Chuyên đề Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nhằm phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Trong xu thế quốc tế hoá; xu thế hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đã và đang từng bước hoà mình để phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Việc buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các nước trên thế giới ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ, toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đang đi đúng hướng. Để hoạt động xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao theo đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra thì nhất thiết phảI xây dựng được một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý phù hợp với hoàn cảnh nước ta trong từng thời kỳ nhất định. Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất - nhập khẩu, chúng ta có thể nắm được tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá, tạo điều kiện cho Nhà nước có căn cứ đề ra chính sách đúng đắn trong công tác quản lý; cân đối cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu và cân bằng cán cân thanh toán, góp phần tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, chính sách thuế xuất - nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng và nhạy cảm trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế thì chính sách thuế xuất - nhập khẩu còn phải phù hợp với điều kiện chung của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực là phải hạ thấp hàng rào thuế quan, tự do hoá thương mại. Trong những năm qua, chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta đã có nhiều thay đổi, đã cập nhật nhiều nội dung khoa học, hiện đại cơ bản đã đáp ứng được các đòi hỏi của hội nhập quốc tế và trong nước. Tuy nhiên, trước thực tế không ngừng vận động, biến đổi, phát triển vấn đề tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu không thể không đặt ra. Tiếp cận ý nghĩa này, các nghiên cứu trong chuyên đề đã đề cập được các điểm sau: - Xem xét cơ chế tác động, ảnh hưởng của thuế xuất - nhập khẩu đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thông qua ảnh hưởng của giá cả. Thông qua đó, thấy rằng, bằng việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu hợp lý, nước ta có thể thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước đối với những ngành cần khuyến khích phát triển; điều chỉnh luồng thương mại xuất nhập khẩu, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn thu Ngân sách Nhà nước và điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. - Xác định yêu cầu của quá trình hội nhập đối với việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu thông qua quy định của một số tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực mà Việt Nam đã tham gia hoặc đang đề nghị được tham gia cũng như các quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước ta với một số nước (đặc biệt là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ); thông qua thực tế thực hiện của một số nước trong việc điều chỉnh chính sách thuế xuất - nhập khẩu tiến hành hội nhập và căn cứ vào những cơ sở khoa học của việc xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm và phương hướng cho việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta. - Thực trạng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam, quá trình phát triển và những hạn chế của chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta. - Trên cơ sở đó, kết hợp đồng thời việc khái quát, vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện thực tiễn của Việt Nam đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong những năm tới. Em hi vọng rằng, những vấn đề được đề cập trong chuyên đề sẽ có ích cho việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nhằm phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

doc113 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nhằm phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạnh tranh, có chọn lọc, có điều kiện: lợi thế cạnh tranh cao thì bảo hộ ở mức cao và ngược lại (lợi thế cạnh tranh dựa vào các yếu tố: nguyên liệu, nhân công, thị trường tiêu thụ - có sẵn trong nước hay phải nhập khẩu). + Giảm bớt mức chênh lệch về thuế giữa các mặt hàng có phạm vi sử dụng tương tự nhau hoặc có tính chất cấu tạo tương tự nhau tạo thuận lợi cho việc thực hiện. + Hướng dẫn rõ tiêu chuẩn phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế. - Đối với sản phẩm thép xây dựng thông thường: hiện nay trong nước sản xuất cung vượt cầu, cần có biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này. Do đó, không cần phải tăng mức bảo hộ đối với mặt hàng này. Trong lịch trình cắt giảm theo CEPT thì sản phẩm thép xây dựng thuộc danh mục loại trừ tàm thời sẽ đưa vào diện cắt giảm xuống dưới mức 20% vào năm 2003 và sẽ giảm xuống 0 - 5% vào năm 2006. - Đối với sản phẩm thép khác như thép tấm, thép lá, thép chế tạo. . .là những sản phẩm có chất lượng cao, gắn liền với ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, có trình độ kỹ thuật cao, là nguồn nguyên liệu quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp phát triển. Hiện nay, các sản phẩm này đang được bảo hộ ở mức rất thấp 0 - 5%, dự kiến sẽ tăng mức bảo hộ cho các loại sản phẩm này, tuy nhiên không thể tăng ở mức quá cao vì đây là sản phẩm đầu vào của nhiều ngành công nghiệp, do đó để ở mức thuế suất 20% là phù hợp. Trong lịch trình cắt giảm thuế quan theo CEPT thì loại sản phẩm thép này đã được đưa vào danh mục giảm thuế, cụ thể là các mặt hàng thép này hiện nay có mức thuế quan từ 0 - 20%, sẽ giảm xuống 0 - 5% vào 2006. Chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá cũng là một trong những chính sách bảo hộ sản xuất trong nước của Nhà nước. Điển hình là đối với ngành sản xuất phụ tùng xe máy trong nước, các doanh nghiệp sản xuất, buôn bán phụ tùng xe máy mọc lên như nấm, nhiều doanh nghiệp đã chỉ chuyên sản xuất một loại chi tiết của xe máy như công ty Caosumina chỉ sản xuất các loại săm lốp và các chi tiết liên quan đến cao su, sản phẩm của công ty đã có chỗ đứng vững vàng ở cả thị trường trong nước và thế giới. Như vậy, nhờ có chính sách này mà các doanh nghiệp trong nước sản xuất sản phẩm xe máy đã ngày càng sản xuất được nhiều chi tiết hơn để đạt được tỷ lệ nội địa hoá cao, thậm chí cả những chi tiết khó như một số chi tiết trong động cơ cũng đã được sản xuất trong nước. Có thể nói, bảo hộ bằng thuế quan đã và đang tạo điều kiện cho sự tạo ngành và phát triển của một số ngành công nghiệp Việt Nam, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá đã được nhiều kỳ đại hội Đảng đề ra. 1.4. Thực hiện các cam kết quốc tế và đàm phán về hội nhập kinh tế quốc tế để từng bước vươn lên cạnh tranh có hiệu quả trong khu vực và thế giới. Các cam kết quốc tế mà nước ta đã thoả thuận thông qua việc tham gia, ký kết các điều ước quốc tế, đặc biệt là những cam kết về hợp tác kinh tế, thương mại trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ kể cả các cam kết sẽ được thoả thuận trong quá trình đàm phán gia nhập và hoạt động trong tổ chức thương mại thế giới về chính sách thuế xuất - nhập khẩu giữ vai trò là một trong những yếu tố quan trọng trong định hướng chính sách thương mại của nước ta. Đối với thuế quan: các cam kết của ta về cắt giảm thuế quan có phân loại mức độ thuế suất, khác nhau về thời hạn, có loại trừ hoàn toàn hoặc loại trừ tạm thời đối với từng loại mặt hàng xuất nhập khẩu cụ thể, theo hướng dùng thuế là công cụ duy nhất để bảo hộ sản xuất kinh doanh, từng bước tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan. Đối với các biện pháp phi thuế quan: một mặt, ta cam kết tiến tới bãi bỏ hàng rào phi thuế quan (hạn chế định lượng, chế độ giấy phép xuất - nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hoá. . .); áp dụng một số biện pháp trong trường hợp ngoại trừ, liên quan đến đảm bảo an ninh, chính trị, quốc phòng, bảo vệ môi trường, giá trị đạo đức, truyền thống dân tộc hay trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, trong quá trình cải cách các thủ tục hành chính, Nhà nước ta đã chủ động tháo gỡ các biện pháp phi thuế quan, thay thế dần bằng các biện pháp thuế quan. Để thực hiện cam kết giảm thuế theo CEPT/AFTA, chúng ta phải xây dựng lịch trình giảm thuế nhập khẩu trong vòng 10 năm. Mục tiêu chính của AFTA là tạo ra tự do thương mại, tăng cường khả năng xuất khẩu trong ASEAN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực. Hay nói một cách khác, các nước ASEAN chủ trương xây dựng một nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, vì vậy những mặt hàng có khả năng xuất khẩu sẽ được hưởng lợi rất lớn từ chương trình giảm thuế này. Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ cũng sẽ tạo ra cơ hội lớn trong hợp tác kinh tế và thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, điều này được thể hiện là giá trị hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ tăng gần 46% và khoảng 5% năm 2001 so với năm 2000, các ngành như thuỷ sản, may mặc, cà phê. . .sẽ có cơ hội xuất khẩu một lượng hàng lớn sang thị trường Mỹ với khoảng 270 triệu người tiêu dùng. Hơn nữa, theo quy định của WTO, một nước xin gia nhập phải tiến hành đàm phán song phương và đa phương. Như vậy, việc chúng ta đàm phán và ký kết với Mỹ một Hiệp định Thương mại theo tiêu thức của WTO là một tiện ích thúc đẩy quá trình gia nhập WTO của nước ta. Trên cơ sở đánh giá thực trạng của sản xuất trong nước, phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của việc giảm thuế với ASEAN với nền kinh tế Việt Nam và căn cứ vào những quy định của CEPT cũng như của việc giảm thuế với Mỹ, chúng ta đã xây dựng một lịch trình giảm thuế trên cơ sở phân loại các ngành kinh tế theo ba nhóm dựa trên khả năng cạnh tranh của các ngành: nhóm ngành hàng có thế mạnh xuất khẩu có lịch trình giảm thuế sớm nhất; nhóm ngành hàng có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai có lịch trình giảm thuế chậm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể phát triển lên một mức độ nhất định trước khi phải đối mặt với môi trường cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN và từ Mỹ; nhóm ngành hàng có tiềm năng cạnh tranh kém có lịch trình giảm thuế chậm nhất nhưng các giải pháp về định hướng chuyển dịch đầu tư phải bắt đầu được xúc tiến trong thời gian sớm nhất, nếu không có sự chuẩn bị trước thì các doanh nghiệp trong nhóm ngành này sẽ khó tránh khỏi khả năng bị giải thể kèm theo nhiều vấn đề kinh tế - xã hội khác. Như vậy, lịch trình giảm thuế với ASEAN và với Mỹ hứa hẹn một sự đảm bảo cho Việt Nam thực hiện được các cam kết giảm thuế theo đúng quy định trong các hiệp định đồng thời đảm bảo hỗ trợ được tối đa cho sản xuất trong nước chuẩn bị bố trí lại cơ cấu sản xuất, thu hút đầu tư và vươn lên cạnh tranh có hiệu quả. Đây cũng chính là bước đi đầu tiên đặt nền móng việc thiết kế chính sách thuế xuất - nhập khẩu phù hợp với luật chơi toàn cầu. 2. Những hạn chế. 2.1. Quy định những trường hợp miễn giảm thuế chưa hợp lý. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu hiện hành quy định những trường hợp miễn thuế còn quá rộng, quá ưu đãi cho một số đối tượng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc quản lý mà còn tạo ra một sự không công bằng giữa các đối tượng nộp thuế đồng thời không phản ánh đúng đắn giá trị hàng nhập khẩu khi hạch toán kinh doanh của các đơn vị. Đối với việc xét miễn thuế cho hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo. Thực tế thời gian qua cho thấy việc xác định các mặt hàng chuyên dùng này rất khó khăn vì trừ một số hàng đặc biệt như: vũ khí, khí tài quân sự phần lớn các mặt hàng này đều có thể dùng cho các đối tượng khác. Do đó, việc làm thủ tục miễn thuế cho các đối tượng này quá phức tạp nhưng lại không đảm bảo độ chặt chẽ, tính chính xác nên dễ dẫn đến hành vi lợi dụng trốn thuế. Việc quy định miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư, nguyên vật liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước ngoài rồi xuất khẩu theo hợp đồng đã ký tuy tạo thuận lợi cho việc gia công nhưng lại gây khó khăn cho việc quản lý thuế đồng thời cũng dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế lớn qua hình thức này. Nhưng tồn tại này thể hiện một chính sách thuế thiếu minh bạch, mất tính trung lập, mà nguyên nhân của nó là do hiện nay chính sách thuế xuất - nhập khẩu còn phải đang phục vụ quá nhiều mục tiêu trong đó có việc theo đuổi các mục tiêu xã hội. 2.2. Việc kiểm tra sau thông qua còn gặp khó khăn. Theo trình tự làm thủ tục cho hàng hoá xuất nhập khẩu, việc kiểm tra của cơ quan hải quan được phân thành: Kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau thông quan. Kiểm tra trước: kiểm tra hồ sơ đăng ký làm thủ tục xuất - nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp. Kiểm tra trong: kiểm tra đối chiếu hàng hoá xuất nhập khẩu với hồ sơ kê khai đăng ký ban đầu. Kiểm tra sau: sau khi hàng hoá đã thực xuất, thực nhập, nếu có vấn đề, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra lại hồ sơ hải quan, kiểm tra hồ sơ, sổ sách của doanh nghiệp để phát hiện và chứng minh vấn đề. Nếu đúng là có gian lận cơ quan hải quan có quyền yêu cầu doanh nghiệp phải chấp hành các chế tài pháp luật quy định. Trước năm 1999, khi chưa có chế định kiểm tra sau thông quan, mọi hàng hoá nhập khẩu đều phải được kiểm tra chi tiết tại cửa khẩu hoặc địa điểm được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Hàng hoá khi đã ra khỏi các vị trí này, cơ quan hải quan không có quyền kiểm tra. Quy định như cũ đã gây nhiều ách tắc đối với những cửa khẩu có lưu lượng hàng hoá xuất - nhập khẩu lớn và không đảm bảo chặt chẽ vì trong thời gian ngắn, việc để xảy ra sai sót khi kiểm tra là điều khó tránh khỏi. Hơn nữa, để đối phó với thủ đoạn gian lận thì việc kiểm tra ngay tại cửa khẩu là rất khó phát hiện. Trước thực tế này, đồng thời cũng để tạo ra thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp chân chính, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 20/05/1998 (Luật số 04) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác quy định cho phép cơ quan thu thuế có quyền kiểm tra tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, kể từ khi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực cho đến nay, quy định trên ít được thực hiện trên thực tế. Nguyên nhân là do sự thiếu đồng bộ của hệ thống các văn bản quy định cụ thể quyền hạn, thủ tục tiến hành kiểm tra sau thông quan tại doanh nghiệp. Một phần khác thuộc về yếu tố tâm lý, tuyên truyền luật pháp: đã từ lâu, mọi doanh nghiệp đều có tâm lý cho rằng hàng hoá xuất nhập khẩu khi đã ra khỏi địa điểm làm thủ tục hải quan là đã hoàn thành mọi thủ tục. Khi cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra sau thông quan, mặc dù là đúng quy định nhưng vẫn vấp phải sự phản ứng quyết liệt từ phía doanh nghiệp. Để khắc phục yếu tố tâm lý đòi hỏi phải có thời gian và cần có biện pháp tuyên truyền hơn nữa chế độ, chính sách, luật pháp cho các đối tượng làm thủ tục hải quan. 2.3. Những tồn tại của Biểu thuế nhập khẩu. Biểu thuế nhập khẩu hiện hành mặc dù đã giảm được số mức thuế so với Biểu thuế nhập khẩu trước năm 1999 nhưng vẫn còn tới 18 mức. Quy định này tuy có ưu điểm là bảo hộ đến từng doanh nghiệp, từng nhóm doanh nghiệp sản xuất nhưng lại làm cho Biểu thuế mất tính trung lập. Biểu thuế được xác định trên cơ sở danh mục Điều hoà HS, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện phân loại hàng hoá. Tuy nhiên, do để áp dụng phù hợp với chủ trương bảo hộ sản xuất của một số ngành nên vẫn có chi tiết một số mặt hàng chưa phù hợp với cách phân loại của danh mục, chúng ta chưa áp dụng được toàn phần hệ thống. Hiện nay, Danh mục Biểu thuế nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định 1803/1998/QĐ/BTC ngày 11/12/1998 và một số văn bản sửa đổi, bổ sung của nước ta gồm có 6348 dòng thuế lớn gấp hơn 2 lần so với Biểu thuế nhập khẩu ban hành kèm Quyết định 110 - HĐBT ngày 31/03/1992 nhưng trước tình hình buôn bán, trao đổi thương mại không ngừng tăng lên, cộng thêm sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra nhiều loại hàng hoá mới, có nhiều công dụng, có thể xếp vào nhiều mã khác nhau thì con số 6348 vẫn còn quá nhỏ bé. Điều này gây ra tình trạng một số mặt hàng có thể áp dụng nhiều mã số tạo ra tranh chấp giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thu thuế, sẽ là kẽ hở cho gian lận trốn thuế. Ví dụ, hiện nay, các cơ quan chức năng còn gặp nhiều long tong khi xác định mã thuế cho mặt hàng “Vải địa kỹ thuật - loại vải dùng trong xử lý kỹ thuật đê điều”. Nếu xét về mục đích sử dụng trong kỹ thuật thì mặt hàng này có thể phân loại vào nhóm 5911 (các sản phẩm dệt và các mặt hàng phục vụ mục đích kỹ thuật), còn nếu xét về cấu tạo làm từ vải không dệt thì mặt hàng này được phân loại vào nhóm 5603 (các sản phẩm không dệt, đã hoặc chưa them, tẩm , tráng, phủ hoặc ép lớp). Cả hai quan điểm này đều có những cơ sở riêng, khó bác bỏ. Tuy nhiên, mức chênh lệch thuế suất là tương đối đáng kể, nếu phân loại vào nhóm 5603 thì thuế suất thuê nhập khẩu của mặt hàng này là 1% nhưng nếu xếp vào nhóm 5603 thì thuế suất của mặt hàng này là 20%. Do đó, có doanh nghiệp được tính thuế suất 1%, có doanh nghiệp lại phải chịu mức thuế suất 20%, gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Thêm vào đó, như đã đề cập, các nước ASEAN thống nhất áp dụng Biểu thuế nhập khẩu với 8 chữ số ( chi tiết hơn biểu thuế 6 chữ số bằng cách phân nhóm hai gạch (- -) là tiếp tục được phân thành những phân nhóm nhiều gạch hơn (- - -) hoặc (- - - -). . .) đòi hỏi biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam cần tiếp tục được cập nhật, sửa đổi đảm bảo mọi hàng hoá nhập khẩu đều được áp dụng vào một mã tính thuế chính xác, rõ ràng từ đó một mặt tạo thông thoáng trong thủ tục hải quan, thực hiện tốt mục tiêu của chính sách thuế xuất - nhập khẩu, mặt khác hạn chế những tiêu cực nảy sinh. 2.4. Những tồn tại trong việc bảo hộ chính sách thuế xuất nhập - khẩu. 2.4.1. Vẫn còn tình trạng bảo hộ tràn lan, vô thời hạn. Chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện hành của Việt Nam đặt mục tiêu bảo hộ lên hàng đầu nhưng tình trạng bảo hộ tràn lan, vô thời hạn vẫn còn. Cụ thể là: những mặt hàng là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất trong nước chưa sản xuất được thì quy định mức thuế suất thấp hoặc không thu thuế (0%); những mặt hàng trong nước đã sản xuất được thì quy định mức thuế nhập khẩu cao hơn. Do vậy, mức bảo hộ thực tế một số ngành chưa hợp lý. Một số ngành được bảo hộ ở mức độ cao bằng việc quy định thuế đầu ra rất cao, thuế đầu vào thấp (ngành sản xuất ôtô, xe máy, giấy, thép. . .). Điển hình là ngành xe máy. Hiện nay thuế nhập khẩu xe máy nguyên chiếc là 60%, ngoài ra còn áp dụng biện pháp tạm ngừng nhập khẩu, trong khi đó thuế nhập khẩu dạng linh kiện rời (SKD, CKD, IKD) được quy định khá thấp (5% - 35%). Mặt khác, ta còn áp dụng chính sách ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hoá (biện pháp sẽ phải dỡ bỏ theo quy định của WTO). Đây chính là nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp đua nhau đầu tư dây chuyền lắp ráp xe máy từ bộ linh kiện rời cũng như cố gắng đạt tỷ lệ nội địa hoá cao để tận dụng chênh lệch thuế lớn, chỉ tính đến cái lợi trước mắt. Tính đến nay, đã có hàng loạt doanh nghiệp đăng ký thực hiện tỷ lệ nội địa hoá với cơ quan chức năng. Với tình trạng này, trong vài năm tới chắc chắn sẽ có nhiều doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. 2.4.2. Bảo hộ còn chưa dựa vào định hướng phát triển ngành. Do chỉ những ngành đã có sản xuất trong nước mới có thuế suất bảo hộ nên những ngành hiện nay chưa có nhưng trong tương lai sẽ có (sản phẩm của ngành công nghiệp hoá dầu, nguyên liệu nhựa, trang thiết bị y tế. . .) sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh thuế suất nếu Việt Nam đưa ra các cam kết ràng buộc mức thuế trần thấp hoặc giảm thuế cho những mặt hàng này. Hiện nay, vẫn chưa có đủ cơ sở để xác định được mức thuế chính xác cho những ngành này do chưa có chiến lươcj phát triển các ngành kinh tế. Các nước khi xây dựng cam kết ràng buộc về thuế với WTO đều đã dựa trên chiến lược phát triển lâu dài các ngành kinh tế của mình. Ví dụ, Inđônêxia đã không đưa nhóm các mặt hàng ô tô vào ràng buộc thuế vì đó là ngành công nghiệp trọng tâm của nước này. Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những bất cập này khi thực hiện Hiệp định CEPT, như mặt hàng nguyên liệu nhựa, khi cam kết giảm thuế theo CEPT, trong nước chưa có đơn vị nào sản xuất nên ta đã đưa vào danh mục giảm thuế. Đến nay, đã có một số đơn vị sản xuất và đề nghị nâng thuế để bảo hộ nhưng vì các mặt hàng này hầu hết được nhập từ các nước ASEAN và được hưởng mức thuế ưu đãi CEPT nên nếu có tăng thuế cũng không có tác dụng gì. Chính vì vậy, Nhà nước phải sử dụng biện pháp thu phụ thu. Tuy nhiên, đến năm 2006, các ngành sản xuất này chắc chắn sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN. Do thiếu những căn cứ về phân tích kinh tế nên Việt Nam đang gặp khó khăn lớn trong việc xác định nhóm hàng nào sẽ đưa vào ràng buộc, nhóm hàng nào không đưa vào ràng buộc, mức thuế trần ràng buộc đối với từng nhóm mặt hàng cũng như xác định các bước giảm thuế cho các nhóm mặt hàng dự định sẽ giảm thuế. Nếu xác định sai thì xét về mặt sản xuất trong nước, chúng ta sẽ phải trả giá bằng sự tồn tại, phát triển của ngành công nghiệp đó. Về mặt đàm phán với các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nếu không đưa ra được những căn cứ đầy đủ, chính xác thì các bên đối tác sẽ không thể chấp nhận những đề nghị của Việt Nam. Nền kinh tế của ta còn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, đặt trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới đang có những biến động lớn, sự cạnh tranh về thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá, thị trường đầu tư đang diễn ra ngày càng gay gắt nên Việt Nam phải thường xuyên có sự điều chỉnh chính sách kinh tế, thương mại. Đây cũng chính là lý do mà Biểu thuế nhập khẩu thường xuyên có sự thay đổi thuế suất. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Biểu thuế của ta chưa thể ổn định mà phải liên tục điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nếu chỉ dựa trên Biểu thuế hiện hành để đàm phán mà không dựa vào những định hướng lâu dài thì chắc chắn Việt Nam sẽ gặp phải những thiệt thòi trong tương lai. 2.4.3. Chậm chuyển đổi các biện pháp bảo hộ phi thuế quan sang biện pháp bảo hộ bằng thuế quan (thuế hoá các biện pháp phi thuế quan). WTO quy định chỉ được bảo hộ bằng thuế quan. Với chính sách thương mại của Việt Nam như hiện nay thì đối với một số hàng hoá, thuế nhập khẩu chỉ chiếm một phần nhỏ trong những biện pháp bảo hộ, các biện pháp phi thuế quan chiếm một vị trí quan trọng hơn (chủ yếu là các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu). Đặc biệt, đối với những mặt hàng thuộc loại hàng hoá nằm trong diện cân đối của Nhà nước đều là những mặt hàng đầu vào của nhiều ngành, không thể để mức thuế nhập khẩu quá cao mà phải áp dụng các biện pháp quản lý nhập khẩu ngoài thuế như: phân bón, sắt thép xây dựng, xi măng, giấy, kính xây dựng. . . Các biện pháp này không được WTO thừa nhận nhưng chúng ta chưa được vào thời gian nào thì có thể chuyển các biện pháp phi thuế này sang áp dụng mức thuế nhập khẩu cao hơn và cao hơn là bao nhiêu là phù hợp. Nguyên nhân của thực trạng trên có thể giải thích như sau: Một là, do định hướng phát triển các ngành kinh tế chưa toàn diện, chưa đầy đủ, chưa ổn định, thậm chí một số ngành chưa có chiến lược phát triển. Việc hoạch định chính sách thuế nói chung, thuế xuất - nhập khẩu nói riêng phải lấy định hướng phát triển ngành làm căn cứ. Nếu định hướng phát triển các ngành kinh tế chưa rõ sẽ không thể hoạch định được chính sách thuế xuất - nhập khẩu, trong đó có chính sách bảo hộ bằng thuế nhập khẩu có phù hợp hay không. Hai là, trong một số giai đoạn, thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam còn chứa đựng nhiều mục đích: bảo hộ sản xuất, đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, hướng dẫn tiêu dùng và một số mục tiêu khác. Vì vậy, đã xảy ra hiện tượng chuyển hướng đầu tư, các doanh nghiệp đổ xô vào sản xuất các mặt hàng được che chắn bởi thuế nhập khẩu, làm cho Nhà nước vừa không thu được thuế (do không nhập khẩu) cơ cấu đầu tư vừa không hợp lý (tập trung sản xuất những mặt hàng có thuế nhập khẩu cao). Ba là, do mặt bằng công nghệ, năng suất lao động. . .trong một số ngành kinh tế của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Bởi vậy, khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực bằng việc chấp nhận các quy định của các tổ chức đó thì các chính sách của Nhà nước nhiều khi được ban hành chưa phù hợp với tình trạng kinh tế Việt Nam. 2.5. Những vướng mắc trong việc thực hiện chính sách thuế xuất -nhập khẩu. Hiện nay, quan hệ phối kết hợp giữa các Bộ, Ngành trong việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu còn nhiều bất cập, không thống nhất. Do vậy, nhiều quy định trong Luật thuế xuất - nhập khẩu không được thực hiện hoặc thực hiện với hiệu quả chưa cao. Ví dụ, Luật số 04 có bổ sung thêm biện pháp cưỡng chế thuế, tạo điều kiện cho cơ quan hải quan có thêm công cụ khắc phục tình trạng nợ đọng thuế kéo dài như: trích tiền gửi ngân hàng, giữ hàng hoá, kê biên tài sản. . . nhưng do thiếu sự phối kết hợp của cơ quan ngân hàng và các cơ quan khác nên những biện pháp này chưa được thực hiện trên thực tế. Hơn nữa tình trạng cưỡng chế nhầm cũng liên tục xảy ra. Bên cạnh đó, theo cơ chế xuất nhập khẩu hiện hành, chức năng của các Bộ trong việc quản lý hàng xuất nhập khẩu như sau: - Bộ Thương mại: quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu; kiến nghị thay đổi chính sách, thủ tục đối với các hoạt động xuất nhập khẩu thuộc nhiều loại hình: hàng chuyển tiếp, hàng tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập. . . - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: quản lý thủ tục xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài hoặc Luật khuyến khích đầu tư trong nước; kiểm tra giấy phép có liên quan do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Ngân hàng Nhà nước cấp. . . - Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường: quản lý chất lượng của hàng hoá xuất nhập khẩu; quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá và dịch vụ xuất nhập khẩu. - Bộ Y tế: quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu là dược phẩm. - Tổng cục Bưu điện: quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu là các thiết bị thông tin. . . Cơ chế này tạo ra tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan chức năng trong việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu, khiến việc làm thủ tục cho một lô hàng nhập khẩu vừa rườm rà, vừa phức tạp, lại vừa có nhiều sơ hở. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT - NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐỂ PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. I. Sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Xu hướng chung của toàn cầu là chuyển từ đối đầu sang đối thoại, chuyển từ chiến tranh sang hợp tác kinh tế. Do vậy việc hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia vào khu vực cũng như thế giới là điều cần thiết. Hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi của kinh tế quốc tế nói chung vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường quốc tế, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định từ đó có điều kiện thuận lợi để xác định kế hoạch và cơ cấu đầu tư sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, mỗi quốc gia đều có hoàn cảnh lịch sử kinh tế cụ thể nên khi hội nhập cần có một hệ thống chính sách kinh tế phù hợp với những cam kết của tổ chức mà họ tham gia đồng thời hệ thống chính sách này phải mang lại lợi ích cho quốc gia đó. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu là một trong những chính sách nhạy cảm của chính sách thương mại quốc tế nên khi điều kiện quan hệ thương mại của nước ta với các nước thay đổi thì nó cũng phải được điều chỉnh cho phù hợp. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước trong 10 năm đổi mới là khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh quốc tế thay đổi và mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc duy trì chính sách thuế xuất -nhập khẩu như thời điểm hiện nay với những hạn chế đã nêu trên là không phù hợp mà phải thực hiện nhiều sửa đổi, bổ sung, cập nhật theo hướng khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Như vậy, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một chính sách thuế xuất - nhập khẩu hoàn thiện phục vụ hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. II. Định hướng về chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong thời gian tới. 1. Mục tiêu của chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Thực hiện chủ trương của Đảng về chiến lược mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như các cam kết với AFTA/ASEAN, APEC, ASEM, Mỹ, tiến tới gia nhập WTO; tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau. Chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong thời gian tới nhằm vào các mục tiêu cơ bản như sau: - Bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu. - Đưa Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu phù hợp với những cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi tham gia hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. - Bảo đảm sự động viên, đóng góp hợp lý cho Ngân sách Nhà nước, phù hợp với quá trình cải cách hệ thống thuế nước ta. 2. Những nguyên tắc khi xây dựng chính sách thuế xuất nhập - khẩu trong thời gian tới. Nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, mở cửa hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, đồng thời xuất phát từ thực trạng chính sách thuế xuất -nhập khẩu hiện hành, việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta trong thời gian tời cần quán triệt các nguyên tắc sau: - Không bảo hộ tràn lan đối với tất cả các ngành kinh tế, thực hiện sự bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn. Bảo hộ là để nhằm mục đích tạo điều kiện mở rộng, phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ. . . Nếu các ngành được bảo hộ thực sự phát triên, có khả năng cạnh tranh ngay cả khi hàng rào bảo hộ được dỡ bỏ thì bảo hộ thực sự đã đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiênm trong thực tế, đã không thiếu những trường hợp cho thấy bảo hộ lại tạo ra một đơn vị kinh tế ốm yếu hơn. Ngành sản xuất được bảo hộ không tự vươn lên mà ỷ lại vào hàng rào bảo hộ, cạnh tranh kém ngay cả khi hàng rào bảo hộ rất cao. Trong điều kiện hội nhập, khi mà xu hướng tự do hoá thương mại không thể đảo ngược thì việc nâng cao hàng rào bảo hộ là điều không thể. Nhưng nếu dỡ bỏ hoàn toàn các hàng rào bảo hộ trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu kém sẽ có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì thế, việc bảo hộ nền kinh tế có chọn lọc, có điều kiện và có thời gian là đáp án tối ưu. - Hàng rào thuế quan là hàng rào bảo hộ cuối cùng và duy nhất cho nền sản xuất trong nước. Việc xây dựng các mức thuế bảo hộ trong điều kiện vẫn còn các rào cản thương mại phu thuế quan sẽ không có ý nghĩa bởi vì các hàng rào phi thuế quan này đã làm giảm tính minh bạch, tăng tính không nhất quán của chính sách thuế xuất - nhập khẩu và phi phạm một trong những nguyên tắc của WTO. Do vậy, trong thời gian tới, khi xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu, chúng ta phải tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế quan. III. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thuế xuất nhập khẩu. 1.1. Về miễn và xét miễn giảm thuế. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế được đề cập trong bản báo cáo về cải cách chính sách thuế và thủ tục hải quan do Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) lập tháng 5/1999, lượng hàng hoá nhập khẩu được miễn thuế của nước ta năm 1998 chiếm 39% kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Như vậy, trên thực tế, số thu Ngân sách hiện nay của Việt Nam từ thuế xuất - nhập khẩu chỉ đạt 70% so với số có thể thu được. Về số tuyệt đối, thuế nhập khẩu được miễn ở vào khoảng 6 - 7 nghìn tỷ mỗi năm. Đây là một số tiền lớn trong tình hình tài chính của Việt Nam hiện nay. Mặt khác, quy định về việc miễn thuế như đã trình bày ở trên bị lợi dụng nhiều trong thực tế. Rất nhiều trường hợp đã bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý nhưng không thể triệt tiêu được. Để đảm bảo công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước khi thực hiện giảm thuế suất để tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, thực hiện hội nhập kinh tế thiết nghĩ cần phải sửa đổi chế độ miễn thuế này. Trước mắt, thực hiện xoá bỏ việc miễn thuế cho hàng hoá nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh quốc phòng. Để hỗ trợ cho lĩnh vực an ninh quốc phòng, hàng năm Ngân sách Nhà nước cấp bổ sung một khoản bằng hoặc lớn hơn số thuế được miễn như quy định hiện hành. Thực hiện biện pháp này, Nhà nước vừa quản lý được khoản thu của Ngân sách Nhà nước, giám sát được các khoản chi trong lĩnh vực này, vừa tránh được những tiêu cực đã nêu. Đối với hàng miễn thuế phục vụ trực tiếp giáo dục đào tạo nên quy định chỉ đối với hàng hoá trong nước chưa sản xuất được còn những mặt hàng trong nước đã sản xuất được thì phải nộp thuế. Về lâu dài, thực hiện xoá bỏ tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách xuất nhập cảnh. Vì trên thực tế, số tiền được miễn thuế đối với hàng nhập cảnh của mỗi cá nhân trong trường hợp này là không nhiều, thế nhưng chúng ta lại phải tốn thêm chi phí để duy trì bộ máy kiểm tra, làm thủ tục cho số hàng được miễn thuế này, đó là chưa kể đến quy định này bị lợi dụng trốn thuế, làm thất thu Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, cần tích cực xúc tiến đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan đối với hàng nhập khẩu để gia công; đối với hàng nhập khẩu để đầu tư, yêu cầu phải có phương án đầu tư hay luận chứng kỹ thuật cụ thể, rõ ràng kèm theo. 1.2. Về kiểm tra sau thông quan. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan rườm rà, phức tạp là một cản trở thương mại tự do. Do vậy, việc quy định giảm thiểu kiểm tra ngay tại cửa khẩu bằng việc kiểm tra sau thông quan là một quy định hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện hội nhập. Vấn đề đặt ra với nước ta hiện nay là hoàn thiện quy định hiện có và đưa nó trở thành các hoạt động thực tế của các cơ quan chức năng. Điều 23 Nghị định 54/CP ngày 28/08/1998 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định: “Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm quy định và hướng dẫn các Ngân hàng cơ sở cung cấp đầy đủ tài liệu thanh toán liên quan đến thuế xuất - nhập khẩu của đối tượng nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan hải quan để phục vụ cho việc kiểm tra thuế xuất - nhập khẩu. Tuy nhiên, trong công văn số 1224CV - NHNN - ngày 15/12/1993 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Tổng cục Hải quan nêu rõ: “Việc cung cấp thông tin cho cơ quan hải quan về tình hình thanh toán với ngân hàng nước ngoài của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc danh mục bí mật trong ngành ngân hàng (Điều 2 khoản 9 QĐ 135/1999/QĐ - TTG ngày 02/06/1999, Điều 5 Nghị định 91/CP ngày 25/11/1993 của Chính phủ về việc tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt). Để khắc phục những điểm mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật, kiến nghị Chính phủ, Quốc hội có quy định cụ thể, rõ ràng cho phép cơ quan hải quan được phép kiểm tra tài liệu thanh toán liên quan đến lô hàng xuất nhập khẩu của đối tượng nộp thuế. Đây là một vấn đề rất quan trọng cho phép khẳng định doanh nghiệp có hay không vi phạm các quy định về thuế xuất - nhập khẩu: khai báo giá tính thuế có đúng không, thực thanh toán cho nước ngoài là bao nhiêu. Mặt khác, cơ quan hảI quan có trách nhiệm bảo quản thông tin theo Danh mục thông tin mật đã được quy định. Bên cạnh việc khắc phục những điểm mâu thuẫn, chồng chéo nhau trong các văn bản quy phạm pháp luật, vấn đề đối với cơ quan hải quan là xác định, lựa chọn, xây dựng danh sách các đơn vị cần được kiểm tra sau thông quan, thực hiện kiểm tra có kết quả làm cơ sở thực hiện trên diện rộng. Đồng thời, kết hợp với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật cho các doanh nghiệp về công tác kiểm tra sau thông quan. 1.3. Về việc thu thuế bổ sung. Như đã giới thiệu, mặc dù được đề cập trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành nhưng cho đến nay, quy định này chưa được thực hiện trên thực tế. Nguyên nhân là do chưa được cụ thể hoá. Xuất phát từ kinh nghiệm của một số nước và theo quy định của WTO, chúng ta cần phải ban hành “Luật chống bán phá giá” thay cho Điều 9 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành chỉ có tính chất giới thiệu mà không có khả năng thực hiện như hiện tại để bảo hộ sản xuất trong nước chống lại các hành động buôn bán không trung thực của các công ty nước ngoài. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể sử dụng một biện pháp tính thuế mới: thuế tuyệt đối. Biện pháp này quy định mức thuế theo giá trị tuyệt đối tính trên một đơn vị hàng hoá, ví dụ 2USD/lít, 0,5UDS/kg. . . Thuế tuyệt đối có thể thu riêng, có thể thu kết hợp với thuế tỷ lệ mà lâu nay ta vẫn sử dụng. Đây là biện pháp được nhiều nước áp dụng, trong đó có cả những nước mà chế độ ngoại thương tương đối tự do như Mỹ, Singapore. Thuế tuyệt đối sẽ không ảnh hưởng lớn đến mậu dịch chính ngạch nhưng sẽ có tác dụng lớn đến mậu dịch biên giới, nơi mà hàng hoá được nhập khẩu với giá rất thấp khiến thuế tính theo tỷ lệ phần trăm mất tác dụng. Ngoài ra, việc chuyển sang thu thuế tuyệt đối cũng sẽ giúp chúng ta bãi bỏ được chế độ định giá tối thiểu trong khi vẫn đảm bảo được việc chống gian lận thương mại thông qua khai man giá trị tính thuế. Đối với nước ta, biện pháp này chủ yếu nên được áp dụng cho hàng nông sản và một số sản phẩm công nghiệp khác vẫn được nhập khẩu vào nước ta với giá rất thấp như rau quả, thịt, gạch ốp lát, trứng gia cầm, muối biển, kinh xây dựng, động cơ đốt trong, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng. 2. Vấn đề công tác tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. 2.1. Đơn giản hoá thủ tục hải quan. Việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu có liên quan chặt chẽ đến thủ tục hải quan. Bởi lẽ, cơ quan hải quan là cơ quan áp dụng, thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Do vậy, đơn giản hoá thủ tục hải quan là tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu của chính sách thuế xuất nhập khẩu. Để đơn giản hoá thủ tục hải quan, có thể thực hiện các giải pháp đối với các lĩnh vực sau đây: 2.1.1. Tờ khai hải quan. Tờ khai hải quan lưu giữ nhiều thông tin cần thiết về đối tượng chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Chính vì vậy, có trường hợp xác định các tiêu chí trong tờ khai không đúng, không khoa học. . . khiến tờ khai hải quan phức tạp, khó hiểu vì có quá nhiều tiêu chí mà vẫn không đảm bảo đủ các yếu tố cần thiết giúp các cơ quan quản lý thực hiện các chức năng của mình. Do đó, mẫu tờ khai hải quan phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng. Sắp tới, việc thực hiện CEPT, sẽ có mẫu tờ khai hải quan chung cho các nước ASEAN. Tuy nhiên, để đơn giản hoá việc áp dụng, cơ quan hải quan cần nghiên cứu ban hành mẫu tờ khai chung cho mọi đối tượng, mọi nước để đảm bảo yếu tố của tờ khai và đảm bảo cho việc thực hiện CEPT. 2.1.2. Xây dựng quy trình làm thủ tục hải quan đơn giản, khoa học và công khai hoá thủ tục hải quan. Hiện tại, ngành hải quan đang thực hiện quy trình hành thu. Quy trình này cho phép phân biệt trách nhiệm pháp lý rõ ràng giữa người khai báo, làm thủ tục hải quan, cần ban hành quy trình thủ tục hải quan mới, trong đó hạn chế việc kiểm tra ngay tại cửa khẩu, tăng cường hoạt động kiểm tra sau thông quan. Để thực hiện mục tiêu này, trong quy trình phải có: - Quy định việc phân luồng hàng hoá xuất nhập khẩu: loại hàng nào thì kiểm tra ngay tại cửa khẩu, loại nào thì thực hiện giải phóng nhanh. Căn cứ Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng năm, cơ quan hải quan công bố danh mục phân luồng hàng hoá xuất nhập khẩu theo từng năm hoặc từng thời kỳ để thực hiện. - Quy định việc phân lại các đơn vị xuất nhập khẩu: mục đích là xác định những đơn vị nào chấp hành nghiêm túc các quy định của luật pháp trong kinh doanh xuất nhập khẩu, đơn vị nào có vi phạm hay thường xuyên vi phạm để từ đó lựa chọn biện pháp thủ tục thích hợp. - Thực hiện công khai hoá thủ tục hải quan: việc ban hành quy trình thủ tục là để các đối tượng là đối tượng áp dụng (cơ quan hải quan) và đối tượng chịu sự áp dụng (doanh nghiệp) thực hiện. Nếu không công khai hoá thì mục tiêu trên không thể thực hiện được. Công khai hoá thủ tục hải quan còn có tác dụng để các đối tượng giám sát lẫn nhau trong việc thực hiện quy trình, đảm bảo cho mọi đối tượng cùng thực hiện đúng quy định. 2.1.3. áp dụng công nghệ tin học vào thực hiện thủ tục hải quan. Đây là điều kiện để đơn giản hoá thủ tục hải quan. Việc áp dụng công nghệ tin học, nối mạng máy vi tính toàn quốc giữa các đơn vị làm thủ tục cho phép áp dụng thủ tục thống nhất, chính xác. Mặt khác, giúp cơ quan kiểm tra có điều kiện giám sát, kiểm tra việc làm thủ tục tại các điểm thông quan. 2.2. Đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ công chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Thủ tục hành chính, công chức và tổ chức bộ máy là 3 bộ phận của nền hành chính có quan hệ khăng khít, biện chứng với nhau. Thủ tục hành chính là sản phẩm chủ quan của công chức. Do vậy, nếu công chức giỏi, có đạo đức thì sẽ có sản phẩm tốt, tức là thủ tục hành chính đơn giản, khoa học, dễ thực hiện và vẫn đạt hiệu quả cao. Đối với công chức áp dụng thủ tục cũng vậy, công chức có tốt, giỏi mới là điều kiện để thủ tục áp dụng đúng. Đã không thiếu những ví dụ cho thấy, mặc dù có thủ tục hành chính khoa học, đúng đắn nhưng do bộ phận áp dụng cố ý giải thích khác khiến thủ tục không thể áp dụng được. Vì vậy, nên đi đôi với cải cách thủ tục hải quan, vấn đề công chức hải quan, nhất là công chức làm việc ở những bộ phận áp dụng thủ tục không thể không đặt ra. Để có được đội ngũ cán bộ công chức tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ, cần thiết phải thực hiện một số giải pháp sau: - Lựa chọn những công chức có đạo đức, có trình độ để bố trí vào những bộ phận áp dụng thủ tục, thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. - Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại thường xuyên cho đội ngũ cán bộ công chức hải quan trong các lĩnh vực: kỹ năng phân loại hàng hoá, kỹ năng xác định trị giá hải quan, kiến thức chung về pháp luật, thủ tục. . . - Xử lý nghiêm minh công chức vi phạm pháp luật, vi phạm quy định trong khi thực hiện thủ tục hải quan. 2.3. Sắp xếp bộ máy thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu hợp lý. Tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu cơ bản do hai cơ quan thực hiện là Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan. Bộ Tài chính là cơ quan có chức năng thực hiện điều chỉnh thuế từng thời kỳ (cơ quan chính sách). Tổng cục Hải quan có trách nhiệm phân loại hàng hoá để áp mã tính thuế (cơ quan thực hiện). Để chính sách thuế xuất - nhập khẩu có hiệu lực trên thực tế, vấn đề phối hợp giữa hai cơ quan này không thể không đặt ra. Hai cơ quan cần ban hành quy chế hoạt động phối hợp, tham khảo lẫn nhau trong việc thực hiện chức năng của mình. Mọi mâu thuẫn, vướng mắc giữa hai cơ quan cần sớm được bàn bạc, giải quyết. 2.4. Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên của bất cứ một chế độ xã hội nào, một hệ thống pháp luật nào. Mục đích của công tác này là rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật trong cùng một lĩnh vực; phát hiện, loại bỏ những văn bản chồng chéo, mâu thuẫn; bổ sung văn bản mới để điều chỉnh những lĩnh vực mới nảy sinh; sửa đổi, điều chỉnh những văn bản còn được sử dụng nhưng có sơ hở, hạn chế. . . Đối với nhưng nước đang phát triển như nước ta thì việc hệ thống hoá hệ thống pháp luật nói chung và trong lĩnh vực chính sách thuế xuất - nhập khẩu nói riêng lại càng quan trọng. Nguyên nhân của vấn đề này là do trình độ, kỹ thuật lập pháp của ta chưa cao; do tồn tại xã hội chưa bộc lộ hết nên hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, cần phải thường xuyên xem xét, sửa đổi, bổ sung. Đối với chính sách thuế xuất - nhập khẩu của ta hiện nay, cần tập trung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, Ngành trong việc tham gia cơ chế điều hành xuất nhập khẩu; các văn bản quy định về quan hệ phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vấn đề về thuế xuất - nhập khẩu; các văn bản quy định về việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế về thuế xuất - nhập khẩu. Một vấn đề cần phải lưu ý nữa khi thực hiện hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế xuất - nhập khẩu, đó là cần phải thống nhất việc sử dụng các thuật ngữ pháp luật giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Thực tiễn cho thấy đã có nhiều trường hợp cùng một vấn đề pháp lý như nhau nhưng do sử dụng các thuật ngữ khác nhau trong các văn bản dẫn đến việc hiểu khác nhau giữa các cơ quan chức năng, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. 2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và chỉ đạo chính sách thuế xuất nhập khẩu cho các doanh ngiệp. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu là chủ thể chính trong việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Do vậy, để chính sách thuế xuất - nhập khẩu phát huy vai trò, tác động tích cực, đạt được mục tiêu của chính sách thì yêu cầu đặt ra là mọi chủ thể pháp luật của chính sách thuế xuất - nhập khẩu phải chấp hành đúng, nghiêm chỉnh chính sách thuế xuất -nhập khẩu. Để thực hiện được điều này, cần tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và đào tạo chính sách pháp luật cho các chủ thể, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu. Trước khi ban hành các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật cần có sự tham khảo ý kiến của các đối tượng, tổ chức có liên quan (khi ban hành chính sách thuế xuất - nhập khẩu thì phải lấy ý kiến, thu thập thông tin từ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu). Nếu như các cơ quan chức năng coi các doanh nghiệp là các đối tượng chỉ có nghĩa vụ chấp hành, không có quyền bàn bạc hay có ý kiến về lĩnh vực liên quan đến họ thì sẽ dẫn đến những sai lầm trong việc ban hành chính sách vì như vậy chính sách sẽ thoát ly thực tế, không có tính khả thi, sai phạm nhiều, hiệu quả kém. Do đó, việc tham khảo ý kiến của những đối tượng liên quan đến chính sách sắp ban hành là một điều cần thiết. Vì có như vậy mới bảo đảm chính sách ban hành phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi và cũng là biện pháp để mọi đối tượng quan tâm tìm hiểu, nắm được mục tiêu của chính sách từ đó có trách nhiệm hơn trong việc chấp hành nghiêm chỉnh chính sách ngay khi nó có hiệu lực. Không chỉ có vậy, khi chính sách được ban hành, các cơ quan có trách nhiệm thi hành, áp dụng chính sách cần tổ chức tuyên truyền hướng dẫn và đào tạo chính sách cho các đối tượng có liên quan. Đối với chính sách thuế xuất - nhập khẩu nói riêng cần tập trung hướng dẫn, đào tạo cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu trong các lĩnh vực sau đây: - Kiến thức phân loại hàng hoá: phân loại hàng hoá để xếp mã tính thuế là công việc khó khăn nhất, mất nhiều thời gian nhất trong việc thực hiện và chấp hành chính sách thuê xuất - nhập khẩu, ngay cả đối với nhiều công chức thừa hành có kinh nghiệm đôi khi vẫn mắc phải sai lầm. Trong trường hợp có sai lầm sẽ làm cho mục tiêu của chính sách thuế xuất - nhập khẩu không thực hiện được. Để hạn chế nhữnh sai sót này, các cơ quan có trách nhiệm (Tổng cục Hải quan, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính. . .) phải phối kết hợp cùng nhau mở các lớp hướng dẫn, đào tạo ngắn hạn giúp doanh nghiệp nắm vững kỹ năng phân loại, xếp mã hàng hoá. - Trị giá khai báo hải quan: đào tạo hướng dẫn để doanh nghiệp nắm vững cách khai báo trị giá hải quan theo GATT; theo CEPT. Trong lĩnh vực này, doanh nghiệp phải biết được khoản nào thì cộng vào trị giá hàng hoá, khoản nào được loại bỏ; lưu trữ hoá đơn, chứng từ hợp pháp như thế nào để tiện cho việc kiểm tra sau thông quan. . . - Thủ tục hải quan: thủ tục hải quan đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu cần phải nắm vững được trình tự và yêu cầu của thủ tục hải quan đảm bảo không có sai sót khi làm thủ tục. Cơ quan hải quan một mặt phải công khai hoá thủ tục, mặt khác có biện pháp hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện tốt thủ tục hải quan. Ngoài những biện pháp trên, cần thường xuyên tổ chức các diễn đàn trao đổi giữa cơ quan Nhà nước (cơ quan hải quan, Bộ Tài chính. . .) với các doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tiếp cận những phản ánh của doanh nghiệp để thực hiện hoàn thiện chính sách thuế xuất -nhập khẩu và để đạt được sự thông hiểu giữa hai chủ thể chính có nghĩa vụ thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu, từ đó đảm bảo chính sách được thực hiện nghiêm chỉnh. Thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ là cơ sở để chính sách thuế xuất - nhập khẩu được thực hiện trên thực tế, hạn chế sai phạm, tiêu cực, đạt mục tiêu của chính sách với hiệu quả. 2.6. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Quá trình xây dựng và thực hiện chính sách gồm các giai đoạn: Nghiên cứu đường lối, thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội. Vạch chính sách. Tổ chức bộ máy hoặc chỉ định bộ máy thực hiện chính sách. Thực hiện chính sách. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách. Tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra chính sách mới. Thiểu một trong sáu giai đoạn trên, chính sách không thể thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, hiệu quả thấp, thậm chí có hiệu quả ngược. Trong sáu giai đoạn trên, công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng đảm bảo cho chính sách được thực hiện nghiêm túc, đúng đắn, có tác dụng phát hiện những sơ hở, hạn chế của chính sách; của quá trình thực hiện chính sách từ đó có thể khắc phục kịp thời. Trong thời gian tới, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả góp phần tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu đúng đắn hơn. KẾT LUẬN. Trong xu thế quốc tế hoá; xu thế hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đã và đang từng bước hoà mình để phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Việc buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các nước trên thế giới ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ, toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đang đi đúng hướng. Để hoạt động xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao theo đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra thì nhất thiết phảI xây dựng được một hệ thống chính sách và cơ chế quản lý phù hợp với hoàn cảnh nước ta trong từng thời kỳ nhất định. Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất - nhập khẩu, chúng ta có thể nắm được tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá, tạo điều kiện cho Nhà nước có căn cứ đề ra chính sách đúng đắn trong công tác quản lý; cân đối cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu và cân bằng cán cân thanh toán, góp phần tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, chính sách thuế xuất - nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng và nhạy cảm trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế thì chính sách thuế xuất - nhập khẩu còn phải phù hợp với điều kiện chung của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực là phải hạ thấp hàng rào thuế quan, tự do hoá thương mại. Trong những năm qua, chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta đã có nhiều thay đổi, đã cập nhật nhiều nội dung khoa học, hiện đại cơ bản đã đáp ứng được các đòi hỏi của hội nhập quốc tế và trong nước. Tuy nhiên, trước thực tế không ngừng vận động, biến đổi, phát triển vấn đề tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu không thể không đặt ra. Tiếp cận ý nghĩa này, các nghiên cứu trong chuyên đề đã đề cập được các điểm sau: - Xem xét cơ chế tác động, ảnh hưởng của thuế xuất - nhập khẩu đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thông qua ảnh hưởng của giá cả. Thông qua đó, thấy rằng, bằng việc thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu hợp lý, nước ta có thể thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước đối với những ngành cần khuyến khích phát triển; điều chỉnh luồng thương mại xuất nhập khẩu, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn thu Ngân sách Nhà nước và điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. - Xác định yêu cầu của quá trình hội nhập đối với việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu thông qua quy định của một số tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực mà Việt Nam đã tham gia hoặc đang đề nghị được tham gia cũng như các quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước ta với một số nước (đặc biệt là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ); thông qua thực tế thực hiện của một số nước trong việc điều chỉnh chính sách thuế xuất - nhập khẩu tiến hành hội nhập và căn cứ vào những cơ sở khoa học của việc xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm và phương hướng cho việc xây dựng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta. - Thực trạng chính sách thuế xuất - nhập khẩu của Việt Nam, quá trình phát triển và những hạn chế của chính sách thuế xuất - nhập khẩu của nước ta. - Trên cơ sở đó, kết hợp đồng thời việc khái quát, vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện thực tiễn của Việt Nam đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu trong những năm tới. Em hi vọng rằng, những vấn đề được đề cập trong chuyên đề sẽ có ích cho việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nhằm phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29653.doc
Tài liệu liên quan