Đứng trên quan điểm khoa học nghiên cứu, tôi đã cố gắng rút ra những điểm đặc trưng cũng như những quy luật vận động và phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đồng thời cũng phân tích ảnh hưởng của nó tới năng lực cạnh tranh của quốc gia, để từ đó xây dựng một cái nhìn toàn diện, khách quan và sâu sắc hơn về thương mại điện tử.
Trong khoá luận tốt nghiệp có sử dụng kết quả nghiên cứu của nhiều quốc gia, tổ chức và các công ty trên thế giới về thương mại điện tử và trên cơ sở hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam, tôi rút ra một số kết luận sau:
91 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hệ thống giải pháp phát triển thương mại điện tử nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư nước ngoài, vốn ODA, vốn ngân sách....Trong quá trình thực hiện cần tranh thủ sự giúp đỡ của của các doanh nghiệp của làng nghề truyền thống được lên mạng và thực hiện kinh doanh qua mạng. Đây là những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh rất lớn (do tính chất độc đáo của sản phẩm) nếu như được mở rộng kinh doanh thông qua thương mại điện tử (theo kinh nghiệm của một số quốc gia như Campuchia, ấn độ cho thấy) tính hiệu quả rất lớn khi đưa các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm truyền thống lên mạng.
- Nhà nước cần đi tiên phong trong hoạt động thúc đẩy thương mại điện tử thông qua việc ứng dụng các nguyên tắc hoạt động thương mại điện tử vào quản lý bộ máy Chính phủ và vào các hoạt động mua sắm của Chính phủ cũng như trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng, bước đầu xây dựng Chính phủ điện tử (E-Government).
Kinh nghiệm ở các quốc gia công nghiệp mới (Singapore, Hàn quốc) và các quốc gia phát triển (ấn độ) cho thấy Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc xúc tiến thương mại điện tử bởi sự tham gia trực tiếp của Chính phủ vào hoạt động này. ở đây, Chính phủ đóng vai trò là chất xúc tác cho sự mở rộng ứng dụng thương mại điện tử vào khu vực doanh nghiệp tư nhân. Singapore là một trường hợp điển hình. Chính phủ quốc gia này đã khuyến khích hoạt động thương mại điện tử thông qua phát triển hệ thống mua sắm của Chính phủ qua mạng Internet. Do đó, ở Việt nam trong thời gian tới Chính phủ cần khẳng định “niềm tin’ cho các doanh nghiệp bằng việc tích cực hơn nữa trong việc tham gia vào các hoạt động mua sắm điện tử (e-procuroment) đồng thời phát triển dịch vụ công cộng qua mạng (như trong ngành hải quan, thuế vụ, điện lực...)
Đồng thời, để thực hiện cam kết trong hiệp định khung ASEAN về Chính phủ điện tử, Nhà nước cần từng bước xây dựng một Chính phủ điện tử. Việc xây dựng Chính phủ điện tử là xu hướng phát triển tất yếu của mọi quốc gia trong tương lai. Trên thế giới và trong khu vực, Chính phủ các nước đã và đang thực hiện kế hoạch này. Malaysia, Thái Lan, Indonesia,....đều đã đưa ra chiến lược phát triển công nghệ thông tin, trong đó có việc thành lập Chính phủ điện tử. Đặc biệt là Singapore đầu tư 1,4 tỷ đô la trong năm 2002 để thực hiện kế hoạch này.
Có rất nhiều lý do để đưa các hoạt động của Chính phủ lên mạng, trong đó trước hết là vấn đề hiệu quả. Khái niệm hiệu quả có nghĩa là tiết kiệm đáng kể các chi phí từ việc mua sắm tới việc quản trị nhân lực và giúp các doanh nghiệp tiếp xúc dễ dàng hơn với Chính phủ. Không chỉ tiết kiệm được các nguồn lực mà chất lượng các dịch vụ do Chính phủ cung cấp cũng được cải thiện đáng kể. Việc phê duyệt các vấn đề cần thiết cũng sẽ trở nên nhanh chóng hơn, tạo môi trường hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, việc xây dựng thành công Chính phủ điện tử cũng sẽ là một ví dụ điển hình cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp nhận khái niệm thương mại điện tử, qua đó mà gia tăng hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế.
Việc xây dựng Chính phủ điện tử cần có sự phối hợp tốt giữa các Bộ, ngành, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức và các doanh nghiệp trên cả nước.
Theo ý kiến ông David Barns, phó chủ tịch chương trình Chính phủ thương mại điện tử của IBM khu vực Châu á- TBD, để giảm nhiều rủi ro, việc xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt nam cần có những bước đi thận trọng và sử dụng phương pháp có thể đánh giá được. Cần bắt đầu từ những mô hình đơn giản nhất, thực hiện những bước cơ sở trước và khi thành công rồi mới thực hiện các bước tiếp theo.
Khi xây dựng Chính phủ điện tử có 3 điểm cần lưu ý:
+ Những công nghệ áp dụng để xây dựng Chính phủ điện tử không cần quá phức tạp nhưng phải đáng tin cậy và nhanh.
+ Khi phần đông dân chúng vẫn chưa thể tiếp cận Internet dễ dàng thì những công cụ truyền thống như điện thoại và tiếp xúc trực tiếp vẫn đóng vai trò quan trọng.
+ Dân chúng và các doanh nghiệp phải nhận thức được sự tồn tại của các dịch vụ chính phủ điện tử và thế mạnh của những dịch vụ đó.
- Nhà nước cần tích cực đẩy mạnh tham gia hợp tác quốc tế xây dựng các chiến lược, dự án phát triển thương mại điện tử ở các cấp độ khu vực (ASEAN, APEC), thế giới (UNCTAD, ICC, WIFPO, UNDP...), đồng thời kêu gọi sự hỗ trợ của quốc tế đối với sự phát triển thương mại điện tử ở Việt nam, nhất là ở khu vực nông thôn và làng nghề thủ công truyền thống. ở cấp độ khu vực, Việt nam đã đạt được các thoả thuận về các nguyên tắc chỉ đạo chung (trong ASEAN), Hiệp định khung ASEAN về thương mại điện tử và Chương trình hành động (trong APEC) về thương mại điện tử. Việc tham gia vào các tổ chức, khu vực trong hoạt động phát triển, ứng dụng thương mại điện tử tạo cho Việt nam cơ sở vững chắc hơn để phát triển có hiệu quả thương mại điện tử từ việc có được sự hỗ trợ của các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới, nhất là những nước đã có kinh nghiệm trong việc áp dụng thương mại điện tử.
Ngoài ra Việt nam cần đẩy mạnh và phát triển hệ thống Trade - Point (Tâm điểm mậu dịch) ở Việt nam. Hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào hệ thống này. Từ đó sẽ tạo ra nền tảng cho Việt nam tham gia sâu và hiệu quả vào hệ thống thương mại điện tử toàn cầu. Như chúng ta đã biết thì Trade-Point là một chương trình được khởi xướng bởi Tổ chức Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD). Theo đó, Trade-Point có chức năng là đưa dẫn các công ty XNK tham gia vào mạng điện tử toàn cầu hay nói đúng hơn góp phần xúc tiến thương mại điện tử toàn cầu. Lợi ích của việc tham gia Trade-Point là rất to lớn. Qua điều tra của UNCTAD thì ở một số nơi các Trade-Point đã và đang phát huy tác dụng giúp các doanh nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, trang bị công nghệ thông tin thiếu và yếu) tiếp thị trên mạng, giao dịch sơ bộ với bạn hàng, cung cấp thông tin thị trường. Với việc phần lớn các doanh nghiệp Việt nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã kết nối vào mạng Internet và nhiều doanh nghiệp đã và đang xây dựng Website trên mạng sẽ tạo thuận lợi lớn cho Việt nam tham gia vào mạng Trade-Point toàn cầu, nâng cao được sức cạnh tranh và phát huy cao độ lợi thế so sánh doanh nghiệp.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn, công nghệ cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh trên mạng cũng như hỗ trợ cho mọi người dân được tham gia vào mạng Internet.
Theo đó, Nhà nước cần hình thành một kênh vốn riêng được huy động từ nhiều nguồn khác nhau trên cơ sở cân đối các nguồn vốn trong và ngoài nước, đặc biệt cần tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong việc phát triển thương mại điện tử ở Việt nam. Trong đó Nhà nước cần đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tiếp cận sâu hơn với Internet thông qua việc giảm chi phí truy cập Internet (phần giảm chi phí được bù đắp bằng nguồn vốn mà Nhà nước huy động để phục vụ cho phát triển thương mại điện tử). Ngoài ra các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa...đều được ưu tiên hỗ trợ trong việc kết nối vào mạng Internet để có thể nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng thương mại điện tử góp phần đưa các vùng này phát triển. Trước mắt nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ khu vực kinh tế trang trại (đây là khu vực kinh tế sẽ tạo động lực chủ yếu cho phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá) tiếp cận với Internet đồng thời từng bước ứng dụng thương mại điện tử.
2. Các giải pháp vi mô ở cấp độ doanh nghiệp.
- Nâng cao nhận thức và trau dồi trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ quản trị và các nhân viên trong công ty.
Ban giám đốc các công ty cần nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về thương mại điện tử. Hiểu hết những lợi ích mà thương mại điện tử mang lại để tận dụng và khai thác, đồng thời hạn chế và giảm thiểu những tác động tiêu cực mà nó có thể mang lại. Sau đó phải truyền lại cho toàn thể nhân viên công ty hiểu và thấm nhuần thương mại điện tử là yêu cầu tất yếu để có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể trụ vững và vươn lên trong thời gian tới, nhất là khi Việt nam bắt đầu tham gia vào lộ trình giảm thuế AFTA và sau đó là việc gia nhập WTO. Những doanh nghiệp cục bộ, không tiếp cận được với thương mại điện tử như một thứ vũ khí cạnh tranh chắc chắn sẽ không thể tồn tại.
Doanh nghiệp cũng phải thường xuyên đào tạo và cho nhân viên tham dự các khoá học về tin học và ngoại ngữ. Việc đào tạo có thể dưới hình thức cấp kinh phí cho nhân viên đi học hoặc tổ chức những buổi học ngay tại công ty.
- Tin học hoá hệ thống quản lý thông tin doanh nghiệp
Xét về lâu dài, để tham gia vào thương mại điện tử điểm cốt lõi là phải xây dựng được cho doanh nghiệp một hệ thống thông tin được tin học hoá. Và cơ sở để đưa ứng dụng từ các mạng Intranet, Extranet và Internet vào các hoạt động giao dịch của mình. Thực tế qua khảo sát của 36 doanh nghiệp nhà nước thực hiện tin học hoá ở TP. HCM cho thấy 81% các công ty cho rằng tin học hoá giúp cho họ giảm chi phí. 67% các công ty tin rằng tin học hoá giúp họ tăng năng suất. 56% cho rằng tin học hoá giúp họ tăng lợi nhuận. 53% cho rằng tin học hoá tạo lợi thế cho khách hàng và tạo nét riêng cho sản phẩm. Điều này cho thấy việc tin học hoá là yếu tố hết sức quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo tiền đề để các doanh nghiệp tham gia vững chắc vào hoạt động thương mại điện tử .
Tuy nhiên cần lưu ý: Việc mua sắm thiết bị tin học để tăng cường cho bộ máy quản lý là điều cần thiết. Nhưng không phải chỉ cần các công cụ tin học cộng với quản lý cũ là lập tức đã mang lại hiệu quả mong muốn. Thực tế cho thấy không ít doanh nghiệp đã không gặt hái được mấy thành công sau khi đã ứng dụng tin học. Quan trọng là phải tuân thủ một số nguyên tắc trong xây dựng hệ thống tin học quản lý. Đó là các nguyên tắc:
+ Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Khi nghiên cứu ứng dụng tin học vào quản lý phải xem xét một cách toàn diện các vấn đề kinh tế, kỹ thuật và tổ chức của guồng máy quản lý. Việc tối ưu hoá một vài bộ phận mà không tính đến mối liên hệ với các phân hệ khác sẽ không mang lại hiệu quả tối ưu cho toàn bộ hệ thống (nguyên lý Nash-Perato).
+ Nguyên tắc tính toán chi phí hiệu quả: điều này rất cần thiết vì đầu tư cho một hệ thống tin học cũng như việc xây dựng và duy trì Website cần một khoản tiền không nhỏ.
+ Nguyên tắc đảm bảo độ tin cậy: Thông tin cần được cập nhật và lưu trữ thường xuyên để đảm bảo khi cần có thể cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác. Bên cạnh đó phải đảm bảo tính bảo mật và độ tin cậy của hệ thống.
+ Nguyên tắc hướng tới tương lai: Hệ thống tin học mà doanh nghiệp xây dựng phải phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và có khả năng đáp ứng những nhu cầu phát sinh trong tương lai.
Khi tin học hoá, có hai phương pháp: hoặc tin học hoá từng phần (là tiến hành tin học hoá từng chức năng quản lý theo một trình tự nhất định) hoặc tin học hoá đồng bộ (tin học hoá đồng bộ tất cả các chức năng quản lý và xây dựng một hệ thống quản lý thay thế hoàn toàn cho hệ thống quản lý cũ). Phương pháp tin học hoá từng phần thường được nhiều doanh nghiệp trên thế giới áp dụng vì có ưu điểm dễ dàng thực hiện và vốn đầu tư ban đầu không lớn. Theo tôi, đây là phương pháp phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp Việt nam.
- Xây dựng chiến lược kinh doanh trên mạng
Sau khi đã quyết định đưa doanh nghiệp lên mạng, cần thiết phải xây dựng một chiến lược kinh doanh qua mạng. Vì chi phí xây dựng và duy trì một Website là rất tốn kém nên doanh nghiệp cần có một chiến lược kinh doanh phù hợp để hoạt động của mạng thực sự đem lại hiệu quả cao. Bước đầu, để giảm chi phí về Website, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia các chương trình xây dựng Website hỗ trợ (của nhà cung cấp dịch vụ Internet như VNN, FPT) hay có thể tham gia vào siêu thị điện tử (cybermall) mà đang được xây dựng ở Việt nam để quảng bá sản phẩm của mình ra thế giới. Đồng thời cần xây dựng quan hệ tốt với đối tác qua Internet, nên tham gia vào các mạng chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc của hiệp hội ngành để có thể học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm sự giúp đỡ từ các đối tác. Bởi thực tế chứng minh rằng những doanh nghiệp tham gia vào “cụm” (cluster) các doanh nghiệp thì thường có khả năng sáng tạo hơn, năng động hơn và có lợi thế cạnh tranh cao hơn.
* Các bước xây dựng chiến lược kinh doanh trên mạng.
+ Khi lập chiến lược Internet, doanh nghiệp cần chắc chắn rằng tất cả các quản trị viên cao cấp - tất cả cho tới Tổng giám đốc nếu có thể - là có liên quan. Các quản trị viên giao dự án một cách dễ dàng và đơn giản cho các bộ phận công nghệ thông tin hay bộ phận thị trường là phạm phải sai lầm. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước hết nên đầu tư cho xây dựng máy tính nối mạng Internet, phải cần thiết có ít nhất một cán bộ quản lý thông tin (CIO) có đủ năng lực trình độ làm nhiệm vụ quản lý và điều hành hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Việc đầu tiên mà một tổ chức cần cân nhắc cái gì là lợi ích chủ yếu - không phải là về kinh doanh trên mạng, mà cho kinh doanh chung của nó. Công ty có thể theo đuổi sự gia tăng bán hàng của một sản phẩm nào đó, sự nhận biết tên hãng, các quan hệ đầu tư mạnh hơn, các quan hệ cộng đồng, tăng cường dịch vụ khách hàng, giảm giá bán, mở rộng kênh bán hàng sang địa hạt mới hoặc có thể tìm kiếm sự tiết giảm chi phí phân phối các sản phẩm vi vật lý như phần mềm, công việc dịch thuật hoặc soạn thảo.
Cũng rất quan trọng xem xét lại xem liệu Internet có phải đúng là phương tiện cần thiết cho các mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Cần xây dựng kế hoạch nguồn lực phục vụ cho kinh doanh trên mạng như: đội ngũ quản trị mạng, đội ngũ bán hàng và tiếp thị trên mạng, nhà cung ứng, quan hệ đối tác (một nhân tố được đánh giá là rất quan trọng trong chiến lược kinh doanh trên mạng và được đánh giá là một thành tố mới (partnering) trong chiến lược Marketing mix. Đồng thời doanh nghiệp cần phải xây dựng kế hoạch duy trì phát triển trang Web.
Theo Bill Gates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới sẽ là thập kỷ của tốc độ. Thời gian không chở đợi một ai. Những doanh nghiệp nào nhanh chân tận dụng những thành tựu mà công nghệ thông tin mang lại sẽ nhanh chóng bứt lên phía trước. Các doanh nghiệp thờ ơ với những thành tựu mà công nghệ thông tin mang lại sẽ bị tụt lại và phải gánh chịu những hậu quả đáng tiếc. Thương mại điện tử ra đời là cơ hội lớn cho Việt nam sau gần 200 năm. Cơ hội đầu tiên đã bị Việt nam bở lỡ vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 khi triều đình nhà Nguyễn từ chối mở cửa đất nước tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp từ Châu Âu và Nhật Bản. Liệu Việt nam có bỏ lỡ cơ hội lần hai?
Lời giải đáp cho câu hỏi trên nằm ở thái độ và lòng quyết tâm của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt nam.
Kết luận
Đứng trên quan điểm khoa học nghiên cứu, tôi đã cố gắng rút ra những điểm đặc trưng cũng như những quy luật vận động và phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đồng thời cũng phân tích ảnh hưởng của nó tới năng lực cạnh tranh của quốc gia, để từ đó xây dựng một cái nhìn toàn diện, khách quan và sâu sắc hơn về thương mại điện tử.
Trong khoá luận tốt nghiệp có sử dụng kết quả nghiên cứu của nhiều quốc gia, tổ chức và các công ty trên thế giới về thương mại điện tử và trên cơ sở hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam, tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Thương mại điện tử thực sự đã đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Không một quốc gia nào phủ nhận tầm quan trọng của thương mại điện tử, các nước ngày càng đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia.
2. Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
3. Để thương mại điện tử phát triển cần phải có sự hỗ trợ, định hướng, giám sát từ phía Nhà nước, Chính phủ trong việc xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động thương mại điện tử, đẩy mạnh phát triển hạ tầng thanh toán, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng nhân lực...
4. Bản thân các doanh nghiệp trong nước cũng cần phải nhận thức được tầm quan trọng của thương mại điện tử. Tận dụng những cơ hội mà thương mại điện tử đem lại, vượt qua các khó khăn thách thức để có thể đứng vững và vượt lên trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế ngày một gay gắt.
5. Thương mại điện tử không chỉ tác động đến khía cạnh thương mại mà còn tác động lên toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá...Do đó, Nhà nước và Chính phủ cần thiết phải có một hệ thống chính sách toàn diện để phát huy những mặt tích cực của thương mại điện tử và đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của nó lên nền kinh tế.
Phụ lục
Thực trạng thương mại điện tử trên thế giới
và một số quốc gia
I. Cơ sở kỹ thuật cho phát triển thương mại điện tử.
Sự hình thành và phát triển của thơng mại điện tử toàn cầu đợc dựa trên nền tảng của công nghệ Internet (hiểu là các phân mạng và do đó bao quát các máy tính trên toàn thế giới) và các ngành công nghệ tính toán, viễn thông và số hoá cũng nh việc áp dụng phổ biến các công nghệ này vào hoạt động kinh tế xã hội.
Về công nghệ Internet, trang Web: sau khi ra đời , công nghệ này phát triển một cách rất mạnh mẽ cả về phạm vi bao phủ lẫn phạm vi ứng dụng và chất lợng vận hành. Nếu nh nó đã đạt đến mức 50 triệu ngời sử dụng trong vòng 04 năm thì điện thoại phải mất 74 năm, radio phải mất 38 năm, PC mất 16 năm, máy truyền hình mất 13 năm. Số máy chủ Internet và số nớc nối mạng Internet tăng rất nhanh đồng thời số trang Web cũng tăng với tốc độ đột biến. Số trang Web vào giữa năm 1993 là 130 thì tới cuối năm 1998 đã lên đến 3,69 triệu. Đến năm 2000 con số này đã là 530 tỷ trang Web.
Theo dự báo gần đây nhất thì số ngời sử dụng Internet toàn thế giới năm 2005 sẽ lên đến 1 tỷ ngời sử dụng. Điều này làm gia tăng rất lớn giá trị của mạng Internet, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các công ty, ngời tiêu dùng, chính phủ tham gia tích cực vào thơng mại điện tử qua mạng Internet. Công nghệ chíp điện tử phát triển rất mạnh làm gia tăng khả năng tính toán và xử lý dữ liệu lên gấp nhiều lần đồng thời giảm mạnh giá thành, tạo điều kiện cho nhiều ngời có thể tiếp cận với mạng Internet. Cho tới nay theo nhiều chuyên gia khẳng định thì định luật Moore sẽ vẫn luôn đúng ít nhất là trong nhiều năm tới, có nghĩa là cho phép đẩy nhanh tốc độ qui mô xử lý, thúc đẩy sự phát triển của thơng mại điện tử (định luật Moore cho rằng: cứ sau 18 tháng khả năng xử lý của chíp tăng gấp đôi còn giá tính toán thì giảm 25%).
Công nghệ phần mềm phát triển với tốc độ nhanh không kém gì phần cứng. Các hệ thống phần mềm hoạch định tài nguyên doanh nghiệp (EFR) và quản lý tri thức (KM) sẽ giúp cho nhiều công ty cải tiến năng lực, cơ cấu quản lý cho phù hợp với điều kiện phát triển của thơng mại điện tử toàn cầu, nâng cao tốc độ và khả năng xử lý dữ liệu, thông tin của các công ty trong bối cảnh mọi công ty đang tích cực tham gia vào nền thơng mại toàn cầu thông qua mạng Internet.
Công nghệ viễn thông cũng phát triển mạnh mẽ, vượt bậc trong cả hai lĩnh vực công nghệ băng rộng (broadband) và viễn thông vô tuyến di động. Việc phát triển băng rộng làm gia tăng khả năng chuyển tải dữ liệu với khối lượng lớn và nhanh trên mạng Internet lên hàng megabit/giây, theo dự báo thì tốc độ này có thể tăng lên đến 1 triệu Gigabit/giây vào năm 2005. Với tốc độ như vậy cho phép thực hiện các giao dịch thương mại điện tử một cách nhanh chóng với tốc độ cao.
II. Thực trạng thương mại điện tử trên thế giới.
Thương mại điện tử hiện nay vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ kể cả ở các nước phát triển vì vậy có nhiều cách nhìn nhận đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau và không có sự thống nhất trong các số liệu đánh giá về thương mại điện tử. Nếu căn cứ vào số liệu chung từ các nguồn (Forrester, OECD...) thì doanh số thương mại điện tử trên thế giới năm 1997 đạt khoảng 18 tỉ USD, 1998 khoảng 31 tỉ USD, 2002 đạt trên 300 tỉ USD thậm chí có cơ quan còn dự báo con số này vào năm 2002 là 1300 tỉ USD và năm 2003 con số này lên đến 4400 tỉ USD. Vào năm 1997, một số nhà tư vấn dự đoán giá trị bán lẻ trên Internet sẽ đạt con số 7 tỉ USD vào năm 2000, và đến năm 1998 thì đạt được 50% chỉ tiêu này. Trong khi đó giá trị thực năm 1998 gấp 3 lần so với dự báo.
Có thể nói, thương mại điện tử đang có một tốc độ phát triển rất cao trong những năm gần đây. Mọi dự đoán đưa ra ngày hôm nay có thể nhanh chóng trở nên lạc hậu trong thời gian ngắn sau đó. Tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới trong thời gian qua có thể tóm tắt bằng những nét khái quát như sau:
- Thương mại điện tử tuy phát triển rất nhanh nhưng quy mô còn rất nhỏ: tổng doanh số thương mại điện tử trên thế giới năm 1999 là 111 tỉ USD, chỉ tương đương 0,37% tổng doanh số giao dịch thương mại bằng mọi phương tiện (khoảng 30000 tỉ USD). Tuy nhiên cũng phải thấy rằng sự phát triển của thương mại điện tử không biểu hiện ở quy mô hiện tại của nó mà ở tốc độ gia tăng cực kỳ nhanh chóng, báo hiệu cả một xu thế.
- Hoạt động thương mại điện tử tập trung vào một số nước tiên tiến. Trong đó riêng Mỹ chiếm trên một nửa, nhưng chủ yếu vẫn trong lĩnh vực thương mại nội địa
Doanh thu thương mại điện tử theo từng khu vực (tỉ USD)
Quốc gia
1999
2003
Mỹ
74
708
Châu Âu
19
430
Các vùng khác
18
179
Toàn thế giới
111
1317
Doanh thu thương mại điện tử giữa doanh nghiệp - doanh nghiệp (tỉ USD)
Quốc gia
1999
2003
Mỹ
50
634
Châu Âu
15
367
Các vùng khác
15
139
Toàn thế giới
80
1140
Doanh thu thương mại điện tử giữa doanh nghiệp - khách hàng (tỉ USD)
Quốc gia
1999
2003
Mỹ
24
75
Châu Âu
4
64
Các vùng khác
3
39
Toàn thế giới
31
178
(Nguồn: Forrester reseach, Gartner Group)
Mặc dù số người sử dụng Internet thông tin tăng nhanh trong những năm gần đâ, điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Tuy nhiên, hiểu biết và nhận thức đầy đủ về thương mại điện tử đối với đông đảo con người và doanh nghiệp vẫn còn là một vấn đề đáng quan tâm, không chỉ ở các nước chậm phát triển mà còn ở các nước công nghiệp phát triển.
Do tính chất toàn cầu của thương mại điện tử qua mạng Internet nên có nhiều định chế, tổ chức quốc tế quan tâm đến việc xây dựng khung toàn cầu cho thương mại điện tử phát triển bao gồm các luật định, các định chế để thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử cho đúng với ý nghĩa của nó.
Tháng 12.1995 Đại hội đồng Liên hiệp quốc ra Nghị quyết yêu cầu các Chính phủ và tổ chức quốc tế áp dụng các biện pháp để đảm bảo an toàn pháp lý của các giao dịch điện tử nên cơ sở khuyến nghị của Uỷ ban Liên hiệp quốc tế về luật thương mại quốc tế (United Nations Comission on International Trade Law: UNCITRAL) về giá trị pháp lý của các dữ liệu chuyển giao điện tử.
Tháng 12.1992, Hội nghị của tổ chức “Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển” (UNCTAD) họp tại Cartagena (Colombia) đề xuất sáng kiến về hiệu quả thương mại nhằm giúp các doanh nghiệp nhở và vừa tham gia vào sâu hơn buôn bán quốc tế. Tháng 10.1994 tại Colombus (Ohio, Mỹ), UNCTAD chính thức đề xướng chương trình “tâm điểm mậu dịch” (Trade point) ở các nước đề cung cấp dịch vụ giao dịch buôn bán, cung cấp thông tin kinh tế thương mại làm cửa ngõ dẫn các doanh nghiệp gia nhập vào mạng điện tử toàn cầu. Như vậy, tuy Trade Point là một chương trình khác nhưng một trong ba chức năng của Trade Point có liên quan tới thương mại điện tử. Các Trade Point có liên kết với nhau thành một “mạng toàn cầu các tâm điểm mậu dịch” (Global Trade Point Network, gọi tắt là GTPNet), mạng này dùng để “hỗ trợ các nước đang phát triển trong nỗ lực tìm cách thư được lợi ích trong việc tham gia vào liên lạc điện tử toàn cầu”. Tháng 10.1994, Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên UNCTAD tuyên bố ủng hộ chương trình đó. Vào tháng 9.1998 mạng Trade Point có 167 điểm, trong đó 44 đã hoạt động, 21 đang trong giai đoạn khởi phát, 84 còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Sự gắn bó giữa chương trình Trade Point với thương mại điện tử đang tăng dần.
Tháng 12.1996, Đại hội đồng Liên hiệp quốc ra nghị quyết yêu cầu các chính phủ và tổ chức quốc tế áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhằm phát hành và phổ biến rộng rãi nội dung Đạo luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITAD) thảo ra.
Tháng 4.1997, Uỷ ban châu Âu phát hành một tài liệu mang tính chính sách, vạch khuôn khổ cho thương mại điện tử ở Châu Âu. Tháng 7.1997, liên minh châu Âu ra tuyên bố cấp Bộ trưởng tại Bonn ủng hộ thương mại điện tử.
Tháng 11.1997, tại cuộc họp ở Vancouver, các nước tổ chức APEC đã vạch ra một chương trình công tác về thương mại điên tử trong khu vực APEC và thành lập một tổ chức gọi tên là “lực lượng đặc nhiệm của APEC về thương mại điện tử” (APEC Electronic Commerce Task Force) do Singapore và Australia làm đồng chủ tịch với chương trình hoạt động hai bước (làm cho các nước thành viên hiểu rõ về thương mại điện tử và các tác động của nó):
- Triển khai dần việc ứng dụng thương mại điện tử trong từng nước và giữa các nước thành viên.
+ Trong ASEAN đã có hàng loạt hoạt động tập thể: Tháng 10.1997 ASEAN tổ chức hội nghị bàn tròn về thương mại điện tử tại Mã lai. Tháng 7.1998 “tiểu ban điều phối về thương mại điện tử” của ASEAN (Coordinating Committee on Electronic Commerce - CCEC) họp hội nghị lần thứ nhất. Tháng 9.1998 CCEC họp hội nghị lần thứ hai tại Jarkarta.
Tháng 9.1998 UNCTAD phối hợp với UNDP tổ chức hội thảo khu vực các nước A-rập về thương mại điện tử (ở Cairo).
Tháng 11.1998 UNCTAD ra tuyên bố báo chí kêu gọi các nước đang phát triển tăng cường tham gia thương mại điện tử, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và kêu gọi hành động để các nước đang phát triển được hưởng các điều kiện tương đương khi tiếp cận với các phương tiện của thương mại điện tử .
Tháng 9.1998 Hội nghị lần thứ hai Tiểu ban điều phối về thương mại điện tử của ASEAN (tại Jakarta) thông qua lần thứ nhất bản “Các nguyên tắc chỉ đạo về thương mại điện tử ASEAN”. Tháng 1.1999 thông qua lần cuối để chuẩn bị đưa ra Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN (lần thứ 30) phê chuẩn.
Tháng 11.1998 APEC công bố “Chương trình hành động của APEC” về thương mại điện tử”. Hầu hết các nghị quyết tuyên bố, hội thảo và chương trình nói trên đều nhấn mạnh hai ý tưởng chủ yếu:
- Một là tập trung nỗ lực phát triển thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp nào mà đã có hiểu biết về thương mại điện tử và có điều kiện triển khai thương mại điện tử.
- Hai là, vai trò của Chính phủ tập trung vào việc cải tạo môi trường, giúp thử nghiệm và hình thành các chính sách phát triển.
Thương mại điện tử qua Internet/Web đã tới thời điểm mà các nhà doanh nghiệp đặt ra một số vấn đề cạnh tranh, và về việc lập ra một cơ quan trung gian tích cực để điều tiết hình thức này.
Mới đây đã thành lập “Tổ chức đối thoại kinh doanh toàn cầu qua Internet” bao gồm các nhà điều hành của các hãng sản xuất máy tính của Mỹ (International Business Machines Corp, Internet Provider America Online Inc) cộng với “The bank of Tokyo-Mitsubisi, hãng điện tử Nhật Fujitsu Ltd, và công ty giải trí Bertalsmann AG (của Đức). Mục tiêu của tổ chức này là trở thành tiếng nói của thương mại điện tử toàn thế giới nhằm đưa ra các khuyến nghị về chính sách liên quan tới sự phát triển của thương mại điện tử toàn cầu. Ngoài ra khoảng 100 công ty đã lập một liên minh toàn cầu nhằm định ra các tiêu chuẩn công nghiệp cho việc tiến hành hoạt động kinh doanh trên Internet/Web.
Thương mại điện tử nói chung được nhìn nhận như một sự phát triển tự nhiên tất yếu của thương mại trong một nền kinh tế số hoá.
Một trong những vấn đề lớn nhất mà Internet đặt ra là: Internet và các mạng thông tin số hoá là một không gian quốc tế không biên giới, một không gian đa cực mà không tác nhân hay nhà nước nào có thể kiểm soát hoàn toàn, một không gian không thuần nhất trong đó mỗi người có thể hoạt động, tự thể hiện và làm việc theo cách riêng. Tóm lại là một không gian tự do và do đó pháp luật vốn mang bản tính vạch phạm vi ứng dụng theo từng lãnh thổ, dựa trên các hành vi các loại hình đồng nhất và ổn định, khó có thể đặt trong lĩnh vực Internet (thậm chí một số người cho rằng chính sự đối kháng giữa pháp luật và tự hành đã thức đẩy sự phát triển của Internet như một mạng không chịu bất cứ sự ràng buộc nào)
Nhưng bản chất có quản lý của xã hội không cho phép như vậy: trong khi đi theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế con người phải có sự lựa chọn về chính trị và đạo đức. Vì thế, các nước đang cùng nhau xem xét và đưa ra các quy định điều chỉnh không gian này: ai có thẩm quyền đưa ra những quy định đó, theo những phương thức nào và hiệu quả đến đâu. Mỗi nước đều có trách nhiệm phải tham gia tích cực vào cuộc đàm thoại quốc tế đó mà chắc chắn sẽ đưa tới một cách thức điều chỉnh khác về chất so với các điều chỉnh thông thường cuả luật phát hiện hành, nói cách khác đã phát sinh nhu cầu bức bách phải có một “luật chơi” mới.
Tới nay đã có hàng loạt hội thảo quốc tế về pháp luật về không gian, về Hợp đồng thương mại điện tử, và Uỷ ban liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã thảo một bản quy định về “chữ ký điện tử” (Electronic signature) và “chữ ký số hoá” (digital signature)
III. Thực trạng thương mại điện tử ở các nước phát triển.
1. Hoa Kỳ.
Công nghệ thông tin ở Mỹ đã phát triển cao, trong các năm 1995 - 1997 đã đóng góp 28 - 41% tổng số gia tăng của GDP. Riêng về máy tính điện tử, hiện nay cứ 100 gia đình người Mỹ thì có 38 gia đình có máy, đạt tỉ lệ cao nhất thế giới. Theo các số liệu ước tính gần đúng, Mỹ đang chiếm tỉ trọng trên 70% trong tổng doanh số thương mại điện tử của toàn thế giới.Theo số liệu nghiên cứu của Douglass C.North, nhà kinh tế giải thưởng Nobel, thì vì nước Mỹ đã chuyển mạnh sang “kinh tế tri thức” nên chi phí giao dịch trong nền kinh tế Mỹ (gọi chung các chi phí giao dịch thương mại và bảo vệ sở hữu cả vật thể và trí tuệ) chiếm tới 45% GDP. Trong tình huống đó, thương mại điện tử có ý nghĩa sống còn đối với nước Mỹ. Nhờ nó chi phí giao dịch có thể giảm đi nhiều chục, thậm chí hàng trăm lần. Đó là lý do vì sao Mỹ là nước đi tiên phong trong lĩnh vực thương mại điện tử. Tới tháng 7.1997 số lĩnh vực kinh doanh sử dụng thương mại điện tử ở Mỹ đã lên tới hàng nghìn. Hiện nay Mỹ chiếm trên một nửa tổng doanh số thương mại điện tử toàn thế giới (chủ yếu trong nội địa nước Mỹ).
Mặc dù thương mại điện tử đã phát triển cao ở nước này, nhưng các cá nhân và các doanh nghiệp trong nước Mỹ vẫn còn tiếp tục nêu ra ba vấn đề có thể gây trở ngại cho hình thức buôn bán đó:
- Thiếu một môi trường pháp lý có thể tiên liệu được (predictable legal environment)
- Lo ngại rằng Chính phủ sẽ đánh thuế quá mức, hoặc kiểm duyệt Internet.
- Có các lo ngại về năng lực hoạt động, độ tin cậy và tính an toàn của Internet.
Xem xét các vấn đề trên, tháng 7.1997 Chính phủ Mỹ công bố bản “khuôn khổ cho thương mại điện tử toàn cầu (Framework for Global Electronic Commerce) - Chữ “khuôn khổ ở đây dùng với nghĩa là các nguyên tắc chỉ đạo. Trong đó nêu ra quan điểm của Mỹ về 05 nguyên tắc cơ bản của thương mại điện tử thường được coi là “thách thức của Mỹ”:
- Internet là vũ đài hoàn toàn chịu sự chi phối của thị trường (với nghĩa là không chịu sự điều chỉnh, kiểm soát của Chính phủ), khu vực tư nhân giữ vai trò tiên phong.
- Chính phủ không có các hạn chế không cần thiết đối với thương mại điện tử.
- Nếu Chính phủ cần phải tham gia thì chỉ là tạo môi trường pháp lý giản dị và nhất quán cho thương mại điện tử mà không phải là điều tiết nó.
- Chính phủ công nhận các tính chất đặc thù của Internet và không cho rằng Internet phải theo các khuôn khổ điều tiết đã xác lập cho liên lạc, truyền thanh và truyền hình.
- Thương mại điện tử trên Internet cần phải mang tính toàn cầu, không phân biệt đối xử giữa những người mua và người bán ở các quốc gia khác nhau.
Chính phủ Mỹ cũng khuyến nghị với thế giới 03 nguyên tắc sau đây đối với thương mại điện tử:
- Thương mại điện tử trên Internet cần phải được tự do, phi quan thuế.
- Thế giới cần có một luật chung để điêu tiết hình thức thương mại điện tử. Luật ấy phải đơn giản, bền vững và mang tính có thể tiên liệu được.
- Sở hữu trí tuệ và bí mật riêng tư phải được tôn trọng và bảo vệ trong khi tiến hành thương mại điện tử.
Trong khuôn khổ Liên hợp quốc và trong APEC, Mỹ hoạt động rất tích cực để thúc đẩy thương mại điện tử, chính bởi việc áp dụng rộng rãi quốc tế hình thức này sẽ đem lại lợi ích đa dạng thiết thân và mang tính chiến lược cho Mỹ (như đã đề cập ở trên).
2. EU.
Nhu cầu sử dụng máy tính điện tử trong dân chúng tăng cao, năm 1996 số máy tính điện tử bán ra trên thị trường nội địa Trung Quốc là 1,8 triệu cái, năm 1997 lên 3 triệu cái, năm 1998 là 4,5 triệu. Nhưng lực lượng sử dụng chủ yếu là ở các thành phố lớn (vào cuối năm 1997, tỷ trọng số gia đình có máy tính điện tử tính trên 100 gia đình là 6 ở Thượng Hải, 3 ở Bắc Kinh và 1 trung bình trên toàn quốc).
Trung Quốc bước vào thương mại điện tử rất chậm. Cuối năm 1997 mới chính thức vào mạng Internet (trước đó đã có truy nhập nhưng không chính thức, vào năm 1996 mới có khoảng 100 nghìn máy nối vào Internet). Ngay sau đó tốc độ phát triển tăng rất cao. Tháng 3/1998 Internet đã phủ trên 30 thành phố, số thuê bao Internet là 0,6 triệu, tới cuối tháng 06 lên 1,17 triệu, cuối năm lên 2,1 triệu (có một dự báo cao hơn: có thể gân 10 triệu).
Tuy đã và đang tiến hành một số dịch vụ qua mạng như dịch vụ quảng cáo và giao dịch thông qua Trade Point, dịch vụ đặt mua vé tàu, vé máy bay...qua mạng nhưng chưa thấy công bố chiến lược hay chương trình tổng thể nào về thương mại điện tử. Mãi tới quý II năm 1999, Bộ công nghệ thông tin mới chỉ công bố dự kiến tới cuối năm 2000 sẽ hoà mạng Internet cho ít nhất 80% chính quyền địa phương, năm 2001 hoà mạng Internet cho 80% các công ty.
Hiện nay, Trung Quốc còn đang lo xử lý 4 vấn đề bao trùm:
- Một là, chi phí sử dụng Internet còn quá cao, chiếm tới 10% thu nhập của người sử dụng ở mức vừa phải (so với 1% ở Mỹ).
- Hai là, người sử dụng Internet hiện nay hiện nay chủ yếu mới chỉ là một nhóm trí thức mà chưa phổ cập rộng rãi. Dân chúng nhìn chung vẫn chưa có kỹ năng cần thiết để làm việc trên mạng.
- Ba là, các thói quen sinh hoạt và kinh doanh truyền thống vẫn còn rất mạnh.
- Bốn là, ảnh hưởng tiêu cực về xã hội - chính trị của Internet. Các lực lượng chống đối đang lợi dụng Internet tổ chức nhiều diễn đàn ngôn luận, tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước. Lãnh đạo Trung Quốc phải ra lệnh cho Bộ công an áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt. Bắt đầu từ 1/2/1999 theo dõi giám sát Internet 24 trên 24 giờ, kịp thời huỷ bỏ các diễn đàn này và truy bắt những người tham gia.
Các cơ quan nghiên cứu quốc tế về thương mại điện tử cho rằng với tình hình đó triển vọng phát triển thương mại điện tử ở Trung Quốc còn chưa rõ ràng vì một trong những đòi hỏi của thương mại điện tử là Internet không bị theo dõi và kiểm duyệt.
3. Apec.
Tháng 2.1998 tại cuộc gặp ở Penang, các quan chức cấp cao của APEC đã thành lập một Lực lượng đặc nhiệm (do Singapore và Australia làm đồng chủ tịch) để lo các công việc về thương mại điện tử trong APEC. Lực lượng đặc nhiệm đã vạch ra và thực hiện chương trình công tác gồm hai giai đoạn: - Giai đoạn một: tập trung vào việc làm cho các nước thành viên hiểu rõ các vấn đề chủ chốt sẽ phát sinh ra do việc tăng cường áp dụng thương mại điện tử và tác động của nó tới quyền lợi kinh tế và thương mại của từng nước (giai đoạn này đã kết thúc sau 4 tháng hành động).
- Giai đoạn hai: vừa tiếp tục trao đổi thông tin liên quan đến thương mại điện tử, vừa tiến hành các công tác mới nhằm vào việc hình thành các nguyên tắc chỉ đạo công tác thương mại điện tử của APEC trong tương lai; thúc đẩy cho khu vực dịch vụ chính phủ chuyển sang số hoá làm chất xúc tác cho thương mại điện tử; đặc định các cản trở hiện tồn đối với thương mại điện tử trong khu vực APEC; đắc định các lĩnh vực có thể hợp tác với nhau để xây dựng cơ sở cho thương mại điện tử; xem xét khả năng phối hợp giữa Chính phủ và giới doanh nghiệp về thương mại điện tử (bao gồm cả việc huấn luyện); đặc định các lĩnh vực hợp tác cụ thể về thương mại điện tử. Các phân diễn đàn (sub-forum) đã bảo trợ cho các dự án thử nghiệm thương mại điện tử trong các lĩnh vực: vận tải, bảo mật dữ liệu, trao đổi dữ liệu điện tử v..v..
Tại cuộc gặp thượng đỉnh tháng 11.1998, APEC công bố bản “Chương trình hành động APEC về thương mại điện tử” nhìn nhận rằng thương mại điện tử có tiềm năng to lớn, đồng thời nhìn nhân rằng các nước thành viên đang ở các trình độ phát triển khác nhau về kinh tế, văn hoá, xã hội và cách điều hành, và để cho các thành viên đã phát triển có thể tiến hành thương mại điện tử vào năm 2005, các thành viên đang phát triển vào năm 2010 hoặc muộn hơn chút ít thì cần có sự hợp tác và nâng cao năng lực áp dụng thương mại điện tử theo hướng Chính phủ tạo môi trường thuận lợi về pháp lý, điều hành, về lòng tin và gương mẫu đi đầu trong việc số hoá các dịch vụ chính phủ. Còn vai trò đầu tàu thì dành cho giới doanh nghiệp. Giao cho Lực lượng đặc nhiệm tiếp tục nghiên cứu chuyên điểm (case study), và dự kiến sẽ thành lập thêm các lực lượng đặc nhiệm ngắn hạn để giải quyết từng vấn đề nhỏ có liên quan.
Bản “Chương trình hành động” này mang tính lạc qua, không chỉ ra khó khăn hay nguy cơ tiềm ẩn nào của thương mại điện tử đối với các nước còn ít phát triển.
4. ASEAN.
Các nước ASEAN bắt đầu có các hoạt động tập thể về thương mại điện tử từ năm 1997, mở đầu bằng hội nghị bàn tròn ASEAN về thương mại điện tử tổ chức ở Malaysia vào tháng 10 với nội dung xoay quanh việc xây dựng một kế hoạch hợp tác trong lĩnh vực này nhằm đáp lại tuyên bố của Tổng thống Mỹ B. Clinton về một khuôn khổ thương mại điện tử toàn cầu.
Để xúc tiến hợp tác về thương mại điện tử, ASEAN đã lập ra “Tiều ban điều phố về thương mại điện tử” (Coordinating Committee on Electronic Commerce - CCEC). Tháng 7/1998 Tiểu ban này họp Hội nghị lần thứ nhất. Tháng 9/1998 họp Hội nghị lần thứ hai. Tại Hội nghị này CCEC đã thông qua bản “Các nguyên tắc chỉ đạo thương mại điện tư”.
Khác với bản “Chương trình hành động của APEC về thương mại điện tử”, bản “Các nguyên tắc chỉ đạo về thương mại điện tử” của các nước ASEAN (hầu hết là thành viên APEC) bộc lộ sự lo ngại của các nước thành viên trước tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng pháp lý, tài chính của mình trước xu thế phát triển của Thương mại điện tử. Sự dè dặt không giấu giếm trước các rủi ro, tổn thất có thể phát sinh khi buộc phải tham gia trong lúc một môi trường thích hợp chưa được tạo dựng, và giữa các nước chưa có khả năng liên nối kết và liên thao tác. Bản “Các nguyên tắc chỉ đạo” cho thấy một đánh giá đúng mức của các nước ASEAN. Đó có lẽ nhờ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu á đã giúp các nước này thấy được sự bất cập của hệ thống tổ chức kinh tế xã hội và của nền công nghệ ASEAN so với đòi hỏi của thương mại điện tử. Bản này cũng cho thấy: đánh giá tập thể của cả hiệp hội khác với đánh giá của một số nước thành viên riêng lẻ ít nhiều có thể vẫn còn mang tính “phô diễn”.
Theo bản “Các nguyên tắc chỉ đạo” này, các nước ASEAN sẽ tiếp cận thương mại điện tử một cách thận trọng, hướng nhiều về việc hình thành môi trường công nghệ pháp lý, và phải có nhiều thử nghiệp, mà thử nghiệm chủ yếu sẽ do các doanh nghiệp tư nhân tiến hành.
Trương trình công tác tiếp theo của CCEC cho thấy ASEAN đang còn trong giai đoạn “nghiên cứu” về thương mại điện tử, tìm đường phối hợp chuyển giao công nghệ và hợp tác kỹ thuật với nhau trước khi có thề thực sự tham gia vào thương mại điện tử với nhau và với các nước khác.
5. Malaysia.
Phù hợp với chương trình “tầm nhìn 2020” của Chính phủ, đã thiết lập dự án “Siêu hành lang đa phương tiện” (Multimedia Super Corridor: MSC), thường gọi tắt là “Siêu lộ thông tin”.
Năm 1996, một tiểu ban đặc nhiệm do Bộ năng lượng, Bưu điện và Thông tin đứng đầu được thành lập để xây dựng một hệ thống luật đáp ứng các yêu cầu thương mại điện tử, gọi chung là “các đạo luật số hoá” (cyberlaws) gồm: Luật chữ ký điện tử, luật tội phạm máy tính, luật y tế điện tử (khám chữa bệnh qua mạng) và luật bản quyền sửa đổi (có tính tới các yếu tố liên quan tới thương mại điện tử). Trong năm 1997, Quốc hội đã thông qua cả 4 luật này. Tháng 2/1997, Chính phủ công bố chiến lược thương mại điện tử bao gồm:
- Sẽ xây dựng một hạ tầng cơ sở thông tin đẳng cấp quốc tế.
- Biến “siêu hành lang đa phương tiện” (tức “siêu lộ thông tin”) của Malaysia thành “trung tâm khu vực” (regional hub).
- Malaysia sẽ không kiểm duyệt Internet.
- Malaysia sẽ trở thành kiểu mẫu khu vực về bảo vệ sở hữu trí tuệ trong kinh doanh trên mạng.
- Malaysia sẽ đảm bảo tự do sở hữu tư nhân và giao hữu lực lượng lao động trí tuệ toàn thế giới.
- Sẽ không đánh thuế nhập khẩu các thiết bị và kỹ thuật phục vụ cho “kinh tế số hoá’ và thương mại điện tử trong thời gian ít nhất là 10 năm.
Năm 1997, Malaysia thành lập tiểu ban chuyên trách về thương mại điện tử tại Bộ thương mại và công nghiệp. Và sau cùng, một Uỷ ban quốc gia về thương mại điện tử đã được thành lập.
Hiện nay, Viện các hệ thống vi điện tử của Malaysia (Malaysia Institute of Microelectronic System - MIMOS) là cơ quan cung cấp chính dịch vụ Internet cho cả nước. Hệ thống thanh toán điện tử đã được thiết lập (do Ngân hàng Negara chịu trách nhiệm chính). Bộ tài chính đang xem xét lần cuối các điều chỉnh mới về thuế cho phù hợp với các yêu cầu của thương mại điện tử. Chính phủ đang chuyển công việc mua sắm chính phủ sang giao dịch Internet. Một loạt hoạt động thương mại điện tử khác đang được triển khai như: ấn hành thẻ đa công dụng (multi-purpose card), thiết lập trang Web chung cho các cataloge điện tử, giải trí qua mạng và giáo dục qua mạng (theo đơn đặt hàng).
6. Singapore.
Từ lâu Singapore đã tuyên bố mục tiêu biến nước này thành một trong những nước đứng đầu thế giới về điện toán hoá. Đã xây dựng “kế hoạch công nghệ thông tin năm 2000 của Chính phủ với mục tiêu làm cho từng người dân tiếp cận công nghệ thông tin và làm cho công nghệ thông tin thâm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội Singapore (bước thứ nhất của kế hoạch này đã hoàn tất vào cuối năm 1997. Tới điểm đó tất cả các cơ quan, công sở đều đã liên kết vào Internet).
Riêng về thanh toán điện tử, Singapore là một trong những nước áp dụng đầu tiên trên thế giới. Tháng 12/1996, nhân phiên họp cấp Bộ trưởng WTO tổ chức ở Singapore, đã chính thức khai trương việc ứng dụng toàn diện các loại thẻ tiền mặt Internet, thẻ khôn minh, thẻ mua hàng điện tử, túi tiền điện tử, hệ thống giao dịch điện tử an toàn (Secure Electronic Transaction - SET) mang tính quốc tế, thành lập tháng 4/1997 đã đưa vào sử dụng toàn diện cuối 1998. Để nhanh chóng triển khai thương mại điện tử, tháng 6/1996 đã thành lập “điểm nóng thương mại điện tử “ (Electronic Commerce Hotbed - ECH) gồm 60 tổ chức tài chính, công nghệ và xây dựng hạ tầng tham gia, nhằm xúc tiến thương mại điện tử sao cho đến năm 2001 Singapore trở thành một tâm điểm thương mại điện tử. “Điểm nóng thương mại điện tử” lại thành lập ra Tiểu ban điều phối thương mại điện tử (Electronic Commerce Co-ordination Committee, gọi tắt là EC3) hoạt động dưới sự chỉ đạo “Điểm nóng”. Nhờ “Điểm nóng” tới đầu năm 1997, Singapore đã đưa lên Internet 30 chương trình phần mềm ứng dụng chuyên phục vụ thương mại điện tử. Tháng 1/1997 Nhà nước thành lập Tiểu ban chính sách thương mại điện tử, Tiểu ban này hoàn tất công việc vào tháng 9/1997.
Tất cả các hoạt động trên đưa tới các văn kiện quan trọng bậc nhất điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Singapore (đều ra đời trong nửa sau năm 1998): Luật giao dịch thương mại điện tử (Electronic transaction Act – ETA), luật chống lạm dụng máy tính điện tử (Computer Misuse Act), Luật bí mật riêng tư (Privacy Code). Luật bản quyền cũng được sửa đổi lại cho phù hợp với các yêu cầu của thương mại điện tử v..v..
Văn kiện mang tính chỉ đạo bao trùm là “Kế hoạch tổng thể về thương mại điện tử của Singapore” (Singapore Electronic Commerce Masterlan), nhằm vào mục tiêu chính:
- Xây dựng một hạ tầng cơ sở thương mại điện tử kết nối quốc tế.
- Biến Singapore thành một trung tâm thương mại điện tử.
- Khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử như một chiến lược kinh doanh. Xúc tiến dân chúng sử dụng rộng rãi các hình thức thương mại điện tử.
- Làm hài hoà các luật và các chính sách thương mại điện tử qua biên giới (tức xuất, nhập khẩu).
Trong “kế hoạch tổng thể” nói trên, luật pháp được coi là nền móng dưới cùng của hạ tầng cơ sở thương mại điện tử.
Các hình thức thương mại điện tử đã áp dụng ở Singapore hiện nay là: Các dịch vụ chính phủ, giao dịch giữa các doanh nghiệp, thông tin qua mạng, bán lẻ (đã có trên 180 cửa hàng ảo), và giải trí, giao dịch tài chính, cổ phiếu, ngân hàng. Đang có kế hoạch bước đầu cấp chứng minh thư điện tử (Electronic Identification) cho 50 nghìn người dân Singapore, dùng chứng minh thư này để mua hàng, truy cập vào Internet và vào các dịch vụ chính phủ trên Internet.
Singapore đang là đồng chủ tịch Lực lượng đặc nhiệm về thương mại điện tử của APEC cùng với Australia và là Phó chủ tịch của Nhóm công tác thương mại điện tử của Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế (Working Group on Electronic Commerce).
Theo kế hoạch chính phủ, tới năm 2001 kim ngạch giao dịch thương mại điện tử của Singapore đạt 16 tỷ USD và năm 2003 thì trong số 2,3 triệu dân Singapore sẽ có khoảng 1,5 triệu người dùng Internet.
7. Thái Lan.
Internet bắt đầu với tới Thái Lan vào năm 1998. Trang web đầu tiên của Thái ra đời năm 1993. Tới đầu năm 1998 tại Thái Lan có 16 địa chỉ Internet với tổng số người sử dụng Internet là 0,97 triệu người. Cuối 1998 bắt đầu có dịch vụ Internet qua vệ tinh. Hiện nay tổ chức chủ yếu làm dịch vụ Internet là United Information Highway Co.Ltd, một công ty liên doanh.
Tổ chức thương mại điện tử trên bình diện quốc gia ở Thái Lan triển khai chậm, tới nay mới chỉ có một số dự thảo các luật điều chỉnh thương mại điện tử (như Luật xúc tiến Internet, Luật bí mật riêng tư trên máy tính điện tử, Luật bảo vệ dữ liệu, Luật trao đổi dữ liệu điện tử, Luật chuyển vốn điện tử, Luật chữ ký điện tử) đều do các tổ chức phi chính phủ đưa ra để tham khảo. Hiện nay cơ quan trọng tài của Bộ tài chính Thái Lan mới đang chuẩn bị một dự thảo Luật thương mại điện tử trên cơ sở tham khảo đạo luật mẫu của UNCITRAL.
Trong khi chờ đợi thiết kế và xây dựng xong cơ sở luật pháp. Bộ thương mại Thái Lan cho tiến hành một dự án thử nghiệm áp dụng thương mại điện tử vào lĩnh vực xuất khẩu với sự tham gia của một số cơ quan chính phủ và một số hãng xuất khẩu.
Tuy chậm như vậy, nhưng Thái Lan tỏ ra có tham vọng lớn và trong khuôn khổ ASEAN đã đề xuất ý tưởng biến Thái Lan thành một đầu mối thương mại điện tử của cả Hiệp hội này.
Tài liệu tham khảo
1. Những trở ngại trong việc phát triển thương mại điện tử - Báo tuổi trẻ (2000)
2. Dự án phát triển công nghệ phần mềm 2002 - 2005 (Bộ KHCN&MT)
3. Thương mại điện tử trong xu thế toàn cầu hoá - Tạp chí thương mại thuỷ sản (4/2000).
4. Thương mại điện tử - Bộ thương mại (NXB thống kê 1999).
5. Tài liệu hội thảo về kinh tế tri thức ở Việt Nam tại Hà Nội, năm 2000,2001.
6. Thương mại điện tử với một số nước và khu vực trên thế giới - Tạp chí Internet Today (8/2002).
7. Internet ở Nhật Bản, Trung Quốc, EU (8/2000).
8. Anitesh Barua, A.B Whinston, Fang Yin, Value and Productivity in The Internet Economy, Internet watch 5/2000.
9. APEC, Electronic Commerce Task Force, Co-chairs’summaryof meeting, Kuching 12-13/3/1998.
10. APEC, Apec vision statement on Electronic commerce, www.apecsec.org
11. ASEAN, Asian pilot project, www.asiantaskforce.org.
12. ASEAN Electronic Commerce Legistration Comparision Table, 2001.
13. Australian Ministry of Trade and Industry, E-Commerce Beyond 2000.
14. Australian Ministry of Trade and Industry, The Newsilk Road, 2000.
15. Bernard Vernges, Society and Technology: Managing Change, 26 June 2000.
16. Bologna 2000 SME Conference, Enhancing the Competitiveness of SMEs through innovation, 13/6/2000.
17. Brad Gambil & Karsten Schween, B2B or not to be? Business Times 17/7/2000.
18. Brent R. Moulton, GDP & the Digital Economy: Keep up with the changes, Bureau of Economic Analysis, US Dept. of Commerce 5/1999.
19. Brooks and Wahhaj, Electronic Commerce, www.goldmansach.com.
20. Business Time, Tech stocks offer growth despite dotcom crush, 12/7/2000.
21. Cathrin L.Mann, Electronic-Commerce in Developing Country 3/2000.
22. Center for Researd in Economic Commerce, Graduate School of Business, University of Taxas, The Internet Economy Indicators, 6/2000.
23. Computer Jobs.com, E-Commerce Background, 15/8/2000.
24. Cynthia D.Waddell, The growing digital divide in access for people with disabilities: overcoming barriers to participation, 25,26/5/2000.
25. Deloittle Researd, On-line B2B Exchanges.
26. Dick Kelsey, E-commerce marketing needs specificity, 15/3/2000.
27. DTI, Building the knowledge driven economy, 2000
28. ECOSOC, Economic and Social Council Adopts Ministerial Declaration on Information Technology.
29. England’s DTI, The 1998 competiveness white paper, 1998.
30. European Forum Information Society, Seattle Declaration, 11/1999.
31. Gobee Ramanujalu, Electronic-commerce triggers New Market Dynamics, The Business Times 14/07/2000.
32. Information Technology Association of America (ITAA), The opportunity and the challenge to sustain rapid internet growth: a policy architecture for the Internet.
33. John Dryden, Realising the potential of global electronic commerce, 9/10/1998.
34. Michael Porter, The Competive Advantage of Nations and Regions 4/11/1998.
35. OECD, Dismantling the Barriers to Global Electronic Commerce, 2000.
36. OECD, Electronic-Commerce: Impacts & Policy Challenges,2000.
37. Taichi Sakaiya, The Knowledge Value Revolution and Internet Fair 2001, Minister of state for Economic Planning and for Internet Fair 2001, Minister of state for Economic Planning and for Internet Fair 2001 in Japan.
38. The Australian Ministry of Trade & Industry, Electronic Commerce Beyond 2000, 2000.
39. The Banker Supplement, Paper Tiger, 8/2000.
40. The Banker Supplement, Through the glass window, 4/2000.
41. The Economist, Net Imperative, 6,7/2000.
42. The Economist, Online Finance, the Virtual Threat, 20/05/2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33285.doc