2. Mục tiêu thu hút FDI của Hải Phòng trong thời gian tới. 58
3.3. Giải pháp chung của nhà nước nhằm tăng cường thu hút FDI 58
3.2.1 Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp. 59
3.2.2 Cải cách thủ tục hành chính 59
3.2.3 Đào tạo nguồn nhân lực 60
3.2.4. Cải thiện cơ sở hạ tầng 60
2.3.5. Một số giải pháp khác 60
3.4. Giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng 61
3.4.1. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật 61
3.4.2. Tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý. 62
3.4.3. Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến, vận động, thu hút vốn FDI 63
3.5. Một số kiến nghị 64
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31754.doc