Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mở ra cho ngân hàng rất nhiều con đường, hướng đi. Tất cả những khó khăn, thử thách và cơ hội vẫn đang còn ở phía trước. Điều này đòi hỏi chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh cần phải xây dựng cho mình hướng đi, phát triển đúng đắn đồng thời nỗ lực cố gắng thực hiện nhằm đặt được kết quả tốt nhất và có những biện pháp phù hợp để khắc phục những vấn đề còn tồn đọng . Chuyên đề thực tập đã thực hiện nội dung cơ bản sau: - Những kiến thức cơ bản về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại - Thực trạng rủi ro tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh đồng thời đánh giá, phân tích. - Giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(2005-2007) Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền % Tỷ lệ NQH (%) Số tiền % Tỷ lệ NQH (%) Số tiền % Tỷ lệ NQH (%) Cá nhân, hộ sản xuất 1295 79 1,24 2016 80,2 1,5 5593 85,8 2,4 Thành phần khác 345 21 7,2 497 19,8 4,4 927 14,2 4 Tổng NQH 1640 100 1,5 2513 100 1,7 6520 100 2,5 Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp (2005-2007) Nợ quá hạn của cá nhân, hộ sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất (quá nửa) qua các năm. Năm 2005, nợ quá hạn là 1295 triệu đồng, chiếm 79% tổng nợ quá hạn. Năm 2006, là 20016 triệu đồng, chiếm 80,2%; tăng 721 triệu đồng tương ứng tăng 55,67% so với năm 2005. Đến năm 2007 là 5593 triệu đồng, chiếm 85,8%; tăng 3577 triệu đồng, tương ứng 177%. So với năm 2006 nợ quá hạn của thành phần này tương ứng cân bằng với dư nợ của nó. Ngoài ra, tố độ tăng của nợ quá hạn của thành phần này lớn hơn tốc độ tăng của dư nợ. Nguyên nhân của kết quả này là do thành phần này hoạt động trong môi trường phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên, mà thời tiết ở địa bàn không ổn định, nắng mưa thất thường, lũ lụt, hạn hán khó có thể tránh khỏi. Bằng việc gia hạn nợ, hoặc cho vay thêm đối với thành phần này ngân hàng muốn khách hàng có thể sản xuất tốt để tăng lãi kinh doanh, thuận lợi cho việc trả nợ. Ngoài ra, có những khách hàng cố tình vay vốn của ngân hàng để chiếm đoạt vốn ngân hàng nên ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ. Đối với nợ quá hạn ở thành phần khác thì tỷ trọng chiếm phần nhỏ và có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2005, nợ quá hạn là 345 triệu đồng, chiếm 21%. Năm 2006, nợ quá hạn là 497 triệu đồng, chiếm 19,8% tăng 44% so với năm 2005, thì đến năm 2007 tăng 86,5% so vo năm 2006. Ngược lại với xu hướng của tỷ trọng dư nợ cho vay với thành phần này là tăng qua các năm thì tỷ trọng nợ quá hạn có xu hướng giảm. Thành phần này dần dần biết nắm bắt cơ hội kinh doanh, mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực mới, tiếp cận được thị trường nhanh cho nên tỷ lệ nợ quá hạn qua 3 năm trên giảm dần tương ứng là 7,2%; 4,4%; 4%. Xét theo kỳ hạn cho vay, nợ quá hạn được phân thành ngắn hạn, trung và dài hạn. Tình hình nợ quá hạn theo kỳ hạn nợ thể hiện qua bảng như sau: Bảng 2.10: Phân loại nợ quá hạn theo kỳ hạn nợ Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền % Tỷlệ NQH (%) Số tiền % Tỷ lệ NQH (%) 06/05 (%) Số tiền % Tỷ lệ NQH (%) 07/06 (%) Ngắn hạn 582 35,5 2,07 931 37,1 1,6 60 2621 40,2 1,76 181 Trung, dài hạn 1058 64,5 1,3 1582 62,9 1,7 49,5 3899 59,8 3,5 146 Tổng NQH 1640 100 1,5 2513 100 1,7 53,2 6520 100 2,5 160 Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp (2005 -2007) Qua bảng số liệu 2.10 ta thấy, trong 3 năm qua nợ quá hạn tại ngân hàng chủ yếu là trung, dài hạn, chiếm quá nửa tổng nợ quá hạn. Vì phần lớn nguồn vốn huy động được là ngắn hạn và dư nợ tín dụng là trung, dài hạn. Nợ quá hạn của ngân hàng tương đương với dư nợ tín dụng cả về tỷ trọng lẫn xu hướng: về ngắn hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn và tỷ trọng tăng; về trung dài hạn chiếm phần lớn và tỷ trọng giảm dần qua các năm. Ngoài ra, tốc độ tăng nợ quá hạn ngắn hạn nhanh hơn tốc độ tăng nợ quá hạn trung, dài hạn. Năm 2005, nợ quá hạn là 1640 triệu đồng, trong đó, nợ quá hạn ngắn hạn là 582 triệu đồng, nợ quá hạn trung, dài hạn là 1058 triệu đồng. Năm 2006, nợ quá hạn là 2513 triệu đồng, tăng 53,2% so với năm 2005, trong đó nợ quá hạn ngắn hạn là 931 triệu đồng, chiếm 37,1%; nợ quá hạn trung, dài hạn là 1582 triệu đồng chiếm 62,9% tương ứng tăng 60%, 49,5% so với năm 2005. Đến năm 2007, nợ quá hạn ngắn hạn chiếm 40,2%, tăng 181% so với năm 2006. Nợ quá hạn trung, dài hạn chiếm 59,8% tăng 146% so với năm 2006. Xét về tỷ lệ nợ quá hạn thì có thể chấp nhận được vì vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của ngân hàng, tuy nhiên tốc độ tăng đặc biệt là ở trung, dài hạn là nhanh. Vì vậy, ngân hàng cần chú ý trong công tác quản trị tín dụng để đạt kết quả tốt hơn. 2.4 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HUYỆN KỲ ANH 2.4.1 Những kết quả đạt được Với sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên, trong 3 năm qua chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh đạt được những thành công nhất định trong công tác hoạt động tín dụng. + Quy mô tín dụng lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh qua các năm. + Tỷ lệ nợ quá hạn không cao (< 5%). Tuy tỷ lệ nợ quá hạn có tăng qua các năm nhưng vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của ngân hàng. + Thực hiện có hiệu quả công tác thu hồi nợ. Ngân hàng tăng cường thu hồi đối với các khoản nợ đến hạn, nợ quá hạn, thu khoản nợ rủi ro, thu lãi cho vay, xử lý nợ khó đòi, nợ có vấn đề. Do đó, trong 3 năm qua tỷ lệ thu lãi từ hoạt động tín dụng luôn đạt gần 95% lãi, thu hồi những khoản nợ quá hạn đã được xử lý rủi ro bình quân hàng năm là 450 triệu đồng. + Xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa các phòng ban với nhau. Đặc biệt là mối quan hệ giữa cán bộ tín dụng và kế toán cho vay biểu hiện như: đối với những khoản vay từ lần thứ 2 trở đi khi thẩm định hồ sơ xin vay cán bộ tín dụng đã có thể thu thập được nhiều thông tin thông qua việc xem số lưu các chứng từ của bộ phận kế toán cho vay. Do kế toán cho vay tại ngân hàng theo dõi việc trả nợ gốc và lãi của khách hàng theo kỳ hạn nợ một cách khoa học và thông báo kịp thời cho cán bộ tín dụng nên đã tạo điều kiện đôn đốc khách hàng trả nợ, trả lãi. + Ngân hàng đã thực hiện đúng hướng trong cơ cấu cho vay qua các năm. Với đặc điểm trên địa bàn hay gặp khó khăn trong hoạt động nông nghiệp nông thôn do ảnh hưởng môi trường tự nhiên khắc nghiệt. Nhận thức được vấn đề này cho nên trong những năm qua ngân hàng đã chuyển hướng từ cho vay các hộ sản xuất , cá nhân hoạt động trong ngành nông nghiệp, nông thôn sang cho vay thành phần khác. Tỷ trọng cho vay ở cá nhân, hộ sản xuất giảm dần cùng với sự tăng lên về tỷ trọng cho vay thành phần khác. Sự chuyển dịch này tránh được rủi ro từ việc làm ăn thua lỗ trong hoạt động nông nghiệp đồng thời khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh khác đầy tiềm năng phát triển của huyện nhà. Trong 3 năm qua, do hoạt động kinh doanh đều có lãi đã nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên. Đây là kết quả hết sức khả quan vừa là nguồn động viên khích lệ rất lớn đối với cán bộ toàn ngân hàng. Dưới dự lãnh đạo đúng đắn của ban giám đốc chi nhánh cũng như quá trình làm việc nhiệt tình của cán bộ, nguồn vốn huy động được sử dụng một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vay vốn trong địa bàn góp phần vào quá trình phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh những kết quả đạt được trên, hoạt động tín dụng tại ngân hàng còn bộc lộ những điểm yếu cần khắc phục. 2.4.2 Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân Một số khó khăn, vướng mắc + Khi vay vốn tại ngân hàng, thủ tục giấy tờ quá rườm rà. Hồ sơ vay vốn gồm rất nhiều giấy tờ, cần nhiều chữ ký, chứng nhận của các cơ quan liên quan. hồ sơ được chấp nhận cho vay phải qua bốn chữ ký của cán bộ tín dụng, trưởng phòng tín dụng, giám đốc hoặc người được uỷ quyền và cán bộ kế toán. + Việc đầu tư tín dụng còn mang tính bị động. Chỉ vì sợ mất khách hàng do nghe thông tin ngân hàng khác trên địa bàn lôi kéo mà trong khi đó chưa có thông tin đầy đủ, chính xác để phân tích thẩm định đã quyết định cho vay. + Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng với chủ đầu tư. Trong công tác xây dựng các dự án có tính khả thi sự phối hợp còn chưa ăn ý. Cán bộ trực tiếp thẩm định của ngân hàng năng lực trình độ còn bất cập do đó khả năng tư vấn tham mưu cho chủ đầu tư bị hạn chế. + Một số cán bộ tín dụng chưa nghiêm túc. Điều này thể hiện trong việc chấp hành quy trình nghiệp vụ, tình trạng gia hạn nợ còn nhiều và chưa thực hiện tốt việc thu nợ các kỳ hạn đến hạn của vốn vay. + Tỷ trọng cho vay với thành phần cá nhân, hộ sản xuất chiếm tỷ trọng lớn kèm theo nợ quá hạn ngày càng tăng.Mặc dù tỷ trọng của thành phần này tuy có xu hướng giảm qua các năm nhưng do sự áp đặt chỉ đạo của cấp trên nên vẫn tập trung vốn nhiều đồng thời việc yêu cầu gia hạn nợ xảy ra do đó kéo theo sự thiếu trách nhiệm, chây lỳ trong việc trả nợ cho ngân hàng. + Năng lực của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Những cán bộ lâu năm từ chế độ cũ do khả năng thích ứng sự chuyển đổi còn kém, trình độ đào tạo chưa chuyên sâu; những cán bộ mới kinh nghiệm còn thiếu, còn vội vàng khi quyết định cho vay. Ngoài ra, ở chi nhánh không có bộ phận riêng làm công tác thẩm định để được chuyên môn hoá theo từng doanh nghiệp nên công việc đối với cán bộ là quá nhiều, không chuyên sâu, không đem lại hiệu quả cao. Mặc dù, chi nhánh với vẫn tạo điều kiện tổ chức các lớp đào tạo, nâng cao nghiệp vụ nhưng kết quả vẫn chưa khả quan, những thông tin cần cập nhật hàng ngày còn thiếu. Do đó điều này sẽ ảnh hưởng tới tầm nhìn, nắm bắt thông tin…và dẫn tới hiệu quả việc làm kém. + Thẩm định chưa hiệu quả.Trong công tác thẩm định dự án, đánh giá tác động của môi trường, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, thị trường tiêu thụ…thì cán bộ tín dụng có thể phân tích và nắm rõ. Tuy nhiên, riêng khâu thẩm định về phương diện kỹ thuật có những dự án do không thể nắm bắt được các thông số kỹ thuật nên hầu như là chấp nhận, tin tưởng theo phương án đề xuất của doanh nghiệp. + Quy trình cho vay mà hiện nay ngân hàng đang áp dụng còn chưa phù hợp. Sự áp đặt theo quy trình cho vay đôi lúc tạo ra sự cứng nhắc, chưa linh động làm cho cán bộ tín dụng và khách hàng không thuận lợi trong việc thực hiện. + Công tác giám sát kiểm tra sau khi cho vay đối với khách hàng còn chưa chú ý. Hầu hết các cán bộ tín dụng chỉ chú ý đến khâu thẩm định trước khi cho vay mà không kiểm tra, khảo sát xem xét quá trình sử dụng vốn của khách hàng như thế nào đặc biệt là đối với những khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng. Các cán bộ tín dụng thường có tâm lý tin tưởng đối với khách hàng, e ngại mà bỏ qua công việc kiểm tra. Điều này gây dễ dàng cho khách hàng sử dụng không đúng với cam kết trong hợp đồng tín dụng, gây rủi ro đạo đức. + Công tác trích lập dự phòng rủi ro tín dụng còn thiếu chưa đáp ứng được theo yêu cầu đề ra. Đó là hiện nay, có những khoản vay có rủi ro thì được liệt kê vào khoản vay có hiệu quả. Do vậy không được trích lập dự phòng rủi ro tín dụng từ trước cho khoản vay này nên khi rủi ro thực sự xảy ra thì ngân hàng không có đủ dự trữ để bù đáp, tình trạng nợ đọng tăng. + Không đa dạng hoá danh mục cho vay. Tại chi nhánh còn thiếu sự quan tâm, chú ý tới yếu tố đa dạng hoá danh mục cho vay cũng như chưa có hình thức quản lý rủi ro toàn danh mục. Cho nên việc tính toán đầu tư bao nhiêu cho các ngành nghề, lĩnh vực, loại cho vay theo thời hạn, theo loại tiền…nhằm đem lại rủi ro thấp nhất, đảm bảo thích hợp với cơ cấu nguồn vốn, khả năng của ngân hàng, chiến lược kinh doanh là chưa có. Điều này đòi hỏi ngân hàng cần phải thực hiện đa dạng hoá danh mục cho vay. + Sự phức tạp của tình hình trên địa bàn. Sự thay đổi về kinh tế, xã hội, thời tiết trên địa bàn tác động đến đời sống người dân cũng như hoạt động của ngân hàng. Những trận lũ càn quét, sự xuất hiện của dịch bệnh, gia tăng giá cả… kéo theo đó là khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút, cơ sở vất chất của ngân hàng hư hỏng. Điều đó đòi hỏi chi nhánh phải có một bộ phận chuyên dự báo tình hình trên địa bàn để từ đó đưa ra những chính sách hợp lý. Nguyên nhân * Nguyên nhân từ phía ngân hàng + Do phương pháp phân loại tín dụng. Phương pháp phân loại tín dụng mà chi nhánh hiện nay đang áp dụng, phương pháp phân loại theo thời gian, không bao quát được tất cả các món vay có rủi ro dẫn đến việc trích lập dự phòng rủi ro còn thiếu. + Thẩm định, đánh giá tài sản bảo đảm còn gặp nhiều khó khăn. Đó là chưa xác định đúng giá trị thị trường của tài sản bảo đảm, công tác bảo quản chưa đúng, hợp lý; giấy tờ mang tính hợp pháp liên quan đến nhiều ban ngành…do đó khi khoản nợ của khách hàng thành khoản nợ khó đòi thì việc xử lý tiến hành chậm. Cụ thể khi ngân hàng buộc phải phát mại tài sản thì không thu hồi đủ vốn được cho vay. + Phương thức cho vay còn nghèo nàn.Hiện nay ở chi nhánh phương thức cho vay chủ yếu là cho vay theo món. Bên cạnh đó hình thức cho vay áp dụng thực tế tại ngân hàng còn hạn chế, hầu hết là hình thức bán lẻ, cho vay trực tiếp. Ngoài ra, việc áp dụng hình thức cho vay qua tổ vay vốn khó phổ biến do tổ trưởng không có trình độ hoặc có nhưng không cao nên hay làm sai quy chế cho vay mặc dù ngân hàng vẫn có những buổi tập huấn, hướng dẫn tốn kém nhiều chi phí nhưng vì lợi ích trước mắt mà quên đi nhiệm vụ của mình. + Việc đôn đốc thu hồi nợ gốc và lãi chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức. Đối với nợ gốc, một mặt do chưa phân loại được các món vay để có kế hoạch thu hồi nợ. Mặt khác do nguồn thu nợ thứ hai từ việc phát mại tài sản bảo đảm gặp khó khăn. Bên cạnh đó, lợi dụng sự quen biết nên một số cán bộ tín dụng đã tạo điều kiện cho khách hàng được xoá nợ tuy nhiên đây chỉ là món vay nhỏ. Đối với vấn đề lãi, thì mặc dù ngày trả lãi được quy định có thể trước nhưng hiện tượng trả lãi chậm vẫn xảy ra khá phổ biến. Nguyên nhân do ngân hàng không thường xuyên nhắc nhở cũng như chưa áp dụng biện pháp mạnh. + Cán bộ tín dụng còn chưa tuân thủ theo quy trình tín dụng. Công tác phân tích khách hàng trước khi cho vay chỉ tập trung vào các trường hợp mà có biểu hiện tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính không khả quan còn những trường hợp chưa biểu hiện thì hầu như quyết định cho vay mà không cần tham quan nhà xưởng, nhà cửa…để xem xét. Đặc biệt sau khi khách hàng nhận số tiền vay vốn thì cán bộ tín dụng hầu như không xem xét việc khách hàng sử dụng vốn như thế nào. Nếu cấp trên có yêu cầu thì cũng chỉ kiểm tra một cách chung chung, hình thức là chính. Chính vì vậy, tình hình kinh doanh, kết quả làm ăn của khách hàng ra sao, ngân hàng không thể biết được. * Nguyên nhân từ phía khách hàng + Do hạn chế khả năng hiểu biết. Biểu hiện thông qua kiến thức về sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, trình độ văn hoá thấp, còn có tình trạng mù chữ của bà con nông dân nên việc tiếp thu, học hỏi những cái mới còn khó khăn. Mặt khác ngành nông nghiệp luôn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ thời tiết, dịch bệnh. + Tính trung thực của báo cáo tài chính. Các doanh nghiệp khi đưa ra các báo cáo tài chính không chính xác, đó là những con số giả mạo nhằm che đậy những vấn đề thực tế đang diễn ra tại cơ sở kinh doanh của mình. Từ những báo cáo này nếu như cán bộ tín dụng chỉ căn cứ vào nó để đánh giá khách hàng thì công tác phân tích khả năng trả nợ sẽ không đúng. + Khả năng kinh doanh và năng lực điều hành quản lý. Là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp với năng lực quản lý điều hành kém, quyết định thực hiện với chi phí thiết lập dự án cao, vốn tự có thấp …dẫn đến khả năng trả nợ thấp. Ngoài ra, công tác quản lý nguồn nhân lực không hiệu quả đã ảnh hưởng tới năng suất lao động, khả năng cạnh tranh trên thị trường nên khó có thể đứng vững, hoạt động kinh doanh kém, nguy cơ đóng cửa. + Do thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Điều này đã ăn sâu vào đời sống nhân dân nên khi vay vốn họ rút bằng tiền mặt, dẫn đến việc kiểm tra tài chính, sử dụng vốn vay, thu lãi, thu nợ không thuận tiện cho cả khách hàng lẫn ngân hàng. Ngoài ra, khi thẩm định các phương án, dự án vay vốn, ngân hàng áp đặt ý kiến chủ quan của mình đối với khách hàng. Chính yếu tố này làm phát sinh các trường hợp rủi ro mà nguồn gốc là khách hàng, có thể thiếu vốn đầu tư và phải cân đối vốn để trả nợ trước hạn so với dự tính ban đầu. * Nguyên nhân khác + Xuất phát từ định hướng phát triển kinh tế- xã hội. Định hướng của từng xã, từng vùng chưa cụ thể, chưa khả thị trường hoặc chủ trương của các ngành hữu quan không thống nhất dẫn đến tình trạng khó khăn trong công tác thẩm định và quyết định cho vay. Xét về mặt tài chính thì đạt nhưng xét về mặt xã hội thì không được, có thể tại khu vực doanh nghiệp thiếu sản phẩm đó nhưng trên bình diện chung thì thừa và ngược lại. Ngoài ra, những quy hoạch phát triển kinh tế không ổn định sẽ làm dự án ngừng hoạt động. + Do sự thay đổi chính sách của chính phủ, nhà nước. Điều này tác động ngay tới hoạt động của ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Sự thay đổi này tạo ra môi trường kinh doanh không ổn định, đôi khi để theo kịp có thể khiến cho doanh nghiệp phải chuyển hướng kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhỏ, tác động tuy không lớn lắm nhưng với doanh nghiệp làm ăn lớn thì chắc chắn suy yếu về tài chính là xảy ra. + Tính sẵn có và đầy đủ của thông tin. Hệ thống thông tin kinh tế, giá cả, thị trường nói chung và thông tin nói riêng đều ở tình trạng phân tán, kém hiệu quả, quy mô nhỏ, không đầy đủ, không kịp thời và thiếu chính xác. Do vậy chưa thể đáp ứng theo yêu cầu của ngân hàng. Việc phối hợp giữa các bộ, ban, ngành với chính quyền địa phương trong công tác xây dựng dự án cũng như cung cấp thông tin để đánh giá khách hàng chưa tốt. Chính vì vậy, hiện tượng cho vay không hiệu quả xảy ra không nhỏ. + Các ngân hàng cạnh tranh nhau về lãi suất.Các ngân hàng sau khi có quyết định cho phép áp dụng cơ chế lãi suất theo thoả thuận đã tạo ra cuộc chạy đua về tăng lãi suất huy động, mặt khác lại xác định lãi suất khoản cho vay thấp hơn mức độ rủi ro của khách hàng. Do vậy, một mặt vừa làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, mặt khác khách hàng không cẩn thận khi đưa ra quyết định đầu tư, tức là tăng mức độ rủi ro cho ngân hàng cũng như khách hàng. Nếu ngân hàng tiếp tục thực hiện lãi suất trên thì hiệu quả chắc chắn là khi ngân hàng không đủ vốn đáp ứng nhu cầu cho vay thì yêu cầu lãi suất cao đi kèm với những điều kiện khắt khe sẽ hạn chế những khách hàng có dự án tốt và chỉ có thể chấp nhận những khách hàng với rủi ro cao. CHƯƠNG III BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HUYỆN KỲ ANH - HÀ TĨNH 3.1 MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TRONG NĂM 2008 3.1.1 Mục tiêu + Nguồn vốn huy động nội tệ trên địa bàn (trừ TG KBNN, TCTD): 111 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 30%. + Nguồn vốn huy động ngoại tệ 1562 USD, tốc độ tăng trưởng 40%. + Dư nợ tín dụng là 321 tỷ đồng, tố độ tăng trưởng 25%. + Tỷ lệ nợ quá hạn là 1,8%; trong đó nợ xấu tối đa là 1%. + Tỷ lệ thu ngoài tín dụng là 6% + Hệ số lương đạt tối đa theo quy định + Hoạt động công đoàn, cán bộ vững mạnh xuất sắc, cơ quan văn hoá, tự vệ an ninh vững mạnh. 3.1.2 Phương hướng Để phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra năm 2008, ngân hàng đặt ra: + Coi trọng mối quan hệ và nêu lên những đề xuất kiến nghị để cấp uỷ, chính quyền địa phương các tổ chức đoàn thể quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ ngân hàng. Phối hợp với các cấp ngành, tổ chức xã hội, tuyên truyền đầy đủ các chủ trương, chính sách của ngành và các quy chế thủ tục đầu tư đến từng hộ nông dân và các hộ kinh doanh để tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận với ngân hàng một cách thuận lợi. + Về vấn đề huy động vốn: chủ động tăng trưởng nguồn với tại chỗ, linh hoạt áp dụng lãi suất thích hợp trong từng thời kỳ, tranh thủ nguồn vốn các dự án đầu tư trên đại bàn để chủ động đầu tư tăng trưởng tín dụng. Đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tiếp thị, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, thực hiện văn minh giao tiếp, làm tốt dịch vụ thanh toán tạo thuận lợi cho khách hàng, tích cực khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp tư nhân để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Giao chỉ tiêu cho từng cán bộ huy động tiền gửi tiết kiệm gửi góp, động viên khuyến khích khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. + Về vấn đề tín dụng: - Mở rộng đầu tư tín dụng trên cơ sở chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế của địa phương, nhất là các mũi đột phá trong phát triển kinh tế theo Nghị quyết của Đảng bộ huyện đã đề ra, trong đó tăng cường đầu tư vùng vành đai công nghiệp phục vụ cho khu kinh tế Cảng Vũng Áng. - Cho vay trực tiếp đến tận các hộ đồng thời phối hợp với các tổ chức trung gian như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh. Cán bộ tín dụng chỉ được cho vay trong địa bàn mình phụ trách. - Nâng cao chất lượng tín dụng: phân tích nguyên nhân nợ quá hạn khó thu hồi, tìm mọi biện pháp để xử lý hạn chế nợ quá hạn gia tăng. Thành lập đoàn xử lý nợ đoàn đối chiếu nợ, thường xuyên kiểm tra đôn đốc chấn chỉnh chất lượng nợ. + Công tác điều hành phải được xây dựng và thực hiện nghiêm túc theo quy chế và nội quy lao động, coi trọng công tác nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, chất lượng công tác của cán bộ, chất lượng đầu tư tín dụng và các dịch vụ ngân hàng… + Làm tốt công tác thị trường đua khen thưởng, xử lý nghiêm đối với những trường hợp cán bộ không chấp hành nghiêm túc nội quy lao động. 3.2 BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT HUYỆN KỲ ANH – HÀ TĨNH 3.2.1 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng Con người là một yếu tố quan trọng vừa là nền tảng, vừa là động lực đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Với lĩnh vực ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng thì con người được coi là yếu tố tác động quyết định đến công tác quản trị rủi ro. Nếu đội ngũ cán bộ được sử dụng đúng đắn sẽ đẩy lùi được điểm yếu, phát huy được điểm mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngân hàng. Ngược lại, cán bộ được sử dụng mà không có năng lực và đạo đức sẽ dẫn tới thiệt hại khôn lường. Trước hết là ngân hàng cần có chế độ tuyển dụng rõ ràng để thu hút các nhân viên có trình độ cao, tác phong làm việc công nghiệp, năng động, trẻ trung. Tức là trong khâu tuyển dụng nhân viên toàn ngân hàng nói chung và cho phòng tín dụng nói riêng cần phải đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo phù hợp với nhiệm vụ, công việc sẽ được giao. Những tiêu chuẩn khi lựa chọn nhân viên tín dụng có thể được khái quát: + Có kiến thức, được đào tạo có kỹ năng để xử lý các thông tin liên quan đến công việc của mình. Như vậy mới đủ năng lực để giải quyết các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ. + Tư cách phẩm chất đạo đức tốt đồng thời phải có khả năng giao tiếp để khi tiếp xúc với người đi vay tạo ra được sự tin tưởng đối với khách hàng, thuận lợi trong công tác tìm hiểu khách hàng. + Tìm tòi học hỏi, có chứng kiến để nâng cao kiến thức, thể hiện được bản lĩnh, ý chí vươn lên trong mọi hoạt động để khẳng định năng lực bản thân. + Khả năng phân tích, dự đoán các sự kiện kinh tế, xã hội cùng như xu hướng phát triển của nó. Đây là tầm nhìn của mỗi người tuy nhiên nó lại ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của toàn ngân hàng. Kinh nghiệm của bản thân dược đặt lên hàng đầu có thể sẽ đem đến những dự đoán chính xác. + Thực hiện tốt các văn bản chế độ của trong ngành, ngoài ngành, chấp hành đầy đủ các bước trong quy trình kỹ thuật nghiệp vụ khi cho vay. Dựa vào những tiêu chuẩn trên, NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cần định kỳ kiểm tra đánh giá lại trình độ của cán bộ công nhân viên. Để nâng cao trình độ phù hợp với xu thế phát triển cho đội ngũ cán bộ tín dụng, ngân hàng nên có chính sách tập huấn, hướng dẫn, đào tạo và đào tạo lại đặc biệt là kiến thức về thẩm định dự án. Ngoài ra, do phạm vị hoạt động của ngân hàng tập trung chủ yếu là nông nghiệp nông thôn nên trang bị, đào tạo cho cán bộ tín dụng các kiến thức về nông nghiệp. Điều này có thể thực hiện bằng: + Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, thuê các chuyên gia tới giảng dạy, hướng dẫn cho cán bộ tín dụng khi có điều kiện, cho hoặc cử cán bộ đi học lên trình độ cao hơn, các lớp do NHNN mở. + Khuyến khích, động viên cán bộ tự nghiên cứu tài liệu nâng cao tầm hiểu biết trong khi ngân hàng chưa có điều kiện cho tập huấn. + Cán bộ tín dụng cũ kèm cặp hướng dẫn, trao đổi cho cán bộ tín dụng mới về công việc phải làm cũng như kinh nghiệm. + Trao đổi, giao lưu học hỏi với các ngân hàng khác trên địa bàn. Bên cạnh chuyên môn, nghiệp vụ cán bộ cần phải được đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ và vi tính. Như vậy với những kiến thức này sẽ tăng khả năng đọc tài liệu tham khảo nước ngoài và hoàn thành công việc nhanh, chính xác hơn. Để phát huy tối đa năng lực của mỗi người, ngân hàng nên sắp xếp vị trí công việc sao cho phù hợp. Đồng thời với những nhóm khách hàng khác nhau sẽ giao cho từng nhóm cán bộ tín dụng quản lý riêng. Chính sự chuyên môn hoá này sẽ giúp cho quá trình quản lý khách hàng chặt chẽ hơn, dễ dàng nắm bắt thông tin đầy đủ chính xác, chuyên sâu về một lĩnh vực nhất định, do đó hạn chế được rủi ro tín dụng. Yêu cầu mỗi cán bộ không ngừng tự tu dưỡng phẩm chất đạo đức, nêu cao tinh thần ý thức trách nhiệm công việc. Cán bộ ở vị trí càng cao thì càng phải gương mẫu thực hiện. Điều này sẽ giúp xử lý công việc hiệu quả hơn, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại người khác tạo ra tích cực trong quản lý. Ngược lại, dù cho chính sách tín dụng, quy trình tín dụng có cụ thể khoa học hợp lý đến đâu chỉ vì lợi ích các nhân mà làm việc trái với lương tâm nghề nghiệp thì hậu quả gây ra không thể lường trước được. Ngân hàng nên định kỳ, đột xuất kiểm tra công việc, thái độ tiếp xúc với khách hàng, nhằm đánh giá, phát hiện nhanh những hành động sai trái. Trên cơ sở đó, những cán bộ nào đạt kết quả không tốt sẽ chịu hình thức xử phạt: kiểm điểm, thuyên chuyển công tác…Còn những cán bộ nào tốt nên động viên, khuyến khích bằng vật chất lẫn tinh thần, vì họ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất, công việc khó khăn vất vả phức tạp do đó cần có chính sách đãi ngộ thích hợp. Lợi ích này phải thể hiện qua chế độ lương, thưởng. Việc thưởng phạt này giúp cán bộ phấn khởi lên, làm việc có trách nhiệm, nhiệt tình, cố gắng, dẫn tới hiệu quả trọng hoạt động kinh doanh sẽ dược đẩy mạnh và phát triển. 3.2.2 Xây dựng hệ thống khách hàng Trước khi ra quyết định cho vay, ngân hàng cần tìm kiếm thông tin liên quan về khách hàng, từ đó có thể phân tích, đánh giá, nhận xét hiệu quả sử dụng vốn cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Thay vì mỗi lần khách hàng đến vau vốn ngân hàng đều phải thu thập thông tin thì ngân hàng sẽ xây dựng hệ thống khách hàng. Xây dựng hệ thống khách hàng có hiệu quả không những giúp cho ngân hàng dễ dàng đánh giá khách hàng, từ đó lựa chọn được những khách hàng tốt làm ăn có lãi để mở rộng, đầu tư tín dụng và hạn chế thấp nhất rủi ro mà nó còn giúp ngân hàng ổn định đầu ra. Để hệ thống khách hàng được phát huy tối đa thì công tác lựa chọn và phân loại khách hàng là hết sức quan trọng. Đối với mỗi khàch hàng khác nhau, ngân hàng cần có chính sách lôi kéo, thu hút khác nhau. Tiêu thức phân loại khách hàng được đề ra trên cơ sở tìm hiểu tham khảo kỹ lưỡng tiêu chuẩn phân loại ở ngân hàng khác và so sánh đối chiếu với khả năng, thực trạng của ngân hàng mình. Các khách hàng có thể được chia thành hai nhóm: Nhóm 1: bao gồm các khách hàng là hộ sản xuất Nhóm 2: bao gồm các khách hàng là doanh nghiệp Với những khách hàng thuộc nhóm 1 thì ngân hàng phải chủ động tăng cường đầu tư có trọng điểm theo các hướng: + Đối với hộ sản xuất kinh doanh lớn: tăng mức độ đầu tư cho khách hàng theo quy mô mở rộng sản xuất kinh doanh hộ, đầu tư vào các làng nghề chế biến sản phẩm; thực hiện đầu tư khép kín từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt là phải chú trọng đầu tư phát triển vào trồng cây công nghiệp và trang trại chăn nuôi. + Đối với hộ sản xuất nhỏ: thông qua các tổ chức xã hội như Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ… để thực hiện cho vay qua tổ tín chấp. Để thực hiện việc này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng với các tổ, đặc biệt cần phải lựa chọn tổ trưởng tốt cán bộ tín dụng phụ trách từng địa bàn có uy tín, trách nhiệm với nhân dân để tạo thuận lợi cho việc vay mượn cũng như công tác thu hồi nợ. Tham gia xây dựng các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn: điện, đường, trường, trạm, thủy lợi nội đồng, khu du lịch. Khách hàng thuộc nhóm 2 phân thành 4 loại như sau: + Doanh nghiệp loại A: là doanh nghiệp mạnh, có tình hình tài chính ổn địn, khả năng thanh toán cao, có uy tín, sức mạnh trên thị trường. Khách hàng này không nhiều, thường là các doanh nghiệp nhà nước hay một số doanh nghiệp lớn có uy tín. Ngân hàng nên đưa ra những biện pháp nhằm thu hút, tiếp cận khách hàng. Ngân hàng có thể cho hưởng một số ưu đãi như: cung cấp dịch vụ đi kèm và nếu vay vốn quá một mức nào đó thì lãi suất cho vay thấp hơn quy định. + Doanh nghiệp loại B: không phải là doanh nghiệp loại A tuy nhiên vẫn là các doanh nghiệp có tình hình tài chính tương đối ổn định. Đó là các hộ sản xuất, doanh nghiệp tư nhân, có tiềm năng phát triển chủ yếu là các mặt có liên quan đến nông, lâm, ngư nghiệp. Đây chính là đối tượng khách hàng quan trọng để ngân hàng đầu tư và tạo mối quan hệ tốt đẹp lâu dài. + Doanh nghiệp loại C: là doanh nghiệp ở trong tình trạng căng thẳng về tình hình tài chính. Ngân hàng cần hết sức chú ý, thận trọng vì nếu không thẩm định kỹ càng trước khi cho vay mà quyết định cho vay thì đem lại cho ngân hàng rủi ro rất lớn. + Doanh nghiệp loại D: Là doanh nghiệp không còn định hướng phát triển, đứng bên bờ phá sản. Tất nhiên với đối tượng này là không cho vay vốn. Trên cơ sở phân loại đó, ngân hàng cần có chiến lược khàch hàng đầy đủ và tương đối cụ thể bao gồm các chính sách hợp lý với từng loại đối tượng. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn cần tạo ra sự quan tâm đến với tất cả khách hàng phù hợp với định hướng phát triển của ngân hàng cũng như đường lối của nhà nước. Để phân loại khách hàng ngân hàng thực hiện chấm điểm cho khách hàng. Các tiêu chí được lựa chọn có thể bao gồm: tư cách pháp nhân, khả năng thanh toán, vòng quay vốn, thực trạng kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình công nợ, mức lợi nhuận, sức mạnh tài chính…Điểm của khách hàng là căn cứ cho việc quyết định nên cấp tín dụng hay không và được cấp thì bao nhiêu là phù hợp. Điều đáng nói ở đây là với tình trạng chấm điểm khách hàng hiện nay là bằng tay thì sẽ mất rất nhiều thời gian, dễ mắc phải nhầm lẫn, sai sót vì lượng khách hàng, chỉ tiêu đánh giá rất nhiều, đôi khi làm việc qua loa, đại khái, phụ thuộc vào ý kiến chủ quan. Để hạn chế được tình hình này, ngân hàng cần thiết có phần mềm chấm điểm tự động tuy nhiên vẫn phải điều chỉnh cho thích hợp với từng thời kỳ. Như vậy, xây dựng hệ thống khách hàng ngày càng hoàn thiện sẽ vừa mở rộng hoạt động tín dụng, vừa hạn chế rủi ro tín dụng. 3.2.3 Triển khai công tác trích lập dự phòng đúng, đầy đủ, hiệu quả Với hoạt động tín dụng thì rủi ro là khách quan, khó tránh khỏi. Để bù đắp những tổn thất khi rủi ro xảy ra, ngân hàng tiến hành trích lập dự phòng từ nguồn lợi nhuận sau thuế. Từ năm 2005, ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước. Theo quyết định này thì nợ quá hạn được phân thành 5 nhóm theo thứ tự mức độ rủi ro mà không chỉ dựa trên thời gian quá hạn mà mỗi nhóm tướng ứng với tỷ lệ trích lập dự phòng riêng. Định kỳ hàng quý và trong thời gian 15 ngày làm việc đầu tiên thì ngân hàng cần phải tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. ngân hàng cần thực hiện đúng, đầy đủ theo quyết định tuy nhiên không nên tuân thủ, áp đặt quá mức mà đôi lúc phải linh hoạt khi xác định rủi ro có thể xảy ra cho mỗi khoản vay. Khi sử dụng quỹ dự phòng bù đắp tổn thất chỉ được thực hiện khi đó là khoản vay thuộc nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) mà sau quá trình thương lượng với người đi vay và phát mại tài sản bảo đảm vẫn chưa đủ. Do đó, trên cơ sở từng nhóm nợ có tại ngân hàng mà ngân hàng đánh giá được khả năng rủi ro gặp phải đồng thời trích lập số tiền dự phòng chính xác. Một vấn đề cần nói đến là ngân hàng cần phải xác định đúng nhóm nợ của khoản vay từ đó mới đưa ra con số dự phòng chính xác, hạn chế thừa thiếu quá mức và tỷ lệ trích lập dự phòng tương ứng nhóm nợ thể hiện thông qua bảng sau: Phân loại Tiêu chuẩn Tỷ lệ trích lập DPRR Nợ đủ tiêu chuẩn + Các khoản nợ trong hạn được đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn CN Hà Nội% Nợ cần chú ý + Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại 5% Nợ dưới tiêu chuẩn + Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại 20% Nợ nghi ngờ + Các khoản nợ quá hạn từ 180 đến 360 ngày + Các khoản nợ cơ cấu lại theo thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạ đã cơ cấu lại 50% Nợ có khả năng mất vốn + Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày + Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý + Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại 100% 3.2.4 Tăng cường liên kết với các ngân hàng khác Một trong các mặt liên kết với các ngân hàng khác là cho vay đồng tài trợ theo dự án. Theo cách làm truyền thống từ trước đến nay, tổ chức tín dụng thường ngồi chờ khách hàng đem dự án tới để xin vay, cách này tỏ ra không hiệu quả. nhất là trong thời gian hiện nay, các tổ chức tín dụng trong nước hoạt động trong môi trường mà mức độ cạnh tranh rất khó với chi nhánh ngân hàng nước ngoài cả về vốn lẫn công nghệ cũng như cách tổ chức công việc. Do vậy, chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh nên dựa vào chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương liên kết với ngân hàng thương mại khác để xây dựng vốn sẽ chủ động được nguồn tín dụng, cho vay đúng mục đích, chủ động trong việc thẩm định đồng thời quản lý rủi ro của mình. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cũng không chỉ liên kết với các ngân hàng thương mại quốc doanh mà cũng cần phải liên kết với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng ngoài quốc doanh. Sự liên kết này không chỉ giúp mở rộng tín dụng mà còn giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả món vay. Bên cạnh đó, trong quá trình liên kết thực hiện cho vay, ngân hàng và đội ngũ cán bộ tín dụng cũng trao đổi, học hỏi được kinh nghiệm, cách thức thẩm định, đánh giá dự án, phương pháp quản lý món vay, quản lý điều hành, hạn chế rủi ro…Điều này cũng giúp cho ngân hàng nâng cao năng lực của riêng mình trong hoạt động quản trị. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cũng cần tạo ra mối quan hệ hết sức chặt chẽ với NHNN và các ngân hàng thương mại khác trong việc trao đổi thông tin về khách hàng, tình hình biến động của sự phát triển các ngành nghề và nền kinh tế nhằm có được các thông tin chính xác, kịp thời đảm bảo đề ra các quyết định của ngân hàng có chất lượng cao. Để thực hiện giải pháp này chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh, trong đó đề ra các biện pháp thực hiện một cách rõ ràng cụ thể. 3.2.5 Thành lập ban dự báo tình hình trên địa bàn Sự phát triển của địa bàn là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Khi địa bàn có nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân cũng như trình độ nhận thức được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ngày càng được mở rộng, tạo nên thị trường cũng như cơ hội và thách thức cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh hoạt động trên địa bàn rộng với 33 xã miền núi, vùng sâu vùng xa, mật độ dân cư thưa, điều kiện đi lại khó khăn, tình hình kinh tế xã hội không mấy ổn định, đời sống còn chưa cao, thời tiết khắc nghiệt…nên hoạt động huy động vốn gặp nhiều khó khăn, việc mở rộng đầu tư tín dụng còn hạn chế. Mặt khác hoạt động đầu tư tín dụng chủ yếu tập trung ngành nông nghiệp nông thôn. Chính vì thế, rất cần thiết thiếp lập ban dự báo tình hình trên địa bàn. Ban dự báo sẽ nghiên cứu, phân tích diễn biến tình hình kinh tế xã hội, thời tiết trên cơ sở đó đưa ra dự đoán xu hướng phát triển các yếu tố. Mặc dù cũng đã có những thông tin do các cơ quan tổ chức khác phân tích được phát, đăng tải trên tivi, báo chí, Internet… thì ngân hàng cũng nên tạo thành nguồn thông tin riêng, tổng hợp để xác định đúng định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản trị rủi ro tín dụng, cũng như nâng cao chất lượng tín dụng. Ban dự báo này sẽ cung cấp nguồn thông tin vừa bảo đảm an toàn vừa tạo ra khả năng sinh lợi tốt cho ngân hàng. 3.2.6 Cải tiến quy trình cho vay, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư Cần phải xây dựng và hoàn chỉnh sao cho phù hợp với đặc thù của khu vực nông thôn và nông dân. Rõ ràng là đối với hộ nông dân trình độ văn hóa, phương tiện liên lạc còn hạn chế thì một thủ tục vay vừa đơn giản dễ hiểu nhưng lại chặt chẽ, một quy trình nghiệp vụ bảo đảm an toàn vốn nhưng không quá phiền hà để cho dân vay là rất cần thiết. Một trong những điểm yếu của các ngân hàng thương mại quốc doanh là quy trình cho vay và thẩm định phức tạp, rườm rà, mất thời gian làm cho khách hàng mất đi cơ hội kinh doanh. Vì vậy để tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác đòi hỏi chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cần phải thực hiện cải tiến quy trình cho vay và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Từ đó ngân hàng sẽ nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đồng thời tăng khả năng mở rộng quy mô, hạn chế rủi ro. Cải tiến quy trình cho vay không có nghĩa là rút ngắn bỏ bước nào trong quy trình mà là rút ngắn thời gian trong mỗi bước mà lại vẫn giữ vững thậm chí nâng cao chất lượng thực hiện mỗi bước. Cụ thể: Bước 1: Rút ngắn thời gian giao dịch của khách hàng tới mức tối thiểu. Để làm được điều này thì ngay khi khách hàng đến xin đặt vấn đề vay vốn, cán bộ tín dụng phải hướng dẫn chi tiết cụ thể, rõ ràng tất cả các thủ tục cần thiết phải có trong hồ sơ vay vốn, tránh tình trạng khách hàng phải đi lại nhiều lần để sửa đổi bổ sung gây phiền toái. Tuy vậy, cán bộ tín dụng chỉ hướng dẫn chứ không làm thay cho khách hàng. Bước 2: Rút ngắn thời gian thu thập thông tin đồng thời nâng cao chất lượng thông tin. Hiệu quả của công tác tín dụng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thông tin. Do đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nhanh nhạy trong việc tổ chức điều tra về khách hàng về tính trung thực của khách hàng. Thông tin phải được xử lý kịp thời, đầy đủ, chính xác. Bước 3: Rút ngắn thời gian thẩm định xuống mức cho phép, giảm bớt các khâu các bước không cần thiết. Bước 4: Nếu quyết định cho vay cần phải tiến hành nhanh chóng ký hợp đồng tín dụng. Bước 5: Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay đảm bảo sử dụng đúng mục đích. Trong quá trình triển khai dự án, ngân hàng cần thực hiện vai trò là người bạn, nhà tư vấn, hỗ trợ khách hàng. Chất lượng thẩm định phụ thuộc rất nhiều vào trình độ hiểu biết năng lực nghiệp vụ của cán bộ tín dụng và những thông tin thu thập được. Điều này đòi hỏi ngân hàng cần xây dựng phương pháp thẩm định khoa học áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong việc tính toán các chỉ tiêu phù hợp với đặc điểm của từng dự án để từ đó đưa ra các quyết định chính xác nhất. Đối với cán bộ thẩm định phải biết cách xác định tính toán các chỉ tiêu cần thiết của dự án như NPV, IRR phải nắm được thông tin ở tầm vĩ mô và vi mô có liên quan đến dự án, phải có sự am hiểu về lĩnh vực đầu tư, phải biết cách phối hợp với các cơ quan chuyên môn để giải quyết các vướng mắc liên quan đến dự án. Đối với nhiều dự án mang tính chất chuyên môn sâu vào một ngành nghề lĩnh vực cụ thể mà cán bộ tín dụng không thể nắm bắt thì ngân hàng cần mời các chuyên gia thuộc về các lĩnh vực đó tư vấn giúp. Có như thế việc thẩm định dự án mới đảm bảo được chất lượng từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng. 3.2.7 Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay Sau khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng đúng như thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng cần thiết phải kiểm soát khách hàng. Công việc này là thường xuyên tiếp tục mối quan hệ qua lại với khách hàng bằng cách gọi điện hỏi thăm tình hình, tham quan cơ sở sản xuất, nghe ngóng thông tin về khách hàng cũng như phương án sản xuất kinh doanh đang hay có ý định thực hiện…Để biết được sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không; tình hình sản xuất kinh doanh có biến chuyển bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hay làm ăn thua lỗ gì không…Đây là những dấu hiệu cho phép ngân hàng nhận xét một cách chính xác về khách hàng, từ đó có thể đưa ra những quyết định phù hợp. Những thông tin theo chiều hướng tốt thì cho thấy chất lượng tín dụng được đảm bảo, ngược lại, khi khoản vay bị đe doạ thì ngân hàng cần có biện pháp kịp thời như ngừng giải ngân, thu hồi trước nợ, giảm số tiền vay…Quan hệ tín dụng được kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Việc xem xét tìm nguyên nhân là rất quan trọng giúp ngân hàng đưa ra quyết định mới đảm bảo an toàn khoản cho vay như với những khách hàng có khó khăn về tài chính song vẫn cố gắng khắc phục trả nợ thì ngân hàng sẽ cho gia hạn nợ, cho vay thêm, giảm lãi suất…Như vậy công việc kiểm tra giám sát sau khi cho vay là quan trọng mà cán bộ tín dụng hết sức chú ý nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng. Và để hoàn thành tốt công việc này ngân hàng có thể thực hiện: + Khi khách hàng trình báo cáo tài chính cho cán bộ tín dụng thì phải xem xét kỹ, phân tích về tình hình tài chính khách hàng cũng như quá trình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh như thế nào…Từ đó nắm rõ được các yếu tố tác động lớn khả năng trả nợ của khách hàng. + Đột xuất hoặc hàng quý hàng tháng định kỳ trên cơ sở sổ sách hạch toán theo dõi của khách hàng, các chứng từ hoá đơn, trực tiếp kiểm tra theo dõi tiến độ hoạt động phương án dự án sản xuất kinh doanh để có thể nắm rõ được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. + Khi xem xét các trường hợp có đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba đòi hỏi cán bộ tín dụng chú ý đến năng lực tài chính của người bảo lãnh. Đặc biệt, những trường hợp đảm bảo bằng thiết bị, máy móc, nhà xưởng thì phải thường giám sát tài sản đảm bảo và hồ sơ đảm bảo tiền vay để dễ dàng phát hiện và đưa ra biện pháp xử lý kịp thời, tránh trường hợp không mong muốn: hư hỏng, mất giá trị trên thị trường, đã đem đảm bảo ở ngân hàng khác… Ngoài nhiệm vụ này thì chi nhánh cũng cần chú ý đến công tác kiểm soát kiểm tra nội bộ nhằm đem lại kết quả cao nhất. 3.2.8 Đa dạng hoá danh mục cho vay Hiện nay, đa dạng hoá được coi là một trong những biện pháp hạn chế rủi ro. Đa dạng hoá danh mục cho vay có nghĩa là ngân hàng nên thực hiện thêm nhiều loại cho vay vào danh mục của mình: cho vay trả góp, cho vay hạn mức, cho vay từng lần, cho vay luân chuyển…cho vay nhiều thành phần kinh tế, các ngành, nghề khác nhau…Với tình hình cho vay hiện nay ở chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh còn kém đa dạng về hình thức cũng như phương thức cho vay thì biện pháp này cần được chú ý. Mỗi khoản vay mang những mức độ rủi ro khác nhau theo quy mô, năng lực, ngành nghề, tính chất sở hữu của khách hàng. Đa dạng hoá sẽ san sẻ mức độ rủi ro cho nhau, đề phòng rủi ro tập trung một cho quá lớn, đặc biệt là hoạt động tín dụng ở chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh chủ yếu phục vụ cho hoạt động nông nghiệp nông thôn luôn chịu tác động của yếu tố thời tiết, thị trường là rất lớn, mà địa bàn huyện nằm trong vùng “chảo lửa túi mưa”, nên hoạt động cho vay dễ gặp nhiều rủi ro. Ngân hàng cũng nên thực hiện cho vay đồng tài trợ vì nó sẽ làm giảm đi phần nào tổn thất khi rủi ro gây ra. Hình thức này vừa là nơi các ngân hàng tăng cường mối quan hệ, phát huy được điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, trao đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Đồng thời giảm bớt được gánh nặng về vốn đặc biệt là các khoản cho vay có giá trị lớn. Tuy nhiên các ngân hàng cần nhất quán thống nhất quan điểm, có tinh thần trách nhiệm cũng như phân rõ nhiệm vụ trong quy trình cho vay . 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1 Kiến nghị với nhà nước * Nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý. Hiện nay mặc dù các văn bản pháp luật được sửa đổi, chỉnh sủa tuy nhiên vẫn còn tồn tại sự chồng chéo, mâu thuẫn với nhau gây cản trở, phiền phức trong quá trình áp dụng các văn bản. Do đó cần tạo ra được sự thống nhất, nhất quán trong các văn bản và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện phải nhanh, chi tiết, cụ thể, dễ hiểu. * Ban hành các chính sách cần định hướng lâu dài tạo môi trường ổn định kinh doanh cho các doanh nghiệp. Khi có những thay đổi cần thiết phải có những bức đệm, giai đoạn chuyển đổi tránh sự vội vàng và cũng không nên thay đổi quá nhiều trong khoảng thời gian ngắn. * Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ, ngành có liên quan trong việc xử lý nợ xấu. Đầu tiên là Bộ Xây dựng, Tổng Cục địa chính phải làm nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sở hửu nhà và quyền sử dụng đất ở. Bộ Tư pháp tạo điều kiện ngân hàng giải quyết nhanh gọn trong thời gian ngắn nhất để thu nợ. 3.3.2 Kiến nghị với NHNN * Hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy định về hoạt động tín dụng tạo môi trường thuận lợi cho ngân hàng vừa mở rộng hoạt động tín dụng mà lại hạn chế được rủi ro. Trong một số quyết định có những vấn đề chưa rõ ràng, và gây hiểu nhầm khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện. Cụ thể như, tại khoản 3 điều 3 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng: "Đối với các khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của bên thứ ba mà bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm xử lý rủi ro khi xảy ra"," thì tổ chức tín dụng không phải trích lập dự phòng rủi ro nhưng phải phân loại nợ".Với cụm từ “trách nhiệm xử lý rủi ro” thì có bao hàm thực hiện biện pháp thu hồ nợ gốc và lãi không. Do đó, ngân hàng nhà nước khi ra quyết định nên cụ thể, rõ ràng dễ hiểu hơn. * NHNN nên nới lỏng hơn nữa điều kiện thủ tục vay vốn, tạo điều kiện để khách hàng có thể sử dụng vốn ưu đãi trong việc đầu tư lớn vào sản xuất nông nghiệp. * Phát huy tối đa vai trò của hệ thống thông tin tín dụng NHNN để các ngân hàng thương mại có thông tin về khách hàng nhiều và chính xác, đầy đủ, nhanh. NHNN nên sớm thành lập quỹ hỗ trợ bù đắp rủi ro cho tín dụng nông nghiệp nông thôn. Vì theo quyết định 67/QĐ-NHNN, NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện giản nợ, xoá nợ cho khách hàng khi gặp rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, nhưng hiện tại NHNo&PTNT vẫn chưa có quỹ hỗ trợ cụ thể nào. * Phối hợp với các ban, ngành có liên quan xây dựng hoạt động bảo hiểm tín dụng. Với hoạt động này sẽ hỗ trợ cho ngân hàng thương mại giảm bớt mất vốn đặc biệt là các khoản vay cho giá trị lớn. Đồng thời nâng cao trách nhiệm cán bộ tín dụng trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng và khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ được bù đắp . 3.3.3 Kiến nghị với NHNo&PTNT * Cải cách thủ tục hồ sơ vay vốn, rút ngắn thời gian xét duyệt món vay nên chăng cần phối hợp kết nối nóng giữa ngân hàng và uỷ ban nhân dân xã, phường, nơi ngân hàng hoạt động để công tác kiểm tra giấy tờ sử dụng đất và các điều kiện khác của hộ vay vốn được tiến hành nhanh chóng hơn, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí cho các ngân hàng và khách hàng. * Tổ chức đào tạo cán bộ cung cấp các kiến thức cơ bản về công tác quản trị rủi ro để khi triển khai mô hình quản trị rủi ro sẽ thực hiện có hiệu quả. Đồng thời cần tổ chức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm giữa các ngân hàng thương mại. * Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam . 3.3.4 Kiến nghị với NHNo&PTNN tỉnh Hà Tĩnh * Với địa hình phức tạp nhiều xã vùng sâu, vùng xa, số lượng khách hàng đến giao dịch đông mà toàn huyện chỉ có 1 phòng giao dịch kinh doanh tổng hợp tại Thị trấn huyện và 1 ngân hàng cấp 3 ở vùng ngoài nên chưa phục vụ được tất cả khách hàng, chưa khai thác hết thị trường. Đề nghị xem xét mở thêm chi nhánh ngân hàng cấp 3 để giảm bớt công việc tại trung tâm giao dịch tiết kiệm thời gian đi lại cho khách hàng cùng như chi phí cho ngân hàng và khách hàng. * Nên tạo điều kiện cho cán bộ được bồi dưỡng, đào tạo trình độ tin học, nên bố trí 1 chuyên gia tin học cho chi nhánh để tiết kiệm thời gian, chi phí cho chi nhánh cũng như tạo điều kiện cho chi nhánh làm việc hiệu quả hơn. Kiến nghị với chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh nếu có điều kiện nên thường xuyên tổ chức các buổi họp mặt của khách hàng dưới sự giúp đỡ của chính quyền địa phương. Thông qua buổi này để tuyên truyền, phổ biến các thay đổi của chính sách cho vay, chương trình khuyến mãi của khách hàng, tiến hành các buổi giao lưu gặp gỡ với khách hàng để vừa tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa ngân hàng với khách hàng vừa nắm bắt, hiểu được tâm tư nguyện vọng của khách hàng để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Tranh thủ được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương trong việc thẩm định khách hàng, cho vay, thu nợ đặc biệt là can thiệp trong việc giải quyết các vấn đề xảy ra khi không thu hồi được nợ, phải phát mại tài sản. 3.3.6 Kiến nghị với chính quyền địa phương * Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế của huyện đề nghị chỉ đạo các ngành chức năng có liên quan có kế hoạch cụ thể. Từ đó chỉ đạo xây dựng các dự án khả thi làm căn cứ giúp ngân hàng đầu tư phát triển kinh tế địa phương. * Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tạo điều kiện cho người dân được vay vốn thuận lợi, dễ dàng. * Uỷ ban nhân dân huyện, xã cần chỉ đạo, quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng đường liên thôn, liên xã nhất là các xã vùng cao, các xã đặc biệt khó khăn. Đưa điện lưới quốc gia và nước sạch đến từng xã. KẾT LUẬN Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mở ra cho ngân hàng rất nhiều con đường, hướng đi. Tất cả những khó khăn, thử thách và cơ hội vẫn đang còn ở phía trước. Điều này đòi hỏi chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh cần phải xây dựng cho mình hướng đi, phát triển đúng đắn đồng thời nỗ lực cố gắng thực hiện nhằm đặt được kết quả tốt nhất và có những biện pháp phù hợp để khắc phục những vấn đề còn tồn đọng . Chuyên đề thực tập đã thực hiện nội dung cơ bản sau: - Những kiến thức cơ bản về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại - Thực trạng rủi ro tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh đồng thời đánh giá, phân tích. - Giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh Qua quá trình học tập tại trường và 4 tháng thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh em đã tiếp thu được những kiến thức hết sức đáng quý để hoàn thành chuyên đề thực tập này. Đó là nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo đặc biệt là cô giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo và các anh chị trong chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo và các anh chị tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh đã hướng dẫn, tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề thực tập này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33193.doc
Tài liệu liên quan