Chuyên đề Hoàn thiện công tác đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa tại tổng công ty thăm dò khai thác dầu khí

Hệ thống văn bản pháp lý bị ảnh hưởng của các quy chế đấu thầu quốc tế, nước ta là nước đi sau vừa mới trải qua cơ chế tập trung bao cấp nên không tránh khỏi những bở ngỡ khi tiếp cận với cơ chế mới vì thế sự học hỏi thiếu kinh nghiệm chọn lọc tạo ra quy chế đấu thầu ảnh hưởng các qui định của JBIC, ADB, WB bêm cạnh đó lại còn bị ảnh hưởng của tư tưởng, tư duy từ đội ngũ cán bộ được đào tạo trong cơ chế cũ. Tuy có thể nói hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu đã góp phần đóng góp không nhỏ vào việc tổ chức có hiệu quả hoạt động đấu thầu quốc tế ở Việt Nam. Do các chế tài xử phạt cần có của hệ thống văn bản pháp lí về đấu thầu hiện hành ở Việt Nam chưa đủ độ nghiêm ngặt nên một số đối tượng có phần ngang nhiên thực hiện các hành động sai trái của mình. Các quy định liên quan đến đầu tư nói chung còn quá rườm ra, khó hiểu, báo cáo nghiên cứu khả thi kém, việc quyết định đầu tư tràn lan cũng có ảnh hưởng đến chất lượng công tác tổ chức đấu thầu nói chung. Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lí đầu tư, xây dựng và đấu thầu đều được ban hành dưới dạng nghị định của chính phủ. Tuổi thọ bình quân của nghị định thường rất ngắn, vì thế tính ổn định không được đảm bảo. Các doanh nghiệp và các nhà đầu tư luôn mong muốn có hệ thống văn bản pháp lí tương đối ổn định tạo cơ sở cho hoạt động kinh tế của họ tránh được rủi ro có thể phát sinh từ chính sách của Nhà nước. Ngoài ra hệ thống quản lí nhà nước của ta phân ra làm nhiều bộ, các cơ quan ngang bộ quản lí về ngành, phụ trách về lĩnh vực riêng của mình. Và tất nhiên các cơ quan nhà nước được phân cấp cũng quản lí hoạt động đầu tư và thực hiện đầu tư. Mỗi cơ quan đều tham gia soạn thảo một phần quy định có tính chất phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư. Do đặc điểm mỗi cơ quan đều óc những văn bản do cơ quan mình đưa ra để tạo nên hệ thống văn bản chung, trong khi mỗi cơ quan đều muốn đưa ra chủ ý riêng của mình. Điều này gây ra tình trạng không nhất quán, thiếu sự thống nhất, gây khó khăn cho các nhà thầu và những người thực hiện theo văn bản pháp luật, không biết là nên theo chủ ý nào. Hệ thống văn bản pháp lí đáp ứng một hành lang pháp lí bảo đảm cho hoạt động đầu tư vận hành một cách có hiệu quả, cạnh tranh và công bằng, khuyến khích các nhà đầu tư tích cực tham gia dự thầu.

doc137 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa tại tổng công ty thăm dò khai thác dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách nhà thầu Hiện nay, các nhà thầu trúng thầu cung cấp các gói thầu quốc tế về mua sắm thiết bị của TCT đều rất nghiêm túc trong việc thực hiện hợp đồng ký kết và không xảy ra điều gì đáng tiếc do không đủ năng lực thực hiện hợp đồng. Để bảo đảm chắc chắn năng lực thực hiện hợp đồng của các nhà thầu trúng thầu, TCT cũng rất cần thực hiện công tác kiểm tra tư cách nhà thầu một cách cẩn trọng. Tuy nhiên, công tác kiểm tra tư cách nhà thầu của TCT vẫn chưa được coi trọng. Trong hồ sơ mời thầu TCT có đưa ra những yêu cầu về năng lực của nhà thầu về kinh nghiệm, năng lực tài chính và trong hồ sơ dự thầu của các nhà thầu phải có những văn bản để chứng minh các vấn đề này. Đối với đấu thầu rộng rãi, chủ yếu trong lĩnh vực các nhà thầu quốc tế tham gia qua các gói thầu cũng sự góp mặt thường xuyên của một số nhà thầu nước ngoài. Đối với đấu thầu hạn chế, các nhà thầu được mời tham gia là các nhà thầu đã từng cung cấp những sản phẩm tương tự, hoặc đã tham gia đấu thầu những sản phẩm tương tự ở Việt Nam. Xét về vấn đề tài chính chẳng hạn, năng lực các nhà thầu được chứng minh bằng các bảng báo cáo tài chính được cơ quan kiểm toán xác nhận. Nhưng trên thực tế cơ quan kiểm toán đó như thế nào, có đủ độ tin cậy hay không thi TCT vẫn hcuwa có biện pháp kiểm tra và tiến hành kiểm tra. Xét về năng lực kinh nghiệm, các nhà thầu phải cung cấp các loại giấy tờ để chứng minh các công trình, dự án có sử dụng các hàng hóa thiết bị tương tự mà nhà thầu đó cung cấp. Có những tài liệu nghiệm thu cho các công trình tương tự họ đã tham gia, nhưng về mức độ tin cậy của các văn bản nghiệm thu và tài liệu đó như thế nào thì TCT chưa có biện pháp để kiểm tra. Các nhà thầu đã quen biết và tin tưởng thì tình hình tài chính của họ cũng có những thay đổi qua các năm theo thời gian nên cũng cần thiết phải kiểm tra độ tin cậy. 2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại 2.3.3.1. Hạn chế về trình độ ngoại ngữ của nhân sự chấm thầu quốc tế Hạn chế trong thương thảo ký kết hợp đồng trực tiếp đầu tiên là do trình độ ngoại ngữ của các chuyên gia đấu thầu về lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, chuyên gia đàm phán ký kết hợp đồng còn hạn chế. Hầu hết các cán bộ nhất là cán bộ kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ chưa thực sự tốt, đặc biệt trong giao tiếp. Thậm chí đôi lúc khó khăn trong tổ chức công trường. Các chuyên gia phiên dịch được thuê ngoài khi nói về lĩnh vực của mình, họ rất am hiểu và rất thông thạo, nhưng có điều khi nói sang vấn đề ngoài lĩnh vực thì rất khó diễn đạt cho nhà thầu nước ngoài hiểu. 2.3.3.2. Chưa bố trí đầy đủ nhân sự có năng lực đàm phán và chưa xác định các ngưỡng có thể chấp nhận được khi đàm phán ký kết hợp đồng. Trong quá trình đám phán, thương thảo ký kết hợp đồng TCT chịu lép vế với nhà thầu chỉ định, TCT mặc dù đã bảo đảm về cơ bản nội dung trong hồ sơ chào hàng, nhưng thời gian để nhà thầu cung cấp đầy đủ hồ sơ dự thầu, thời gian thương thảo hợp đồng là quá lâu. Trong mỗi cuộc đàm phán, thương thảo hợp đồng, TCT chưa chủ động nhắc nhở, đúc thúc nhà thầu về thời gian đàm phán, tôn trọng nội dung của hồ sơ mời thầu, đồng thời chưa chuẩn bị sẵn các ngưỡng có thể chấp nhận được để làm cơ sở đàm phán và đề nghị nhà thầu theo hướng các ngưỡng mà TCT đã xác định. Hơn nữa các gói thầu đôi khi đòi hỏi sự hiểu biết sâu về nội dung thực hiện, nhưng cán bộ làm thầu vẫn chưa kịp tìm hiểu về nội dung thực hiện gói thầu do đó việc chuẩn bị còn nhiều vấn về lúng túng chưa được xử lý. Vì số lượng cán bộ có kinh nghiệm làm thầu ít nên việc cắt cử nhân viên thực hiện các gói thầu chưa được phù hợp. Nên trong đàm phán đôi khi bị các bên nhà thầu ép hoặc đưa ra các điều kiện có lợi hơn. 2.3.3.3. Chưa cập nhật được thông tin về công nghệ Với sự tiến bộ của công nghệ trên thế giới, nếu không cập nhật thông tin về công nghệ sẽ dẫn đến hiểu biết về công nghệ của các nhà chuyên môn kỹ thuật về lĩnh vực đó bị tụt hậu Do trình độ công nghệ của Việt Nam chưa cao, thiếu thông tin, trình độ tiếng anh của các cán bộ kỹ thuật không khá, vì vậy những kiến thức về công nghệ chưa có điều kiện để tiếp xúc, vì vậy việc cập nhập công nghệ tiên tiến liên quan đến hàng hóa đấu thầu của cán bộ kỹ thuật còn hạn chế và chưa theo kịp với sự tiến bộ của công nghệ tiến tiến trên thế giới. Bất cập này cũng một phần xuất phát từ cơ chế. Có nghĩa là việc mua sắm đầu tư công nghệ cho cán bộ hay cho các phòng ban phải qua rất nhiều cấp phê duyệt và ra quyết định nên sẽ dẫn đến phức tạp rườm rà. Vì thế nên sẽ làm giảm tính chủ động cập nhật công nghệ hay các phần mềm của các cán bộ công nhân viên trong Tổng Công Ty. CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA Ở PVEP. 3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUỐC TẾ MUA SẮM HÀNG HÓA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 3.1.1. Cơ hội Cùng với sự phát triển toàn diện của đất nước, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế một cách mạnh mẽ, thực hiện chiến lược phát triển toàn diện của Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam để trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh hoạt động đa ngành trong nước và quốc tế, công tác hoạt động quốc tế trong giai đoạn hiện nay cần phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, bên cạnh việc tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài ở trong nước, cần chủ động mở rộng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, nhất là chúng ta phải đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước trong khi toàn thế giới đang khát dầu lửa như một nguồn nguyên nhiên liệu chưa thể thay thế của các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là các nền kinh tế đang phát triển với nhịp độ cao như Trung Quốc, Ấn Độ. Do đó khi việt nam gia nhập WTO, các ngành kinh tế của VIệt Nam có cơ hội và điều kiện hội nhập quốc tế cao hơn, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đã xâm nhập vào nhiều thị trường, nhiều công ty VIệt Nam vươn ra thế giới, đồng thời thêm nhiều nước, nhiều công ty nước ngoài ở các lĩnh vực kinh tế khác nhau cũng đã đến Việt Nam tìm cơ hội hợp tác làm ăn nhiều hơn, dầu khí cũng không phải là ngoại lệ. Trong năm 2007, một năm sau khi VN gia nhập WTO, bên cạnh các công ty dầu khí đến VN tìm cơ hội đầu tư tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí, có thể thấy có nhiều công ty mang đến với tập đoàn dầu khí quốc gia VN các dự án rất đa dạng như trong lĩnh vực chế biến dầu khí, đóng tầu, xây cảng, dịch vụ kỹ thuật chuyên ngành hoặc không chuyên ngành dầu khí, bất động sản, điện lực, tài chính ngân hàng, bảo hiểm và các dự án đào tạo sinh viên đại học, an toàn môi trường, vui chơi giải trí và chữa bệnh. Mặt khác dầu khí là ngành kinh tế mang tính quốc tế cao. Trong bối cảnh toàn cầu hoá các nền kinh tế, Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO, tham gia và có vai trò ngày càng tích cực trong các tổ chức chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực, công tác hợp tác quốc tế của tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam tuy còn gặp không ít thách thức nhưng có nhiều thuận lợi, do đó ngày càng được tiếp tục được tăng cường, mở rộng, góp phần tich cực vào sự phát triển của tập đoàn. Không những vậy mà sự hội nhập quốc tế còn mang lại nhiều cơ hội lớn cho ngành dầu khí Việt Nam nói chung và Tập Đoàn dầu khí nói riêng. Đó là cơ hội mà chúng ta cần phải chớp lấy và lắm bắt lấy nó. Bước vào thời kì đổi mới, nền kinh tế bắt đầu mở cửa, dầu khí Việt Nam có một sức hút lơn đối với các công ty dầu khí đa quốc gia có tên tuổi đã vào Việt Nam: Shell, Mobil, Total, BP.. Điều này đã mang đến hàng loạt hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí đã được ký cho các lô trải dài từ Bắc vào Nam, các hợp đồng hợp tác quốc tế chủ yếu xoay quanh các hợp đồng dầu khí đã ký ngoại trừ một số công ty quan tâm đến nhà máy lọc dầu đầu tiên sẽ được xây dựng ở Việt Nam. Chúng ta cũng có thể tranh thủ được vốn và công nghệ của các Tập đoàn lớn này. Do vậy, trong giai đoạn này quốc hội đã thông qua luật dầu khí(6.7.1993) và thông qua luật dầu khí sửa đổi tháng 6/2000. Chính phủ cũng đã ban hành nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành luật. Luật dầu khí đã có tác dụng quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dầu khí, góp phần đẩy nhanh nhịp độ tìm kiếm thăm dò dầu khí, gia tăng trữ lượng, phát hiện ra nhiều mỏ mới, tạo tiền đề vững chắc cho việc khai thác dầu khí ổn định cho các năm sau, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thời mở ra hướng phát triển cho hàng loạt lĩnh vực công nghiệp dịch vụ. Đến thời điểm này, dầu khí Việt Nam không chỉ mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm cơ hội làm ăn ở VN, mà đã chủ động vươn ra thế giới. Mặc dù tiềm lực kinh tế, kỹ thuật còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều, cơ chế còn nhiều điều cần phải bàn nhưng Tập Đoàn dầu khí đã hoạt động một cách tích cực trong khu vực và có mặt ở nhiều điểm trên bản đồ thế giới. Ở khu vực, chúng ta đã có các hợp đồng tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Malaysia, Inđônesia, sẽ có ở Lào, Mianma, đã có thoả thuận nghiên cứu chung ba bên với trung quốc và philipines, sẽ có các thoả thuận hợp tác về khi với Inđônêsia, Thái lan. Ở châu phi, chúng ta đã có hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí ở Algeria, Madagasca, sẽ có ở Cameroon, Tunisia, Nigeria… Ở Châu Mỹ, chúng ta đã có hợp đồng thăm dò khai thác ở Cu Ba, Peru, sẽ có ở các nước khác như Venezuala, Ecuador,.. ở Trung Đông và Trung Á chúng ta đang có hợp đồng ở Iraq và chắc rằng sẽ có ở Kazaztan, Azecbaizan. Bên cạnh các hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài, hợp tác quốc tế của tập đoàn dầu khí quốc gia VN trong các lĩnh vực khác đã có các tín hiệu khả quan. Chúng ta đã có các hợp đồng kinh doanh dầu thô và sản phẩm dầu ở nước ngoài, chúng ta đã có các biên bản ghi nhở về cung ứng nhân lực, về xây dựng nhà máy điện, nhà máy đạm của Petrovietnam ở nước ngoài và mang sản phẩm về đáp ứng nhu cầu trong nước. Hơn nữa việc mở rộng và xâm nhập vào thị trường nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho cán bộ của chúng ta có điều kiện được học hỏi, trao đổi với công nghệ nước ngoài, với các chuyên gia trong ngành dầu khí. Từ đó nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ làm việc ở các hợp đồng thăm dò khai thác ở nước ngoài. Cơ hội là vậy, xong đòi hỏi chúng ta lắm bắt nó như thế nào mới là điều quan trọng. Hơn nữa để lắm bắt được cơ hội này thì đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều ban ngành chức năng, nhiều khâu, nhiều ngành sản xuất…Trước những đòi hỏi đó, thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã, đang và sẽ không ngứng tham gia sâu vào quá trình hội nhập để nâng tầm cao mới cả trong nước và thị trường thế giới. 3.1.2. Thách thức Cơ hội thì luôn đi liền với thách thức, do đó khi gia nhập vào nền kinh tế quốc tế chắc chắn chúng ta cũng gặp phải không ít những thách thức cho mình. Cụ thể những thách thức được kể đến là: Chúng ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong khi cơ sở vật chất kĩ thuật của ngành dầu khí còn ở trình độ phát triển không đồng bộ, chênh lệch nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể chúng ta hiện mới chỉ xây dựng các giàn khoan khai thác chủ yếu là ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Mà chưa có sự phát triển đồng bộ ở các khu vực phát hiện dầu mỏ trong cả nước. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành còn rất yếu, sản phẩm chất lượng chưa cao, năng suất lao động còn thấp trong khi phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh, già dặn hơn và mạnh hơn trên mọi phương diện về năng lực tài chính, trình độ công nghệ - kĩ thuật, kĩ năng quản lí. Vì sự hạn chế này mà chúng ta chưa thể tự điều hành được các dự án thăm dò khai thác dầu mỏ lớn và có quy mô. Và vẫn phải có sự liên doanh liên kết giúp đỡ của các công ty nước ngoài. Hệ thống luật pháp chính sách của chúng ta còn thiếu và chưa hoàn chỉnh đang trong quá trình vừa làm vừa sửa chữa. Thực tế chúng ta mới chỉ có luật dầu khí 6/2000 đã sửa chữa là luật chuyên ngành duy nhất. Trong khi đó quá trình tham gia đàm phán kí kết các hợp đồng dầu khí thì có nhiều vấn đề nảy sinh phức tạp mà vẫn chưa có luật riêng để áp dụng. Đó cũng là một thách thức lớn. Cán bộ của ta còn yếu về trình độ ngoại ngữ và luật pháp quốc tế. Vì thế Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc đấu thầu quốc tế các dự án thăm dò và khai thác dầu khí có quy mô vốn lớn ở cả trong nước và nước ngoài. Như vậy những thách thức gặp phải cũng không phải là nhỏ. Xong những thách thức này có thể giải quyết được nếu chúng ta có những biện pháp để khắc phục yếu điểm của ngành và phát triển ngành đúng lộ trình chiến lược quốc gia. 3.2. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA PVEP VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUỐC TẾ MUA SẮM HÀNG HÓA. 3.2.1.. Mục tiêu chiến lược của TCT đến năm 2015 Chiến lược phát triển Tổng Công Ty Thăm Dò Khai Thác Dầu khí đến năm 2015, định hướng đến năm 2025 trong Tổng thể chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đã được Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam phê duyệt và đưa vào thực hiện trên cơ sở các quan điểm và nguyên tắc: Phát huy tối đa nội lực, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp có thẩm quyền, tăng cường liên doanh liên kết để tăng tốc phát triển, đẩy mạnh và tăng tốc đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ở cả trong và ngoài nước nhằm thực hiện mục tiêu đảm bảo trữ lượng cho phát triển bền vững và gia tăng sản lượng khai thác dầu khí, tăng thu nộp cho ngân sách nhà nước, hiệu quả, kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế của Tổng Công ty và mục tiêu phát triển của Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam. Dưới đây là bảng số liệu một số chỉ tiêu về chiến lược phát triển Tổng Công ty đã đưa ra nhưng chiến lược phát triển dài hạn cho từng bộ phận cụ thể: Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực : 2007 – 2010: Phát triển lực lượng lao động có trình độ ngang bằng với các công ty dầu khí lớn trong khu vực Đông Nam Á, có khả năng tự điều hành 15 – 20 dự án thăm dò khai thác. 2011- 2015: Phát triển lực lượng lao động có trình độ ngang bằng với các công ty Dấu khí lớn ở Châu Á. Đảm bảo tự điều hành 25 – 30 dự án Thăm dò khai thác. 2016- 2025: Phát triển lực lượng lao động đạt trình độ quốc tế, có khả năng quản lý điều hành 35- 40 dự án thăm dò khai thác. Một số chỉ tiêu chiến lược chủ yếu Bảng 3.1. Tổng hợp các chỉ tiêu chủ yếu (Nguồn: Ban kế hoạch đầu tư) Bảng 3.2: Sản lượng khai thác dầu khí ( Nguồn: Ban Kế hoạch đầu tư ) 3.2.2. Định hướng về đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa đến năm 2015 của PVEP Trên cơ sở hoạt động thăm dò khai thác được mở rộng ở cả trong nước và nước ngoài, nên nhu cầu mua sắm hàng năm sẽ không ngừng tăng. Không chỉ phục vụ cho bản thân công ty, mà còn góp phần nâng cao vị thể của TCT trong hợp tác liên doanh điều hành các dự án với các tập đoàn lớn của các quốc gia khác. Vì vậy, hoạt động đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa sẽ được định hướng một số vấn đề sau: Ngày càng hoàn thiện công tác tổ chức đấu thầu theo đúng quy định của pháp luật trong nước, pháp luật đấu thầu của các tổ chức quốc tế. Duy trì mối quan hệ tốt với các nhà thầu có kinh nghiệm, các nhà thầu có khả năng cung cấp hàng hóa đảm bảo, tuy nhiên cũng vẫn phải tạo môi trường cạnh tranh, bình đẳng giưac các nhà thầu tham gia. Năng cao năng lực và kinh nghiệm của các cán bộ tham gia, việc chuẩn bị hồ sơ mời thầu, thường xuyên cập nhật kịp thời thông tin thay đổi trong luật pháp về đấu thầu. PVEP sẽ ưu tiên mua sắm tài sản phục vụ cho mục tiêu phát triển và gia tăng sản lượng. Đặc biệt là hàng hóa, tài sản ưu tiên cho giai đoạn sắp tới. Tăng cường mối quan hệ hợp tác liên minh, tạo quan hệ tốt đẹp với các tổ chức chuyên gia, tăng cường thuê tư vấn về tài chính, kỹ thuật và pháp lý. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUỐC TẾ MUA SẮM HÀNG HÓA. 3.3.1. Sử dụng ma trận SWOT để phân tích khả năng tổ chức đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa ở PVEP. Mô hình WSOT là một mô hình đánh giá tổng hợp các yếu tố cơ hội, thách thức, điểm mạnh và điểm yếu. Dựa trên đặc điểm đó mà đưa ra các tiềm năng phát triển, khả năng thực hiện các tiềm năng đó, cũng như khắc phục những điểm yếu, và cách thức đối với những thách thức trong tương lai. Cũng giống như bất kì một doanh nghiệp nào, Tổng Công ty Thăm Dò và Khai Thác nhà nước mặc dù là doanh nghiệp 100 % vốn nhà nước, xong vẫn được coi là doanh nghiệp có tính chủ động, làm ăn kinh doanh có hiệu quả, ít nhận được sự bảo trợ của nhà nước. Vì vậy trong thời gian vừa qua cũng như thời gian tới, thì cơ hội thách thức mà TCT gặp phải cũng không phải ít, trên cơ sở điểm mạnh và điểm yếu thì TCT sẽ làm gì. SWOT Cơ hội (O) 1. Xu thế phát triển tất yếu của ngành dấu khí 2. Có sự hợp tác liên kết của nhiều tập đoàn lớn 3. Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật. Thách thức (T) 1.Sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hoạt động tìm kiếm thăm dò các dự án mới 2.Thay đổi cơ chế, quy định theo đúng với tổ chức quốc tế 3.Giá cả dịch vụ, vật tư thiết bị tăng cao Điểm mạnh (S) 1.Là doanh nghiệp nhà nước có tiềm lực của Petrovietnam 2. Có chiến lược phát triển hợp lí 3. Uy tín và kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài. 4. Quy trình tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp - S1O1: sẽ là ngành mang lại lợi ích lớn cho nhà nước. - S2O2S3: sẽ chia sẻ rủi ro, kinh nghiệm trong dự án quản lý điều hành chung. - S3O3: Mở rộng hoạt động thăm dò khai thác trong phát triển mỏ. - S4O3: tạo ra sự tin tưởng cho sự tham gia của nhiều nhà thầu quốc tế có khả năng và kinh nghiệm - S1T1: Nâng cao tính tự chủ trong kinh doanh, khai thác, và làm ăn có hiệu quả. - S4T2: Hội nhập kinh tế để năng cao năng lực, từng bước thực hiện các quy định đấu thầu của các tổ chức quốc tế - S3T3: Phải đầu tư máy móc hiện đại để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả khai thác. Điểm yếu (W) 1.Năng lực cán bộ, trình độ không đồng đều 2. Tài chính gặp khó khăn 3. Khả năng cạnh tranh trong khai thác yếu. - W1O2: Có thể trao đổi học hỏi kinh nghiệm, kiến thức của các chuyên gia quốc tế. - W2O2: Tranh thủ sự đầu tư vốn, tài chính của các tập đoàn lớn. - W3O3: từng bước tăng khả năng cạnh tranh bằng việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng. - W1T1: Cần dự toán chính xác các chi phí trong kế hoạch từng gói thầu để tạo sự chủ động. - W2T3: Cần phải có sự linh hoạt trong chính sách về giá đánh giá. 3.3.2. Tăng cường hoạt động của bộ phận marketing trong việc thu thập xử lý thông tin phục vụ cho công tác đấu thầu Trong điều kiện kinh doanh hiện nay doanh nghiệp biết cách đưa ra những thông tin liên quan đến hoạt động đấu thầu là hết sức quan trọng, nó thể hiện uy tín, kinh nghiệm thậm chí tiết kiệm được chi phí trong công tác tổ chức của bên mời thầu. Chẳng thế mà người ta thường ví thông tin là “ tiền”. Việc tăng cường hoạt động tìm kiếm thông tin, nghiên cứu nhu cầu, thông tin thị trường của Ban kế hoạch đầu tư giúp công ty tìm được các dự án đầu tư, lập kế hoạch đấu thầu có hiệu quả và tìm kiếm được các nhà cung cấp tốt nhất, phân tích được sự cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Từ đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động đấu thầu của Tổng Công ty. Để thực hiện tốt công tác thu thập và xử lý thông tin Tổng công ty cần xác định rõ : Bộ phận chức năng chịu trách nhiệm thu thập và xử lý thông tin Phân loại thông tin Mục tiêu thu thập thông tin Công cụ và phương pháp thu thập và xử lý thông tin Từ đó áp dụng biện pháp hợp lý trong thu thập, xử lý và sử dụng hiệu quả thông tin, nếu có thể ở Tổng Công ty nên hình thành một phòng marketing riêng biệt để tập hợp các thông tin, xử lý thông tin sau đó có thể cung cấp thông tin và hỗ trợ cho các bộ phận tổ chức đấu thầu. Nếu làm được điều này thì việc đánh giá các nhà thầu trong mỗi một gói thầu sẽ thuận tiện và chính xác hơn rất nhiều. Đặc biệt có thể đánh giá được sự cạnh tranh về tiêu chuẩn thương mại giữa các hồ sơ dự thầu. Chính vì vậy, thành lập phòng marketing độc lập vừa có chức năng chính là thu thập xử lý thông tin, tìm kiếm thị trường vừa góp phần điều phối công việc đấu thầu trong TCT một cách hợp lý và hiệu quả. Trong việc lập kế hoạch công tác đấu thầu của TCT, thông tin cần thu thập xử lý gồm : Thông tin nhu cầu đầu tư, mua sắm để phục vụ cho các công trình, dự án từ các cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư. Thông tin này phục vụ cho việc lập kế hoạch đấu thầu trong năm của TCT. Thông tin về các gói thầu mua sắm hàng hóa ở nước ngoài. Thông tin này cho phép TCT mời các nhà thầu nước ngoài tham gia đấu thầu các gói thầu ở nước ngoài, đưa sản phẩm nước ngoài vào trong nước. Thông tin về các gói thầu mua sắm hàng hóa khác. 3.3.3. Hoàn thiện quy trình và kỹ thuật để nâng cao chất lượng hồ sơ mời thầu Hồ sơ mời thầu là đầu bài mà bên mời đưa ra cho các nhà thầu. Nó là căn cứ , cơ sở để các thí sinh chuẩn bị HST của mình để làm sao đạt được chất lượng hồ sơ tốt nhất trong quá trình tham gia đấu thầu. Việc chuẩn bị HSMT cũng là một trong những yếu tố góp phần vào sự thành công của công tác tổ chức đấu thầu. Một hồ sơ mời thầu chặt chẽ và tốt sẽ giúp cho nhà đầu tư trong quá trình lựa chọn nhà thầu dễ dàng hơn, đồng thời cũng thuận lợi hơn trong việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và nghiệm thu công trình. Vì vậy, HSMT phải được chuẩn bị kĩ, hội đủ các yếu tố cần thiết của chủ đầu tư, các luật trong nước và quốc tế. Khi bán hồ sơ mời thầu tất cả các bên đều phải tìm cách quản lí, vận dụng, quyết định và khai thác giá theo tài liệu đó, tránh sự hiểu khác nhau và áp dụng một cách khập khiễng., thiếu nhất quán. HSMT phải đạt được những yêu cầu sau: Phải giải trình cách thức đánh giá xét chọn nhà thầu đáp ứng điều kiện cơ bản và lí do loại nhà thầu đã có đơn đăng tham dự. Hố sơ thiết kế phải cỏ đủ và đảm bảo chất lượng tài liệu cần thiết để phục vụ đấu thầu cũng như thi công sau này. Các đặc trừng kĩ thuật hay là các yêu cầu kĩ thuật rất đa dạng, phức tạp, phải thật am tường dự án mới có thể thể hiện tốt phần này. Một vấn đề khó khăn nữa là việc thiếu kiến thức và thông tin để viết bộ HSMT. Một chi tiết nhỏ khác trong HSMT là yêu cầu về kinh nghiệm, năng lực nhà thầu. Việc xác định các yêu cầu này nếu không hợp lí sẽ làm giảm đi tính cạnh tranh của đấu thầu. Bởi nếu với một công việc chỉ cần có kinh nghiệm 1, 2 năm những đơn vị lập HSMT lại đưa ra yêu cầu kinh nghiệm của nhà thầu là 3, 4 năm hay nhiều hơn thì rất nhiều nhà thầu sẽ không có cơ hội tham gia, từ đó làm giảm tính cạnh tranh và hiệu quả trong đấu thầu. Hơn nữa, không phải cứ công bố đấu thầu rộng rãi là sẽ đảm bảo được sự cạnh tranh. Hình thức đấu thầu rộng rãi chỉ là điều kiện để tính cạnh tranh đấu thầu có cơ hội được thực hiện. Còn điều kiện đủ ở đây chính là các nội dung của HSMT phải có tính khoa học, chặt chẽ, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định và các bước trong quá trình đấu thầu trong mỗi giai đoạn. 3.3.4. Tìm kiếm và thuê tư vấn nước ngoài Sự thiếu thông tin, không cập nhật được những kiến thức tiến bộ về công nghệ của bên mời thầu, dẫn đến bên mời thầu không xây dựng được hồ sơ mời thầu hoàn chỉnh với hệ thống thang bảng điểm công bằng có thể đánh giá hết được những ưu việt của công nghệ chào thầu. Các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực của đối tượng đấu thầu thuộc hoặc không thuộc các tổ chức tư vấn đều từ các quốc gia có công nghệ thiết bị đấu thầu phát triển sẽ có đủ trình độ đánh giá về công nghệ của đối tượng đấu thầu kể cả thiết bị có công nghệ tiên tiến, và sẽ là một nguồn thông tin vô cùng hữu ích và bổ sung cho sự thiếu hụt thông tin của bên mời thầu. Đối với gói thầu đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa của TCT đã không thể đánh giá được hết tính ưu việt của hàng hóa chào thầu. Vì vậy TCT ngoài việc mời các chuyên gia trong nước am hiểu về các lĩnh vực chào thầu nên kết hợp mời các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài từ các nước tiên tiến mà nước đó có thiết bị công nghệ chào thầu phát triển. Việc thuê chuyên gia này không hề đơn giản, TCT cần thiết phải xác định được quốc gia nào là nơi công nghệ chào thầu phát triển, sau đó còn phải lựa chọn chuyên gia có trình độ, có đạo đức, có uy tín có thể đưa ra những ý kiến xác thực và công bằng. Đánh giá các quốc gia nơi công nghệ chào thầu phát triển là việc các chuyên gia kỹ thuật dễ dàng xác định được. Còn việc lựa chọn chuyên gia nước ngoài mới phức tạp hơn, từ nước có công nghệ phát triển, qua hệ thống tham tán của Việt Nam, hoặc thông qua các kênh thông tin khác của cá nhân, tổ chức có liên quan của TCT, phòng công nghệ thiết bị sẽ tìm kiếm một vài chuyên gia thuộc hoặc không thuộc tổ chức tư vấn. Đối với các ứng viên chuyên gia thuộc các tổ chức tư vấn nước ngoài có uy tín, am hiểu đối tượng đấu thầu, việc thẩm định tư cách và năng lực sẽ dễ dàng hơn. Sau khi tìm kiếm được một vài ứng viên phù hợp, am hiểu thiết bị đấu thầu. Phòng thiết bị xem xét thẩm định lý lịch khoa học, tư cách đạo đức, điều kiện của các chuyên gia để mời tư vấn cho tổ chuyên gia chấm thầu. Việc thuê chuyên gia nước ngoài phức tạp và sẽ tốn không ít chi phí nhưng bù lại TCT có được hồ sơ dự thầu hoàn chỉnh, có được chuyên gia tư vấn kỹ thuật giỏi, nhưng ý kiến của chuyên gian này sẽ rất có ý nghĩa và quan trọng trong khi đấu thầu quốc tế mua sắm thiết bị, công nghệ có ý nghĩa quyết định cho sự vận hành và quá trình sản xuất lâu dài và hiệu quả kinh tế cho công trình, dự án đó. 3.3.5. Tăng cường đào tạo ngoại ngữ cho đội ngũ chuyên gia chấm Đối với một tổ chức hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung, đấu thầu quốc tế nói riêng, có được một đội ngũ cán bộ có trình độ ngoại ngữ, tiếng Anh giỏi là vô cùng cần thiết. Có trình độ ngoại ngữ giỏi, đội ngũ chuyên gia chấm thầu có thể đọc, hiểu được hồ sơ dự thầu của các nhà thầu tham gia đấu thầu một cách chuẩn xác và nhanh chóng và trong các cuộc đàm phán thương thảo hợp đồng trực tiếp, chuyên gia có thể hiểu biết hết được ý nhà thầu, thậm chí tự trả lời và tự đưa ra câu hỏi, tránh được việc trao đổi thông qua phiên dịch, trao đổi được những vấn đề trọng tâm và nhanh chóng đi đến thống nhất. Bản thân các nhà thầu quốc tế tham gia đấu thầu thấy được sự chuyên nghiệp trong công tác tổ chức đấu thầu của doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao uy tín của bên mời thầu đối với nhà thầu và thu hút được nhiều hơn các nhà thầu có chất lượng tham gia dự thầu. Để có được một đội ngũ chuyên gia chấm thầu giỏi ngoại ngữ, đòi hỏi tổ chức mời thầu phải đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để nhân sự chấm thầu có thời gian, kinh phí, cơ hội cọ sát nâng cao trình độ ngoại ngữ. Đồng thời bản thân chuyên gia cũng có ý thức học tập, để đầu tư thời gian, công sức để nâng cao trình độ. Đội ngũ chuyên gia đấu thầu của TCT có trình độ tiếng Anh chưa thực sự xuất sắc, còn gặp khó khăn trong khăn đọc hồ sơ thầu, đàm phán ký kết hợp đồng trực tiếp, vì vậy, TCT rất cần tăng cường đào tạo ngoại ngữ cho đội ngũ chuyên gia đấu thầu. Thấy được tầm quan trọng của ngoại ngữ trong hoạt động của TCT, Ban Tổ chức - Nhân sự cũng đã cố gắng tạo điều kiện cho cán bộ cơ quan tổng nói chung, chuyên viên đấu thầu quốc tế nói riêng có điều kiện nâng cao trình độ ngoại ngữ. Phòng Tổ chức nhân sự có tổ chức khóa học tiếng Anh ngắn hạn, mời các chuyên gia giỏi về chuyên môn truyền đạt cho cán bộ nhân viên. Ngoài ra bản thân cán bộ đấu thầu quốc tế cũng cần tự đào tạo bản thân, thông qua tài liệu tự cập nhật, những tài liệu chuyên ngành, và khi có thắc mắc có thể hỏi trực tiếp giáo viên tại các trung tâm ngoại ngữ. Để khuyến khích nâng cao trình độ ngoại ngữ của bản thân cán bộ Tổng, phòng Tổ chức nhân sự thực hiện chính sách kiểm tra tiếng anh định kỳ hàng năm cán bộ nhân viên Tổng, nhân viên có thành tích cao sẽ có phần thưởng xứng đáng, được xét tăng lương và nếu đã đạt được số điểm nhất định theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ được miễn sát hạch. 3.3.6. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu Trong việc thực hiện các gói thầu thì trách nhiệm và vai trò của cán bộ làm thầu là rất quan trọng. TCT rất cần những cán bộ có kinh nghiệm thực tế và kĩ năng làm thầu. Để có được kinh nghiệm thực tế và nâng cao kĩ năng làm thầu thì các cán bộ này phải được cử xuống làm việc, theo dõi tại các công trình. Sau khi được cọ xát với thực tế, số cán bộ này sẽ hiểu rõ hơn về việc thi công các dự án, chất lượng và số lượng của loại vật tư được yêu cầu để từ đó lập hồ sơ mời thầu tốt hơn. Để thực hiện tốt và suôn sẻ các gói thầu TCT không những cần nhiều cán bộ chuyên môn vừa am hiểu nghiệp vụ đấu thầu. Những cán bộ này không chỉ thực hiện các gói thầu tại TCT mà còn được cử đi hỗ trợ cho các công ty thành viên, vì vậy mà việc nâng cao chất lượng của đội ngũ chuyên trách làm thầu là rất quan trọng. Để đạt được mục tiêu như vậy thì trước hết TCT phải có đầu vào cán bộ tốt. Muốn vậy cần tiến hành tổ chức thi tuyển và tuyển dụng cán bộ có trình độ. Ngoài việc tuyển dụng những cán bộ có kinh nghiệm, TCT cần tuyển thêm những cán bộ giỏi, có trình độ cao ở các trường đại học nổi tiếng. Các cán bộ này sẽ được đưa xuống các công trình để có kinh nghiệm thực tế sau đó sẽ được cử về TCT. Tại đây họ sẽ làm quen với công việc thực hiện các gói thầu kết hợp với kinh nghiệm thực tế, họ sẽ trở thành những cán bộ chuyên trách làm thầu có kinh nghiệm. Không chỉ quan tâm đến đầu vào mà TCT còn cần chú trọng đào tạo, cập nhập thông tin, bổ sung kiến thức cho cán bộ thực hiện các gói thầu. Trước hết là phải có chính sách đào tạo và phòng đào tạo phải lên kế hoạch cụ thể. Tổng Công ty có thể cử cán bộ này đi dự các lớp học bổ sung, các lớp học nâng cao về đấu thầu của Bộ hoặc của các tổ chức quốc tế môn nghiệp vụ. Ngoài ra TCT có thể phối hợp với công ty thành viên để tổ chức hội thảo, học tập chuyên đề về kinh nghiệm làm thầu cho cán bộ của mình. Tuy nhiên TCT cũng cần phải có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ có trình độ, ám hiểu đấu thầu. Trước hết là quy định về mức lương để khuyến khích những cán bộ giỏi. Sau đó là các chế độ phụ cấp, thưởng, ưu đãi. Điều này là cần thiết bởi vì để nhanh chóng đáp ứng các yêu cầu của gói thầu các cán bộ sẽ phải làm thêm giờ, làm việc cả ngày nghỉ và ngày lễ. Có như vậy mới khuyến khích, tạo sự thoải mái khi làm việc cho cán bộ. Ngoài ra đối với những cán bộ trẻ mới ra trường dự kiến bổ sung cho đội ngũ nhân viên làm thầu sau này. TCT cũng nên có chế độ ưu đãi hợp lý. Theo quy định của nhà nước thì thời gian tập sự là hai năm đối với nhân viên mới ra trường nhưng nếu cử họ xuống công tác tại công trường, thực tế tại các các công trình thì TCT có thể giảm thời gian tập sự cho họ. Ngoài ra những nhân viên có thành tích cao trong quá trình công tác cũng cần được giảm thời gian tập sự. Có như vậy mới khuyến khích được đội ngũ nhân viên trẻ tích cực đóng góp cho TCT. 3.3.7. Thực hiện đấu thầu qua mạng để cắt giảm chi phí, thời gian và tăng tính minh bạch trong đấu thầu Đấu thầu qua mạng là một trong những điểm rất mới trong luật đấu thầu 2005, là cho phép tổ chức “ đấu thầu qua mạng”. Đấu thầu qua mạng được thực hiện trực tuyến thông qua hệ thống mạng. Việc đăng tải thông báo mời thầu, phát hành hồ sơ mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, thông báo kết quả đấu thầu được thực hiện trên hệ thống mạng quốc gia do cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu xây dựng và thống nhất quản lý. Đây là một trong những giải pháp mang tính đột phá của nhà nước ta trong lĩnh vực đấu thầu. Áp dụng phương thức đấu thầu qua mạng có thể sẽ cho phép giảm thiểu thủ tục giấy tờ trong đấu thầu, tiết kiệm được chi phí và thời gian chuẩn bị hồ sơ của nhà thầu. Đấu thầu qua mạng có những ưu điểm sau: Thứ nhất, nâng cao được trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật cho đội ngũ những người tham gia chấm thầu và cho đội ngũ nhà thầu. Áp dụng phương thức đấu thầu qua mạng sẽ tiết kiệm được những chi phí thủ tục, giấy tờ, hành chính. Thứ hai, bản thân chủ đầu tư thông qua tổ chức đấu thầu qua mạng nâng cao trình độ tổ chức đấu thầu quốc tế. Xã hội càng phát triển, hội nhập càng tăng. Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO càng đòi hỏi năng lực tổ chức đấu thầu quốc tế của đội ngũ chuyên gia đấu thầu áp dụng phương thức đấu thầu qua mạng sẽ buộc đội ngũ này phải tự nâng cao năng lực của bản thân mời đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Thứ ba, đấu thầu qua mạng sẽ cho phép giảm thiểu được sự xa cách về mặt địa lý và do đó khuyến khích sự tham gia chuyên gia chấm thầu không tập trung, thì khoảng cách về mặt địa lỹ đều được khắc phục. Mặc dù đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa qua mạng có một số ưu điểm đã, đấu thầu qua mạng cũng đòi hỏi phải giải quyết một số khó khăn, và khả năng có thể xẩy ra các tiêu cực mới trong đấu thầu sau đây: Thứ nhất, hệ thống cơ sở hạ tần thông tin liên lạc, đặc biệt là hệ thống mạng thông tin cần phải được nâng cấp đảm bảo việc truyền tin an toàn, tốc độ. . Thứ hai, một số hiện tượng tiêu cực có nguy cơ phát sinh như thiếu trung thực khi nhận tin của một bộ phận cán bộ khi họ có ý tránh đối đầu cho nhà thầu họ muốn thắng thầu, hiện tượng thông đồng móc ngoặc qua việc sửa chữa, thêm bớt và xóa bỏ thông tin giao nộp. Thứ ba, trình độ đội ngũ cán bộ chưa kịp thích ứng với mô hình đấu thầu mới. Việt Nam đã ra nhập tổ chức WTO, xu hướng toàn cầu hóa, để bắt kịp với thời đại đòi hỏi TCT nói riêng, mỗi doanh nghiệp, cả bên mời thầu và bên nhà thầu tham gia phải tích cực học hỏi, sẵn sàng hội nhập với xu thế toàn cầu, học tập phương pháp đấu thầu qua mạng mới. Hiện nay, cũng như các tổ chức mời thầu trong nước, TCT chưa thực hiện công tác đấu thầu qua mạng một cách phổ biến mà mới chỉ là thử nghiệm một số gói thầu. Công tác đấu thầu sử dụng mạng thông tin mới dừng lại ở bước mời thầu, thông báo kết quả xét thầu trên hệ thống mạng thông tin quốc gia. Để sẵn sàng thực hiện phương pháp, bản thân TCT cần chuẩn bị sẵn sàng về các điều kiện vật chất, nhân sự đấu thầu. 3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ VĨ MÔ. 3.4.1. Kiến nghị với cơ quan ban ngành quản lí và ban hành về hoạt động đấu thầu. 3.4.1.1. Sửa đổi luật đấu thầu đối với ngành dầu khí Hạn mức phải đấu thầu không hợp lí (Theo Luật đấu thầu là >= 2 tỷ VNĐ với mua sắm hàng hóa, thuê dịch vụ, >=500 triệu đồng với thuê tư vấn). Kiến nghị: Nên bỏ hạn mức đấu thầu. Hình thức đấu thầu một túi hồ sơ thực sự phù hợp với các họat động Dầu khí nên cho tiến hành triển khai phổ biến và rộng khắp. Việc lựa chọn Nhà thầu với mua sắm hàng hóa, thuê dịch vụ theo phương thức đạt yêu cầu Kĩ thuật và chọn giá thấp nhất không phù hợp với các gói thầu yêu cầu Kỹ thuật cao như Wireline logging, Drilling Bit. Vì Nhà thầu nào có kỹ thuật cao, chuyên nghiệp trong việc thực hiện thì đều có giá cao. Việc lựa chọn theo tiêu chí đạt yêu cầu kỹ thuật và giá thấp nhất không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích vì khi thực hiện có thể phát sinh thêm các chi phí do việc thực hiện hoặc thiết bị của Nhà thầu làm ảnh hưởng đến dự án như: thời gian downtime, sự cố thiết bị, nhân công chưa chuyên nghiệp….. Việc không được nêu nguồn gốc, xuất sứ trong gói thầu mua sắm hàng hóa không phù hợp với đấu thầu trong dầu khí. Vì thiết bị dầu khí là các thiết bị kỹ thuật cao, ít nhà cung cấp. Trong một số trường hợp cần phải nêu rõ xuất xứ để lựa chọn được nhà sản xuất uy tín và chất lượng như: ống chống, vật tư thiết bị thay thế. Việc phải nêu tiêu chí đánh giá trong HSMT và đánh giá theo tiêu chí đã quy định trong HSMT là không phù hợp. Vì tiêu chí đánh giá nên trình cho cấp có thẩm quyền phê duyệt và để làm cơ sở đánh giá HSDT, không nêu trong hồ sơ mời thầu. Việc thuê tư vấn/chuyên gia (Qua các công ty môi giới) phải qua đấu thầu như hiện nay nên áp dụng hình thức đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Hình thức mua sắm trực tiếp (Theo Luật đấu thầu) quy định đơn giá của Hợp đồng mới không được vượt đơn giá của Hợp đồng cũ đã kí không phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay, nhất là vừa qua có sự chênh lệch về tỉ giá nên hầu như đơn giá các mặt hàng đều tăng. Tuy nhiên có thể qui định không vượt quá bao nhiêu %. Xử lí tình huống trong việc các chào thầu đều vượt giá gói thầu như hiện nay có phù hợp. Xong có thêm bổ sung thêm trường hợp: “trường hợp giá đánh giá gói thầu và vượt giá 5% tổng ngân sách thì kiến nghị cấp có thẩm quyền phê duyệt bổ sung ngân sách và phê duyệt lựa chọn nhà thầu, không áp dụng trường hợp chào giá lại sau khi phê duyệt bổ sung ngân sách” Trường hợp mua hàng hóa, phần mềm chuyên dụng (có thể có giá trị lớn) nhưng chỉ có một nhà cung cấp hoặc phân phối độc quyền thì có thể xin chỉ định thầu. Yêu cầu ghi rõ giá dự thầu trong biên bản mở thầu không phù hợp vì nếu gói thầu 2 túi hồ sơ thì không thể mở phần thương mại ra khi chưa đánh giá kỹ thuật. Trong trường hợp có sự tham gia của Nhà thầu chứng kiến thì điều này có thể dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình đánh giá thầu. Quy định “HS dự thầu có tổng giá dự thầu không cố định, chào thầu theo nhiều mức giá hoặc giá có kèm điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư” sẽ bị loại thực sự phù hợp trong điều kiện hiện nay không phù hợp vì trong quá trình đánh giá những điểm nào chưa rõ thì cần phải làm rõ. Các điều kiện này sẽ được đàm phán trước khi ký kết hợp đồng. Thông tin đấu thầu đối với đấu thầu rộng rãi không bắt buộc phải đăng tải trên tờ báo về đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu của cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu. Có thể sử dụng email như một công cụ giao dịch chính thức để trao đổi trong quá trình đấu thầu ngoài hình thức trao đổi bằng thư như hiện nay. 3.4.1.2. Nâng cao năng lực chuyên môn cán bộ trong hệ thống quản lý đấu thầu Bộ kế hoạch đầu tư cần mở các lớp tập huấn về đấu thầu tại các địa phương để phổ biến việc áp dụng các văn bản mới. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nghiệp vụ về đấu thầu cho các đơn vị mình. Cử đi học nước ngoài đối với cán bộ nghiên cứu làm luật, để họ có điều kiện học hỏi những kiến thức tiên tiến nhất của các nước phát triển, nâng cao trình độ chuyên môn, đúc rút kinh nghiệm, để hoàn thiện tốt hệ thống văn bản luật nói chung và văn bản luật nói riêng. Cần mở các lớp đào tạo nhà hoạch định chính sách để được đào tạo khoa học, bài bản, tạo nền tảng vững chắc cho hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Các cán bộ này cũng phải đến xem xét các bộ, ngành, địa phương, lắng nghe những yêu cầu, nắm bắt thực tế, rút kinh nghiệm, tìm ra các kẽ hở trong luật đấu thầu nhằm đưa ra biện pháp khắc phục kịp thời, tránh để những sai lầm nghiêm trọng xảy ra, gây hậu quả lớn, khó lường. 3.4.2. Kiến nghị với nhà nước Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của WTO Hệ thống văn bản pháp lý bị ảnh hưởng của các quy chế đấu thầu quốc tế, nước ta là nước đi sau vừa mới trải qua cơ chế tập trung bao cấp nên không tránh khỏi những bở ngỡ khi tiếp cận với cơ chế mới vì thế sự học hỏi thiếu kinh nghiệm chọn lọc tạo ra quy chế đấu thầu ảnh hưởng các qui định của JBIC, ADB, WB… bêm cạnh đó lại còn bị ảnh hưởng của tư tưởng, tư duy từ đội ngũ cán bộ được đào tạo trong cơ chế cũ. Tuy có thể nói hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu đã góp phần đóng góp không nhỏ vào việc tổ chức có hiệu quả hoạt động đấu thầu quốc tế ở Việt Nam. Do các chế tài xử phạt cần có của hệ thống văn bản pháp lí về đấu thầu hiện hành ở Việt Nam chưa đủ độ nghiêm ngặt nên một số đối tượng có phần ngang nhiên thực hiện các hành động sai trái của mình. Các quy định liên quan đến đầu tư nói chung còn quá rườm ra, khó hiểu, báo cáo nghiên cứu khả thi kém, việc quyết định đầu tư tràn lan cũng có ảnh hưởng đến chất lượng công tác tổ chức đấu thầu nói chung. Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lí đầu tư, xây dựng và đấu thầu đều được ban hành dưới dạng nghị định của chính phủ. Tuổi thọ bình quân của nghị định thường rất ngắn, vì thế tính ổn định không được đảm bảo. Các doanh nghiệp và các nhà đầu tư luôn mong muốn có hệ thống văn bản pháp lí tương đối ổn định tạo cơ sở cho hoạt động kinh tế của họ tránh được rủi ro có thể phát sinh từ chính sách của Nhà nước. Ngoài ra hệ thống quản lí nhà nước của ta phân ra làm nhiều bộ, các cơ quan ngang bộ quản lí về ngành, phụ trách về lĩnh vực riêng của mình. Và tất nhiên các cơ quan nhà nước được phân cấp cũng quản lí hoạt động đầu tư và thực hiện đầu tư. Mỗi cơ quan đều tham gia soạn thảo một phần quy định có tính chất phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư. Do đặc điểm mỗi cơ quan đều óc những văn bản do cơ quan mình đưa ra để tạo nên hệ thống văn bản chung, trong khi mỗi cơ quan đều muốn đưa ra chủ ý riêng của mình. Điều này gây ra tình trạng không nhất quán, thiếu sự thống nhất, gây khó khăn cho các nhà thầu và những người thực hiện theo văn bản pháp luật, không biết là nên theo chủ ý nào. Hệ thống văn bản pháp lí đáp ứng một hành lang pháp lí bảo đảm cho hoạt động đầu tư vận hành một cách có hiệu quả, cạnh tranh và công bằng, khuyến khích các nhà đầu tư tích cực tham gia dự thầu. 3.4.2.2. Công tác thanh tra kiểm tra Việc triển khai thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra về đấu thầu sẽ được tập trung vào một số vùng và lĩnh vực trọng điểm theo hướng Bộ kế hoạch và đầu tư alf cơ quan chủ trì với sự tham gia của các cơ quan chức năng liên quan. Theo đó, những lĩnh vực như giao thông, xây dựng…và một số địa phương được xác định sẽ là đối tượng kiểm tra, thanh tra về đấu thầu. Kiểm tra, thanh tra về đấu thầu là việc làm thường xuyên của cơ quan quản lí nhà nước. Phải chủ động thực hiện việc thanh tra nhằm ngăn chặn, ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình ngăn chặn, ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đấu thầu. Thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kiểm tra, thanh tra khi có khiếu nại. Trước mắt cần tập trung vào việc thanh tra, kiểm tra đối với các gói thầu có quy mô lớn. Vụ PM18 đã để lại nhiều bài học quý giá về công tác thanh tra, kiểm tra. Tại sao những sai phạm nghiệm trọng như vậy có thể diễn ra ở mức độ, phạm vi và khoảng thời gian lâu như vậy, bất chấp bao lần kiểm tra, giám sát của thanh tra bộ Giao Thông vận tải, Thanh tra tài chính, kiểm toán, quyết toán hàng năm….Cán bộ thanh tra còn yếu kém, không xử lý kiên quyết ngay từ lần kiểm tra đầu tiên đã dẫn đến những sai phạm lớn như vậy. Vì thế cần phải nghiêm túc kiểm điểm các cán bộ làm công tác thanh tra mắc sai phạm, kiên quyết xử lý các cán bộ thanh tra vi phạm, không hoàn thành nhiệm vụ để nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra trong thời gian tới. Giảm bớt thủ tục hành chính Vấn đề thủ tục hành chính ở của Việt Nam vẫn là vấn đề mà nhiều người bàn tán và quan tâm. Thủ tục quá rườm rà, gây khó khăn cho người dân. Và thủ tục hành chính đối với đấu thầu cũng không thoát khỏi điều này. Đặc biệt là đối với hàng hóa mua từ nước ngoài về. Đôi khi vì các thủ tục đó mà bị ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng, dự án của nhà thầu. Do đó, nhà nước nên xem xét và cần phải tạo ra một khung pháp lý rõ ràng, khách quan, tránh tình trạng nhiều khâu, nhiều thủ tục phức tạp. KẾT LUẬN Hiện nay ngành Dầu khí đang đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đó là điều không thể phủ nhận được nhất là trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa như hôm nay. Dầu khí sẽ đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nhưng việc tìm ra loại khoáng sản quý hiếm này lại không dễ. Việc nghiên cứu địa chất các tầng khoáng sản dưới lòng đất là một công việc vô cùng khó khăn và tốn rất nhiều chi phí. Trong công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí để tìm được những mỏ dầu và khí cần phải có sự đầu tư lớn. Đấu thầu mua sắm hàng hóa các trang thiết bị, công nghệ, … phục vụ cho hoạt động sản xuất, thăm dò khai thác là một hoạt động mang tính chất đầu tư của ngành. Do đó sự phát triển và mở rộng công tác đấu thầu trên phạm vi quốc tế là vô cùng quan trọng và có ý nghĩa lớn. Báo cáo đã khái quát được công tác đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa của PVEP đang từng bước phát triển mạnh mẽ. Thứ nhất, là phân tích được tính hình tổ chức, thực hiện đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa ở PVEP thời gian qua. Thứ hai, là làm rõ và phân tích được những vướng mắc về nội dung và cơ chế thực hiện đấu thầu. Thứ ba, là đề xuất được các giải pháp hoàn thiện các vướng mắc về nội dung công việc phát sinh trong công tác thầu. Còn các phát sinh về cơ chế thực hiện thì vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu. Cũng do thời gian có hạn, nên vẫn chưa đưa ra được giải pháp hoàn thiện triệt để vướng mắc đó. Thứ tư, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức đấu thầu trong thời gian tới của PVEP. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng việt : PGS.TS.Nguyễn Thị Hường (2001), Kinh doanh quốc tế - tập I, nhà xuất bản lao động xã hội, Hà Nội. Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam ( 2005), luật đấu thầu số 61/2005/QH11, Quốc hội nước cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005. Ngô Thị Bích Đào. THS. 538 ( 2002), Giải pháp hoàn thiện hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa ở Công ty Đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình VTC, Quản trị kinh doanh Đặng Sơn Nguyệt Thảo. LVTN. 45- 28 (2007), Thực trạng hoạt động tổ chức đấu thầu quốc tế các công trình ở Bộ Giao Thông Vận Tải và Giải pháp, Kinh tế đầu tư Tổng Công Ty Thăm Dò Khai thác Dầu khí, Báo cáo công tác đấu thầu năm 2005 – 2008, số 144/ Thăm Dò Khai thác – Thương Mại Đấu thầu. Hội đồng thành viên Tổng Công ty Thăm Dò khai thác Dầu khí (2008), Quy định về công tác thương mại và đấu thầu, Số 811/QĐ- TDKT- HĐTV. Ban Kế hoạch đầu tư, Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2005 – 2008 PVEP, 31/12/2007. Nguyễn Hương Chi. LVTN.45 – 07 (2007), Hoàn thiện hoạt động đấu thầu nhập khẩu vật tư Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam, Thương Mại Quốc tế. Ban Tài chính kế toán và Kiểm toán, Báo cáo tài chính năm 2005 – 2008 PEVP, 31/12/2008. Tiếng anh Tổng Công ty Thăm Dò Khai thác Dầu khí, Provision of A – Tender, PVEP – 2006 – MVHN – T04. Các kỹ sư tư vấn – ngân hàng thế giới, Tài liệu hướng dẫn đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công trình theo thể thức hiệp hội quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia/1995. PHỤ LỤC Bước thực hiện Quy trình thực hiện Đơn vị chịu trách nhiệm 1 Lập hồ sơ yêu cầu chào hàng PCT 2 Phê duyệt hồ sơ yêu cầu chào hàng GĐ 2.1 Đồng ý, tiếp tục bước 3 2.2 Không đồng ý, PCT chỉnh sửa và trình phê duyệt lại 3 Gửi yêu cầu chào hàng và nhận báo giá của nhà thầu ( ít nhất phải có 3 báo giá của 3 nhà thầu khác nhau) PCT 4 Đánh giá các báo giá và trình duyệt kết quả chào hàng PCT 5 Phê duyệt kết quả chào hàng GĐ 5.1 Đồng ý, tiếp tục bước 6 5.2 Không đồng ý, giải trình PCT 6 Đàm phán và soạn thảo hợp đồng PCT 7 Kiểm tra, xem xét dự thảo hợp đồng P.TM 8 Ký kết hợp đồng GĐ 9 Giám sát, nghiệm thu việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu PCT/ĐTSD 10 Nhận chứng từ gốc và nhập hệ thống theo dõi và kê khai hóa đơn P.TCKT 11 Chuyển cho PCT kiểm tra và xác nhận nội dung hóa đơn PCT 11.1 Không chính xác, liên hệ với nhà thầu để làm rõ, quay lại bước 10 11.2 Đồng ý, ký xác nhận 12 Kiểm tra và lập phiếu thanh toán. P.TCKT PHỤ LỤC 1: QUY TRÌNH CHÀO HÀNH CẠNH TRANH PHỤ LỤC 2: QUY TRÌNH CHỈ ĐỊNH THẦU Bước thực hiện Quy trình thực hiện Đơn vị chịu trách nhiệm 1 Chuẩn bị hồ sơ yêu cầu TĐT 2 Phê duyệt hồ sơ yêu cầu GĐ 2.1 Đồng ý, tiếp tục bước 3 2.2 Không đồng ý, TĐT chỉnh sửa và trình phê duyệt lại 3 Gửi hồ sơ yêu cầu cho nhà thầu đề xuất TĐT 4 Nhận hồ sơ đề xuất từ nhà thầu được chỉ định TĐT 5 Đánh giá thầu, làm rõ với nhà thầu về hồ sơ đề xuất và trình duyệt kết quả chỉ định thầu TĐT 6 Phê duyệt kết quả chỉ định thầu GĐ 7 Đám phán hợp đồng với nhà thầu được chỉ định TĐT 8 Chuẩn bị hợp đồng TĐT/P.TM 9 Ký kết hợp đồng GĐ 10 Giám sát và nghiệm thu việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu ĐTSD (P.DVHC/PCT) 11 Nhận chứng từ gốc và nhập hệ thống theo dõi và kê khai hóa đơn P.TCKT 12 Chuyển cho ĐTSD ( chương II)/ P.DVHC ( chương III)/PCT ( chương IV) kiểm tra và xác nhận nội dung hóa đơn ĐTSD (P.DVHC/PCT) 12.1 Không chính xác, liên hệ với nhà thầu để làm rõ, quay lại bước 11 12.2 Đồng ý, ký xác nhận 13 Kiểm tra và lập phiếu thanh toán P.TCKT PHỤ LỤC 3: QUY TRÌNH ĐẤU THẦU Bước thực hiện Quy trình thực hiện Đơn vị chịu trách nhiệm 1 Lập kế hoạch đấu thầu TĐT 2 Thông qua kế hoạch đấu thầu GĐ 3 Chuẩn bị HSMT, TCĐG TĐT 4 Giám đốc phê duyệt HSMT GĐ 4.1 Đồng ý, tiếp tục bước 5 4.2 Không đồng ý, chuyển cho TĐT chỉnh sửa phê duyệt lại 5 Phát hành HSMT TĐT 6 Nhận HSDT TĐT 7 Mở thầu, đánh giá thầu, làm rõ với nhà thầu về HSDT, và kiến nghị trao thầu TĐT 8 Phê duyệt kiến nghị trao thầu GĐ 9 Thông báo cho nhà thầu trúng thầu và nhà thầu không trúng thầu TĐT 9.1 Ký thông báo trao thầu cho nhà thầu trúng thầu GĐ 9.2 Ký thông báo nhà thầu không trúng thầu ( sau khi kí kết HĐ với nhà thầu trúng thầu và trong thời hạn hiệu lực của HSDT) Tổ trưởng TĐT 10 Đàm phán hợp đồng với nhà thầu trúng thầu TĐT 10.1 Đàm phán thành công, tiếp tục bước 11 10.2 Đàm phán không thành công, mời nhà thầu xếp hạng theo đàm phán hợp đồng, quay lại bước 10 11 Chuẩn bị hợp đồng TĐT/P.TM 12 Ký kết hợp đồng GĐ 13 Giám sát, nghiệm thu việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu ĐTSD (P.DVHC/PCT) 14 Nhận chứng từ gốc và nhập hệ thống theo dõi và kê khai hóa đơn P.TCKT 15 Chuyển cho ĐTSD ( chương II)/ P.DVHC ( chương III)/PCT ( chương IV) kiểm tra và xác nhận nội dung hóa đơn ĐTSD (P.DVHC/PCT) 15.1 Không chính xác, liên hệ với nhà thầu để làm rõ, quay lại bước 14 15.2 Đồng ý, xác nhận 16 Kiểm tra và lập phiếu thanh toán P.TCKT PHỤ LỤC 4: MUA SẮM QUA MẠNG Bước thực hiện Quy trình thực hiện Đơn vị chịu trách nhiệm 1 ĐTSD trình GĐ phê duyệt yêu cầu mua hàng ĐTSD 2 Phê duyệt yêu cầu mua hàng GĐ 2.1 Đồng ý, tiếp tục bước 3 2.2 Không đồng ý, ĐTSD chỉnh sửa và trình phê duyệt lại 3 Trực tiếp đặt hàng qua mạng ĐTSD 4 Tiến hành thanh toán bằng thẻ tín dụng ( credit card) hoặc chuyển tiền P.TCKT 5 Nhận hàng theo thời hạn quy định và chuyển hóa đơn gốc cho P.TCKT ĐTSD NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22041.doc
Tài liệu liên quan