Thời gian ba tháng thực tập tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện đã giúp em thêm nhiều hiểu biết về nghiệp vụ kế toán nói riêng, đặc biệt là nghiệp vụ hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của khâu hạch toán chi phí và giá thành trong một doanh nghiệp, em đã đi sâu vào nghiên cứu và xem xét các số liệu, sổ sách có liên quan. Em nhận thấy đây là khâu chủ chốt, chi phối mọi hoạt động của công ty và cũng là khâu có nhiều khúc mắc cần giải quyết nhất. Vì vậy, em mạnh dạn chọn làm đề tài“Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện”.
74 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó một nhân viên làm công tác thủ quỹ, đảm nhận toàn bộ về thu, chi và tiền tồn quỹ của công ty. Ngoài ra, thủ quỹ còn kiêm nhiệm công việc văn thư và lưu trữ hồ sơ, sổ sách chứng từ của phòng kế toán công ty.
b/ Hình thức kế toán:
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lí thực tế, công tác kế toán ở công ty đã áp dụng hình thức kế toán nhật kí chung và được cơ giới hoá trên máy vi tính. Theo hình thức này, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi chép ở các chứng từ gốc sẽ được phản ánh ghi thẳng vào sổ nhật kí chung theo thứ tự thời gian. Cuối mỗi ngày, kế toán ghi sổ chi tiết mở cho từng tài khoản cần theo dõi để sau đó đến cuối tháng kế toán kiểm tra và đối chiếu giữa sổ cái và sổ chi tiết.
Cuối tháng, kế toán tổng hợp sau khi đã đối chiếu xong ghi chép vào sổ cái tài khoản được lập mỗi tháng một quyển để tiện cho việc theo dõi.
Cuối mỗi kì báo cáo, kế toán trưởng cùng chỉ đạo kế toán tổng hợp căn cứ vào sổ cái và các sổ chi tiết kế toán để lập báo cáo tài chính.
III. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Xây lắp tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện:
Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất:
Do đặc điểm riêng biệt của hoạt động xây lắp quy trình sản xuất phức tạp, thời gian xây lắp sản phẩm dài, sản phẩm sản xuất ra là đơn chiếc có quy mô lớn tại một điểm. Bởi thế đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là các công trình và các hạng mục công trình. Công ty tổ chức hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Công ty sử dụng tài khoản 154 “ chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” để tập hợp chi phí sản xuất.
Sau khi xác định được đối tượng chi phí sản xuất, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Kế toán tiến hành hạch toán chi phí sản xuất theo hình thức nhật ký chung.
Căn cứ vào các chứng từ gốc đã được kiểm tra hợp lý, hợp lệ kế toán tổng hợp tiến hành ghi chép vào sổ nhật ký chung theo từng ngày. Cuối mỗi quý kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện vận dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán hàng tồn kho nên việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp của Công ty cũng theo phương pháp kê khai thường xuyên. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp sử dụng các tài khoản sau để kế toán các yếu tố chi phí phát sinh.
Tài khoản 621 “ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”
Căn cứ vào kế hoạch sản xuất của Công ty, căn cứ vào định mức tiêu hao nguyên vật liệu và kho bãi, bộ phận vật tư có nhiệm vụ mua những vật liệu cần thiết cho sản xuất. Khi hàng hoá mua về nhập kho kế toán căn cứ vào các chứng từ, hoá đơn, biên bản kiểm tra... tính thành tiền nguyên liệu, vật liệu thu mua và làm căn cứ để ghi sổ kế toán.
ở Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện, kế toán vật liệu áp dụng phương pháp sổ số dư để hạch toán chi tiết nguyên vật liệu. Đối với nguyên, vật liệu xuất dùng cho sản xuất kế toán căn cứ vào phiếu xuất kho vật tư để ghi sổ kế toán, cuối mỗi tháng kế toán tính giá thực tế và giá hạch toán. Sau khi đã tính được giá thực tế vật liệu xuất kho, kế toán tiến hành tổng hợp và phân loại chứng từ theo từng loại vật tư và dụng cụ của từng đối tượng sử dụng vật liệu để lên các tờ kê chi tiết vật liệu và công cụ cho từng đối tượng.
Công ty dùng phương pháp tính theo đơn giá bình quân thực tế để kế toán nhập xuất vật liệu.
Đơn giá Giá thực tế vật + Đơn giá mua thực tế của
mua liệu tồn kho đầu kỳ vật liệu nhập trong kỳ
bình =
quân Số lượng vật liệu + Số lượng vật liệu nhập
tồn đầu kỳ kho tron kỳ
Đơn giá thực tế Số lượng vật Đơn giá
của vật liệu dụng = liệu xuất dùng x mua bình
cụ xuất trong kỳ trong kỳ quân
VD: Theo phiếu xuất kho số 75 ngày 16/10/2002 Công ty xuất kho đá hộc , đá0,5.
Sau khi kế toán xuất kho vật tư và dụng cụ của từng đối tượng sử dụng vật liệu phải lên các tờ kê chi tiết vật liệu và công cụ cho từng đối tượng ( xem biểu số 2).
VD: Xuất vật tư, dụng cụ tháng 10 năm 2002 cho công trình Cảng Đình Vũ Hải Phòng trị giá 12.675.000 đồng kế toán ghi:
Nợ TK621 12.675.000 đ
Có TK152 12.675.000 đ
Kế toán căn cứ vào Tờ kê chi tiết xuất vật tư của từng công trình lên bảng phân bổ xuất vật tư cho từng công trình (xem biểu số 3)
Từ bảng phân bổ vật liệu, công cụ, dụng cụ đến cuối mỗi tháng kế toán tổng hợp căn cứ vào để lên sổ nhật ký chung.(Biểu số 9)
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất căn cứ vào số liệu tổng cộng thể hiện trên sổ nhật ký chung của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ trực tiếp xuất dùng cho từng công trình kế toán định khoản như sau: Nợ TK 621:
Có TK 152:
Cuối tháng toàn bộ nguyên vật liệu đã tập hợp được kết chuyển ghi:
Nợ TK154: 1 564 595 358
Có TK621:1 564 595 358
Từ nhật ký chung của nguyên vật liệu đến cuối quý kế toán kết chuyển vào sổ cái tài khoản 621.
Đồng thời các số liệu này được phản ánh vào các sổ chi tiết chi phí của từng công trình. Chi phí vật liệu và công cụ của công trình nào thì đựơc hạch toán vào công trình đó.
Như đã phân tích ở phần trên, mặc dù Công ty đã có riêng một bộ phận theo dõi hạch toán nguyên vật liệu nhưng chưa xây dựng được hệ thống biểu báo quản lý vật liệu một cách chặt chẽ.Toàn bộ chứng từ nhập xuất vật tư đến cuối tháng hoặc cuối mỗi quý mới được chuyển cho kế toán tổng hợp để ghi nhật ký chung, làm giảm tác dụng của việc cập nhật chứng từ.
3. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp ở công ty lắp máy và thí nghệm cơ điện bao gồm 2 hình thức tiền lương:
Lương thời gian áp dụng cho bộ phận gián tiếp.
Khoán theo sản phẩm: áp dụng cho bộ phận trực tiếp sản xuất
Chi phí nhân công trực tiếp là khoản tiền lương phải thanh toán cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ bao gồm tiền lương chính, tiền lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ.
Do hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp thực hiện theo cơ chế thị trường nên khi nhận được các hợp đồng sản xuất thì công ty xem xét tình hình và nhu cầu cụ thể của từng đội công trình mà tuyển dụng thêm công nhân theo hợp đồng lao động trong thời gian ngắn hạn là 3 tháng, 6 tháng...
Tương ứng với khoảng thời gian thi công của từng tổ đội công trình, vì vậy lực lượng này mang tính thời vụ nên giữa các năm có nhiều biến động.
Do các đặc điểm trên nên công ty áp dụng cơ chế quản lý lao động lỏng, tức là giao quyền quản lý ngày công, kết quả lao động của từng người cho từng tổ đội công trình quản. Đội trưởng đội công trình có trách nhiệm điều động bố trí lao động thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, vì vậy quyền hạn của đội trưởng công trình khá cao.
Còn bộ phận kế toán tiền lương và tổ chức cán bộ công ty có nhiệm vụ tuyển dụng công nhân, lập bảng thanh toán lương chung cho các đội công trình và thực hiện một số quy định về lao động tiền lương như xây dựng đơn giá tiền lương khoán cho đội công trình, xử lý các vi phạm lao động nghiêm trọng thuyên chuyển điều động công tác.
Đối với các công trình, Công ty căn cứ vào biểu xác nhận khối lượng xây lắp hoàn thành theo giai đoạn quy ước để tính tổng số lương cho đội công trình.
Tổng số Hệ số khoán của tổ đội
lương = Khối x Đơn x công trình hoàn thành
khoán lượng giá của công ty.
Cán bộ và nhân viên ở phòng ban được trả lương theo thời gian và theo cấp bậc, bằng công thức:
Mức lương thời Tổng số ngày Các khoản phụ
Lương tháng = gian ngày x làm việc thực tế + cấp kèm theo
Tổng số BHXH = 17% x Lương chính
BHYT (NĐ26CP)
KPCĐ được trích = 2% x Tiền lương thực tế.
Cuối tháng, kế toán lương căn cứ vào bảng chấm công thời gian của các phòng ban và bảng khoán của công trình để tính lương, cụ thể cho từng bộ phận, từng cán bộ công nhân viên từ đó lên bảng phân bổ lương và bảo hiểm xã hội.
Hàng tháng, phụ trách đội theo dõi thời gian, xếp loại lao động cho từng nhân viên trên bảng chấm công (xem Bảng 5)
Việc tính toán lương chính, các khoản phụ cấp, BHXH, bảo hiểm lao động, cho nhân viên quản lý đội do phòng kế toán thực hiện căn cứ vào bảng chấm công ở các bộ phận gửi lên, căn cứ vào chế độ chính sách hiện hành của Nhà nước về tiền lương. Thu nhập của cán bộ nhân viên quản lý đội cũng như của nhân viên quản lý xí nghiệp bao gồm:
Lương sản xuất ra sản phẩm, lương chế độ thời gian
Lương phụ ( nghỉ lễ, phép hội họp )
Phụ cấp lương ( phụ cấp trách nhiệm, làm ca ba, độc hại...)
Căn cứ để tính toán:
Ngày công làm việc, mức độ hoàn thành công việc
Chức vụ đảm nhiệm, trình độ chuyên môn
Mức phụ cấp chuẩn trong kỳ
Việc tính lương cho nhân viên quản lý đội được thể hiện trên bảng thanh toán lương cho bộ phận quản lý cho từng công tình (xem biểu 6).
Từ bảng thanh toán lương của các công trình, đến cuối mỗi quý kế toán lập bảng phân bổ lương, BHXH, KPCĐ cho các công trình đó (xem biểu7 - Xem trang bên)
Cuối kỳ kế toán trực tiếp phân bổ chi phí nhân công trực tiếp hoặc chuyển cho các đối tượng chịu chi phí ghi:
Nợ TK154 :2 713 101 425 đ
Có TK622 :2 713 101 425 đ
Kế toán vào sổ nhật ký chung đồng thời vào sổ chi tiết cho từng công trình
Từ bảng phân bổ lương chi phí nhân công trực tiếp vào nhật ký chung cuối quý kế toán ghi vào sổ cái ( Xem biểu 8)
Dựa vào các số liệu trên bảng phân bổ tiền lương và BHXH, kế toán định khoản tiền lương phải trả công nhân trực tiếp sản xuất đưa vào chi phí nhân công trực tiếp như sau:
Nợ TK622: 256 725 585 đ
Có TK334: 256 725 585 đ
Cuối quý, kết quả chi phí nhân công trực tiếp ghi:
Nợ TK154: 256 725 585 đ
Có TK622: 256 725 585 đ
Việc hạch toán chi phí nhân công của công ty so với lý thuyết là tương đối đúng nhưng do công ty xác định kỳ tính giá thành là một quý, nên chi phí nhân công trực tiếp 3 tháng mới phân bổ một lần vào giá thành. Điều này công ty cần xem xét cụ thể và tiếp tục hoàn thiện.
3.Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công:
Máy móc dùng cho thi công là một phần tàI sản của công ty. Để tạo chủ động cho các công trình, công ty giao tàI sản, máy móc cho các đội.
Trong một tháng, máy móc của đội có thể phục vụ nhiều công trình. Vì vậy, để hạch toán và xác định chi phí sử dụng máy cho các đối tượng, công ty sử dụng “sổ theo dõi hoạt động” của máy móc thi công.
Với những máy móc cần cho thi công nhưng ở Công ty không có hoặc không đủ, Công ty sẽ thuê ngoài. Toàn bộ số tiền thuê máy móc không phản ánh vào chi phí sử dụng máy thi công TK 623 mà phản ánh vào dịch vụ mua ngoàI phục vụ sản xuất TK 627. Cuối tháng, hợp đồng thuê máy và phiếu theo dõi hoạt động của máy được kế toán đội tập hợp, gửi lên phòng kế toán tàI vụ của công ty.
Kế toán chi phí sẽ tiến hành lập bảng phân bổ chi phí thuê máy móc cho các công trình. Khi xác định được chi phí thuê máy cho tổng công trình, kế toán ghi bút toán xác định chi phí máy vào chứng từ ghi sổ, sau đó vào sổ chi tiết,sổ cáI TK 627, ghi bút toán kết chuyển sang TK154.
Tất cả các chi phí phát sinh từ máy thi công thuộc sở hữu của Công ty được hạch toán như sau:
- Đối với chi phí chạy máy thi công khi có nhu cầu các đội tự lo mua nhiên liệu bằng tiền tạm ứng. Sau đó, hạch toán theo nguyên tắc chi phí phát sinh tại công trình nào, máy móc nào thì hạch toán cho công trình, máy móc đó.
- Đối với chi phí khấu hao máy thi công và trích trước máy thi công, việc tính khấu hao máy thi công là:
Đầu tháng, căn cứ vào bảng tính khấu hao, công ty lập cho mọi tàI sản cố định đã đăng ký với Cục quản lý vốn và tàI sản,kế toán tàI sản cố định thông báo số khấu hao và trích trước sửa chữa máy thi công cho từng loại máy móc cho từng đội.
- Công ty không tính chi phí khấu hao riêng cho từng công trình mà tính chung chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho sản xuất (đưa vào tài khoản 623) và chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho quản lý trên toàn doanh nghiệp.
_ Kế toán căn cứ váo số TSCĐ và số khấu hao TSCĐ được tính ra khấu hao TSCĐ cho bộ phận quản lý và trực tiếp sản xuất theo tỷ lệ khấu hao cơ bản và sửa chữa lớn tscđ mà nhà nước quy định.
Biểu số 9. Tờ kê trích khấu hao TSCĐ
Quý IV năm 2002
ĐV: 1.000đ
TT
Nội dung
Số tiền
1
Số khấu hao đã trích tháng trước
2
Số khấu hao TSCĐ tăng trong tháng
3
Số khấu hao TSCĐ giảm trong tháng
4
Tổng giá trị tscđ phải trích kh tháng này
3 603 731 769
5
Số khấu hao phải trích tháng này
225 553 069
Từ bảng trên kế toán ghi
Ghi tăng nguồn vốn khấu hao
Nợ TK 009: 225 553 069 đ
Số liệu ở bảng tổng hợp chi phí máy thi công, các chứng từ gốc có liên quan, kế toán Công ty tập hợp là cơ sở để lập bảng khấu hao và trích trước máy thi công trong tháng cho tất cả các công trình và chứng từ ghi sổ, sổ chi tiết, sổ cáI TK623, ghi bút toán kết chuyển sang TK154 để tính giá thành.
Hạch toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung trong Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện bao gồm những nội dung sau:
Những chi phí quản , chi phí sản xuất ngoài 2 khoản như vật liệu trực tiếp và nhân công trực tiếp còn có những khoản chi phí như nhân viên phân xưởng, đội sản xuất, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ của từng phân xưởng, đội sản xuất, chi phí khấu hao TS CĐ.
Chi phí sản xuất chung phải được tập hợp theo từng dịa điểm phát sinh chi phí.
a. Chi phí nhân viên phân xưởng:
Bao gồm chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ của cong nhân trực tiếp sản xuất, tiền tàu xe cho các cán bộ của đội.
Dựa vào bảng phân bổ tiền lương và BHXH kế toán định khoản chi phí về tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của bộ phận trực tiếp sản xuất như sau:
Trích 15% BHXH cho bộ phận sản xuất
Nợ TK6271: 17 214 215đ
Có TK3383: 17 214 215 đ
Trích 2% KPCĐ
Nợ TK 6271: 2 094 245đ
Có TK3382: 2 094 245 đ
Trích 2% BHYT
Nợ TK6271: 2 151 640 đ
Có TK3384: 2 151 640 đ
Tiền công tác phí, tiền xe đi công tác của cán bộ trong đội
Nợ TK6271: 1 732 142 đ
Có TK111: 1 732 142 đ
b. Chi phí vật liệu:
Bao gồm những chi phí về vật liệu phụ xuất dùng cho sản xuất.
Chi phí vật liệu dùng chung cho bộ phận trực tiếp thì căn cứ vào tờ kê chi tiết vật tư kế toán ghi:
Nợ TK6272: 1 273 000 đ
Có TK152: 1 273 000 đ
Chi phí dụng cụ xuất dùng cho các đội sản xuất ghi:
Nợ TK6273: 1 156 000 đ
Có TK153: 1 156 000đ
Đối với công cụ, dụng cụ phân bổ nhiều lần, căn cứ vào số tiền tính toán phân bổ công cụ, dụng cụ theo kế hoạch trong kỳ cho chi phí sản xuất để ghi
Nợ TK627 3: 2 435 000 đ
Có TK142: 2 435 000 đ
c. Chi phí khấu hao tài sản cố định:
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, việc tăng cường trang thiết bị kỹ thuật, máy móc thiết bị sử dụng trong thi công công trình, tra lắp sẽ giúp cho xí nghiệp giảm được phần lớn số lao động trực tiếp, tăng năng suất lao động, đẩy nhanh tiến độ thi công công, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng công trình.
d. Chi phí dịch vụ mua ngoài:
Như đã trình bày ở trên do số lượng máy móc thiết bị dụng cho thi công của công ty không đủ phục vụ cho nhu cầu về máy móc thiết thi công trên các công trình. Để đáp ứng nhu cầu cẩn thiết này, công ty phải đi thuê máy móc thiết bị, trong trường hợp chi phí tính hợp đồng thuê máy thi công sẽ được thanh toán vào tài khoản 6277 “Chi phí dịch vụ mua ngoài”.
VD: Trong tháng 10 năm 2002 công trình khách sạn SLiên có thêm một máy vận hành máy móc phục vụ cho nhu cầu thi công với số tiền trả theo hợp đồng máy là7 864 000đ.
Sau khi thanh lý hợp đồng và thanh toán cho bên kế toán ghi vào sổ nợ khoản chung theo định khoản
Nợ TK 6277: 7 864 000 đ
Có TK141:7 864 000 đ
Ngoài ra, các chi phí khác như chi phí tiền điện, nước phục phụ cho thi công công trình, chi phí vận chuyển vật liệu mua về công trình... đều được tập kế toán tập hợp vào loại chi phí này và vào sổ nhật ký chung theo định khoản
Nợ TK 6277(Chi phí dịch vụ mua ngoài ).
Có TK111, 112, 331...
e. Chi phí bằng tiền khác:
Chi phí này bao gồm các chi phí khác ngoài các chi phí nêu trên, phát sinh trực tiếp đến các công trình như chi phí giao dịch, tiếp khách, phô tô tài liệu... Chi phí phát sinh thuộc công trình nào thì được hạch toán trực tiếp cho công trình đó. Đồng thời, số liệu cũng được phản ánh trên nhật ký chung theo định khoản.
Nợ TK 6278 (Chi phí khác bằng tiền)
Có TK liên quan (111, 112)
VD: Ngày 30/10 phiếu chi số 06 hanh toán chi phí chung cho đội công trình khách sạn SLiên
Nợ TK 6278: 7.864.000 đ
Có TK141: 7.864.000 đ
Cuối tháng toàn bộ chi phí sản xuất chung đã tập hợp được kết chuyển ghi:
Nợ TK 154: 1.603.398.970 nđ
Có TK 627: 1.603.398.970 nđ
Đồng thời kế toán cũng mở sổ chi tiết của TK 627 cho từng công trình để kết chuyển vào chi tiết của TK154
Căn cứ vào Nhật ký chung, đến cuối quý kế toán tổng hợp số liệu vào sổ cái TK 627.
5. Tập hợp chi phí sản xuất của toàn công ty:
Chi phi sản xuất sau khi tập hợp riêng cho từng khoản mục, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung cần được kết chuyển để tập hợp chi phí sản xuất của toàn doanh nghiệp và chi phí chi tiết kết chuyển theo từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Và ở đây Công ty có thể mở chi tiết theo từng đối tượng.
Từ các sổ chi tiết chi phí công trình kế toán tiến hành tổng hợp chi phí sản xuất trong quý theo từng yếu tố chi phí để làm cơ sở cho việc lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất trong quý.
Đồng thời, cuối mỗi quý, từ các nghiệp vụ kinh tế đã được ghi chuyển từ sổ Nhật ký chung vào các sổ cái TK 621, 622, 627 kế toán tính toán tổng hợp chi phí toàn công ty, kết chuyển sang nợ TK632 để tính giá thành thực tế toàn bộ các công trình mà công ty thực hiện trong kỳ. Kế toán ghi:
Nợ TK632
Có TK 154
Biểu 10. Bảng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm quý.
(Xem trang bên)
6.Phương pháp tính giá thành sản phẩm làm dở:
Do đặc điểm của công trình xây lắp là khối lượng giá trị lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công dài, đồng thời phù hợp với yêu cầu quản lý, phù hợp với kỳ hạch toán nên kỳ tính giá thành của công ty được xác định là hàng quý vào thời điểm cuối quý.
Do công ty thực hiện chế độ tiền lương (chỉ khi công trình hoàn thành ban giao mới quyết toán nên những hạng mục công trình dở dang đều ở dưới dang nguyên vật liệu bởi chi phí chung của công trình phân bổ theo tiền lương thực tế của công nhân sản xuất. Để đánh giá sản phẩm làm dở kế toán giá thành căm cứ vào kiểm kê vật tư công trình tập hợp phần giá trị dở dang của từng hạng mục công trình.
7. Tính giá thành của công ty xây lắp, lắp máy:
Như đã trình bày kỳ tính giá thành của công ty được xác định là hàng quý.
Công ty dùng tài khoản 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” để tổng hợp chi phí và tính giá thành các công trình. Cuối quý, kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp vào bên nợ Tk 154 đồng thời khoá sổ tài khoản 627, chi phí sản xuất chung vào bên nợ TK, chi phí sản xuất chung được phân bổ theo tiền lương thực tế của cán bộ công nhân sản xuất (Xem sơ dồ hạch toán chi phí sản xuất )
Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại công ty.
TK 111,152,334,338 TK621, 622,627 TK154 TK632
CPNVL, NC trực tiếp Xuất bán
SX chung
TK214 TK623
K/C chi phí
MTC
Đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành sản phẩm quý IV năm 2002 tại công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện.
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành căn cứ vào đặc điểm sản xuất của công ty để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện do có đặc thù sản xuất riêng của ngành xây dựng và những điều kiện cụ thể của công ty cùng với những yêu cầu của công tác quản lý, công tác hạch toán... Đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành của công ty là các công trình xây lắp, lắp máy, thí nghiệm và siêu âm.
Phương pháp tính giá thành: dựa vào chi phí tập hợp được trong kỳ và chi phí sản xuất đầu kỳ, cuối kỳ đánh giá được nên tính giá thành như sau:
Tổng giá thành Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất
thực tế của công = dở dang đầu + phát sinh trong - dở dang cuối kỳ
trình đầu kỳ
Căn cứ, vào đặc điểm tổ chức của công ty và điều kiện hiện tại trong kỳ, tính giá thành sản phẩm được xác định vào thời điểm cuối mỗi quý.
Việc tính giá thành cho từng công trình, hạng mục công trình được thể hiện trên “bảng tính giá thành sản phẩm ”.(xem bảng 11)
Căn cứ vào bảng tính giá thành và bảng tổng hợp trong quý, kế toán lập bảng báo cáo “ chi phí sản xuất và giá thành xây lắp” của quý.
Các định mức, đơn giá, dự toán do nhà nước quy định và của nội bộ công ty lập cho từng công trình, hạng mục công trình cụ thể đều được phân tích thành các khoản mục chi phí, để đáp ứng nhu cầu phân tích, quản lý chi phí sản xuất, giá thành được thuận tiện và chính xác. Phần “chi phí sản xuất trong kỳ” trên biểu này được phản ánh theo các khoản mục chi phí: Vật liệu, nhân công, chi phí chung, chi phí máy thi công.
Trong khi đó chi phí thực tế phát sinh trong kỳ của công ty lại được tập hợp cho từng công trình, các hạng mục công trình theo các yếu tố chi phí.
Nội dung: Kết cấu của các loại chi phí theo 2 cách phân loại trên lại không thống nhất với nhau. Do đó để có số liệu hợp lý ghi vào biểu “Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm” ngoài việc căn cứ vào bảng tính giá thành, bảng tổng hợp, chi phí sản xuất kế toán còn phải căn cứ vào sổ chi phí của từng công tình trong quý đó.
Đây cũng chính là vướng mắc cần giải quyết của công tác hạch toán chi phí và tính giá thành tại công ty.
Phần III
Những nhận xét và một số ý kiến về công tác quản lí và hạch toán nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm Xây lắp tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện.
I./ Nhận xét chung về công tác quản lí và hạch toán chi phí sản xuất
Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, trực thuộc Bộ xây dựng. Từ ngày thành lập đến nay, Công ty không ngừng lớn mạnh, đạt nhiều thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lí trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Sự vươn lên và trưởng thành của công ty cho thấy sự cố gắng vượt bậc của Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Nó trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy quá trình phát triển công ty. Việc vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế thị trường đồng thời thực hiện chủ trương cải tiến quản lí kinh tế và các chính sách kinh tế của nhà nước, đã giúp công ty đạt được những thành tựu đáng kể, hoàn thành nghĩa vụ đóng góp với NSNN, Bộ xây dựng, không ngừng nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Qua thời gian thực tập tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện, với đề tài: “Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty”, em xin có một số nhận xét cụ thể sau đây:
Việc vận dụngsáng tạo, có hiệu quả các quy luật kinh tế thi trường, đồng thời thực hiện chủ trương cải tiến quản lý kinh tế và các chính sách kinh tế của Nhà nước, Công ty đã tạo được thứ vững chắc trên thị trường. Đồng thời, Công ty đã đạt được kết quả kinh doanh tốt, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, không ngừng nâng cao cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên trong Công ty
Công ty đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, Công ty đã ra sức tăng cường công tác quản lí kinh tế xí nghiệp, mà trước hết là quản lí chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Công tác quản lí ở công ty được chia làm 4 phòng ban, tích cực tham mưu cho ban giám đốc trong việc điều hành hoạt động sản xuất ở công ty ngày càng có hiệu quả, quy mô sản xuất ngày càng mở rộng.
Bộ máy quản lí ở Công ty với những cán bộ có trình độ chuyên môn được đào tạo tốt, có nhiều năm kinh nghiệm, là lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp phát triển của toàn Công ty nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung.
Chính nhờ vào đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực, trình độ và sáng kiến mà trong 17 năm qua, kể từ ngày thành lập, công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra.
Mặt khác, phòng kế toán của công ty đã bước đầu xây dựng được hệ thống sổ sách kế toán, cách thức ghi chép, phương thức hạch toán theo chế độ kế toán mới, dần kiện toàn bộ máy kế toán quản trị, kế toán tài chính để giảm bớt công việc ghi sổ kế toán, đáp ứng thông tin hữu dụng đối với từng yêu cầu quản lí của công ty và các ngành các cấp, cụ thể là:
Việc lập các sổ chi tiết đã tạo điều kiện thuận lợi cho kế toán trưởng cùng lãnh đạo Công ty trong việc phân tích hoạt động kinh tế. Công tác này được tiến hành thường xuyên đã đưa ra những quyết định kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh của toàn Công ty.
Về công tác tập hợp chi phí sản xuất và giá thành, kế toán Công ty đã hạch toán chi phí sản xuất cho từng công trình, hạng mục công trình trong từng tháng, từng quý, một cách rõ ràng, đơn giản, phục vụ tốt cho yêu cầu quản lí chi phí sản xuất, quản lí và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Giá thành sản phẩm của Công ty chỉ bao gồm những chi phí trực tiếp, phù hợp với yêu cầu hạch toán của chế độ kế toán mới, đòi hỏi Công ty phải cải tiến bộ máy quản lý gọn nhẹ, giảm bớt chi phí quản lý doanh nghiệp, làm tăng lợi nhuận. Một đặc điểm nổi bật của Công ty là giao khoán xuống các tổ đội công trình. Hình thức này được tổ chức phù hợp với đặc điểm và tình hình sản xuất của Công ty, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và tăng cường quản lý.
Trong quá trình hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh, kế toán tập hợp cho từng đối tượng chịu chi phí là các công trình, hạng mục cong trình theo các khoản mục chi phí và cơ cấu giá thành cũng bao gồm các khoản mục chi phí. Do có sự thống nhất này mà việc tính giá thành sản phẩm đảm bảo được tính chính xác đầy đủ. Hơn nữa, việc phân loại chi phí theo công dụng của chi phí, giúp doanh nghiệp phân tích việc sử dụng chi phí hợp lý, phù hợp với yêu cầu quản lý của Công ty nhằm hạ giá thành sản phẩm. Nó còn là cơ sở để lập kế hoạch tính giá thành và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch, đôn đốc việc thực hiện các định mức và dự toán chi phí.
Về việc sử dụng máy vi tính trong công tác kế toán nói chung và tập hợp chi phí giá thành nói riêng cũng góp phần không nhỏ giảm được các chi phí không cần thiết, nâng cao hiệu quả của công tác kế toán.
- Đã lập được chương trình kế toán trên máy tính theo hình thứckế toán nhật kí chung.
- Đã đưa toàn bộ phần kế toán tài chính vào máy vi tính.
- Công tác kế toán của Công ty đã thể hiện được một phần công việc của kế toán quản trị bằng cách lập các sổ chi tiết, theo dõi chi tiết.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên, công ty vẫn còn một số tồn tại nhất định:
- Đối với chi phí NVL trực tiếp
Khoản mục này theo dõi chưa được rõ ràng, có những công trình mà việc xuất nguyên vật liệu dựa trên dự toán công trình do phòng kế toán lập ra. Việc xuất nguyên liệu theo dự toán, đến cuối công trình không quyết toán thực tế là một sơ hở rất lớn của Công ty trong việc quản lí chi phí sản xuất. Hàng loạt phiếu xuất nhập thẳng của các công trình không qua kho vật tư của Công ty, điều này nói lên việc quản lý vật tư cũng như chi phí sản xuất của công ty còn lỏng lẻo, chưa sát sao, từ việc quản lí lỏng này dẫn đến xác định chi phí nguyên vật liệu chưa được chính xác.
Phương pháp hạch toán nguyên vật liệu: mặc dù công ty đã có riêng một bộ phận theo dõi và hạch toán nguyên vật liệu nhưng chưa xây dựng được hệ thống biểu báo, quản lí vật liệu chưa chặt chẽ. Toàn bộ chứng từ nhập xuất vật tư đến cuối tháng hoặc cuối quý mới chuyển đến cho kế toán tổng hợp để ghi NK chung làm giảm tác dụng của việc cập nhật chứng từ sổ NK chung, làm cồng kềnh thêm bộ máy kế toán. Với khối lượng công việc theo dõi nhập xuất ở công ty là rất ít, ta nên tiến hành ghi chép cập nhập chứng từ xuất vật tư, dụng cụ vào NK chung theo từng chứng từ gốc theo trình tự thời gian (phiếu xuất kho vật tư, dụng cụ) để đảm bảo tính chính xác kịp thời phù hợp với chế độ kế toán đã nêu ở phần lý luận và đáp ứng được yêu cầu của lãnh đạo trong công tác quản lý.
- Đối với chi phí nhân công
Chi phí nhân viên quản lý đội sản xuất chưa được theo dõi rõ ràng và hạch toán một cách chính xác.
Do công ty khoán cho đội nên đội tự kí kết hợp đồng thuê mướn lao động, đội tự thoả thuận với người lao động hợp đồng để trả lương cho họ không qua cơ quan, điều này dẫn đến không đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo luật lao động mà nhà nước quy định.
- Đối với chi phí sử dụng máy thi công
Máy thi công được giao cho các đơn vị xây dựng công trình trực thuộc quản lý và sử dụng. Do vậy, các tài sản này bị khai thác quá lớn dẫn đến độ hao mòn trong khi tính khấu hao vẫn ở chế độ bình thường, dẫn đến việc phản ánh giá trị còn lại của tài sản và tính chi phí để tính giá thành thiếu chính xác.
- Do tính chất và yêu cầu của công tác kế toán, nên công việc không giàn đều trong năm và cho mọi người trong phòng Kế toán - tài vụ, có những phần hành kế toán không thể tác rời nhau nên có nhân viên kế toán rất nhiều việc phải làm nhưng có những nhân viên lại rất ít việc, đặc biệt tập chung vào cuối niên độ kế toán.
II. Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện trong điều kiện hiện nay
1. Sự cần thiết và nội dung yêu cầu của hoàn thiện
Sự cần thiết phải hoàn thiện:
Kế toán là khoa học thu nhận xử lý, cung cấp thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản, nhằm kiểm tra giám sát toàn bộ hoạt động kinh doanh của đơn vị đó. Thông qua số liệu do bộ phận kế toán tập hợp về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, nhà quản lý doanh nghiệp đánh giá tình hình thực hiện định mức chi phí, tiết kiệm chi phí và kế hoạch cho việc tính giá thành sản phẩm. Từ đó, đề ra các biện pháp hữu hiệu kịp thời trong công tác quản lý chi phí và tính giá thành, trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc phân tích, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên việc tính giá thành chính xác. Nhưng, để tính được giá thành chính xác thì phải phụ thuộc vào kết quả tập hợp chi phí sản xuất.
Công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp chủ yếu cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý, nên nó đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp. Do vậy, sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp được xuất phát từ các đặc điểm sau:
- Do sự phức tạp của hoạt động xây lắp, là ngành sản xuất độc lập có chức năng xây dựng TSCĐ phục vụ cho ngành Kinh tế Quốc dân, nên sản phẩm xây lắp mang tính chất cố định, đơn chiếc, thời gian thi công dài và có giá trị lớn. Vì vậy, việc quản lý về đầu tư xây dựng là một quá trình khó khăn phức tạp. Trong đó, tiết kiệm chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất kinh doanh - tính giá thành sản phẩm cũng như việc tổ chức tốt công tác chi phí - tính giá thành là một yếu tố thiết yếu.
Xuất phát từ thực tế còn tồn tại tại các doanh nghiệp xây lắp và theo chế độ kế toán mới ban hành, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp cần được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu quản lý hạch toán nói chung, cũng như hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh nói riêng trong các doanh nghiệp xây lắp.
Nội dung yêu cầu của việc hoàn thiện
Công việc đầu tiên của quá trình hạch toán chi phí sản xuất bao giờ cũng đòi hỏi xác định chính xác các khoản chi phí thực tế phát sinh trong kỳ. Sau đó, sắp xếp chúng vào các tài khoản chi phí cho phù hợp với công dụng của chúng, nhằm phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được đầy đủ và chính xác, đáp ứng yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần tìm tòi để vận dụng và hoàn thiện hơn khi áp dụng chế độ kế toán tài chính hiện hành như vận dụng phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kin và tính giá thành sản phẩm hợp lý, tổ chức hạch toán nói chung theo một trình tự nhất định, thống nhất tính toán đầy đủ, kịp thời, cung cấp số liệu một cách khách quan cho việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Vì phạm vi chi phí sản xuất chỉ liên quan đến quá trình thi công công trình nên yêu cầu không được nhầm lẫn những khoản chi phí của các khoản mục khác vào khoản mục chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, để công tác hạch toán kế toán hơn, phù hợp hơn, việc hoàn thiện cần làm rõ được các nội dung sau:
- Việc hoàn thiện phải phù hợp với chính sách kinh tế tài chính, chế độ kế toán hiện hành và xét đến hướng phát triển trong tương lai. Bộ máy kế toán của doanh nghiệp phải có đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao, am hiểu luật pháp, quy chế quản lý tài chính trong công việc, phần hành kế toán, đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Khâu hạch toán ban đầu cần được hoàn thiện nhằm mục đích kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ, phát hiện để ngăn chặn kịp thời những hiện tượng vi phạm chính sách, chế độ kế toán, tài chính ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm và kết quả kinh doanh của công ty. Mặt khác, các viện pháp hoàn thiện phải tuân thủ theo nguyên tắc và thể lệ chung của kế toán do Bộ Tài Chính ban hành được áp dụng thống nhất trong cả nước và toàn ngành. Những cải cách này phải có khả năng thực thi trong một thời gian dài, tránh sửa đổi bổ sung liên tục công việc kế toán ảnh hưởng đến chất lượng của công tác kế toán và phải phù hợp khi có sự thay đổi về chế độ, nghiệp cụ kinh tế tương lai.
- Việc hoàn thiện phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất và quy trình công nghệ của doanh nghiệp xây lắp, kế toán vận dụng một cách hợp lý hệ thống tài khoản. Căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán, các chế độ, thể lệ kế toán của Nhà nước, quy mô, đặc điểm của quá trình thi công, yêu cầu quản lý để lựa chọn hình thức kế toán phù hợp. Để tính toán chính xác các khoản chi phí phát sinh làm cơ sở tính giá thành sản phẩm, kế toán tiến hành tính toán xuất nhập nguyên vật liệu, phân loại và phân bổ cho các đối tượng tập hợp chi phí (Các công trình, hạng mục công trình) cho hợp lý, tránh tình trạng trùng lặp làm tăng chi phí. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp cần cung cấp được những số liệu cần thiết, kịp thời và chính xác, đáp ứng yêu cầu quản lý và điều hành hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Việc hoàn thiện phải đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả. Do vậy, khi áp dụng vào thực tiễn, các bổ sung này phải thực thi được, không gây xáo trộn nhiều trong hệ thống kế toán chung, cũng như công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Việc hoàn thiện phải phù hợp, logicvà được mọi người chấp nhận, tạo nên một phong cách thuần thục, dễ dàng khi áp dụng. Công ty cần chấp hành đầy đủ các chế độ, chính sách Nhà nước quy định, tổ chức hạch toán, mở sổ sách phù hợp để phản ánh với Ban giám đốc tình hình chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp, ghi chép đầy đủ, hợp thức các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, đảm bảo cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả kinh tế. Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của doanh nghiệp và đặc điểm hoạt động sản xuất của ngành xây lắp để hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý đạt hiệu quả kinh tế.
Phương hướng hoàn thiện
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi phí nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng, Công ty Lắp máy và thí nghiệm cơ điện cần phát huynhững ưu điểm và tìm giải pháp khắc phục những nhược điểm còn tồn tại.
Qua thời gian thực tập và nghiên cứu thực tế của công ty, được sự giúp đỡ tận tình của tập thể cán bộ phòng Kế toán tài chính, cùng sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, đặc biệt là cô giáo Trần Hồng Mai, em đã được tìm hiểu sâu sắc hơn về tình hình công tác kế toán nói chung và công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng. Dưới góc độ là một sinh viên thực tập, em xin đưa ra một số ý kiến nhận xét và một số kiến nghị nhằm góp phận hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở công ty như sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện kế toán chi phí NVL . Do đặc điểm của công ty là không tổ chức kho nguyên vật liệu chung ở công ty, các kho nguyên vật liệu được bố trí tại từng công trình, hạng mục công trình lớn nhỏ khác nhau ở các địa điểm khác nhau và nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu cho các công trình đó lại thường xuyên, do đó, việc theo dõi vật tư xuất dùng hàng ngày theo từng phiếu xuất vật tư ở từng kho công trình lên phòng kế toán Công ty là rất khó và phức tạp. Hàng loạt phiếu xuất nhập thẳng của các công trình không qua kho vật tư của công ty mà xuống thẳng cho các công trình, vì vậy, trị giá vật liệu xuất dùng sẽ không chính xác trong trường hợp vật liệu có hao hụt, mất mát.
Thông thường, trong điều kiện hiện nay, nhu cầu về nguyên vật liệu xây dựng trên thị trường tăng lên không ngừng, giá cả vật liệu luôn luôn biến động, nguyên vật liệu cung cấp cho nhu cầu thi công của từng công trình theo phương thức dựa trên tiến độ thi công của từng công trình cụ thể, vật liệu được đi mua và xuất dùng ngay. Nhưng mặt khác, mỗi khối lượng thi công xây lắp đều có những định mức về nguyên vật liệu cụ thể (định mức này do phòng kĩ thuật của công ty dựa trên cơ sở xác định mức độ nhà nước ban hành và điều kiện thi công cụ thể cho từng công trình).
Kế toán cần sử dụng thẻ kho để theo dõi, quản lí chặt chẽ hơn nguyên vật liệu nhập kho, xuất kho. Có rất nhiều phương pháp ghi thẻ như phương pháp ghi thẻ song song, phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển... Đối với, Công ty em thấy ghi thẻ theo phương pháp mức dư là hợp lý hơn cả. Định kỳ, kế toán xuống kho để kiểm tra việc ghi chép trên thẻ kho của thủ kho và trực tiếp nhận chứng từ nhập xuất kho. Sau khi kiểm tra, kế toán, kế toán ký xác nhận vào từng thẻ kho và ký vào phiếu giao nhận chứng từ rồi mang chứng từ về. Cuối tháng kế toán công tất cả số liệu trên bảng kê.(xem trang bên)
Thứ hai: Hoàn thiện kế toán chi phí nhân công.
Do đặc điểm sản xuất là nhận các hợp đồng đơn chiếc mà mỗi đơn vị kí hợp đồng lại có những công việc hết sức khác nhau, không công trình nào có đặc điểm giống nhau hoàn toàn cả về số lượng cũng như chất lượng, hơn nữa quy trình công nghệ lại rất phức tạp. Vì vậy, cùng một bậc thợ, tay nghề như nhau nhưng tiền lương lại không giống nhau. Do đó, vấn đề đặt ra cho bộ phận kĩ thuật công ty là phải tìm hiểu kĩ các công trình kí kết hợp đồng. Kết hợp với các bộ phận khác tiến hành phân tích đánh giá, xác định đúng mức khoán. Nhất là vấn đề kĩ thuật, cấp bậc tay nghề công nhân, cùng với phòng lao động tiền lương xây dựng cơ chế khoán lương cho phù hợp, sát sao với công việc ở từng công trình, điều này sẽ phát huy được vai trò quan trọng của tiền lương.
Để khắc phục được hiện tượng trên, công ty nên tổ chức các kì họp thường xuyên để trao đổi kinh nghiệm giữa các bộ phận kĩ thuật, lao động tiền lương với bộ phận sản xuất ở từng đội công trình để tránh những sai sót trong việc khoán gọn ở các công việc của từng đội công trình như công nhân làm nhiều chất lượng tốt và những công nhân làm ít chất lượng tồi và lâu về tiến độ. Vì vậy, có những biện pháp thích đáng đối với người lao động, giải quyết hợp tình hợp lí. Cần thiết có thể tăng thêm mức lương hoặc các khoản phụ cấp cho những công việc gặp khó khăn ở từng đội công trình. Mặt khác, công ty cần tạo mọi điều kiện để bồi dưỡng theo trình độ chuyên môn, trang bị mới các phương tiện hiện đại để bộ phận quản lí cũng như bộ phận trực tiếp hoàn thành tốt công việc.
Thứ ba: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất chung.
- Để quản lý tốt chi phí sản xuất chung, chỉ có cách duy nhất là kiểm tra chặt chẽ chi phí, kể cả nguồn gốc phát sinh và đối tượng chịu chi phí. Các chi phí không hợp lý, cần phải được kiểm tra và loại bỏkhỏi giá trị công trình. Các chi phí sản xuất chung chi ra cần được cân nhắc kỹ lưỡng tránh tình trạng vượt chi quá tỷ lệ cho phép.
Kế toán cần phải tập hợp chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền lập thành các bảng kê, để giúp cho kế toán công ty dễ dàng tập hợp chi phí và kiểm tra.
Bảng kê chi phí dịch vụ mua ngoài
ĐCT
Tên công trình:
STT
Loại chi phí
Số tiền
1
Tiền điện thoại
2
Tiền điện
....
Tổng cộng
Thứ tư: Hoàn thiện kế toán chi phí máy thi công.
- Công ty nên tăng cường kiểm tra thường xuyên, đột xuất việc bảo dưỡng MTC, ở các đội nên lập bảng theo dõi hoạt động của tất cả các máy đang thi công tại công trường, để theo dõi một cách tổng thể tình hình sử dụng máy thi công tại một công trường. Mẫu cụ thể như sau:
Bảng phân bổ chi phí sử dụng máy thi công
Tháng… năm…
Đvt: đồng
Số tt
Tên xe, máy thi công
Tổng số chi phí phân bổ
Số ca (giờ máy) hoạt động
Số chi phí phân bổ cho 1 ca (giờ)
Công trình
Công trình
…
…
Số ca
(giờ)
cp máy thi công phân bổ
Số ca (giờ)
cp máy thi công phân bổ
1
2
3
4
5 = 3: 4
6
7 = 5 x 6
8
9 = 5 x 8
…
Cộng
Lập, ngày…. tháng…. năm
Người lập bảng(Chữ ký, họ và tên)
Kế toán trưởng
(Chữ ký, họ và tên)
- Ngoài ra, công ty cũng phải cập nhật thêm phần mềm chi phí máy thi công để giúp doanh nghiệp luôn theo sát được tình hình KH của máy móc, tình hình ứng trước SCL...
Thứ năm: Phương pháp tính giá thành. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện tổ chức tính giá thành theo quý (3 tháng mới tổng hợp số liệu để tính giá thành). Đối với, bộ phân xây lắp việc tính giá thành theo quý là không phù hợp, theo em thì Công ty nên tính giá thành theo giai đoạn, theo công trình. Phương pháp được tính như phần một đã trình bầy.
Thứ sáu: Phương pháp tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp. Hiện nay ở công ty, khi muốn tính giá thành sản phẩm, kế toán phải nhặt số liệu trên bảng tập hợp chi phí sản xuất toàn công ty để đưa vào bảng tính gía thành. Làm như vậy rất dễ nhầm lẫn và chưa khoa học, hợp lý. Để thuận tiện cho công tác tính giá thành theo mỗi công trình từ lúc khởi công đến lúc hoàn thành toàn bộ, kế toán sẽ mở “Phiếu tính giá thành theo đơn dặt hàng”. Tất cả các phiếu tính giá thành công việc được lưu trữ khi sản phẩm đang sản xuất, chúng có tác dụng như các báo cáo sản phẩm sản xuất dở dang. Khi sản phẩm hoàn thành, bàn giao cho khách hàng, các phiếu tính giá thành công việc được chuyển từ khâu sản xuất sang khâu thành phẩm.
Phiếu tính giá thành công việc
Doanh nghiệp: Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện
Tên khách hàng: … Địa chỉ: … Ngày đặt hàng….
Lọai sản phẩm… Ngày bắt đầu thi công:…
Mã số công việc:… Ngày hẹn giao hàng:…
Ngày tháng
Phân xưởng sản xuất
Nguyên vật liệu trựctiếp
Nhân công trực tiếp
Chi phí máy thi công
Chi phí sản xuất chung
Tổng chi phí
Căn cứ phân bổ
Số tiền
Căn cứ phân bổ
Số tiền
Căn cứ phân bổ
Số tiền
Căn cứ phân bổ
Số tiền
Tổng chi phí (tổng giá thành)
Giá thành đơn vị
Kế toán chi phí Kế toán trưởng.
Thứ bẩy: Một số ý kiến khác. Công ty áp dụng máy vi tính đã làm giảm bớt một khối lượng công việc khá lớn, nhưng chưa sử dụng đồng bộ máy vi tính giữa công ty với các xí nghiệp trực thuộc, giữa công ty với các chi nhánh, giữa các bộ phận kế toán trong công ty.
Cụ thể công ty có một máy tính chứa trong chương trình tất cả các file, thư mục (giá thành, chứng từ, báo cáo, chi tiết...) mà do một người sử dụng nên khối lượng cập nhật rất vất vả. Mặt khác, do sử dụng máy tính chưa đồng bộ dẫn đến việc lập báo cáo kế toán tại các đơn vị trực thuộc rất chậm.
Để khắc phục điều này, tất nhiên là Công ty nên sắp xếp khi có điều kiện chứ không nhất thiết bắt buộc, Công ty cố gắng trang bị đồng bộ cho các đơn vị phụ thuộc về máy tính tiến tới không chỉ sử dụng mạng Công ty Lắp máy mà còn sử dụng được cho cả tổng công ty để phù hợp với kĩ thuật hiện đại tiếp nhận với thế giới mới, thế giới bùng nổ thông tin.
Hơn nữa, cố gắng trang bị mỗi kế toán viên một máy tính nhằm đáp ứng thông tin kịp thời chính xác các thông tin về chi phí, tính giá thành nói riêng và kế toán toàn công ty nói chung.
Khi nghiệp vụ phát sinh ở phần nào thì kế toán phần hành đó vào sổ NKC của máy tính mình. Tại một thời điểm muốn xem sổ bất kì máy tính nào của kế toán Công ty đều có đầy đủ các thông tin thuộc phần hành khác xảy ra trước thời điểm đó vì máy được nối mạng.
Đưa máy vi tính vào công tác kế toán, sẽ có một công cụ tính toán hữu hiệu, có thể sử dụng thay cho phương pháp tính toán thông thường. Với tính năng ưu việt như: độ nhanh, kết quả chính xác cao, khối lượng tính toán lớn, bộ nhớ phong phú 32 MB, sẽ trao đổi với ngoại vi (kết quả qua màn hình, in ra giấy, lưu trữ trên đĩa từ...). Máy vi tính cho phép lưu trữ, sử lí và tìm kiếm thông tin nhanh chóng, chính xác, giảm đáng kể khối lượng sổ sách, lưu trữ đồng thời cho phép nỗi mạng để trở thành hệ thống trao đổi và sử lí thông tin. ứng dụng tin học vào công tác kế toán vẫn đảm bảo phân công lao động, bộ máy kế toán, kế toán phần hành nào làm phần hành đó, không gây lãng phí lao động do công việc chồng chéo, không phải chờ đợi, do đó, giảm chi phí lao động. Đồng thời cung cấp thông tin kịp thời, chính xác phục vụ đắc lực cho công tác quản lí công ty.
Hiện nay, công ty có bộ máy quản lí tương đối gọn nhẹ với các phòng ban chức năng phục vụ có hiệu quả, giúp cho lãnh đạo giám sát thi công, quản lí kinh tế tốt hơn.Công tác tổ chức sản xuất, tổ chức hạch toán được tiến hành hợp lí, khoa học phù hợp với điều kiện hiện nay.
Công ty được thành lập với thời gian hoạt động chưa lâu, song bộ phận kế toán của công ty với những nhân viên có năng lực, kinh nghiệm và nhiệt tình làm việc với trách nhiệm cao, hơn nữa lại được sắp xếp phù hợp với yêu cầu của công việc và trình độ của mỗi người nên hệ thống sổ sách chứng từ của công ty nhìn chung là đầy đủ, chi tiết, việc ghi chép và mở sổ theo đúng chế độ quy định. Do vậy, các phần hành kế toán được thực hiện trôi chảy. Đặc biệt là công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm gần như đã đi vào nề nếp thực hiện. Công tác tập hợp chi phí tương đối khoa học, luôn bám sát và phản ánh chính xác chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất và tập hợp chi phí sản xuất theo đúng khoản mục chi phí sản xuất đã được quy định. Ngoài ra, như đã nêu trên, sản phẩm của công ty là những công trình, hạng mục công trình có thời gian khởi công và hoàn thành khác nhau, do đó, trong cùng một khoảng thời gian chi phí cho các công trình là khác nhau. Mặt khác, chi phí phát sinh cũng gắn với từng công trình và tách rời nhau, nên việc tập hợp chi phí sản xuất cũng được tập hợp cho từng công trình; kéo theo giá thành sản phẩm cũng được tính cho từng công trình. Nhận biết được điều đó, phòng kế toán của công ty đã xác định được đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng công trình. Việc tập hợp đúng đối tượng này không chỉ đảm bảo cho việc tập hợp chi phí sản xuất dễ dàng, chính xác, hợp lí mà còn tạo nền tảng cho việc tính giá thành sản phẩm sau này được thuận lợi hơn.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao của cơ chế thị trường, hiện nay sự nhạy bén trong công tác quản lí kinh tế đã trở thành một đòn bẩy tích cực cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu quản lí, công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được công ty quan tâm hàng đầu. Trong nền kinh tế thị trường, kế toán giá thành đòi hỏi phải cung nhanh chóng, đầy đủ, chính xác toàn bộ thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh để giúp cho chủ doanh nghiệp điều hành và quản lí các hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị đạt hiệu quả cao. Mặt khác, kế toán giá thành phải phản ánh đầy đủ các khoản chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm kiểm tra được việc thực hiện nguyên tắc tự bù đắp chi phí và có lãi trong kinh doanh. Kết hợp với các biện pháp quản lí nói chung, công ty đã tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành linh hoạt, đồng bộ và thay phạm vi giới hạn hợp lí của chi phí sản xuất; từ đó, giúp cho việc đánh giá thực tế được chính xác. Công tác kiểm kê khối lượng xây lắp dở dang được tổ chức một cách khoa học, cung cấp số liệu chính xác, kịp thời vụ cho công tác tính giá thành.
Những ưu điểm về quản lí và hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm nêu trên đã có tác dụng tích cực đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm xây lắp và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển, vì thế, việc tính đúng, chính xác giá thành sản phẩm có ý nghĩa quan trọng chi phối hiệu quả công tác tài chính của công ty.
Kết luận
Thời gian ba tháng thực tập tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện đã giúp em thêm nhiều hiểu biết về nghiệp vụ kế toán nói riêng, đặc biệt là nghiệp vụ hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của khâu hạch toán chi phí và giá thành trong một doanh nghiệp, em đã đi sâu vào nghiên cứu và xem xét các số liệu, sổ sách có liên quan. Em nhận thấy đây là khâu chủ chốt, chi phối mọi hoạt động của công ty và cũng là khâu có nhiều khúc mắc cần giải quyết nhất. Vì vậy, em mạnh dạn chọn làm đề tài“Hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện”.
Qua quá trình tìm hiểu thực tế ở Công ty, một doanh nghiệp Nhà nước với nhiều hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng, em đã đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác kế toán, tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty. Đây là những ý kiến mang tính sửa đổi của cá nhân em đối với một số khoản hạch toán, và phương pháp tính toán mà theo em là chưa phù hợp với chế độ kế toán theo quy định hiện hành của nhà nước. Em rất mong những kiến giải của mình có thể góp phần hoàn thiện hơn công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung cho phù hợp với tình hình sản xuất của công ty, giúp tính toán một cách chính xác hơn chi phí để từ đó tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Do có nhiều hạn chế về thời gian và kiến thức khi thực hiện chuyên đề này, nên em chắc không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết nhất định. Vì thế, em rất mong nhận được những ý kiến đánh giá và đóng góp của các thầy cô để hoàn thiện hơn nữa chuyên đề nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33484.doc