Hoạt động thanh toán quốc tế đã và đang được các ngân hàng trrong và ngoài nước tổ chức thực hiện, góp phần thúc đẩy mở rộng quan hệ quốc tế cũng như tăng cường hoạt động đầu tư và xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trải qua hơn mười năm kinh nghiệm, bằng uy tín, năng lực tài chính và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng Standard Chartered đã từng bước tạo dựng được lòng tin với khách hàng và vị thế trên thị trường tài chính ngân hàng, hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Song trước những biến động mạnh mẽ và liên tục của môi trường kinh tế, pháp luật ngân hàng Standard Chartered cũng đã và đang phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại và rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, trong thời gian qua ngân hàng Standard Chartered cũng đã có những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và giảm thiểu những rủi ro phát sinh như: không ngừng cải tiến, đa dạng hóa các phương thức thanh toán, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng. Chính điều đó đã góp phần đưa SCB trở thành một trong những ngân hàng có uy tín trong hoạt động thanh toán quốc tế hiện nay. Mặc dù vậy, SCB cũng không tự bằng lòng với những kết quả đã đạt được mà luôn phấn đấu hơn nữa nhằm đưa hoạt động thanh toán quốc tế trở thành thế mạnh hàng đầu của mình. Chính vì vậy qua đề tài: “Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại ngân hàng Standard Chartered” em hy vọng đóng góp phần nào vào quá trình hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng tại ngân hàng Standard Chartered.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - PGS.TS Nguyễn Như Bình đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình. Trong quá trình hoàn thành chuyên đề không tránh khỏi những sai sót, em mong thầy thông cảm và mong được sự chỉ dẫn, hướng dẫn của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại ngân hàng Standard Chartered, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ro nhưng điều đó không có nghĩa là không có rủi ro tiềm ẩn khi thực hiện phương thức nhờ thu.
Đối với ngân hàng chuyển nhờ thu: rủi ro xảy ra khi ngân hàng cấp tín dụng cho người bán để sản xuất hàng hóa xuất khẩu mà người bán lại không được thanh toán, dẫn đến không trả được tiền vay ngân hàng.
Đối với ngân hàng thu hộ, ngân hàng xuất trình: khi ngân hàng này không kiểm tra tính phù hợp và đầy đủ của chứng từ mà đã chuyển tiền cho ngân hàng chuyển nhờ thu trước khi người mua chấp nhận thanh toán thì ngân hàng phải chịu mọi rủi ro.
Như vậy, rủi ro trong phương thức nhờ thu chủ yếu là do lỗi tác nghiệp của ngân hàng chứ không phải xuất phát từ phía người bán và người mua. Như vậy, để tránh được rủi ro trong phương thức nhờ thu, các nhân viên ngân hàng phải nắm rất vững về nghiệp vụ cũng như những quy định, điều luật trong thanh toán quốc tế để có thể kiểm tra tính xác thực của giấy nhờ thu, tránh những rủi ro ngoài dự đoán. Một rủi ro dễ thấy trong phương thức nhờ thu đó chính là trường hợp nội dung của phiếu nhờ thu không rõ ràng (ví dụ như khách hàng không nói rõ là ngân hàng phải làm gì trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc không chấp nhận thanh toán, hay khi người mua không trả phí nhờ thu hoặc điạ chỉ liên lạc của người mua không chính xác) Nếu nhân viên thanh toán của ngân hàng không kiểm tra rõ và cứ chuyển luôn thư nhờ thu đó sang ngân hàng nước ngoài, sau đó do những hiểu lầm từ phiếu nhờ thu đó, ngân hàng có thể không nhận được phí nhờ thu.
Tuy nhiên, rủi ro này ảnh hưởng không lớn lắm đến thu nhập của ngân hàng, tuy nhiên nó cũng gây phiền hà, mất thời gian cho ngân hàng, đôi khi nó còn làm giảm uy tín, lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng. Đó chính là rủi ro lớn nhất. Với SCB, trong những năm đầu hoạt động, khi phương thức nhờ thu nói riêng và phương thức thanh toán quốc tế nói chung còn chưa phát triển rộng rãi ở Việt Nam, tình trạng khách hàng đưa những phiếu nhờ thu không đầy đủ thông tin là khá nhiều. Thêm vào đó, lúc bấy giờ, kỹ thuật nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng nói chung và SCB nói riêng còn nhiều hạn chế nên rủi ro trong phương thức thanh toán nhờ thu còn chiếm tỉ trọng cao (khoảng 15%). Hiện nay, với sự cố gắng không ngừng của ban lãnh đạo cũng như nhân viên SCB, rủi ro trong phương thức thanh toán nhờ thu đã được giảm đi đáng kể.
Một rủi ro nữa thường hay xảy ra khi thực hiện phương thức chuyển tiền bằng điện đó là chuyển sai đơn vị hưởng. Chỉ cần một lỗi sơ ý nhỏ của nhân viên ngân hàng là có thể đánh sai địa chỉ cũng như các chi tiết khác có liên quan đến người hưởng. Điều này có thể gây rủi ro rất nghiêm trọng nếu như người hưởng được hưởng nhầm đó nhận số tiền và không trả lại.Rất may, trường hợp đó ởSCB chưa xảy ra, nhưng tình trạng gửi nhầm vẫn còn xảy ra. Trong năm 2006, số lượng giao dịch nhầm ngân hàng chiếm khoảng 0.9%., trong khi năm 2005 là 11.2%. Như vậy,SCB cũng đã có những bước tiến rõ rệt trong việc han chế rủi ro qua phương thức chuyển tiền bằng điện.
2.2.2.3.Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ
Thanh toán bằng L/C là phương thức được sử dụng phổ biến tại SCB. Các doanh nghiệp tìm đến SCB để thanh toán quốc tế phần lớn là mở L/C nhập khẩu. Thanh toán L/C nhập khẩu năm 2004 là 111.38 triệu USD trong khi L/C xuất khẩu là 11.24 triệu USD, gấp gần 10 lần; năm 2005 L/C nhập khẩu là 115.9triệu USD trong khi L/C xuất khẩu là 10.01 triệu USD và 2006, L/C nhập khẩu là 124.83 triệu USD, L/C xuất khẩu là 13.34 triệu USD. Vì thế, các rủi ro về thanh toán qua phương thức L/C chủ yếu thuộc về L/C nhập khẩu với một số rủi ro cụ thể sau:
Rủi ro do khách hàng gây ra: Những năm đầu với phương thức nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại SCB, có nhiều khách hàng không hiểu về nghiệp vụ thanh toán L/C, đã chây ỳ trong thanh toán, khiến ngân hàng cũng phải trì hoãn với ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, với sự phát triển của thanh toán quốc tế, nhận thức của khách hàng về thanh toán quốc tế cũng như hình thức L/C đã nâng cao, ngân hàng cũng có những quy định chặt chẽ hơn để ràng buộc khách hàng nên tình trạng này đã được giảm thiểu rất nhiều.
Rủi ro về nghiệp vụ nhân viên thanh toán: tín dụng chứng từ là một hình thức thanh toán rất phức tạp, đòi hỏi nhân viên ngân hàng phải có kỹ năng và nghiệp vụ cao. Hiện nay, đội ngũ nhân viên của SCB có rất nhiều người trẻ tuổi, có trình độ cao, năng động. Bên cạnh những ưu điểm trên, một số nhân viên còn có nhược điểm,đó là thiếu kinh nghiệm thực tế. Một ví dụ cụ thể là vào tháng 7 năm 2006, một nhân viên thanh toán quốc tế mở cho khách hàng một L/C nhập khẩu đã không đọc kỹ bảo lãnh thực hiện hợp đồng từ ngân hàng của nước người xuất khẩu gửi sang nên đã soạn thảo L/C có thời gian bảo lãnh thực hiện hợp đồng không phù hợp với đơn xin mở L/C của khách hàng. Sau khi người bán và người mua ký phụ lục hợp đồng thì người bán không thấy người mua mở L/C theo đúng ngày thỏa thuận nên đơn phương chấm dứt hợp đồng. Còn người mua lại cho rằng thời hạn bỏa lãnh thực hiện hợp đồng của ngân hàng là trái với hợp đồng đã ký nên xin gia hạn thêm nhưng cũng chưa nhận được chấp nhận gia hạn này, khi đó người mua chưa thể mở L/C. Từ đó nảy sinh tranh chấp giữa người bán va người mua, làm giảm uy tín và lòng tin của khách hàng với ngân hàng.
Ngoài ra, đôi khi vẫn xảy ra những lỗi do sự bất cẩn,không thận trọng của nhân viên thanh toán như chuyển nhầm ngân hàng, đánh đúp điện hay kiểm tra chứng từ không hợp lý, vừa gây bất lợi cho ngân hàng trong việc đòi lại khoản tiền thanh toán nhầm cũng như gây khó chịu cho khách hàng. Hiện nay, tỉ lệ % sai sót này được SCB cho phép trong giới hạn 1%/năm.
Rủi ro về L/C trả chậm: Tại SCB thì L/C trả chậm ngày càng được sử dụng nhiều. Năm 2004, số lượng L/C trả chậm là 1.98 triệu USD thì năm 2005 là 2.75 triệu USD và 2006 là 3.49 USD.
Sở dĩ như vậy vì do những đặc điểm có lợi cho khách hàng của L/C trả chậm, đó là: khách hàng chỉ phải thanh toán tiền hàng khi đến hạn thanh toán, và trong thời gian chưa phải thanh toán thì hầu hết khách hàng đều đã xoay vòng được vốn để kiếm lợi nhuận. Nhưng nhiều khi gần đến hạn thanh toán, khách hàng lại đến xin gia hạn vay. Điều này đã gây cho ngân hàng những khó khăn khi trong việc thu hồi nợ đọng.
2.2.2.4. Rủi ro công nghệ:
Công nghệ là một yếu tố được SCB đánh giá là rất quan trọng, nó có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của SCB. Chính vì vậy, SCB đã đầu tư hơn 1 triệu USD để thực hiện dự án đổi mới công nghệ. Hệ thống mới đã giúp cho hoạt động của SCB được đẩy nhanh hơn, tiện lợi hơn,. Tuy nhiên, nó cũng gây ra những rủi ro nhất định. Khởi đầu hoạt động, do còn nhiều bỡ ngỡ, chưa quen với cách vận hành của hệ thống nên các nhân viên SCB vẫn còn lúng túng, thao tác nghiệp vụ chậm, và vẫn để xảy ra sai sót. Chính vì vậy, trong tháng 8, tháng 9 năm 2006, tỉ lệ sai sót trong giao dịch tăng đột biến (4.2% so với 1.4 % 6 tháng đầu năm 2006). Chính vì điều này đã làm nhiều khách hàng không hài lòng. Riêng từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2006 đã có tới 15 khách hàng xin đóng tài khoản tại SCB (trong khi 6 tháng đầu năm 2006 chỉ có 3 khách hàng xin đóng tài khoản).
Đặc biệt, do công nghệ thay đổi vào tháng 8 cho nên đến tháng 12, còn một số vấn đề mà nhân viên thực hiện giao dịch thanh toán quốc tế vẫn còn bỡ ngỡ. Mà đây lại là đợt cuối năm, lượng giao dịch rất lớn, những khoản thanh toán quốc tế của các công ty rất nhiều, nhân lực của phòng thanh toán còn hạn chế nên tình trạng công việc quá tải, sai sót xảy ra tăng hơn so với 6 tháng đầu năm. Trong tháng 12, tỉ lệ sai sót của các giao dịch thanh toán quốc tế là 5.1%, tăng gấp nhiều lần so với 6 tháng đầu năm 2006. Chính vì thế, cuối tháng 12, nhân viên của SCB thường phải ở lại rất muộn để hoàn thành công việc.
Tuy nhiên, sau một thời gian làm quen dần với hệ thống, hệ thống mới đã biểu hiện những tiến bộ hơn so với hệ thống trước. Ví dụ, trước đây, khi làm lệnh lương chuyển ra nước ngoài cho các công ty, các nhân viên thanh toán phải thực hiện làm từng giao dịch một thì bây giờ, các nhân viên có thể gộp cả bảng lương, đi thành một giao dịch, điều này đã giúp giảm đáng kể thời gian thực hiện giao dịch, đồng thời làm giảm rủi ro trong quá trình thanh toán. Nhưng bên cạnh đó, cho tới tận bây giờ, hệ thống mới vẫn còn những sai sót.
Thứ nhất, khi lệnh chuyển tiền từ nước ngoài về qua hình thức chuyển tiền bằng điện, đôi khi vẫn xảy ra sai sót như: tên người thụ hưởng và tài khoản không khớp nhau. Đã có một số trường hợp nhân viên thanh toán không để ý đến trường hợp này, cứ đi theo tài khoản trên lệnh. Và khi phát hiện ra thì ngân hàng lại phải gửi tra soát đòi tiền. Tuy nhiên, đã từng có trường hợp xảy ra, người thụ hưởng khi nhận được tiền đã lập tức đóng tài khoản, gây khó khăn cho việc đòi tiền, và nhiều khi không đòi được. Theo thống kê, từ tháng 8 đến nay, đã xảy ra 7 trường hợp như vậy, trong đó có 4 trường hợp phát hiện ra trước khi thanh toán, còn 3 trường hợp ngân hàng phải đi đòi tiền lại của khách hàng. Rất may trong cả 3 trường hợp ngân hàng đều đã đòi được tiền.
Rủi ro thứ hai xảy ra với hệ thống là số tiền ghi trên lệnh chuyển có từ nước ngoài về với số tiền ngân hàng nước ngoài chuyển thực chất không khớp nhau. Trường hợp này SCB cũng đã gặp, nhưng rất may, nhờ có cơ cấu tổ chức một cách chặt chẽ, SCB đã sớm phát hiện ra điều này. Sở dĩ như vậy vì cơ cấu kiểm soát rủi ro của phòng thanh toán ngân hàng SCB khá chặt chẽ. Ở phòng thanh toán có một người luôn làm nhiệm vụ kiểm tra lại những giao dịch đã đi xem liệu có khớp với những báo cáo ghi nợ ngân hàng nước ngoài chuyển về không. Nhờ có vậy, ngân hàng có thể nhận ra ngay khoản nào chênh lệch, khoản nào rủi ro. Do đó, tuy tình trạng chuyển tiền về không khớp như vậy đã xảy ra 8 lần từ tháng 8 năm 2006 đến nay, nhưng tất cả các trường hợp này ngân hàng đều đòi lại được tiền do phát hiện ra sai sót ngay ngày hôm sau.
2.2 Đánh giá khái quát về rủi ro và xử lý rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại SCB.
Qua phân tích ở trên, ta thấy những rủi ro mà SCB gặp phải hầu như không có nhiều và hậu quả không lớn. Trong việc xác định và hạn chế rủi ro, SCB đã phát huy được những mặt tích cực và còn tồn tại một số mặt tiêu cực, hạn chế
2.2.1. Mặt tích cực
Trong hơn 10năm hoạt động, để có được uy tín và tạo lòng tin cho khách hàng như ngày hôm nay, SCB đã trải qua những thời kỳ khó khăn, gặp không ít rủi ro thanh toán quốc tế do trình độ nhân viên, cộng với những giới hạn về môi trường hoạt động, những hàng rào bảo hộ hệ thông ngân hàng trong nước của chính phủ. Tuy nhiên, SCB đã từng bước xây dựng và tạo được lòng tin, sự tín nhiệm cũng như sự ủng hộ của các cơ quan Nhà nước. Hơn 10 năm hoạt động, hiện nay,SCB đã có những khách hàng rất lớn, như Ford, UNDP,Cocacola, Mercedes, NgheAn Tate and Lyle, Vtrac,VINACOMIN…, những khách hàng mà lượng giao dịch thanh toán quốc tế của họ là rất lớn. Đây chính là một minh chứng cụ thể cho thấy sự tin tưởng của khách hàng vào nghiệp vụ thanh toán quốc tế của SCB .
Để đạt được điều này, SCB đã không ngừng cố gắng phát triển, hạn chế những rủi ro trong thanh toán qua các biện pháp như: cố gắng thực hiện các cam kết thanh toán và thanh toán đúng hạn cho các ngân hàng nước ngoài, luôn đảm bảo lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng nhu cầu của khách hàng, xây dựng tạo mối quan hệ với hệ thống SCB trên toàn thế giới cũng như các ngân hàng ngoài hệ thốngSCB , tạo điệu kiện thuận lợi trong việc thực hiện thanh toán quốc tế. Ngoài ra,SCB thường xuyên có những lớp huấn luyện cho nhân viên về nghiệp vụ ngân hàng, về những rủi ro trong hệ thống thanh toán quốc tế như: những quy định về ngân hàng, những quy định về chống rửa tiền… Mỗi nhân viên khi làm việc tạiSCB đều phải làm bài kiểm tra trên hệ thống về những vấn đề trên, phải đạt kết quả 80% trở lên và phải có chứng chỉ. Không chỉ vậy,SCB thường xuyên cho nhân viên đi công tác ở những những quốc gia có hệ thống ngân hàng, mạng lướiSCB phát triển mạnh. Nhờ có vậy, dù đội ngũ nhân viên của SCB là khá trẻ, họ cũng nhanh chóng tiếp thu được những kiến thức ngân hàng, từ đó góp phần quan trọng trong việc hạn chế những rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Không chỉ có vậy, SCB còn rất chú trọng đầu tư vào công nghệ. Nhờ có vậy, những rủi ro trong thanh toán quốc tế ngày càng được giảm thiểu.
2.2.2 Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì SCB vẫn phải phấn đấu để không ngừng nâng cao uy tín và hạn chế hơn nữa những rủi ro trong thanh toán quốc tế. Có thể thấy một thực tế, hiện nay, SCB đang chú trọng tuyển một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động nhưng lại chưa có những chế độ ưu đãi thỏa đáng cho những người làm việc lâu năm, có thâm niên và kinh nghiệm. Chính vì vậy, rất nhiều cán bộ SCB dù làm việc đã hơn mười năm vẫn ra đi. Những nhân viên mới dù giỏi,năng động nhưng kinh nghiệm vẫn rất hạn chế, vì thế để xảy ra sai lầm trong thanh toán quốc tế là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, SCB nên có những chính sách phù hợp để níu giữ và thu hút nhân tài, từ đó mới hạn chế được những rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Mặt khác, SCB không có chế độ thưởng phạt công minh. Ở SCB , có làm tốt, làm thêm giờ hay làm sai thì cũng không có chế độ thưởng phạt rõ ràng. Nếu có rủi ro nào xảy ra, tất cả đều cùng chịu trách nhiệm. Đây là một cách làm việc cũng tốt, nó giúp mọi người cùng có trách nhiệm, biết chia sẻ với nhau, nhưng ở một khía cạnh nào đó, nó khiến cho người ta không hết mình với công việc, không chú tâm vào công việc, từ đó dẫn đến xảy ra những rủi ro không đáng có.
Với những rủi ro do khách hàng gây ra, ngân hàng vẫn còn khá bị động, chưa có một phương thức giải quyết thật đúng đắn, từ đó không hạn chế được những rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Chương III: GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHỂ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠi NGÂN HÀNG STANDARD CHARTERED
3.1. Giải pháp
Qua thực tế rủi ro thanh toán quốc tế tại Standard Chatered Bank, có thể đưa ra một số giải pháp ngăn ngừa và hạn chế như sau:
3.1.1. Từng bước ngày càng hoàn thiện quy trình thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là hoạt động rất phức tạp, đòi hỏi các ngân hàng phải tuân theo nguyên tắc, quy ước quốc tế và luật pháp của mỗi nước. Mà những quy tắc, quy ước này giữa mỗi quốc gia là khác nhau, vì vậy, NHNN không thể nào ban hành quy định về thanh toán quốc tế chung cho tất cả các NHTM. Do đó, mỗi ngân hàng cần phải tự xây dựng cho mình quy trình thanh toán hợp lý, bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và không trái với luật pháp Việt Nam. Quy trình này được NHNN Việt Nam thông qua và các NHTM nói chung cũng như SCB nói riêng sẽ có trách nhiệm thực hiện theo đúng các quy trình đó, nếu thực hiện sai thì các ngân hàng phải tự chịu trách nhiệm.
Với những nghiệp vụ đơn giản như nhờ thu hay chuyển tiền, SCB chỉ đóng vai trò trung gian trong việc thực hiện lệnh chi trả hoặc nhờ thu từ khách hàng và thu lợi qua các khoản phí dịch vụ khách hàng nộp. Tuy là một hình thức đơn giản nhưng nếu SCB không có một quy trình thanh toán rõ ràng, trách nhiệm của từng phòng, ban không được phân chia cụ thể thì SCB cũng rất dễ gặp rủi ro trong phương thức này. Do đó, để có thể quản lý rủi ro một cách tốt nhất, từng khâu của quy trình thanh toán quốc tế phải được cụ thể hoá một cách rõ ràng để phù hợp với điều kiện của ngân hàng, các phòng chuyên trách có liên quan phải thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của mình. Tuy nhiên không nên máy móc dập khuôn mà cần có những sáng kiến riêng để làm cho quy trình này trở nên linh hoạt.
Riêng đối với phương thức tín dụng chứng từ thì quy tình có phức tạp hơn, đòi hỏi nhân viên thanh toán quốc tế phải hiểu rất rõ từng bước quy trình thanh toán quốc tế, từ việc phát hành L/C, gửi L/C cho ngân hàng thông báo đến việc trả tiền cho ngân hàng nước ngoài và thông báo đòi tiền nhà nhập khẩu, đặc biệt trong khâu vào sổ để nhân viên kế toán thực hiện bút toán thanh toán quốc tế được chính xác…, hoặc khi nhận đựơc chứng từ của ngân hàng nước ngoài gửi đến thì phải kiểm tra chi tiết, cẩn thận, có thể kết hợp với khách hàng để kiểm tra, hạn chế tối đa những trường hợp chiết khấu miễn truy đòi. Nếu khách hàng gặp khó khăn trong thanh toán thì nhân viên có thể đưa ra đề nghị trình cấp trên về việc cho khách hàng vay để thanh toán đúng thời hạn cho ngân hàng nước ngoài.
Với nghiệp vụ mở L/C nhập khẩu, thì khi thực hiện soạn thảo xong một L/C, trước khi lập tờ trình, nhân viên thanh toán quốc tế có thể thông báo cho nhà nhập khẩu về L/C đã đựơc soạn thảo này để nhà nhập khẩu xem xét có gì vướng mắc, không phù hợp với yêu cầu của mình hay không. Thời gian để xem xét này không nên kéo dài quá để ảnh hưởng đến thời hạn mở L/C của khách hàng. Ngoài ra, nhân viên thanh toán quốc tế cần phải rất cẩn thận, tránh đề ra những điều kiện về phía ngân hàng không phù hợp với các điều kiện trong đơn xin mở L/C của khách hàng. Ngân hàng cần chú ý những vấn đề cơ bản có tính hệ thống từ khi phát hành L/C cho tới thời điểm quyết định trả tiền cho nước ngoài để hạn chế rủi ro kỹ thuật bằng một số biện pháp sau:
Kiểm tra kỹ đơn yêu cầu mở L/C, để phát hiện ra những sai sót, những điều khoản bất lợi cho người nhập khẩu, cho ngân hàng, đặc biệt tránh những điều khoản mơ hồ, không rõ ràng, không có cơ sở để ngân hàng kiểm tra chứng từ…
Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá khách hàng, đưa ra mức ký quỹ phù hợp nhất.
Duy trì quan hệ thường xuyên với nhà nhập khẩu để có được thông tin chính xác, cập nhật về khách hàng, hỗ trợ cho công việc đánh giá khách hàng.
Nâng cao chất lượng trong nghiệp vụ kiểm tra chứng từ hàng hoá, quan tâm tới những chứng từ vận tải, chữ ký hậu của người bán lên vận đơn, trên B/L…
Thực hiện nghiêm túc việc bảo lãnh nhận hàng.
Đôn đốc khách hàng thanh toán đúng hạn.
Không để xảy ra tình trạng mất quyền từ chối thanh toán như để quá 7 ngày làm việc mà không thông báo từ chối thanh toán, làm thất lạc chứng từ…
Ngân hàng cần thận trọng trong việc phát hành L/C cho từng chủng loại hàng hoá, chu kì kinh doanh của khách hàng.
Lựa chọn ngân hàng xác nhận có uy tín và có quan hệ tốt với ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro do ngân hàng xác nhận gây ra.
Với nghiệp vụ thanh toán L/C: Thực hiện quản lý chặt chẽ các bộ chứng từ đến và đi, tránh để thất lạc hoặc thanh toán hai lần như thực tế đã xảy ra, có hệ thống theo dõi bộ chứng từ đến của từng L/C riêng biệt cập nhật trong ngày. Nếu bộ chứng từ có sai sót thì thông báo cho khách hàng để cùng đưa ra giải pháp tối ưu, không nên bất kì việc gì cũng tự ý đưa ra giải pháp vì như thế có thể gây bất lợi cho khách hàng.
Trong chuyển tiền, rủi ro tuy ít gặp nhưng lại gây tổn thất nhiều nhất đó là không may ngân hàng tiếp tay cho chuyển tiền lậu ra nước ngoài. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng cần rất cẩn thận khi yêu cầu khách hàng đưa ra bộ chứng từ, trong đó nội dung của các hoá đơn thương mại, vận đơn, tờ khai hải quan… phải phù hợp với nhau; nếu chuyển tiền trả trước thì dù cho ở vai trò ngân hàng chuyển tiền hay là ngân hàng trả tiền thì cũng phải đánh giá kỹ cho khách hàng của mình xem tình hình kinh doanh, tình hình tài chính, mặt hàng xuất nhập khẩu của đơn vị khách hàng đó tốt hay xấu, uy tín ra sao… Ngoài ra ngân hàng cũng nên đưa ra quy trình chặt chẽ hơn nữa về chuyển tiền, không nên chủ quan đây là nghiệp vụ đơn giản mà coi nhẹ các khâu thanh toán, đặc biệt là khi yêu cầu khách hàng cam kết bổ sung tờ khai hải quan thì khách hàng sẽ cam kết bằng gì? Bằng uy tín hay bằng tài sản đảm bảo?
Về khâu thẩm định khách hàng:
Trước khi đồng ý cho khách hàng mở L/C hay chuyển tiền trả trứơc thì bộ phận thẩm định phải thực hiện đầy đủ chức trách của mình, kiểm tra tính pháp lý, chủng loại hàng hoá nhập như thế nào… để hạn chế rủi ro mất khả năng thanh toán của khách hàng, nhất là khi ngân hàng muốn cấp tín dụng cho khách hàng. Tất cả từng khâu trong quy trình phải được thực hiện và phối hợp đồng bộ, ăn khớp nhau sẽ giúp cho việc thực hiện thanh toán quốc tế trôi chảy và an toàn.
Khi chỉ thị nhờ thu không rõ ràng thì tốt nhất nhân viên thanh toán quốc tế phải thông báo cho khách hàng để có được một chỉ thị đầy đủ hơn, không bất lợi cho ngân hàng, không nên thực hiện đúng quy trình mà bỏ qua việc thông báo cho khách hàng.
3.1.2. Nâng cao chất lượng, kỹ thuật nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, đặc biệt là kỹ thuật nghiệp vụ trong thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ rất phức tạp, đòi hỏi người cán bộ ngân hàng phải nắm rất vững nghiệp vụ. Thực trạng về rủi ro thanh toán quốc tế của ngân hàng SCB cho thấy những rủi ro xuất phát từ lỗi tác nghiệp của nhân viên thanh toán là khá lớn. Mặc dù ngân hàng đã thực hiện tuyển chọn rất kỹ đầu vào của nhân viên, các nhân viên ngân hàng của SCB hoặc ốt nghiệp những trường Đại học có tiếng của Việt Nam, những trường mà nghiệp vụ thanh toán quốc tế được đào tạo khá sâu và bài bản (chủ yếu là từ hai trường Đại học Kinh tế quốc dân và Đại học ngoại thương) hoặe là những người đã du học ở nước ngoài về, có kinh nghiệm làm việc trong ngân hàng. Tuy nhiên, những lý thuyết thì thường rất khác với thực hành, hơn nữa, những nhân viên của SCB hầu hết đều rất trẻ nên kinh nghiệm còn hạn chế. Vì vậy, SCB nên chú trọng hơn nữa vào việc đào tạo nghiệp vụ của nhân viên. Hiện nay, SCB đã có những nỗ lực rất lớn trong việc nâng cao nghiệp vụ của nhân viên thông qua các hình thức: yêu cầu nhân viên phải qua được bài kiểm tra căn bản, tổ chức cho nhân viên đi học ở nước ngoài, tổ chức những lớp học nhỏ tại ngân hàng do chính những giám đốc ở những chi nhánh khác của SCB ở nước ngoài về giảng dạy. Có thể thấy, SCB rất chú trọng trong việc nâng cao nghiệp vụ của nhân viên,đặc biệt rất chú trọng vào việc cho nhân viên học tập tại những chi nhánh khác của SCB ở nước ngoài. Điều này rất tốt vì những chi nhánh của SCB ở nước ngoài, ví dụ như ở Singapore, Malaysia rất phát triển. Nhân viên của SCB sang đó sẽ tiếp thu được rất nhiều điều mới lạ, tiếp thu được công nghệ hiện đại, cách thức làm việc cũng như kỹ thuật nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở mỗi nước, các quy định, tập quán kinh tế cũng như pháp luật lại khác nhau. Chính vì thế, nếu chỉ tiếp thu những kỹ thuật nghiệp vụ ở nước ngoài thôi thì không đủ, đôi khi không phù hợp khi áp dụng ở Việt Nam. Do đó, SCB nên phối hợp với các NHTM khác của Việt Nam cũng như với NHNN để mở lớp tập huấn, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ, cập nhật và phổ biến các kỹ thuật thanh toán mới, đặc biệt là các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế; thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế vò rủi ro trong thanh toán quốc tế. Có như vậy mới tạo điều kiện để các nhân viên thanh toán quốc tế hiểu rõ hơn về thanh toán quốc tế tại Việt Nam, mặt khác còn tạo được mối quan hệ tốt hơn với các ngân hàng trong nước, từ đó nâng cao khả năng tác nghiệp giữa các ngân hàng.
Mặt khác, ngoài việc tổ chức những lớp học do chuyên gia nước ngoài hưóng dẫn, ngân hàng nên tổ chức những lớp học nhỏ, có thể định kỳ 1-2 tháng một lần, mời những chuyên gia người Việt Nam hướng dẫn. Sở dĩ ngân hàng nên làm vậy vì các chuyên gia Việt Nam mới hiểu rõ về những quy định của Việt Nam, từ đó có thể chỉ ra những hạn chế của thông lệ quốc tế với luật pháp Việt Nam, bảo đảm rằng nhân viên thanh toán quốc tế của SCB không những có đủ trình độ về các phương thức thanh toán quốc tế mà còn am hiểu về Luật pháp và tập quán kinh doanh quốc tế.
Ngân hàng cũng cần chất lượng nhân viên thẩm định và đánh giá khách hàng, thường xuyên đưa ra các tình huống có thật ở các ngân hàng khác hay của các chi nhánh khác trong chính ngân hàng để các nhân viên cùng nhau đưa ra một cách giải quyết hợp lý nhất, đồng thời đó cũng là cách học tập và để rút kinh nghiệm cho chính bản thân nhân viên thanh toán quốc tế.
3.1.3. Đổi mới công nghệ ngân hàng
Công nghệ là một vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng, nhất là trong thanh toán quốc tế, từ trước khi công nghệ hiện đại như bây giờ, việc thanh toán giữa các nước tiến hành rất khó khăn và kéo dài trong nhiều ngày, ảnh hưởng đến việc kinh doanh của người xuất nhập khẩu. Ngày nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển đòi hỏi ngân hàng phải cập nhật để đưa vào hoạt động của ngân hàng mình. Việc chuyển tiền điện chuỷên chứng từ dưới dạng chứng từ điện tử, thông báo L/C… càng được thực hiện nhanh chóng bao nhiêu thì hoạt động thanh toán quốc tế càng được tiện lợi và đơn giản bấy nhiêu.
Nhận thức rõ điều này, tháng 8 năm 2006, SCB đã đầu tư hơn 1 triệu USD để đổi mới hệ thống của ngân hàng. Hệ thống mới đã giúp phần nào cải thiện, giúp cho quá trình thực hiện thanh toán quốc tế được nhanh hơn. Nhờ có hệ thống mới, những khoản tiền từ nước ngoài về cho khách hàng ở SCB được tự động ghi có vào hệ thống, chỉ cần người có thẩm quyền duyệt, bỏ qua được bước nhập dữ liệu vào hệ thống, làm giảm thời gian thực hiện giao dịch, giảm thiểu được rủi ro (ví dụ như rủi ro về lỗi tác nghiệp: nhân viên ngân hàng chuyển nhầm số tiền hay chuyển nhầm tên người hưởng, tài khoản người hưởng…) Tuy nhiên, như trình bày ở trên, hệ thống mới vẫn còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, yêu cầu đối với SCB hiện nay là phải tìm ra được giải pháp để xoá bỏ những hạn chế trên. Có rất nhiều ngân hàng ở Việt Nam hiện nay cũng đang thay đổi công nghệ hoạt động. SCB nên tìm cách tìm hiểu, tham khảo những ngân hàng đó để rút kinh nghiệm.
Mặt khác, mỗi khi hệ thống chậm hay gặp trục trặc, các nhân viên ngân hàng lại phải gọi điện thoại hoặc gửi email sang bộ phận phụ trách hệ thống ở Ấn Độ để nhờ họ xem xét. Điều này rất mất thời gian, làm giảm sự tập trung, giảm tốc độ thực hiện giao dịch. SCB nên giao hẳn trách nhiệm này cho bộ phận IT (bộ phận phụ trách kỹ thuật ở SCB Hà Nội) để họ trực tiếp liên hệ và xử lý. SCB nên có những cuộc họp để bàn luận, thống nhất với bộ phận phụ trách hệ thống ở nước ngoài để những lúc hệ thống gặp trục trặc, họ có thể giúp đỡ ngay lập tức SCB ở Hà Nội. Có như vậy mới đảm bảo việc thực hiện đầy đủ giao dịch thanh toán, hạn chế xảy ra sai sót dẫn đến những rủi ro đáng tiếc.
3.1.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn và thu hút khách hàng đến thanh toán quốc tế tại SCB
Từ trước đến nay thì việc khách hàng tìm đến các ngân hàng quốc doanh để thực hiện chi trả cho hoạt động xuất nhập khẩu của mình là phổ biến, cho đến bây giờ, khi các ngân hàng cổ phần và ngân hàng nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt thì doanh số thanh toán quốc tế tại các ngân hàng quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn. Điều này đòi hỏi các ngân hàng nước ngoài nói chung và SCB nói riêng cần có các chính sách phối hợp đồng bộ với nhau để nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút khách hàng như: chính sách khách hàng, huy động và sử dụng vốn, chính sách về thanh toán quốc tế, ký quỹ mở L/C, lập kế hoạch cân đối nguồn ngoai tệ đảm bảo đủ vốn thanh toán cho ngân hàng nước ngoài… Trong đó chú trọng chính sách khách hàng vì thanh toán quốc tế liên quan rất mật thiết đến uy tín của ngân hàng trong quan hệ với các đối tác trong nước nói riêng và trên thế giới nói chung.
Ngân hàng cần vận dụng các phương thức thích hợp nhất cho từng loại hình xuất nhập khẩu và từng loại khách hàng, cũng như tư vấn cho khách hàng phương thức thanh toán nào phù hợp, loại hình L/C nào có lợi nhất cho họ. Đối với những sản phẩm hàng hoá tiêu thụ hoặc mới xuất hiện lần đầu trên thị trường thì nên thanh toán theo các điều kiện ưu đãi cho người nhập khẩu, đặc biệt là L/C trả chậm, chuyển tiền hay nhờ thu D/P. Các mặt hàng gia công, hàng đổi hàng hay giao hàng thường xuyên định kỳ thì nên tư vấn cho khách hàng sử dụng thư tín dụng tuần hoàn, đối ứng. Còn hàng hoá kinh doanh qua trung gian bán hàng thì có thể áp dụng L/C giáp lưng hay L/C chuyển nhượng. Hàng hoá là nông sản thì thường sử dụng L/C dự phòng để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho các bên tham gia thanh toán. Ngân hàng cũng cần tiến hành phân loại khách hàng như: với khách hàng có mối quan hệ thường xuyên lâu dài thì có thể sử dụng L/C tuần hoàn, những khách hàng có uy tín thanh toán thì có thể áp dụng các phương thức đơn giản hơn như chuyển tiền hay nhờ thu để tiết kiệm thời gian và chi phí. Còn khách hàng mới thì tốt nhất là nên sử dụng tín dụng chứng từ và yêu cầu ký quỹ để giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra.
Ngân hàng còn tư vấn cho khách hàng soạn thảo một hợp đồng ngoại thương với những điều kiện thương mại tối đa hoá lợi ích của khách hàng nhất vì các nhà kinh doanh ở nước ta vẫn còn lúng túng và thiếu kinh nghiệm trong việc ký hợp đồng như thế nào để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp mà không vi phạm các quy định, tập quán thương mại quốc tế. Khi bộ chứng từ có bất hợp lệ thì ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng cách sử lý tốt nhất, nếu là sai sót có thể sửa chữa được thì đề nghị khách hàng sửa chữa hoặc thay thế, nếu không ngân hàng phải thông báo cho ngân hàng nước ngoài về sai sót và xin chấp nhận thanh toán, ngân hàng nước ngoài không chấp nhận thanh toán thì chỉ còn cách chuyển sang hình thức thanh toán khác hoặc trả lại chứng từ cho họ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý về việc chuyển phương thức thanh toán, ví dụ như từ tín dụng chứng từ chuyển sang nhờ thu thì người xuất khẩu sẽ không có lợi vì theo UCP 500, Ngân hàng có quyền từ chối thanh toán trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận bộ chứng từ, quá thời hạn đó mới mất quyền từ chối thanh toán, nếu người xuất khẩu không biết điều này mà đổi luôn sang nhờ thu thì theo URC ngân hàng lại có thể không cần kiểm tra chứng từ hoặc thông báo bất hợp lệ trong vòng một thời gian quy định nào đó, nghĩa là không bị khống chế về thời gian thông báo và cũng không bị rằng buộc trách nhiệm khi người mua không thanh toán cho người bán. Ngân hàng nên tư vấn cho nhà xuất khẩu là yêu cầu chuyển chứng từ trên cơ sở chấp nhận thanh toán và áp dụng theo UCP 500 chứ không nên gửi trên cơ sở nhờ thu.
Ngân hàng nên chú trọng vào công tác tư vấn cho khách hàng để tránh những rủi ro không đáng có do khách hàng gây ra, mặc dù người chịu thiệt đầu tiên là chính khách hàng nhưng ngân hàng cũng phải chịu tổn thất theo. Ngân hàng nên đề ra biện pháp marketing khác nhau, mở rộng thị phần hoạt động thanh toán quốc tế, giảm biểu phí hoạt động dịch vụ thanh toán quốc tế trong chừng mực nào có thể cạnh tranh với các ngân hàng quốc doanh và cổ phần khác. Luôn nhắc nhở nhân viên thanh toán quốc tế phải có thái độ tận tình phục vụ, tư vấn khách hàng, tác phong làm việc trong môi trường năng động… đều tác động đến hình ảnh của ngân hàng, nhất là để khách hàng đã tin tưởng vào uy tín thanh toán quốc tế của ngân hàng. Một khi khách hàng đã tin tưởng vào ưu tín thanh toán quốc tế của ngân hàng thì động cơ tiêu cực của khách hàng như chây ì trong thanh toán hay viện cớ tranh chấp thương mại mà từ chối thanh toán cho ngân hàng sẽ được giảm, hoặc việc khách hàng vay ngân hàng để thanh toán hàng xuất khẩu cũng sẽ được khách hàng quan tâm hơn để sao cho trả được nợ cho ngân hàng. Một mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và khách hàng là điều kiện thuận lợi cho mọi giao dịch sau này, ngay cả trường hợp khách hàng được ngân hàng báo là chứng từ bị lỗi, không nên thanh toán rồi sau đó ngân hàng báo lại đấy không phải là lỗi, nếu quan hệ khách hàng và ngân hàng là tốt thì khách hàng sẽ nhanh chóng đến thanh toán, nếu không thì ngân hàng phải đi đòi, rất mệt và tốn thời gian. Rồi cả khi khách hàng được thanh toán nhầm, số tiền được nhiều hơn số tiền đáng lẽ nhận được, khi ngân hàng thông báo nhầm thì khách hàng sẽ trả lại dễ dàng hơn là khi quan hệ ng và khách hàng không được tốt.
3.1.5 Cần có các quy định chặt chẽ, cụ thể hơn đối với các loại hình L/C
Về chính sách thanh toán quốc tế, quy định ký quỹ mở L/C của ngân hàng:
Ngân hàng nên quy định chặt chẽ về nghĩa vụ hoàn trả của người xin mở L/C, điều này khách hàng phải nêu rõ trong mẫu đơn mở L/C có cam kết thanh toán với ngân hàng, khi còn chưa tin tưởng khách hàng thì ngân hàng yêu cầu kí quỹ bằng vốn tự có chứ không nên cho khách hàng vay để mở L/C. Hơn nữa, mức ký quĩ ngân hàng yêu cầu hiện nay có thấp quá không? Thực ra mức ký quỹ là để tránh rủi ro cho ngân hàng, tuy nhiên nếu ngân hàng yêu cầu quá cao, khách hàng không đáp ứng được thì sẽ tìm ngân hàng khác để giao dịch,còn nếu yêu cầu quá thấp thì rủi ro cho ngân hàng lại tăng lên. Chính vì vậy, một chính sách ký quỹ hợp lý là rất quan trọng để ngân hàng tránh rủi ro trong thanh toán quốc tế. Trong nghiệp vụ chuyển tiền trả trước thì vấn đề yêu cầu khách hàng cam kết bổ xung tờ khai hải quan sẽ thế nào? Nếu chỉ viết đơn cam kết không thôi thì có quá đơn giản không? Hay phải yêu cầu có tài sản đảm bảo đề phòng trường hợp người nhập khẩu không bổ sung được tờ khai hải quan. Nếu người nhập khẩu không bổ xung được thì cần tìm hiểu nguyên nhân để xử lý, vì có thể người nhập khẩu cũng bị người xuất khẩu lừa mà ngân hàng lại tịch thu tài sản đảm bảo thì không nên chút nào…
Về L/C trả chậm, ngân hàng cũng cần có thêm quy định riêng của ngân hàng về việc cùng chịu một phần trách nhiệm trong kiểm soát hàng hoá nhập khẩu của khách hàng khi mà hàng hoá nhập khẩu không phải là hàng hoá xuất khẩu, tránh việc người nhập khẩu sau khi nhận hàng không quản lý hàng nhập khẩu chặt chẽ dẫn đến chậm thanh toán cho ngân hàng. Ngân hàng nên đề nghị người nhập khẩu đồng ý điều khoản này và ký cam kết bằng văn bản, nhưng ngân hàng cũng không được có những can thiệp quá mức vào việc kinh doanh của khách hàng, mà chỉ kiểm soát việc sử dụng hàng hoá có đúng mục đích hay không. Như thế khách hàng mới có trách nhiệm với thanh toán L/C trả chậm cho ngân hàng.
Về bảo lãnh nhận hàng, ngân hàng cũng cần đưa ra những quy định về khách hàng nào thì được ngân hàng bảo lãnh: chỉ những khách hàng có uy tín, tình hình kinh doanh phát đạt, không có vấn đề gì về tình trạng chậm thanh toán từ trước đến nay… ngoài ra cũng cần đánh giá đối tác của khách hàng có phải là bạn hàng lâu năm, có tín nhiệm với khách hàng của mình là nhà nhập khẩu không và loại hàng nhập khẩu có phải là hàng hoá dễ bán thu được lợi nhuận hay không…
Nếu các điều kiện trên không thoả mãn thì ngân hàng không nên bỏ lãnh nhận hàng cho nhà nhập khẩu.
Ở Việt Nam hiện nay, việc các doanh nghiệp sử dụng L/C trả chậm chiếm phần lớn trong các L/C phát hành, thậm chí xu hướng vay ngân hàng để trả nợ L/C trả chậm cũng không ít, ở SCB cũng vậy, điều này cũng tăng tình hình rủi ro cho ngân hàng, do đó, cần thiết phải mở rộng các loại hình L/C khác nhau vì mỗi loại L/C đều có các ưu nhược điểm riêng, nếu làm cho khách hàng hiểu rõ được điều này thì chắc chắn doanh số thanh toán quốc tế của ngân hàng sẽ tăng lên đáng kể, mang lại một phần lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cần lưu ý rằng không như những doanh nghiệp kinh doanh thông thường là đa dạng hoá sản phẩm để giảm thiểu rủi ro, thì trong thanh toán quốc tế, đa dạng hoá các phương thức thanh toán quốc tế lại đồng nghĩa với việc phải đối mặt thêm với nhiều rủi ro, chính vì thế, ngân hàng cần lựa chọn cho mình cách thức đa dạng hoá an toàn, phù hợp với điều kiện, trình độ ngân hàng mình và đồng thời có lợi nhất. Đây là một bài toán khó mà bất kì ngân hàng nào cũng muốn giải đáp vì càng mở rộng phạm vi thanh toán quốc tế thì ngân hàng càng khẳng định được vị trí của mình trong thanh toán quốc tế cả trong và ngoài nước.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Kiến nghị với ngân hàng Standard Chartered
3.2.1.1.Kiến nghị về quy trình thực hiện thanh toán quốc tế
Hiện nay, quy trình thực hiện một giao dịch thanh toán quốc tế tại SCB diễn ra như sau: một người ở ngoài quầy nhận lệnh và đưa cho bộ phận dịch vụ khách hàng để xác nhận chữ ký trên lệnh có hợp lệ hay không. Sau khi đã xác nhận, lệnh thanh toán đó sẽ được chuyển vào trong cho phòng thanh toán thực hiện giao dịch. Phòng thanh toán sẽ trải qua cácbước kiểm tra cần thiết : kiểm tra xem tài khoản người gửi có đủ tiền để thực hiện giao dịch đó hay không, kiểm tra xem loại giao dịch này có phải của người đang trong danh sách rửa tiền hay không, kiểm tra xem người gửi va người nhận có phải là nằm trong danh sách khủng bố… hay không. Sau khi kiểm tra đầy đủ, giao dịch đó mới được đẩy khỏi ngân hàng. Như vậy có thể thấy, phòng thanh toán phải kiểm tra phòng ngừa rủi ro qua rất nhiều công đoạn. Mà thực tế, bộ phận thanh toán thực hiện giao dịch lại có rất ít nhân viên (chỉ có hai người thực hiện nhập dữ liệu vào hệ thống và kiểm tra chứng từ, 2 người kiểm tra xem người nhận và người gửi có nằm trong “danh sách đen” hay không), các giao dịch lại rất nhiều nên nhiều khi, với phòng thanh toán, công việc bị quá tải, điều đó cũng sẽ dẫn đến nhân viên thực hiện giao dịch sẽ dễ để xảy ra sai sót, gây rủi ro. Mà trong tất cả quá trình thực hiện thanh toán quốc tế đó, vị trí của phòng quản lý rủi ro ở đâu? Thực tế ở SCB, phòng quản lý rủi ro chỉ đảm nhận trách nhiệm ở tầm vĩ mô, còn không đảm nhận trách nhiệm quản lý rủi ro từng giao dịch thanh toán quốc tế. Vậy nên chăng, SCB nên đổi lại một chút quy trình thực hiện thanh toán quốc tế. Đó là sau khi nhận lệnh và xác nhận chữ ký hợp lệ, lệnh sẽ được chuyển ra cho phòng quản lý rủi ro để phòng quản lý rủi ro kiểm tra, sau đó đưa vào cho phòng thanh toán. Như vậy, phòng thanh toán sẽ đỡ được rất nhiều thời gian trong việc kiểm tra hạn chế rủi ro, tập trung vào việc thực hiện giao dịch, hạn chế được sai sót xảy ra.
3.2.1.2. Kiến nghị về cách thức quản lý nhân sự
Qua quy trình thanh toán cũng như cơ cấu tổ chức đã trình bày ở trên, có thể thấy, SCB đã có sự phân bổ nhân sự không hợp lý, phòng thanh toán trách nhiệm và công việc quá nhiều nhưng người thực hiện lại ít, gây khó khăn trong việc thực hiện giao dịch. Vậy SCB cần nghiên cứu để phân bổ lại nhân lực một cách hợp lý, có thể tuyển thêm người để hỗ trợ cho bộ phận thanh toán hoặc giảm bớt, san sẻ những trách nhiệm của phòng thanh toán cho những phòng chuyên trách liên quan.
Mặt khác, SCB cần phải có những giải pháp để hạn chế tình trạng những nhân viên lâu năm,có kinh nghiệm ra đi ngày một nhiều. Điều này sẽ gây bất lợi lớn cho SCB vì có thể những người này, với kinh nghiệm hơn 10 năm làm việc, hiểu quá rõ về hệ thống hoạt động của SCB lại sang làm cho những ngân hàng đối thủ cạnh tranh. Vậy SCB nên có những chính sách thay đổi tiền lương phù hợp, chế độ đãi ngộ công bằng, hợp lý để giữ những người có kinh nghiệm ở lại,đồng thời không ngừng thu hút những người tài giỏi ở nơi khác về làm việc tại SCB.
3.2.2. Kiến nghị với Nhà nước
3.2.2.1. Nhà nước cần có các văn bản pháp lý với chế tài cụ thể cho giao dịch thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam
Việt Nam bước vào nền kinh tế mở từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 và đã đàn có được chỗ đứng trên trường quốc tế. Hoạt động thương mại, đặc biệt là ngoại thương, cũng như dịch vụ ngân hàng tài chính ngày càng sôi động, được mở rộng cả về chất lượng lẫn số lượng. Giao dịch thương mại quốc tế tăng dẫn đến thanh toán hàng hoà xuất nhập khẩu tăng, vai trò của NHTM càng trở nên quan trọng. Nhưng mặt trái của các giao dịch này ẩn chứa nhiều rủi ro và mâu thuẫn về luật pháp giữa các quốc gia với nhau và với thông lệ quốc tế khiến cho tranh chấp trong quá trình thanh toán giữa các bên phát sinh và ngày càng nhiều, phức tạp. Việc áp dụng thông lệ quốc tế và tập quán vào từng nước thì hiệu quả đên mức nào còn phụ thuộc vào luật pháp của quốc gia đó, mà trong thanh toán xuất nhập khẩu thì thông lệ quốc tế được vận dụng không chỉ trong hoạt động ngân hàng mà còn cả trong các lĩnh vực khác như vận tải, bảo hiểm…
Các NHTM tự tạo cho mình một quy trình thanh toán quốc tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng ngân hàng nên không có sự thống nhất chung, dẫn đến mâu thuẫn với quy trình chung theo thông lệ không có gì là lạ.
Trong phương thức tín dụng chứng từ, UCP 500 không phải chỉ là luật, chỉ là một thông lệ, một tập quán hay công ước quốc tế có giá trị sử dụng đối với các bên. Nhiều nước trên thế giới đã có văn bản dưới luật quy định về giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở UCP 500 có tính đặc thù của sự phát triển kinh tế, tập quán của nước đó. Trong khi đó, Việt Nam và một số nước khác chưa có một văn bản luật riêng biệt nào để điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể trong thanh toán quốc tế. Vì thế ở tầm quản lý vĩ mô, Nhà nước cần sớm xây dựng văn bản pháp lý, có thể là một nghị định quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thanh toán quốc tế cũng như quan hệ pháp lý giữa hợp đồng ngoại thương và các phương thức giao dịch thanh toán, nhất là giữa hợp đồng thương mại và thư tín dụng.
Quy chế trong nước cần có sự bảo đảm quyền lợi hợp pháp của ngân hàng, nhất là trong giao dịch tín dụng chứng từ, mà vẫn phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ như khi một doanh nghiệp ký quỹ mở L/C 100% trị giá L/C, trong lúc chờ người xuất khẩu giao hàng thì doanh nghiệp này bị phá sản hoặc bị bắt thì số tiền ký quỹ này sẽ được xử lý như thế nào? Ngân hàng phát nên được miễn trách nhiệm thanh toán khi quan hệ giao nhận hàng bị trọng tài tuyên vố huỷ bỏ, nếu ngân hàng đã nhận được bộ chứng từ hợp lệ thì phải thanh toán cho người xuất khẩu, nhưng bù lại thì họ phải được sở hữu hàng hoá để bù lại số tiền mà họ đã thanh toán cho người xuất khẩu. Luật pháp các nước luôn đứng về phía công lý, chống lại mọi thủ đoạn gian xảo, lừa đảo, nhất là hành vi rửa tiền. Ngân hàng là người liên quan đến các vụ việc phát sinh trong giao dịch thanh toán quốc tế, khi người mua và người bán đã thông đồng với nhau giao hàng không đúng quy định của thông lệ quốc tế trong tín dụng chứng từ, bị hải quan thì trách nhiệm của ngân hàng là như thế nào? Mặc dù nghĩa vụ thanh toán là không còn nhưng luật pháp quốc gia cũng cần tuyên bố huỷ bỏ cam kết thanh toán của ngân hàng, bảo vệ uy tín và quyền lợi cho ngân hàng. Các phương thức thanh toán như nhờ thu, chuyển tiền, mở tài khoản,…ngân hàng đóng vai trò không quan trọng và cũng không có sự đảm bảo của ngân hàng trong giao thực hiện hợp đồng thương mại giữa bên mua và bên bán. Có chăng là khi ngân hàng sơ suất kiểm tra bộ chứng từ không đầy đủ mà đã thanh toán, hoặc trường hợp hai bên mua bán thông đồng tạo bộ chứng từ giả mạo để nhờ ngân hàng chuyển tiền mà thực tế không có hàng hoá nào được mua bán cả, như vậy ngân hàng đã tiếp tay cho việc chuyển tiền lậu ra nước ngoài…Khi đó nếu sự thật được lộ ra ngoài thì trách nhiệm của ngân hàng sẽ ntn? Chính phủ cần có những quy định cụ thể để giải quyết những trường hợp như thế này mà không ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trong nước. Mặt khác, có thể ban hành những văn bản pháp lý để bổ xung những kẽ hở của thông lệ quốc tế giúp các doanh nghiệp và ngân hàng tham gia thanh toán quốc tế được an toàn hơn.
Các văn bản pháp quy trong nước có những quy định, chế tài cụ thể hơn đối với những đơn vị nhập khẩu chây ỳ, không chịu nhận nợ hoặc thanh toán cho ngân hàng để ngân hàng thanh toán cho ngân hàng nước ngoài. Trường hợp đặc biệt khi khách hàng không nhận vay nợ, NHNN có thể cho phép NHTM thanh toán cho ngân hàng nước ngoài để giữ uy tín và khoản tiền thanh toán náy sẽ được ghi vào một khoản mục trung gian trong khi chờ hoàn thành thủ tục nhận vay nợ bắt buộc đối với khách hàng.
Để giải quyết tranh chấp nảy sinh thì cần có một cơ quan trọng tài thanh toán quốc tế riêng vì đây là hình thức giải quyết hiệu quả nhất và thường được sử dụng nhất với các ưu điểm thủ tục đơn giản, giữ được bí mật, bảo đảm tính trung lập với các bên, có hiệu lực quốc tế…Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các quy định về trọng tài nước ta còn chưa hoàn thiện, do đó Nhà nước nên ban hành luật về trọng tài quốc gia quy định đầy đủ về các vấn đè như vi phạm trọng tài, thủ tục chỉ định thay thế trọng tài, lựa chọn trọng tài…
Thêm vào đó, NHNN cần luôn cập nhật thông tin cho các NHTM. Hiện nay, SCB cũng như các ngân hàng khác đều nhận được một bản danh sách của ngân hàng Nhà nước về những người nằm trong danh sách khủng bố hay rửa tiền…, nhưng bản danh sách đó thường không cập nhật, các ngân hàng thường phải kiểm tra thêm qua một bản danh sách của ngân hàng.
3.2.2.2. Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước
Để tăng thêm ngoại tệ, tránh thâm hụt cán cân thương mại thì mỗi Chính Phủ một nước thường có những chính sách đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của nước mình. Xuất khẩu có nhiều thì thu nhập quốc dân sẽ tăng lên, hàng hoá sẽ được thị trường nước ngoài biết tới, tăng thêm hình ảnh tốt đẹp cho đất nước. Có nhiều biện pháp khuyến khích xuất khẩu như: Tạo điều kiện giảm thuế thu nhập khẩu để doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu mua nguyên vật liệu từ nước ngoài, có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp vay vốn để tiến hành sản xuất, những điều kiện vận tải trong nước thông thoáng và an toàn hơn, các thủ tục xuất nhập khẩu bớt rườm rà, tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên trong số các biện pháp trên thì việc cho vay chứa đựng nhiều rủi ro hơn cả, chính phủ cũng phải tính toán để sao cho vừa có lợi cho các doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo tính an toàn cho ngân hàng cấp tín dụng. Chính vì thế kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc tránh được những rủi ro trong hoạt động ngoại thương cũng như thanh toán quốc tế. Một khi những rủi ro trong thanh toán được ngăn chặn và đẩy lùi ở một mức độ nào đó thì hoạt động ngoại thương sẽ còn phát triển nhanh chóng theo đúng xu thế khẩn trương của nền đại công nghiệp toàn cầu.
3.2.2.3. Nhà nước nên thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro
Trên thế giới đã có ủy ban phòng chống rủi ro trong đó có bộ phận phòng chống rủi ro thanh toán quốc tế do một số các ngân hàng cùng thành lập nên. Việt Nam nên cố gắng nỗ lực hơn nữa để xây dựng được một mô hình như thế tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế không còn bị những đe dọa về rủi ro. Bộ phận này sẽ giúp các ngân hàng liên kết với nhau, đề ra những biện pháp cụ thể, thống nhất, có tính định hướng cho các ngân hàng trong việc quản lý rủi ro, tư vấn cho các ngân hàng về cách quản lý và giải quyết rủi ro, hỗ trợ ngân hàng về thủ tục pháp lý, tư vấn và bảo vệ ngân hàng trong trường hợp xảy ra rủi ro dẫn đến tranh chấp khởi kiện.
3.2.2.4. Nhà nước cần tạo điều kiện hơn nữa cho các ngân hàng nước ngoài
Trước đây, khi chưa gia nhập WTO, Việt Nam là một quốc gia có mức độ bảo hộ thị trường tài chính khá cao. Vì vậy, để xin giấy phép và hoạt động ở Việt Nam, ban lãnh đạo SCB đã gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, trước cánh cửa WTO, Việt Nam đã cam kết sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO sẽ mở cửa tự do thị trường tài chính, không còn bảo hộ cho thị trường trong nước. Đây là một bước tiến rất lớn, chứng tỏ nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian hiện tại, các ngân hàng nước ngoài nói chung và SCB nói riêng vẫn chưa được đối xử công bằng như các ngân hàng trong nước. Vì vậy, Nhà nước nên sớm có những thay đổi, tạo điều kiện hơn nữa cho các ngân hàng nước ngoài phát triển, tạo môi trường cạnh tranh công bằng. Điều đó sẽ tạo động lực cho các ngân hàng trong nước nỗ lực hết khả năng để phát triển, đẩy mạnh sự phát triển của thị trường ngân hàng tài chính nói chung.
KẾT LUẬN
Hoạt động thanh toán quốc tế đã và đang được các ngân hàng trrong và ngoài nước tổ chức thực hiện, góp phần thúc đẩy mở rộng quan hệ quốc tế cũng như tăng cường hoạt động đầu tư và xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trải qua hơn mười năm kinh nghiệm, bằng uy tín, năng lực tài chính và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng Standard Chartered đã từng bước tạo dựng được lòng tin với khách hàng và vị thế trên thị trường tài chính ngân hàng, hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Song trước những biến động mạnh mẽ và liên tục của môi trường kinh tế, pháp luật ngân hàng Standard Chartered cũng đã và đang phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại và rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, trong thời gian qua ngân hàng Standard Chartered cũng đã có những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và giảm thiểu những rủi ro phát sinh như: không ngừng cải tiến, đa dạng hóa các phương thức thanh toán, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng... Chính điều đó đã góp phần đưa SCB trở thành một trong những ngân hàng có uy tín trong hoạt động thanh toán quốc tế hiện nay. Mặc dù vậy, SCB cũng không tự bằng lòng với những kết quả đã đạt được mà luôn phấn đấu hơn nữa nhằm đưa hoạt động thanh toán quốc tế trở thành thế mạnh hàng đầu của mình. Chính vì vậy qua đề tài: “Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại ngân hàng Standard Chartered” em hy vọng đóng góp phần nào vào quá trình hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng tại ngân hàng Standard Chartered.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - PGS.TS Nguyễn Như Bình đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình. Trong quá trình hoàn thành chuyên đề không tránh khỏi những sai sót, em mong thầy thông cảm và mong được sự chỉ dẫn, hướng dẫn của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế – PGS-TS Nguyễn Thị Thu Thảo - NXB Lao động xã hội 2005.
Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QH 10.
Báo cáo kết quả hoạt động thanh toán quốc tế của SCB 2004-2005-2006
Nhìn lại quá trình đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam về lĩnh vực thanh toán và những vấn đề của thời kỳ phát triển mới – Tạp chí ngân hàng số 5, tháng 5.06
Quản lý rủi ro thanh toán của tổ chức tín dụng và hoạt động giám sát, thanh tra quản lý rủi ro đó – Tạp chí ngân hàng số 16, tháng 8 năm 2005 (trang 29 đến 31)Ca
Quản trị NHTM- Peter Rose- NXB Tài Chính 2001.
7. Giáo trình NHTM_ Chủ biên TS Phan Thị Thu Hà_ ĐH Kinh tế quốc dân.
8. Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ - PGS.TS Nguyễn Hữu Tài - NXB Giáo dục
9. Giáo trình NHTM quản trị và nghiệp vụ - TS Phan Thị Thu Hà, TS Nguyễn Thị Thu Thảo - NXB Thống kê 2002
10. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, ĐH Ngoại thương 2005
11. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM – NHNN Việt Nam – NXB Phương Đông 2005
12. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – NXB Thống kê 2005
13. Thanh toán quốc tế tài trợ ngoại thương – Nguyễn Văn Tiến – NXB Thống kê 2005
14. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế - Lê Văn Tề – NXB TP HCM 1994
15. Các nghiệp vụ ngân hàng với nước ngoài – Prissert P2. Viện tiền tệ tín dụng 1991
16. Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại – Lê Văn Tư, NXB Thống kê 1997
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0080.doc