Cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước là một cơ chế khá mới mẻ đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp của Việt Nam nói chung và đối với Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt Nam nói riêng. Vì vậy, trong giai đoạn thực hiện thí điểm từ năm 2001 – 2002 những bất cập bộc lộ ra tại trung tâm là điều tất yếu, nhưng những bất cập này vẫn chưa phải là tất cả. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nói rằng việc chuyển đổi sang có chế này là không phù hợp. Các nghiên cứu trong Chương I đã chỉ ra rằng việc áp dụng cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước là lựa chọn tốt nhất cho việc quản lý chi Ngân sách Nhà nước taị các đơn vị hành chính sự nghiệp của Việt Nam hiện nay. Còn trong Chương II chúng ta cũng đã chỉ ra những căn cứ, cơ sở và thực tế của việc thực hiện cơ chế này tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt Nam. Như vậy, quá trình phân tích trong đề tài đã cho thấy tính tất yếu của việc chuyển đổi sang cơ chế khoán chi tại trung tâm.
Thời gian thí điểm hai năm không cho phép chúng ta đưa ra những giải pháp có tính chất lâu dài, vì thế, các giải pháp mà đề tài đưa ra cũng chỉ để khắc phục những bất cập đã bộc lộ trong hai năm qua. Những giải pháp này chưa đủ để hoàn thiện quá trình thực hiện cơ chế khoán chi tại trung tâm song nó là những giải pháp ban đầu, đặt cơ sở cho việc thực hiện tốt hơn và hiệu quả hơn cơ chế khoán chi tại trung tâm.
66 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m có xu hướng tăng. Đây là biểu hiện tất yếu trong quá trình phát triển của trung tâm, cho thấy hoạt động của trung tâm có tiềm năng đem lại những khoản thu có giá trị lớn. Vì vậy, trong tương lai việc quản lý các nguồn thu này cần được chú ý một cách thích đáng.
2.1.3.2 Thực trạng quản lý chi
Thời kỳ trước khi thực hiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước (trước năm 2001) thì việc quản lý các khoản chi của trung tâm được thực hiện trong từng khâu bắt đầu từ khâu lập dự toán Ngân sách, chấp hành Ngân sách cho đến khâu kế toán và quyết toán Ngân sách. Các bước thực hiện cụ thể như sau:
- Lập dự toán Ngân sách: Sau khi có các hướng dẫn của Chính phủ và Bộ Tài chính về việc lập dự toán Ngân sách. Đài Truyền hình Việt Nam hướng dãn Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình lập dự toán năm gửi về Đài. Tiếp theo, Đài Truyền hình Việt Nam sẽ căn cứ vào dự toán này để tổng hợp trình Chính phủ. Sau khi được Chính phủ duyệt và thông báo dự toán năm, Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện giao dự toán cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình.
Nhìn chung, công tác lập dự toán hàng năm còn mang tính áp đặt và hình thức, không sát với thực tế, chưa được coi trọng đúng vị trí vốn có của nó. Vẫn còn tình trạng trung tâm chi tiêu nhưng lại không lập dự toán hàng năm, cơ quan chủ quản cấp trên là ban kế hoạch tài vụ phải lập dự toán thay cho trung tâm, vì thế mà chất lượng dự toán không cao, không đảm bảo quyền dân chủ của trung tâm và chưa sát với nhu cầu chi tiêu thực tế tại trung tâm. Hoặc vẫn còn tình trạng trong quá trình lập dự toán, trung tâm chưa căn cứ vào các định mức chi tiêu để lập dự toán, mà thường căn cứ và những ước lượng cảm tính để lập dự toán hoặc tìm mọi cách để hợp thức hoá các khoản chi không gắn với nhiệm vụ của trung tâm.
- Chấp hành chi Ngân sách: Công tác chấp hành chi Ngân sách được bắt đầu từ việc lập dự toán chi và cấp phát hạn mức kinh phí hàng quý. Qui trình này được tiến hành như sau:
+ Căn cứ vào dự toán ngân sách năm được Chính phủ thông qua, Đài Truyền hình Việt Nam lập dự toán ngân sách quý gửi về Bộ Tài chính .
+ Sau khi nhận được thông báo hạn mức kinh phí của Bộ Tài chính, Đài Truyền hình Việt Nam tiến hành cấp phát kinh phí cho các đơn vị trực thuộc, trong đó có Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình.
Bộ Tài chính uỷ quyền cho Đài Truyền hình Việt Nam cấp phát kinh phí cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình theo nguyên tắc: tổng số hạn mức kinh phí và chi tiết từng khoản mục chi trong tháng của trung tâm phải phù hợp với thông báo hạn mức quý của cơ quan tài chính. Bảng phân phối hạn mức kinh phí của Đài Truyền hình Việt Nam cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình phải gửi Bộ Tài chính và Kho bạc Nhà nước Hà Nội để làm cơ sở kiểm soát, thanh tra và chi trả.
+ Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình căn cứ vào thông báo hạn mức kinh phí của Đài Truyền hình Việt Nam làm “giấy rút hạn mức kinh phí ” gửi Kho bạc Nhà nước Hà nội kèm theo hồ sơ chứng từ thanh toán để rút hạn mức kinh phí chi trả cho các nhu cầu chi tiêu tại trung tâm ( như chi lương, phụ cấp…).
+ Kho bạc Nhà nước Hà nội căn cứ vào thông báo hạn mức kinh phí của Đài Truyền hình Việt Nam phân phối cho Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ thanh toán và các điều kiện sau để tiến hành kiểm soát và thực hiện chi ngân sách:
ệ Đã có trong dự toán Ngân sách Nhà nước được cơ quan tài chính có thẩm quyền phê duyệt
ệ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền qui định.
ệ Đã được giám đốc Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình hoặc người được uỷ quyền chuẩn chi.
Ngoài các điều kiện qui định nói trên, trường hợp sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải đấu thầu thì phải tổ chức đấu thầu theo qui định của Chính phủ chứ không thực hiện chi theo qui trình đã trình bày ở trên.
Trong công tác chấp hành chi Ngân sách của trung tâm, đối với các khoản chi cho con người, chi cho hàng hóa dịch vụ cần thiết… được cấp phát theo hạn mức kinh phí của từng khoản mục chi. Hết năm Ngân sách (năm Ngân sách tính theo dương lịch bắt đầu từ 1/1 đến 31/12 hàng năm) nếu không sử dụng hết hạn mức thì phần hạn mức dư thừa sẽ bị huỷ bỏ. Cơ chế huỷ bỏ hạn mức dư thừa cho phép cơ quan quản lý Ngân sách có thể tiết kiệm được mức chi hàng năm của Ngân sách, đồng thời hạn chế được nhược điểm kém chính xác của các dự toán chi ngân sách do các đơn vị dự toán lập và trình lên. Tuy nhiên, nó gây ra những khó khăn cho các đơn vị dự toán ngân sách, ví dụ như tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, do dự toán lập không sát hay do những biến động mới chưa lường trước được cho nên bị thiếu hụt hạn mức ở khoản mục này song lại thừa hạn mức ở khoản mục khác. Trong khi đó, hạn mức thiếu hụt không được bù đắp còn hạn mức dư thừa thì lại bị huỷ bỏ làm cho trung tâm gặp khó khăn khi có những khoản chi cần thiết nhưng không thể chi được mặc dù tổng hạn mức có thể là đang dư thừa. Một thực trạng nữa của cơ chế này là việc chạy kinh phí cuối năm tại các đơn vị dự toán ngân sách, cũng tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình do tổng hạn mức cuối năm vẫn dư thừa cho nên phải cố gắng sử dụng hết trong năm bằng cách: hợp lý hoá các chứng từ bảng kê thanh toán để Kho bạc cho phép thanh toán, nhằm rút hết số tiền trong hạn mức. Chính tình trạng này đã làm giảm ý nghĩa tiết kiệm của cơ chế huỷ bỏ hạn mức dư thừa, đồng thời đó cũng là một nguyên nhân dấn đến tình trạng sử dụng lãng phí, khônghiệu quả kinh phí Ngân sách như mua sắm hoặc chi tiêu vào những việc không thiết thực, thậm chí gây thất thoát Ngân sách Nhà nước.
- Kế toán, quyết toán chi Ngân sách Nhà nước: Đài Truyền hình Việt Nam quản lý trực tiếp kinh phí của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình. Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình là đơn vị dự toán độc lập. Sự chỉ đạo của Đài đối với Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình không thể thực hiện trực tiếp mà gián tiếp thông qua các văn bản hướng dẫn quản lý tài chính ngành. Việc quản lý các khoản chi ngân sách ngành là nhiệm vụ chủ yếu của giám đốc và kế toán của trung tâm. Hàng năm Đài Truyền hình Việt Nam kiểm tra các báo cáo quyết toán của trung tâm trước khi tổng hợp quyết toán ngành gửi Bộ Tài chính. Qua quá trình kiểm tra quyết toán hàng năm cho thấy còn có một số khoản chi chưa được quản lý chặt chẽ nhưu: các khoản công tác phí, hội nghị phí, chi tiếp khách...
Kể từ năm 2001 đến nay, Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình đang trong giai đoạn thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước. Để hiểu rõ hơn về thực trạng cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình chúng ta sẽ đi sâu phân tích ở mục 2.2
2.1.3.3 Thực trạng quản lý tài sản công
Tài sản công của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình có giá trị rất lớn, bao gồm: Đất đai, trụ sở làm việc, phương tiện làm việc, các xe truyền hình lưu độn, thiết bị vệ tinh.... Nhiều tài sản và thiết bị của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình phải nhập từ nước ngoài, hiện trong nước chưa sản xuất được. Theo thống kê giá trị tài sản của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình hiện nay ước tính khoảng 300 tỷ (không kể giá trị đất đai). Tuy nhiên, cơ chế quản lý tài sản công vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Điều này thể hiện ở một số mặt sau:
- Việc theo dõi hạch toán tài sản chưa được thể hiện đồng bộ và quy củ, đặc biệt việc tính kkhấu khao TSCĐ chỉ mang tính hình thức chưa có ý nghĩa thực tế. Chế độ kiểm kê TSCĐ hàng năm chưa được thực hiện đầy đủ.
- Nhiều tài sản được các chuyên gia thế giới đánh giá là có chất lượng cao, công suất sử dụng lớn, nhưng do hạn chế nhân lực nên chưa vận dụng hết chức năng cũng như công suất sử dụng của tài sản.
Nguyên nhân của việc không quan tâm đúng mức này xuất phát từ hai phía: các cơ quan chủ quản và trung tâm. Mặc dù còn nhiều bất cập song vấn đề về quản lý tài sản công sẽ không được đi sâu xem xét trong đề tài này. Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay, khi mà trung tâm đang thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước, một cơ chế còn rất mới mẻ đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp của Việt Nam, cho nên, những vấn đề vướng mắc trong cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm đang là một vấn đề nổi cộm. Vì những lý do nêu trên, trong phạm vi của đề tài này, chúng ta chỉ tập trung phân tích đi sâu vào thực trạng quản lý chi theo cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước (sau đây gọi tắt là cơ chế khoán chi) tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Đài Truyền hình Việt Nam.
2.2 Quá trình thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình
2.2.1 Các chỉ tiêu khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm
Trong hai năm 2001-2002 tổng mức khoán chi cho trung tâm là 25 tỷ đồng. Mức khoán này bao gồm các khoản chi cho các hoạt động thường xuyên của trung tâm (hay gọi là khoản chi thường xuyên). Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình được chủ động bố trí các khoản chi trong phạm vi kinh phí khoán cho các nội dung sau đây:
- Thanh toán tiền lương: Lương hợp đồng dài hạn, hợp đồng ngắn hạn, lương ngạch bậc theo quỹ lương được duyệt ( Mục 100).
- Thanh toán tiền công; Tiền công hợp đồng theo từng vụ việc phát sinh ( Mục 101).
- Phụ cấp lương: Phụ cấp chức bậc, độc hại, nguy hiểm, lưu động (Mục 102).
- Các khoản đóng góp: Bảo hiểm Xã hội, Bảo hiểm Y tế (Mục 106).
- Thanh toán cho cá nhân: tiền ăn ca,.... (Mục 108).
- Thanh toán các dịch vụ công cộng: tiền điện, tiền nhiên liệu(Mục 109).
- Chi vật tư, văn phòng: mua văn phòng phẩm, dụng cụ, vật tư văn phòng (Mục 110).
- Thông tin, truyền thông liên lạc:cước phí điện thoại trong và ngoài nước, fax, sách báo... (Mục 111).
- Công tác phí: tiền tàu xe, máy bay, phụ cấp lưu trú, ... (Mục 113).
- Chi phí thuê mướn: thuê phương tiện vận chuyển, thuê thiết bị các loại... (Mục 114).
- Sửa chữa thường xuyên TSCĐ: ôtô, xe chuyên dụng, trang thiết bị kỹ thuật... (Mục 117).
- Chi phí nghiệp vụ chuyên môn; chi mua vật tư cho chuyên môn, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng; chi mua, in ấn chỉ... (Mục 119).
Đối với mỗi khoản mục khoán trong danh mục trên, đều có một mức khoán cụ thể, tuy nhiên mức khoán này có một sự linh hoạt nhất định cụ thể là: trước đây, khi chưa thực hiện cơ chế khoán chi thì đối với mỗi khoản mục khoán không được phép chi vượt hạn mức còn nêú chi không hết hạn mức thì hạn mức dư thừa bị huỷ bỏ. Đồng thời, việc áp dụng qui định này là riêng rẽ cho từng khoản mục. Trong cơ chế khoán chi, mặc dù từng khoản mục vẫn có mức khoán riêng nhưng nếu chi không hết, thì hạn mức vẫn được giữ nguyên và trung tâm có thể sử dụng số hạn mức dư thừa này, để bù đắp cho các khoản mục khác hoặc được sử dụng vào những mục đích sau đây:
- Tăng tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, giảm các khoản đóng góp đối với người lao động.
- Mua sắm trang thiết bị, tăng cường cơ sở vật chất của trung tâm.
- Trích lập hai quỹ khen thưởng và phúc lợi (mức trích là 15% số kinh phí có được do tiết kiệm).
- Sử dụng kinh phí tiết kiệm để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác truyền hình ( đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, hỗ trợ sáng tác kịch bản truyền hình....).
- Chi hỗ trợ thêm ngoài chế độ Nhà nước qui định về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức dôi ra do thực hiện sắp xếp lại tổ chức biên chế cán bộ.
2.2.2 Cơ sở của việc thực hiện cơ chế khoán chi tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình.
Không phải ngẫu nhiên mà công tác quản lý chi ngân sách tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình lại chuyển hướng sang cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước mà việc chuyển hướng này có những cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tiễn của nó. Cơ sở thực tiễn của việc chuyển đổi này xuất phát từ thực tế tình hình hoạt động nói chung và tình hình quản lý chi ngân sách nói riêng của trung tâm. Cơ sở pháp lý xuất pháp từ những qui định của Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền về việc quản lý chi ngân sách cho các đơn vị hánh chính sự nghiệp nhằm đảm bảo mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế, thực hiện tiết kiệm hiệu quả do Đảng đề xướng. Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể hai cơ sở, pháp lý và thực tiễn của việc thực hiên cơ chế khoán chi tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình.
2.2.2.1 Các văn bản quy định của Nhà nước và Đài truyền hình Việt Nam đối với Trung tâm.
Trong những năm gần đây, Đảng chủ trương cải tổ bộ máy hành chính đặc biệt là việc nâng cao hiệu quả hoạt động đi đôi với tiết kiệm chi phí trong hoạt động của bộ máy này. Để thực hiện chủ trương này, trong điều 48 Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí qui định: “ Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Số tiền mang lại từ việc tiết kiệm các khoản chi thường xuyên của các tổ chức thụ hưởng Ngân sách Nhà nước được chuyển chi cho các mục đích khác theo qui định của Luật Ngân sách Nhà nước... khuyến khích vật chất trong các trường hợp tiết kiệm kinh phí Ngân sách Nhà nước”. Việc ban hành hàng loạt các văn bản, quyết định về việc hướng dẫn thi hành quản lý chi Ngân sách Nhà nước cũng là một biểu hiện của quyết tâm thực hiện chống lãng phí, tiết kiệm Ngân sách Nhà nước của Đảng và Chính phủ Việt Nam, đồng thời những chính sách, văn bản pháp luật đó cũng trở thành những cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cơ chế khoán chi tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình hiện nay.
Ngày 01/6/2001 Chính phủ ra quyết định số 87/2001/QĐ-TTG về việc thực hiện thí điểm khoán thu, khoán chi tài chính đối với hoạt động của đài Truyền hình Việt Nam. Quyết định này đã làm thay đổi căn bản công tác quản lý tài chính tại trung tâm và là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện cơ chế khoán chi tại trung tâm trong thời gian qua. Ngoài ra để thực hiện đầy đủ cơ chế khoán chi trung tâm còn phải căn cứ vào các cơ sở pháp lý khác trong quá trình thực hiện, ví dụ như: Nghị định số 25/CP ngày 25/05/1993 của Chính phủ qui định về chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các đơn vị hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang nhân dân. Tại điều 10 của nghị định này có qui định về việc “giao quỹ tiền lương tương ứng với biên chế được duyệt để tiến tới khoán quỹ lương trong các đơn vị hành chính sự nghiệp”. Nghị định số 38/1998/NĐ-CP ngày 09/06/1998 của Chính phủ, qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí đã qui định việc thực hiện khoán chi lương, công tác phí, hội nghị phí đối với những đơn vị hành chính sự nghiệp.
Thông tư số 3208/LĐTBXH-TT ngày 19/10/2000 của Bộ Lao động Thương binh Xã hội về tiền lương và thu nhập của Đài Truyền hình Việt Nam. Quyết định số 1323/2001/QĐ-THVN của Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam ban hành quy chế tạm thời trả lương của Đài Truyền hình Việt Nam, để trả lương cho người lao động theo hai hình thức: Trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm. Cụ thể như sau:
- Hình thức trả lương theo thời gian được áp dụng đối với lao động làm việc trong khối quản lý, khối nghiên cứu. Tiền lương được trả căn cứ vào hệ số lương cơ bản, mức lương tối thiểu, hệ số chức danh theo trách nhiệm được giao, hệ số chất lượng lao động.
- Hình thức trả lương theo sản phẩm được áp dụng đối với các lao động làm việc tại các đơn vị sản xuất, phát sóng. Tiền lương được trả căn cứ vào số lượng, chất lượng chưong trình đã được nghiệm thu, nhập kho Ban thư ký biên tập và đơn giá tiền lương theo các thể loại sản phẩm.Trong đơn giá tiền lương sản phẩm bao gồm cả tiền lương cơ bản của các chức danh.
Những qui định trên đây, là những căn cứ trong việc chuyển đổi cơ chế quản lý chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm. Song để đảm bảo được hiệu quả hoạt động chung của trung tâm thì không thể không xem xét đến thực tiến vấn đề chi Ngân sách Nhà nước tại chi tiêu, bởi vì, việc chi tiêu Ngân sách Nhà nước muốn đảm bảo hiệu quả và tiết kiệm thì phải phù hợp với những đặc thù cụ thể trong hoạt động của trung tâm. Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét nốt cơ sở thực tiễn của việc chuyển đổi sang cơ chế khoán chi tại trung tâm.
2.2.2.2Tình hình hoạt động tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình
Các hoạt động của trung tâm hiện nay về cơ bản là các hoạt động của một cơ quan hành chính đơn thuần với những khoản chi sử dụng ngân sách thường xuyên (bao gồm chi lương, chi cho hàng hoá và dịch vụ phục vụ hoạt động của trung tâm, chi cho sửa chữa thường xuyên TSCĐ, chi cho mua sắm công cụ dụng cụ lao động). Ngoài ra một đặc điểm riêng của trung tâm là có các khoản chi rất lớn cho việc mua sắm TSCĐ ( đa phần các tài sản này là những tài sản có giá trị rất lớn và phải nhập từ nước ngoài). Vì vậy, đối với những khoản chi này đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý riêng so với các khoản chi thường xuyên. Việc quản lý tách rời hai khoản mục chi ngân sách này cho phép trung tâm có thể quản lý tốt hơn các khoản chi thường xuyên cũng như các khoản chi không thường xuyên cụ thể là:
- Đối với các khoản chi không thường xuyên: do tính chất là các khoản chi có giá trị lớn và thực hiện theo từng dự án từng thời kỳ. Việc chi cho các khoản này thường phải thực hiện theo phương thức đấu thầu là chính, vì thế, để quản lý những khoản chi này cần thực hiện lập dự toán riêng biệt để trình lên Đài truyền hình Việt Nam duyệt, sau đó tổ chức đấu thầu công khai để chọn nhà cung cấp tốt nhất, tiến hành kết hợp với Kho bạc Nhà nước để thực hiện thanh toán. Việc quản lý khoản chi này liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau và phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp.
- Đối với các khoản chi thường xuyên: tính chất của các khoản chi này là giá trị nhỏ và được chi theo từng kỳ xác định (như tháng, quý, năm), hơn nữa các khoản chi này có thể tính toán, xác định vào đầu kỳ ( ví dụ như xác định quỹ lương căn cứ vào số biên chế và bậc lương, đóng góp Bảo hiểm xã hội tính dựa vào quỹ lương...). Về việc xác định các định mức khoán cho các khoản chi thường xuyên: Các định mức khoán của từng chỉ tiêu khoán được xác định dựa trên kinh nghiệm là chính. Các cán bộ của trung tâm dựa trên những ước lượng của bản thân về mức chi để xác định mức khoán.Đối với các khoản chi cho con người thì trung tâm dựa trên tổng quỹ tiền lương ,sau đó căn cứ vào quỹ tiền lương trung tâm xác định các khoản phải đóng góp cho người lao động như Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm Y tế. Ngoài ra, trong các khoản chi cho con người còn bao gồm các khoản như tiền ăn ca, phụ cấp độc hại được trung tâm xác định theo các qui định cụ thể của các cơ quan chức năng. Như vậy, các căn cứ trình bày ở trên cho thấy việc xác định định mức của khoản chi cho con người ở trung tâm được tiến hành khá quy củ và khoa học.
Hiện nay, ngoài các khoản chi cho con người là được xác định định mức nghiêm túc, định mức của các khoản mục khoán khác được tính dựa trên số liệu của năm 2000 (tức là năm trước khi thực hiện chuyển đổi cơ chế).
Về phương thức chi các khoản mục này cũng rất đơn giản chủ yếu là chi trực tiếp bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Vì thế, việc quản lý các khoản chi này khá đơn giản, trung tâm chỉ cần phối hợp với Kho bạc Nhà nước để thực hiện thanh toán, việc lập dự toán chỉ cần thực hiện một lần vào đầu kỳ chứ không nhất thiết phải lập cho tất cả các lần chi.
Như vậy, về cơ bản, việc tách rời quản lý các khoản chi thường xuyên tại trung tâm là cần thiết, nó đảm bảo cho việc quản lý tài chính nói chung và quản lý chi Ngân sách Nhà nước nói riêng tại trung tâm hiệu quả và tiết kiệm hơn. Đây chính là cơ sở đầu tiên cho việc thực hiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm.
Cơ sở thứ hai để thực hiện cơ chế khoán chi là, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, trung tâm hoàn toàn có khả năng điều chỉnh các yếu tố trong nội bộ trung tâm để đảm bảo được các yêu cầu cuả cơ chế khoán chi cụ thể như sau:
- Trung tâm có quyền hạn trong việc xác định số biên chế cán bộ, công nhân, viên chức làm việc tại trung tâm( bao gồm cả việc rà soát và xác định nhu cầu cán bộ công chức phù hợp với chức năng nhiệm vụ cuả trung tâm). Điều này cho phép trung tâm có khả năng điều khiển quỹ lương của mình theo mức khoán.
- Trung tâm hoàn toàn có quyền tự chủ trong việc tìm kiếm các nhà cung cấp, các đối tác trong việc mua bán, trao đổi các hàng hoá và dịch vụ cần thiết, phục vụ cho hoạt động của trung tâm. Từ đó, cho phép trung tâm chủ động trong việc quản lý các khoản chi cho hàng hoá, dịch vụ cần thiết.
- Trung tâm cũng được phép xác lập các khoản mục chi khác vào trong danh mục các khoản chi được khoán. Điều này không những cho phép trung tâm đảm bảo được các chỉ tiêu khoán mà còn làm cho hoạt động của trung tâm không bị xáo trộn khi có sự thay đổi về cơ chế.
Hai cơ sở trên đây là những điều kiện cần nhưng chưa phải là điều kiện đủ để thực hiện cơ chế khoán chi tại trung tâm. Để thực hiện được cơ chế này, trong trung tâm đã có được sự đồng tình ủng hộ của toàn bộ cán bộ công nhân viên (trong công tác sắp xếp lại biên chế lao động), xác định được ý thức của lãnh đạo trung tâm (trong việc quyết định các khoản chi nằm trong danh mục khoán, đảm bảo thực hiện nghiêm túc mức khoán cũng như các khoản mục khoán). Đây chính là cơ sở cuối cùng, hay là điều kiện đủ để thực hiện chuyển đổi sang cơ chế khoán chi tại Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình.
Chúng ta đã xem xét các cơ sở của việc chuyển đổi cơ chế quản lý chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm sang cơ chế khoán chi, và thấy rằng việc chuyển đổi này là hoàn toàn phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí trong chi Ngân sách Nhà nước; phù hợp với yêu cầu thực tế của quản lý chi ngân sách tại trung tâm nhằm giúp trung tâm quản lý hiệu quả hơn các khoản chi thường xuyên của mình.
2.2.3. Qui trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm theo cơ chế khoán chi
Sơ đồ 2: Qui trình thực hiện cơ chế khoán chi tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình:
Kho bạc
Nhà nước
Hà nội
Bộ Tài chính
(2)
(4b)
(6)
(8b)
(8a)
(7)
Đài Truyền hình Việt nam
(3b)
(8c)
(9)
(4a)
(3a)
(1)
Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình
(5)
Nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ
Cán bộ, công chức
(1): Lập phương án khoán chi Ngân sách Nhà nước, xây dựng mức kinh phí khoán cả năm ( hoặc cả kỳ), có chia theo quý , tháng gửi Đài Truyền hình Việt Nam.
(2): Đài truyền hình Việt nam xem xét, tổng hợp, trình lên Bộ Tài chính.
(3a): Bộ Tài chính phê duyệt và giao kinh phí thực hiện khoán chi Ngân sách Nhà nước cho Đài Truyền hình Việt Nam.
(3b): Bộ Tài chính thông báo cho Kho bạc Nhà nước Tp. Hà nội về mức khoán kinh phí cả năm (có chia ra từng quý, tháng).
(4a); Nhận mức giao khoán Ngân sách Nhà nước từ Đài truyền hình Việt Nam.
(4b): Đài truyền hình Việt Nam thông báo cho Kho Bạc Nhà nước Tp. Hà nội về mức khoán chi Ngân sách Nhà nước của Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình.
(5): Nhận hàng hoá dịch vụ từ nhà cung cấp.
(6): Đề nghị Kho bạc Nhà nước cho rút tiền hoặc thanh toán trực tiếp cho nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ.
(7): Rút tiền từ Kho bạc Nhà nước.
(8a): Kho Bạc Nhà nước Tp. Hà nội thanh toán trực tiếp cho nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ
(8b) Thanh toán tiền cho nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
(8c): Thanh toán cho cán bộ, công chức.
(9): Quyết toán kinh phí với Đài truyền hình Việt Nam.
2.3 Đánh giá thực trạng cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình
2.3.1 Những kết quả đạt được:
Nhìn chung, sau hai năm thực hiện thí điểm tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình, cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước đã phát huy được tác dụng hiệu quả nhất định cụ thể là:
a. Bộ máy tổ chức được sắp xếp lại và hoạt động hiệu quả hơn:
Từ những đòi hỏi của việc thực hiện cơ chế khoán chi, trung tâm đã chủ động sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy. Do đó, đã từng bước giảm các phòng, ban quản lý. Trước khi thực hiện các khoán chi Ngân sách Nhà nước trung tâm có tất cả 11 phòng ban và hiện nay đã cơ cấu lại chỉ còn 8 phòng ban ( phòng sản xuất 1, 2, 3 gộp thành một phòng duy nhất, phòng truyền hình lưu động 1,, 2 gộp thành một phòng truyền hình lưu động).
Sở dĩ trung tâm phải chủ động sắp xếp lại bộ máy tổ chức của mình là vì: khi thực hiện cơ chế khoán chi đòi hỏi trung tâm phải xác định chính xác các khoản chi nằm trong danh mục các khoản chi được khoán (bởi vì các khoản chi này sẽ được khoán một định mức chi cụ thể trong một thời kỳ dài). Đồng thời, quản lý chặt chẽ việc chi tiêu cho các khoản mục này. Vì thế, việc bố trí sắp xếp lại bộ máy tổ chức của trung tâm sẽ giúp trung tâm đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của cơ chế khoán chi.
Chúng ta thấy các phòng có cùng chức năng (như các phòng sản xuất 1,2,3; phòng truyền hình lưu động 1,2) được hợp nhất thành một phòng duy nhất, cho phép trung tâm xác định chính xác tính chất, đặc điểm của các khoản chi phục vụ cho từng chức năng công tác. Từ đó, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của việc lập các dự toán chi cũng như kiểm soát chấp hành chi đối với các khoản này.
b. Tác động tích cực đến việc thực hiện sắp xếp biên chế, số lượng viên chức:
Trong hai năm 2001-2002, số biên chế trong trung tâm đã giảm 21 người. Số giảm này chủ yếu là do những người đó đã chuyển sang đợn vị khác trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam và một số người đến tuổi nghỉ hưu.
Đây là một chuyển biến tích cực trong việc bố trí, sắp xếp biên chế lao động tại trung tâm. Chưa có khi nào công tác tinh giảm biên chế lại được thực hiện tốt như hai năm gần đây. Kết quả này đạt được ngoài tác động của chính sách đổi mới đội ngũ cán bộ của Đài truyền hình Việt Nam thì còn có cả những tác động tích cực của cơ chế khoán chi.
Trước khi thực hiện cơ chế khoán chi, quỹ tiền lương được cố định. Tức là, căn cứ vào các qui định về tiền lương và các khoản phải trả cho người lao động của các cơ quan có thẩm quyền, trung tâm xác định được quỹ tiền lương và các khoản phải trả cho người lao động của mình. Sau đó việc chi trả được tiến hành theo đúng số lượng đã xác định ban đầu. Vì thế, cho dù tăng hay giảm biên chế thì thu nhập của từng cán bộ công nhân viên cũng vẫn không đổi. Các khoản tiết kiệm do giảm biên chế không được giữ lại mà chuyển trả về Kho bạc Nhà nước (do cơ chế huỷ bỏ các hạn mức dư thừa).
Trong cơ chế khoán chi, quỹ tiền lương cũng được khoán một cách cụ thể với những căn cứ như trước. Tuy nhiên có một điểm khác là các khoản tiết kiệm do giảm biên chế hay do tiết kiệm các chi phí khác được dùng để tăng thu nhập cho các cán bộ công nhân viên hiện đang làm việc tại trung tâm (tất nhiên việc tăng này chỉ thực hiện trong thời kỳ khoán mà thôi. Khi hết thời kỳ khoán trung tâm phải căn cứ vào số biên chế hiện tại để xác định lại mức khoán chi lương của mình). Như vậy, điểm khác biệt mới này của cơ chế khoán chi đã tạo ra một động lực đẩy nhanh quá trình tinh giảm biên chế của trung tâm.
c. Tiết kiệm kinh phí do giảm biên chế và giảm chi phí hàng hoá dịch vụ
Cũng xuất phát từ động lực của việc tăng thêm thu nhập cho các cán bộ làm việc tại trung tâm, trên cơ sở kinh phí giao khoán, trung tâm đã chủ động bố trí sử dụng kinh phí một cách có hiệu quả, nhằm tiết kiệm càng nhiều thì càng có cơ hội tăng thu nhập. Tình hình tiết kiệm kinh phí (so với năm 2000) được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình một số khoản chi giai đoạn 2000 - 2002.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
1. Văn phòng phẩm
37,8
32,9
30,1
2. TT, truyền thông liên lạc
2.1. Cước phí điện thoại trong nước.
194,8
138,8
130
2.2. Cước phí điện thoại quốc tế.
34,8
34,1
6,7
2.3. Thông tin liên lạc khác
12,8
16,5
28,0
3. Công tác phí
518,1
480,2
500,9
3.1. Tiền vé tàu, máy bay
112,6
100,6
92,7
3.2. Phụ cấp lưu trú
228,0
220,0
225,1
3.3. Thuê phòng ngủ
172,3
156,1
160,1
3.4.Công tác phí khác
5,2
3,5
23,0
4. Sửa chữa thường xuyên tài sản cố định
158,2
154,1
160,5
5. Chi tiếp khách
18,9
14,0
10,8
Tổng cộng:
875,4
870,7
873,1
(Nguồn: Báo cáo chi tiết chi Ngân sách của phòng tổng hợp trung tâm sản xuất chương trình Truyền hình Việt Nam ).
Các khoản tiết kiệm này còn do việc qui định chặt chẽ hơn các hạn mức của các khoản chi được khoán. Ví dụ như việc các khoản chi cho tiếp khách giảm từ 18,9 triệu đồng (2000) xuống còn 14 triệu đồng (2001)và 10,8 triệu đồng (2002). Các khoản công tác phí cũng giảm xuống đáng kể.
Như vậy, việc thực hiện khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình đã tạo được động lực khuyến khích cán bộ công chức tích cực, chủ động sáng tạo trong công tác tổ chức sắp xếp lại biên chế. Trung tâm đã phân công lao động trong từng bộ phận hợp lý hơn, xoá bỏ tâm lý tăng biên chế khi chưa cần thiết, tinh giảm biên chế đến mức có thể được. Hạn chế những đòi hỏi phải tiếp tục tăng chi những khoản như công tác phí, chi tiếp khách, hội nghị...sử dụng kinh phí tiết kiệm và hiệu quả cao hơn, không lạm dụng, thất thoát kinh phí Ngân sách Nhà nước, thực hiện tốt pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Bên cạnh các kết quả đạt được, việc thực hiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt phân tích cụ thể những hạn chế đó.
[Thứ nhất, chênh lệch mức khoán và mức chi thực tế còn lớn, thể hiện những bất cập trong việc lập dự toán khoán chi và trong chấp hành chi tại Trung tâm]
Trong hai năm 2001-2002, các khoản chi thực tế tuy có giảm nhiều so với năm 2000. Song các khoản chi này lại lệch nhiều so với mức khoán được giao. Bảng 3 cho chúng ta thấy rõ hơn điều này:
Bảng 3: Mức chi thực tế và mức khoán của một số khoản chi được khoán tại Trung tâm giai đoạn 2001-2002.
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
Mức khoán
(1)
Chi thực tế
Tổng cộng
(4)=(2)+(3)
Chênh lệch
(5)=(1)-(4)
2001
(2)
2002
(3)
1. Chi cho con người
3.000
1.454
1.512
2.966
34
2. Văn phòng phẩm
350
200,6
168,7
369,3
-16,3
3. Tiếp khách
23
14
10,8
24,8
-1,8
4. Sữa chữa thường xuyên TSCĐ
300
154
160,5
314,5
-14,5
5.Công tác phí
995
480,2
500,9
981,1
13,9
(Nguồn: Tính toán từ báo cáo tổng hợp kinh phí đã sử dụng đề nghị quyết toán năm 2001-2002 và dự toán sử dụng vốn ngân sách nhà nước năm 2001-2002 của Trung tâm Kỹ thuật và sản xuất chương trình).
Qua bảng 3 ta nhận thấy rằng, hầu hết các khoản chi đều lệch so với mức khoán từ 4 - 7,8%, trong đó khoản chi cho tiếp khách lệch nhiều nhất (7,8%). Một số khoản chi có mức chi thực tế lớn hơn mức khoán và cũng có một số khoản chi có mức chi thực tế lại nhỏ hơn mức khoán. Điều này cho thấy Trung tâm chưa kiểm soát được các khoản chi sao cho phù hợp với định mức khoán. Đặc biệt đối với khoản chi cho công tác phí ,Trung tâm chỉ ước lượng một cách chung chung về định mức khoán .
[Thư hai, Vẫn còn hiện tượng lãng phí trong sử dụng Ngân sách Nhà nước]
Mặc dù Trung tâm đã tiết kiệm do giảm biên chế và giảm chi phí hàng hoá dịch vụ song tình hình lãng phí trong chi tiêu vẫn chưa được cải thiện nhiều. Các khoản tiết kiệm kinh phí từ việc giảm biên chế và giảm chi phí hàng hoá dịch vụ vẫn còn thấp so với khả năng hiện có của Trung tâm. Tiết kiệm kinh phí từ giảm biên chế chưa thực sự phụ thuộc vào yêu cầu chung của công việc, việc giảm biên chế chủ yếu là do nguyên nhân khách quan là các cán bộ đã đến tuổi nghỉ hưu. Ngoài ra,, Trung tâm vẫn lãng phí lao động trên một công việc cụ thể như văn thư, tạp vụ, nhân viên văn phòng, lái xe. Đối với khoản chi cho tiếp khách, vẫn còn quá cao so với thực tế của nhiều đơn vị khác trong Đài. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Tình hình chi tiếp khách tại một số đơn vị trong Đài truyền hình Việt Nam năm 2001-2002
Đơn vị: Triệu đồng.
Tên đơn vị
Chi tiếp khách
1. Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình
24,8
2. Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng
18,2
3. Ban thư ký biên tập
17,5
4. Ban biên tập đối ngoại
22
(Nguồn:Theo số liệu của ban kế hoạch tài vụ Đài Truyền hình Việt Nam)
Tại trung tâm, các phòng ban có số điện thoại cố định khá nhiều. Mỗi phòng ban có tới 5 máy và việc gọi điên thoại chưa có một cơ chế nào để kiểm soát cuộc gọi đó mang tính chất là công việc chung hay công việc phục vụ lợi ích cá nhân.
[ Thứ ba, xuất hiện hiện tượng phân bổ thu nhập bất bình đẳng giữa các bộ phận trong Ttrung tâm]
Mặc dù Trung tâm đã tăng thu nhập cho cán bộ công chức từ các khoản tiết kiệm được nhưng sự phân bổ này chưa thực sự công bằng giữa cán bộ, nhân viên trong khối quản lý và cán bộ nhân viên trong khối kỹ thuật. Sau hai năm thực hiện thí điểm cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước, thu nhập của mỗi cán bộ công chức trong khối quản lý đã tăng lên bình quân từ 120.000 đồng đến 180.000 đồng/ 1 người/ 1 tháng so với giai đoạn trước khi thực hiện khoán. Người có hệ số lương cao nhất là 5,5 (tương đương 3.971.000 đồng /tháng), người có hệ số lương thấp nhất là 1,1 (tương đương (1.540.000 đồng / 1 tháng). Nhưng đối với cán bộ nhân viên trong khối kỹ thuật, mặc dù họ vẫn phải làm chức năng quản lý điều hành trong xưởng sản xuất của mình lại vừa kiêm chức năng phụ trách kỹ thuật. Nhưng mức lương của họ sau hai năm thực hiện khoán chi NSNN tăng lên không đáng kể. Do đó chưa tạo động lực cho họ tích cực giảm chi phí sản xuất cũng như giảm chi phí quản lý hành chính.
Như vậy, trong trung tâm đang tồn tại những bất cập về việc xác định tỷ lệ tăng thu nhập cho các cán bộ công nhân viên khi sử dụng số kinh phí tiết kiệm được.
[Thứ tư, việc chuyển đổi hạn mức giữa các khoản chi còn nhiều bất cập]
Trung tâm cũng gặp khó khăn trong việc chuyển đổi hạn mức từ các khoản chi tiết kiệm được sang các khoản chi cần thiết khác. Do một thực tế là đến cuối kỳ thì trung tâm mới tổng hợp được số liệu về một khoản mục chi và cũng chỉ lúc đó trung tâm mới xác định được mình tiết kiệm bao nhiêu, chi vượt bao nhiêu. Như vậy, việc chuyển đổi hạn mức không được thực hiện liên tục, không xác định được giới hạn chi vượt và cũng không phân bổ kịp thời các khoản tiết kiệm vào việc bù đắp các khoản chi vượt.
2.3.2.2 Nguyên nhân
Những hạn chế trên đây bắt nguồn từ những nguyên nhân sau :
Thứ nhất, Trung tâm đã xác định định mức một số chỉ tiêu khoán chi Ngân sách Nhà nước chưa phù hợp và chưa chính xác: Một số chỉ tiêu khoán chi được xây dựng chưa phù hợp với đặc điểm hoạt động của Trung tâm. Điều này thể hiện trong định mức các khoản chi lương và các khoản có tính chất lương cho các cán bộ nhân viên tại Trung tâm. Theo số liệu ở bảng 3, các khoản chi thực tế cho con người trong hai năm 2001-2002 là 2.966 triệu đồng và mức khoán là 3000 triệu đồng, chênh lệch so với mức khoán là 34 triệu đồng (tương đương với 1,13%). Kinh phí giao khoán cho các khoản chi này được quy định bao gồm cả phần kinh phí tiết kiệm được là 5% (tương đương với 150 triệu đồng) tức là Đài chỉ cấp cho Trung tâm 95%so với mức khoán (tương đương với 2850 triệu đồng). Nhưng thực tế phần tiết kiệm phân bổ cho các khoản chi lương và các khoản có tính chất lương tại Trung tâm chỉ đạt 1,13% thấp hơn so với quy định là 3,87%.
Sự chưa chính xác trong việc xác định một số chỉ tiêu khoán chi NSNN cụ thể là ở nội dung khoán cho các khoản chi hàng hoá dịch vụ ở Trung tâm chưa tính đến sự biến động giá cả thị trường .Trong thời gian thực hiện khoán, giá cả của các thiết bị phát thanh truyền hình tăng lên nên Trung tâm phải chi cho các khoản này cao hơn so vói mức khoán ban đầu. Ngoài ra, đối với khoản công tác phí cho việc làm chương trình thời sự quốc tế thì khó xác định được thời gian đi công tác làm chương trình và các chi phí phát sinh thêm:tiền ăn ,tiền thuê khách sạn... Do đó, Trung tâm đã sử dụng mức chi thông thường để áp đặt vào những trường hợp đi công tác nươc ngoài không xác định được thời gian.
Thứ hai, Trung tâm chưa có cơ chế kiểm soát trong quá trình thực hiên khoán chi Ngân sách Nhà nước: Nhiều công đoạn trong quá trình thực hiện khoán chi đã bị lược bỏ, đơn giản hoặc thậm chí hình thức hoá để tránh những vướng mắc có thể mắc phải.Hầu hết các khoản chi không có sự kiểm soát chặt chẽ của Kho bạc Nhà nước và cơ quan chủ quản là Đài Truyền hình Việt Nam.Kho bạc Nhà Nước mới chỉ thực hiện được việc kiểm soát sau khi đã chi NSNN cho Trung tâm
Thứ ba, Trung tâm chưa có sự phân bổ hợp lý phần kinh phí tiết kiệm: Phần kinh phí tiết kiệm do giảm chi phí hàng hoá dịch vụ và giảm biên chế tại từng bộ phận được gộp chung lại sau đó phân bổ cho cán bộ công chức trong trung tâm dựa vào hệ số lương, cấp bậc của từng người. Do vậy ,chưa có sự khen thưởng thích đáng đối với những người làm việc vừa hiệu quả vừa tiết kiệm được chi phí trong từng bộ phận.
Thứ tư , trình độ của cán bộ trong việc thực hiện cơ chế khoán chi còn kém: Điều này có thể thấy rõ ở khâu lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước để trình lên các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mức khoán.,trong việc lập dự toán ngân sách cho từng thời kỳ trung tâm chưa chú trọng đến công tác dự báo, thống kê số liệu qua các năm để xác định một cách chính xác hơn các yếu tố trong dự toán mà tất cả mới chỉ dựa trên kinh nghiệm là chính. Đôi khi việc lập dự toán còn không được quan tâm đúng mức mà chỉ được làm một cách qua loa.
Ngoài ra một nguyên nhân phổ biến chung của nhièu các đơn vị hành chính sự nghiệp kể cả Trung tâm đó là do sử dụng NSNN lãng phí đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người nên mức tiết kiệm đạt được còn thấp so với khả năng hiện có của Trung tâm.
Chương III
Giải pháp hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Đài Truyền hình Việt Nam.
3.1. Định hướng phát triển của trung tâm.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đài Truyền hình Việt Nam nhấn mạnh và cũng là mục tiêu chiến lược của Trung tâm Trong giai đoạn 2003-2005 là:
Phấn đấu để mọi người dân trên toàn lãnh thổ Việt Nam xem được đồng thời các chương trình của Đài Truyền hình Việt đạt tiêu chuẩn quốc tế,xây dựng và thực hiện dự án”trang thiết bị hệ thống truyền dẫn tín hiệu truyền hình quốc gia qua vệ tinh với chất lượng cao”. Đặc biệt ,trong năm 2003 Trung tâm phải thiết kế và lắp đặt các thiết bị kỹ thuật cho chương trình Seagame 22 tổ chức tại Việt Nam.Từ nhiệm vụ mới đặt ra những yêu cầu mới, cần phải hoàn thiện hơn nữa về tất cả các mặt: quản lý tài chính,trình độ con người,máy móc thiết bị...Trong đó về mặt quản lý tài chính Trung tâm chú trọng đến việc rút ra những kinh nghiệm qua 2 năm thực hiện cơ chế khoán chi ngân sách nhà nước, đưa ra quan điểm :
Khoán chi phí tối thiểu đạt được mục tiêu nhất định
Khoán chi phí nhất định đạt đươc mục tiêu tối đa
3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế khoánchi Ngân sách Nhà nước
Để hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại Trung tâm cần phải giải quyết những nguyên nhân trên thông qua các giải pháp sau:
Thứ nhất,hoàn thiện hệ thống các định mức ,tiêu chuẩn cho các khoản chi được khoán: Đối với khoản chi lương và các khoản có tính chất lương Trung tâm cần phải tăng tỉ lệ phân bổ từ phần tiết kiệm được lên đến 5% cho phù hợp với mức quy định của Đài.
Các số liệu nên thống kê theo từng tháng, từng khoản chi cụ thể. Sau đó, căn cứ vào tính chất của các khoản chi cụ thể để phân loại thành các khoản mục chi (ví dụ: khoản mục chi cho công tác phí bao gồm: Tiền tàu xe, vé máy bay, tiền ăn ở...; khoản mục chi cho hoạt động hàng ngày bao gồm: chi cho văn phòng phẩm, chi cho điện, nước, điện thoại ...; khoản mục chi cho sửa chữa thường xuyên TSCĐ; khoản mục chi cho mua sắm dụng cụ công cụ làm việc và TSCĐ). Từ đó, xác định mức độ thường xuyên (tần suất xuất hiện của khoản chi trong kỳ); mức độ biến động của các khoản chi (sự thay đổi về giá trị của các khoản chi bao gồm cả thay đổi về độ lớn và thay đổi về chiều hướng là tăng hay giảm). Những khoản chi có tần suất xuất hiện nhiều đồng thời ít biến động về giá trị hoặc biến động nhưng với một lượng nhỏ và ổn định thì nên xem xét để thực hiện khoán đối với khoản chi đó.
Đối với khoản chi cho công tác phí thì trong trung tâm nên có sự tách biệt giữa các chuyến đi công tác trong nước và ngoài nước.Khuyến khích các cán bộ đi công tác trong nước nếu dưới 4 người thì nên sử dụng phương tiện vận tải có chi phí thấp như tàu hoả, còn từ 4 người trở lên thì mới tổ chức một chuyến xe.Những chuyến đi công tác nước ngoài để làm các chương trình thời sự quốc tế thì không nên đưa vào thực hiện khoán.
Như vậy, việc đo lường cụ thể như trên sẽ cho phép trung tâm xác định một cách chính xác, khoa học tình hình chi Ngân sách Nhà nước của mình trong kỳ tính toán; tạo căn cứ cho việc xây dựng một danh mục các khoản chi được khoán phù hợp với điều kiện cụ thể của trung tâm.
Trong điều kiện hiện nay khi mà các cơ quan chủ quản chưa có những qui định rõ ràng cụ thể về việc xác định các mức khoán cho một số khoản chi (ví dụ như chi cho hội nghị, tiếp khách....) thì trung tâm nên thực hiện rà soát lại các khoản chi thường xuyên của mình trong giai đoạn 5 năm (trước khi thực hiện khoán) để tự xác định cho mình một mức độ chi trung bình của các khoản mục. Trong những năm tiếp theo trung tâm sẽ tiếp tục cập nhật số liệu mới để hình thành nên căn cứ khoa học cho việc định lượng các khoản chi này. Cũng nhằm nâng cao độ chính xác của các định mức khoán được xây dựng, trung tâm cần làm tốt công tác dự báo những biến động về giá cả các hàng hoá dịch vụ trên thị trường, về khả năng cung cấp hàng hoá và dịch vụ của các nhà cung cấp. Việc làm này rất có ý nghĩa trong việc tránh cho trung tâm bị thiếu hụt hạn mức chi, đặc biệt là đối với các khoản chi như chi cho văn phòng phẩm, chi cho hội nghị, công tác phí... Tuy nhiên, để làm được điều này trong điều kiện hiện nay của trung tâm không phải là dễ, vì thế, trung tâm cần liên hệ với các cơ quan chức năng để có được những thông tin này (ví dụ như các cơ quan thống kê, quản lý thị trường hay cơ quan thuế...)
Thứ hai, Trung tâm cần phải kiểm soát việc sử dụng các loại dịch vu ,thiết bị vật tư đúng mục đích: Mỗi phòng ban nên giảm số điện thoại xuống tuỳ theo số cán bộ nhân viên trong phòng và đặc điểm của mỗi phòng. Chẳng hạn phòng kỹ thuật máy có 4 người chỉ nên có một máy đien thoại cố định vì hầu hết các hoat động giao dịch ở đây đều thông qua mạng internet.Kết hợp với viêc giảm số điện thoại ,Trung tâm có thể kiểm soát số điện thoai gọi đi thông qua hoá đơn thanh toán tiền điện thoại cho bưu điện. Đặc biệt Trung tâm nên phối hợp với KBNNHN để kiểm soát các khoản chi có nằm trong dự toán đã được duyệt không và kiểm soát tính hợp lý ,hợp lệ của các khoản chi thông qua các hoá đơn chứng từ gửi KBNNHN.
Thứ ba, trung tâm nên lập thêm quỹ khen thưởng từ phần kinh phí tiết kiệm được: Phần kinh phí tiết kệm được của từng bộ phận trong trung tâm sẽ được phân bổ một phần cho các nhân viên cuả bộ phận đó. Phần còn lại Trung tâm nên lập ra một quỹ khen thưởng nhằm khuyến khích kịp thời những cá nhân, bộ phận thực hiện tiết kiệm tốt.
Thứ tư, nâng cao trình độ của các cán bộ trong việc quản lý tài chính của trung tâm: Phần lớn số cán bộ này chỉ quen với việc thi hành các quyết định do các cơ quan chủ quản qui định chứ chưa thực sự linh hoạt, sáng tạo trong việc áp dụng cơ chế hoặc chưa có chuyên môn vững vàng trong việc lập các dự toán chi ngân sách cho trung tâm. Vì vậy, trung tâm cần có kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ quản lý tài chính của trung tâm để họ có thể thích ứng được với những đòi hỏi mới của cơ chế.
Thời gian thí điểm hai năm là một khoản thời gian chưa đủ dài để có thể thấy hết được những vướng mắc, khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện cơ chế khoán chi tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình. Vì vậy những giải pháp nêu ra ở đây chỉ có thể góp phần hoàn thiện cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm chứ chưa thể đưa ra những giải pháp để hoàn thiện đầy đủ cơ chế này. Về lâu dài trung tâm cần dựa trên những định hướng giải pháp giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện cơ chế nhằm hoàn thiện đầy đủ hơn cơ chế khoán chi tại trung tâm.
3.2.2 Các kiến nghị đối với Bộ tài chính,Đài truyền hình Việt Nam và kho bạc Nhà nước Hà Nội
- Đối với Bộ Tài chính
Hiện nay, với chủ trương thí điểm thực hiện cơ chế khoán chi, Bộ Tài chính đang cố gắng đưa ra những “thí nghiệm” để đi tới một cơ chế khoán chi hoàn hảo. Tuy nhiên những “thí nghiệm” này dường như không đạt được hiểu quả mong muốn. Lý do thì có nhiều song ở đây chúng ta thấy một lý do rất quan trọng đó là sự hợp tác không đầy đủ của các đơn vị hành chính sự nghiệp sử dụng vốn ngân sách. Sự hợp tác không đầy đủ đã không cho phép Bộ có những đánh giá chính xác về hiệu quả của cơ chế khoán chi taị các đơn vị này, đồng thời, quá trình thí điểm kéo dài mà chưa thu được kết quả nhiều. Để khắc phục tình trạng này, thì Bộ Tài chính cần ngay lập tức chấn chỉnh tư tưởng, quan điểm hợp tác của các cơ quan sử dụng ngân sách. Đồng thời tiến hành thanh tra, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện cơ chế tại các đơn vị này. Việc thanh tra kiểm tra bao gồm từ khâu lập dự toán đến khâu chấp hành và quyết toán chi Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, Bộ cũng cần chú ý đến việc thực hiện cơ chế khoán chi có quan tâm đến điều kiện thực tế của đơn vị thực hiện.
- Đối với Đài Truyền hình Việt Nam
Đài Truyền hình Việt Nam là cơ quan chủ quản của trung tâm, đồng thời là đơn vị dự toán cấp I, cấp ngay trên cấp dự toán của trung tâm. Vì thế sự gắn kết giữa Đài và trung tâm trong quản lý tài chính nói chung và trong thực hiện cơ chế khoán chi nói riêng là khá chặt chẽ. Hiện nay, công tác lập dự toán của trung tâm về danh nghĩa vẫn là do trung tâm lập và trình lên Đài tuy nhiên, thực tế thì Đài lại làm hộ trung tâm công việc này. Vì vậy để thực hiện nghiêm túc cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước tại trung tâm và tại Đài thì Đài cần yêu cầu và tôn trọng quyền tự chủ của trung tâm trong việc lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước.
Hiện nay Đài vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể về việc lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước trong cơ chế khoán chi (bao gồm những qui định về qui trình lập dự toán, mẫu biểu, căn cứ lập dự toán....) vì thế các dự toán dù có được lập cũng không thống nhất, đầy đủ và chính xác khiến cho công tác tổng hợp của Đài gặp khó khăn và nó ảnh hưởng trở lại các đơn vị trực thuộc của Đài, trong đó có Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình. Vì vậy Đài cần sớm ban hành một qui trình cụ thể trong việc lập dự toán chi Ngân sách Nhà nước trong cơ chế khoán chi của các đơn vị trực thuộc.
- Đối với Kho bạc Nhà nước Thành phố Hà Nội
Kho bạc nhà nước thành phố Hà nội có chức năng nhiệm vụ là phối hợp với trung tâm để thực hiện chấp hành chi Ngân sách Nhà nước. Trong đó, Kho bạc đảm bảo các khoản chi của trung tâm nằm trong định mức đã được Đài Truyền hình Việt Nam và Bộ Tài chính duyệt, đồng thời Kho bạc cũng đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý của các khoản chi này.
Trong cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước Kho bạc Thành phố Hà nội cần phối hợp chặt chẽ với các thành phần khác để đảm bảo cho cơ chế hoạt động hiệu quả cụ thể là: Kho bạc phối hợp với Bộ Tài chính, Đài Truyền hình Việt Nam về cung cấp thông tin về hoạt động chi ngân sách của trung tâm, về thực hiện các dự toán đã được hai cơ quan này duyệt; phối hợp với Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình trong việc chi trả các khoản chi của trung tâm một cách kịp thời, nhanh chóng, đầy đủ.
Kết luận
Cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước là một cơ chế khá mới mẻ đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp của Việt Nam nói chung và đối với Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt Nam nói riêng. Vì vậy, trong giai đoạn thực hiện thí điểm từ năm 2001 – 2002 những bất cập bộc lộ ra tại trung tâm là điều tất yếu, nhưng những bất cập này vẫn chưa phải là tất cả. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nói rằng việc chuyển đổi sang có chế này là không phù hợp. Các nghiên cứu trong Chương I đã chỉ ra rằng việc áp dụng cơ chế khoán chi Ngân sách Nhà nước là lựa chọn tốt nhất cho việc quản lý chi Ngân sách Nhà nước taị các đơn vị hành chính sự nghiệp của Việt Nam hiện nay. Còn trong Chương II chúng ta cũng đã chỉ ra những căn cứ, cơ sở và thực tế của việc thực hiện cơ chế này tại Trung tâm Kỹ thuật và Sản xuất chương trình Đài truyền hình Việt Nam. Như vậy, quá trình phân tích trong đề tài đã cho thấy tính tất yếu của việc chuyển đổi sang cơ chế khoán chi tại trung tâm.
Thời gian thí điểm hai năm không cho phép chúng ta đưa ra những giải pháp có tính chất lâu dài, vì thế, các giải pháp mà đề tài đưa ra cũng chỉ để khắc phục những bất cập đã bộc lộ trong hai năm qua. Những giải pháp này chưa đủ để hoàn thiện quá trình thực hiện cơ chế khoán chi tại trung tâm song nó là những giải pháp ban đầu, đặt cơ sở cho việc thực hiện tốt hơn và hiệu quả hơn cơ chế khoán chi tại trung tâm.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Ngân sách Nhà nước, 2003, NXB Chính trị Quốc gia.
2. Bộ Tài Chính, 2003, Hệ thống mục lục Ngân sách Nhà nước, NXB Tài chính.
3. Nguyễn Thu Huệ, 2001, Bài giảng môn Tài chính công, Khoa Ngân Hàng-Tài Chính, Trường Đại Học Kinh tế quốc dân Hà nội.
4. Ths. Phạm Thị Xuân Phương, 2000, Luận án “ Giải pháp tăng cường công tác quản lý tài chính đối với các đơn vị dự toán thuộc ngành tư pháp”.
5. Mai Thị Vân Anh, 2002, Luận văn “ Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện cơ chế khoán chi đối với các cơ quan hành chính”
6. Quyết định số 262/QĐ/TC-THVN ngày 20/4/1995 của Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt nam về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung tâm kỹ thuật sản xuất chương trình truyền hình Việt nam.
7. Quyết định số 87/2001/QĐ-TTg ngày 1/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện thí điểm khoán thu, khoán chi tài chính đối với hoạt động của Đài truyền hình Việt Nam.
8. Thông tư số 69/2001/TT-BTC ngày 24/8/2001 của Bộ Tài chính về hướng dẫn công tác quản lý tài chính trong việc thực hiện thí điểm khoán thu, khoán chi.
9. Công văn số 308/LĐTBXH-TL ngày 19/10/2001 của Bộ Lao động thương binh xã hội qui định về chế độ tiền lương thu nhập ủa Đài truyền hình Việt nam.
10. PTS. Bạch Thị Minh Huyền, 1999, “Khoán chi hành chính-một giải pháp cần sớm được triển khai thực hiện”, Tạp chí Tài chính số 7/1999, tr.14-15.
11. Ths. Dặng Văn Du,1999, “ Xác định phạm vi khoán chi hành chính sự nghiệp”, Tạp chí Tài chính số 7/1999, tr. 27-28
Mục Lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36777.doc