Trong suốt quá trình phát triển của mình, con người không ngừng tìm cách cải tiến các công cụ lao động để phục vụ hoạt động sống và làm việc của mình. Con người muốn làm việc hiệu quả thì không thể thiếu những phương tiện hỗ trợ, và đối với các cán bộ thẩm định nói riêng thì sự hiện đại của công nghệ và các trang thiết bị phục vụ trực tiếp cho công việc của họ sẽ giúp ích rất nhiều cho họ trong suốt quá trình làm việc nhằm đạt được một kết quả tốt nhất, đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt của ngành ngân hàng như hiện nay. Vì vậy, để theo kịp với nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh được với những Ngân hàng thương mại trên địa bàn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh phải tiến hành ngay những biện pháp đầu tư trang thiết bị và công nghệ đúng mức để phục vụ đắc lực cho hoạt động của ngân hàng nói chung và cho công tác thẩm định nói riêng. Cụ thể:
Ngân hàng có thể trang bị thêm máy photocopy, máy in hiện đại, đảm bảo chất lượng cho phòng để phục vụ cho việc xử lý thông tin và dữ liệu trong quá trình làm việc tránh tình trạng phải chờ đợi khi nhu cầu lớn ảnh hưởng đến thời gian hoàn thành của công việc.
Trong những nguồn cung cấp thông tin thì Internet là một nguồn hữu hiệu nhất, đảm bảo được tính kịp thời, chính xác và nếu biết khai thác thì khối lượng thông tin là rất lớn. Nhưng hiện nay, số lượng máy nối mạng internet là chưa nhiều, được bố trí ở ngoài hành lang nên khó khăn cho việc truy cập, mặt khác chất lượng đường truyền là rất kém-tốc độ chậm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả công việc, dễ khiến các nhân viên nản lòng trong việc truy cập. Vì vậy, để khắc phục Ngân hàng có thể lắp đặt riêng cho mỗi phòng ít nhất một máy tính nối mạng Internet, và lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo đáp ứng được nhu cầu công việc của mình.
Đối với những phương pháp thẩm định dự án đầu tư được sử dụng tại Ngân hàng đều là những phương pháp được tính toán bằng những cách truyền thống, đơn giản, ít tính cập nhật. Và như vậy, nếu theo tình hình hiện nay thì chỉ có thể cạnh tranh được với những ngân hàng trong nước còn trong tương lai, khi phải cạnh tranh với những Ngân hàng nước ngoài-vốn áp dụng những công nghệ tiên tiến với những công cụ thẩm định hiện đại, có độ chính xác cao- thì sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn. Vì vậy, ngay từ bây giờ Ngân hàng có thể đầu tư trang thiết bị cùng đội ngũ cán bộ có trình độ công nghệ cao để nghiên cứu, tìm hiểu những phần mềm thẩm định tiên tiến hơn trên cơ sở phát huy tính năng sẵn có của các phần mềm đang được sử dụng. Hiện nay, trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin, việc này có lẽ là rất cần thiết cho mục tiêu đứng vững và phát triển trong của Ngân hàng.
Ngân hàng cũng có thể mở những buổi hướng dẫn trực tiếp cho các cán bộ thẩm định nói riêng tiếp cận và sử dụng những phần mềm ứng dụng mới phục vụ cho công việc dưới sự giám sát trực tiếp của các chuyên gia về công nghệ hay những cán bộ tin học của Ngân hàng. Đặc biệt, đối với những cán bộ làm việc lâu năm thì hoạt động này cần được tiến hành nhiều hơn để không làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc của ngân hàng.
98 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m các yếu tố đầu vào có xảy ra thì chắc chắn tập đoàn sẽ có sự điều chỉnh giá bán Than đầu ra cho phù hợp nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả. Ngoài ra qua khảo sát của Công ty về thiết kế kỹ thuật và hiện trạng điều kiện kỹ thuật khai thác Các công trường thì năm 2007 nguồn nguyên liệu cho khai thác là hoàn toàn khả thi đảm bảo kế hoạch sản xuất của Công ty ðRủi ro về chi phí không ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty.
Rủi ro từ sản xuất : Kinh doanh trong lĩnh vực khai thác than là lĩnh vực kinh doanh hàm chứa rủi ro từ sản xuất là cao. Bên cạnh đó Tổng Công ty cũng rất đề cao công tác an toàn trong sản xuất, an toàn môi trường. Công ty luôn tìm mọi biện pháp để ngăn chặn phòng ngừa tai nạn. Do đó rủi ro trong sản xuất cố gắng hạn chế ở mức thấp.
- Rủi ro trong thanh toán: Toàn bộ than sau khi khai thác và sàng tuyển được bán cho các Công ty đầu mối kinh doanh than của Tập đoàn than. Sau đó cứ 5 ngày/lần, tập đoàn sẽ đối trừ công nợ của các Công ty thành viên với nhau sau đó phần còn lại sẽ được chuyển trả cho các Công ty. Do vậy mà rủi ro trong thanh toán hầu như không có.
1.2.4.2.9.3. Rủi ro về cung cấp các yếu tố đầu vào:
Các yếu tố đầu vào của Tổng công ty phục vụ sản xuất kinh doanh là các loại nguyên, nhiên vật liệu, điện năng...khá phổ biến trên thị trường với khá nhiều nhà cung cấp. Một số máy móc thiết bị chuyên dùng thì Tập đoàn có khá nhiều các đối tác cung cấp, ngoài ra Các đơn vị thành viên của Tập đoàn cũng từng bước nội địa hóa sản xuất rất nhiều sản phẩm thay thê hàng nhập khẩu. Do vậy có thể nói các yếu tố đầu vào của Tổng Công ty Đông Bắc luôn được đảm bảo.
1.2.4.2.9.4. Rủi ro kỹ thuật và vận hành:
Hiện tại Công ty Than 91 đã có một bộ máy điều hành và đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật tương đối hoàn chỉnh các năm vừa qua đã từng khai thác ở các khai trường khu vực cẩm phả. Do vậy Việc tiếp nhận khoa học kỹ thuật và vận hành thiết bị của cán bộ công nhân viên Công ty TNHH một thành viên 91 tương đối tốt. Rủi ro về vận hành nếu có cũng ở mức thấp.
1.2.4.2.9.5. Rủi ro môi trường và xã hội
Việc khai thác tài nguyên không tránh khỏi vấn đề gây ô nhiễm môi trường như: Bụi, chất thải...tuy nhiên dự án đã đưa ra các giải pháp để giảm thiểu vấn đề ô nhiễm gây tác hại đến môi trường. Ngoài ra khu vực khai thác có khu vực di tích chùa Hồ Thiên cần bảo vệ là vùng cấm khai thác nên dự án đã tách phần khai thác ra thành khu Đông và khu Tây đã giải quyết vần đề trên.
Do vậy trong quá trình khai thác cần tuyệt đối tuân thủ vấn đề bảo vệ môi trường và khu di tích đảm bảo cho hoạt động khai thác diễn ra bình thường.
1.2.4.2.9.6. Rủi ro tỷ giá: Trong những năm gần đây tỷ giá USD so với đồng Việt nam luôn tăng, điều tạo điều kiện cho xuất khẩu phát triển giúp cho ngành than thu được lợi ích lớn từ xuất khẩu. Rủi ro về tỷ giá hối đoái là thấp
Tóm lại: Mặc dù ngành than trong những năm gần đây đã có những bước phát triển tốt, có những điều kiện thuận lợi để phát triển, bên cạnh đó cũng có nhiều rủi ro. Tuy nhiên, các rủi ro đối với ngành than nói chung và Tổng Công ty Đông Bắc nói riêng đều khắc phục được và hạn chế ở mức thấp nhất giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát triển tốt.
1.3. Đánh giá công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Quảng Ninh:
1.3.1. Kết quả đạt được:
1.3.1.1. Quy trình thẩm định dự án đầu tư:
Trong thời gian qua, chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Quảng Ninh luôn cố gắng không ngừng củng cố các khâu trong quy trình thẩm định dự án đầu tư để nhằm đạt đến một quy trình thẩm định hoàn thiện và khoa học, phát huy hiệu quả trong công tác thẩm định dự án, tạo ra một khung pháp lý để các cán bộ thẩm định hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Cụ thể, quy trình thẩm định của Ngân hàng đã phân cấp đồng bộ và chi tiết theo chiều dọc, thống nhất chung cho toàn hệ thống-từ Hội sở chính đến các chi nhánh với sự phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cá nhân cũng như phòng ban tham gia công tác thẩm định này. Ngoài ra quy trình này còn phát huy được tình thần chủ động, độc lập trong hoạt động riêng của các phòng ban mà không xảy ra tình trạng trùng lập công việc nên vẫn đạt được hiệu quả.
Việc đạt được kết quả nhất định trong quy trình thẩm định dự án đầu tư không những chỉ đem lại cho Ngân hàng lợi nhuận mà qua đó còn củng cố lòng tin của các khách hàng đối với hệ thống tín dụng của Ngân hàng - điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong tình hình có nhiều Ngân hàng thương mại cạnh tranh trên địa bàn như hiện nay.
1.3.1.2. Phương pháp thẩm định dự án đầu tư:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh trong quá trình thẩm định dự án đầu tư vay vốn đã luôn áp dụng tổng hợp các phương pháp thẩm định với nhau một cách linh hoạt, từ đó đưa ra được những kết quả đảm bảo tính chính xác và hỗ trợ đắc lực cho việc phê duyệt ra quyết định của cấp có thẩm quyền trong phạm vi thời gian và chi phí nhất định.
1.3.1.3. Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh luôn xem xét đánh giá đầy đủ những nội dung thẩm định dự án theo quy định của Hội sở chính. Đối với mỗi dự án đầu tư, việc thẩm định được tiến hành theo ba nội dung chính: thẩm định hồ sơ dự án vay vốn, thẩm định khách hàng vay vốn và thẩm định dự án đầu tư vay vốn. Ở mỗi nội dung lại được chia thành nhiều nội dung nhỏ hơn nhằm xem xét chi tiết để đưa ra những đánh giá được chính xác nhất. Tuy nhiên, không phải các cán bộ thẩm định luôn áp dụng máy móc tất cả những nội dung chi tiết này trong mọi dự án mà luôn linh hoạt điều chỉnh kịp thời và phù hợp với từng dự án thuộc những lĩnh vực và ngành nghề khác nhau để tránh lãng phí nguồn lực thời gian vào những khâu không cần thiết.
1.3.1.4. Nhân lực thực hiện công tác thẩm định dự án đầu tư:
Đây cũng luôn là một vấn đề mà Ngân hàng luôn quan tâm hoàn thiện trong thời gian qua. Đội ngũ nhân lực luôn được trẻ hóa qua các năm với trình độ ngày càng được nâng cao, phần lớn cán bộ đều là những người có trình độ Cao đẳng, Đại học trở lên và tốt nghiệp trong những khối kinh tế và tài chính đáp ứng chuyên môn. Đặc biệt đội ngữ những cán bộ trẻ có kiến thức, năng động sáng tạo và ham học hỏi đang là nguồn lực to lớn góp phần cho sự nghiệp phát triển chung của Ngân hàng. Mặt khác, trong phòng thẩm định dự án cũng đã được bổ sung thêm những cán bộ có kiến thức về mảng kỹ thuật để tham gia bóc tách những dự án thiên về mảng kỹ thuật để phục vụ cho công tác thẩm định đạt kết quả chính xác.
Trong mọi lĩnh vực của đời sống, con người luôn luôn được đặt ở vị trí trung tâm vì vậy quan tâm, bồi dưỡng cho nguồn nhân lực luôn là cần chứ không thừa. nắm bắt được điều này, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trong suốt những năm tháng hoạt động của mình đã luôn có những chính sách đúng đắn trong bồi dưỡng trình độ chuyên môn cũng như tác phong làm việc, đạo đức nghề nghiệp như thường xuyên điều động luân chuyển cán bộ giữa các đơn vị trong chi nhánh, cử cán bộ tham gia học các khóa đào tạo nghiệp vụ do Ngân hàng Trung ương và Chi nhánh tổ chức…từ đó trau dồi thêm kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm trong công việc.
Ngoài ra, việc cân đối giữa đội ngũ cán bộ lâu năm giàu kinh nghiệm với đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ, ham học hỏi một cách hợp lý cũng đã giúp cho họ có thể trao đổi kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện kiến thức, phục vụ cho công việc chuyên môn.
1.3.1.5. Trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư:
Trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư được Ngân hàng trang bị tương đối đầy đủ: mỗi cán bộ đều được trang bị một máy tính cá nhân nối mạng nội bộ để thu thập và trao đổi thông tin. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn bố trí hệ thống máy tính lẻ đặt ngoài hành lang nối mạng Internet nhằm phục vụ cho công tác nắm bắt, thu thập thêm thông tin cho cán bộ; ngoài ra, mỗi phòng cũng được trang bị đầy đủ máy Fax, máy in, điện thoại cố định…hỗ trợ rất đắc lực cho các cán bộ trong quá trình làm việc.
Ngoài ra, trong cơ cấu tổ chức hoạt động của Ngân hàng còn có riêng một phòng điện toán có nhiệm vụ hướng dẫn cho những cán bộ ngân hàng nắm bắt và sử dụng thành thạo những ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như giải quyết những sự cố khi có vấn đề xảy ra giúp cán bộ thẩm định nói riêng và cán bộ Ngân hàng yên tâm công tác.
Như vậy, chính nhờ những kết quả đã đạt được này mà trong những năm gần đây chất lượng của công tác thẩm định dự án đã được cải thiện đáng kể, đạt được nhiều thành tích và mang lại lợi nhuận đáng kể cho Ngân hàng. Cụ thể, số lượng dự án thẩm định liên tục tăng được phản ánh qua tốc độ tăng trưởng dư nợ hàng năm của Ngân hàng (năm 2008, dư nợ tín dụng cuối kỳ tăng 29% so với năm 2007) và có nhiều dự án thuộc những lĩnh vực sản xuất kinh doanh trọng điểm của Tỉnh như: xi măng, khai thác than, sản xuất điện…
1.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong công tác thẩm định dự án đầu tư:
1.3.2.1. Những hạn chế:
*) Nội dung thẩm định dự án đầu tư: các cán bộ thẩm định dự án đầu tư trong thực tế thì chỉ quan tâm đến một số nội dung nhất định trong toàn bộ nội dung thẩm định dự án đầu tư, và nội dung được các cán bộ quan tâm phân tích chủ yếu là nội dung thẩm định tài chính dự án còn những nội dung khác đều ít được quan tâm, chủ yếu dựa trên những đánh giá có sẵn của các doanh nghiệp trình lên trong hồ sơ dự án, điều này là do sự chi phối của nhiều yếu tố như: khả năng, lĩnh vực am hiểu của cán bộ thẩm định, điều kiện thông tin, tích chất riêng của từng dự án, quan niệm…Nhiều nội dung còn dừng lại ở phân tích khá tổng quát, dựa vào những phân tích định tính là chủ yếu, thiếu tính sát thực có thể là nguyên nhân dẫn đến những sai sót không lường trước được, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
*) Phương pháp thẩm định dự án đầu tư: tuy nói là đã thực hiện đồng bộ tất cả những phương pháp được nêu ra ở trên nhưng trên thực tế vẫn không tránh khỏi việc cán bộ thẩm định chỉ chú trọng vào một số phương pháp chính, được sử dụng thường xuyên như: phương pháp thẩm định theo trình tự, phương pháp so sánh các chỉ tiêu và phương pháp phân tích độ nhạy, còn những phương pháp còn lại chủ yếu được làm hết sức sơ sài và chỉ dừng lại ở việc phân tích định tính, nhận định chủ quan, thiếu thông tin thực tế dẫn đến những sai sót trong quá trình ra quyết định. Mặt khác, cũng phải thấy được tầm quan trọng của phương pháp dự báo vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân tích độ nhạy, mức độ rủi ro-yếu tố mà ngân hàng quan tâm, nhưng trên thực tế việc phân tích này còn rất chủ quan, thiếu tính chuyên nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do sự hiểu biết của những cán bộ thẩm định là có hạn đối với những lĩnh vực khác nhau, nên việc đánh giá có sự quan tâm khác nhau đối với những nội dung khác nhau là dễ hiểu. Vì vậy, ngân hàng cần xem xét đưa ra những phương án để hỗ trợ cho các cán bộ thẩm định trong việc thu thập thông tin phục vụ cho quá trình phân tích và đánh giá.
*) Cán bộ thẩm định dự án đầu tư: ta cũng biết cán bộ của Ngân hàng nói chung và của phòng quản lý rủi ro nói riêng có ưu điểm là đã được trẻ hóa, nhưng đây cũng chính là vấn đề. Vì còn trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm thực tế và bản lĩnh để đối mặt với những khó khăn, chính vì vậy mà Ngân hàng phải tổ chức đào tạo nghiệp vụ cho những cán bộ mới và đào tạo lại nâng cao tay nghề trong suốt thời gian làm việc. Điều này nguyên nhân chủ yếu là do sự cách biệt quá lớn giữa việc học với thực tế công tác-vấn đề bất cập của nền giáo dục nước ta. Mặt khác, thẩm định dự án đầu tư vốn là một công việc phức tạp, yêu cầu chuyên môn cao nhưng tại Chi nhánh việc này lại giao cho một số ít cán bộ trẻ, tuy đã có sự phân công công việc và sự giám sát của cán bộ có kinh nghiệm nhưng thiết nghĩ việc này cũng cần phải xem xét lại do trong quá trình hoạt động, nếu gặp phải những sai sót thì việc sửa chữa là vô cùng phức tạp và tốn kém, có thể ảnh hưởng đến tiến độ công việc và chậm trễ trong việc trả lời các doanh nghiệp.
*) Trang thiết bị, công nghệ phục vụ công tác thẩm định dự án đầu tư: tuy đã được trang bị máy tính cá nhân và các thiết bị văn phòng đầy đủ về số lượng nhưng Ngân hàng lại gặp vấn đề ở chất lượng thiết bị: máy tính có cấu hình chưa cao, mạng Internet thì chậm không đáp ứng được nhu cầu của nhân viên trong việc thu thập thông tin, phần mềm sử dụng trong phân tích chủ yếu là Microsoft Corporation (Word và Excel) có thể đã cũ và không còn phù hợp trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin như hiện nay…
*) Thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư: thông tin được coi là đầu vào vô cùng quan trọng của công tác thẩm định, việc đáp ứng đủ, kịp thời và chính xác thông tin về dự án sẽ đảm bảo cho công việc và kết quả thẩm định được dễ dàng, nhanh chóng và đạt độ tin cậy. Nhưng trên thực tế, lượng thông tin thường không đầy đủ, chất lượng không đáp ứng được yêu cầu-thiếu chính xác do còn mang nặng đánh giá chủ quan, những thông tin có được chủ yếu do chủ đầu tư cung cấp, không được xem xét, thẩm định lại của các chuyên gia. Mặt khác, việc thu thập thông tin còn phải tiến hành từ phía những đối tác khác hay ngành có liên quan đến dự án nhưng trong thực tế việc này thường bị bỏ qua, mà nguyên nhân là do sự cạnh tranh nên việc giữ bí mật thông tin giữa những Ngân hàng cũng là điều dễ hiểu.
1.3.2.2. Nguyên nhân:
Do môi trường kinh tế xã hội là luôn thay đổi, việc nắm bắt những thay đổi này là có hạn đối với những cán bộ thẩm định. Mỗi việc thay đổi trong chính sách kinh tế của Chính phủ luôn ảnh hưởng đến những yếu tố đầu vào trực tiếp của công tác thẩm định dự án đầu tư ở Ngân hàng.
Do có những chủ đầu một mặt thiếu năng lực, mặt khác lại cố tình không trung thực trong việc lập hồ sơ xin vay vốn, hồ sơ dự án…dẫn đến cung cấp những thông tin không chính xác, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công tác thẩm định ra quyết định của ngân hàng.
Trình độ của cán bộ thẩm định là có hạn đối với những lĩnh vực khác nhau nên có nhiều nội dung, phương pháp thẩm định các cán bộ chỉ tiếp cận và xem xét rất sơ sài, thiếu tính chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định.
Chưa có chính sách đầu tư cho công nghệ thông tin hợp lý để tìm kiếm những chương trình mới đáp ứng được tính hiện đại và cập nhật, tính toán chính xác nhằm hạn chế tối đa được những rủi ro, phục vụ cho công tác thẩm định ra quyết định.
Trong quá trình thẩm định, thông tin phục vụ cho công việc của các cán bộ thẩm định thường được thu thập từ những nguồn rất hạn chế, chủ yếu là do chủ đầu tư cung cấp trong hồ sơ dự án, còn những thông tin liên quan đến khía cạnh thị trường giá cả đầu vào-đầu ra, những thông số kỹ thuật trong thẩm định nội dung kỹ thuật công nghệ của dự án…thì thiếu tính chuyên môn và cập nhật, nên thường không đáp ứng được yêu cầu thẩm định, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của quyết định.
Công tác tổ chức điều hành và quản lý công tác thẩm định còn lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp ngay từ đầu giữa những phòng ban khác nhau và giữa những cán bộ có kinh nghiệm với những cán bộ thẩm định trẻ, nên ảnh hưởng đến thời gian, chi phí và chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng.
CHƯƠNG II: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VAY VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN QUẢNG NINH.
2.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của Chi nhánh trong năm 2009:
2.1.1. Định hướng và mục tiêu phát triển chung của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh:
2.1.1.1. Mục tiêu chung:
Tiếp tục tăng trưởng và phát triển bền vững; lấy mục tiêu an toàn và hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh; tiếp tục chuyển đổi cơ cấu hoạt động, đổi mới cách thức quản lý điều hành hoạt động theo sản phẩm, theo khối phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của việc triển khai mô hình quản lý của dự án TA2; đẩy mạnh công tác huy động vốn, gắn tăng trưởng nguồn vốn thông qua cung cấp sản phẩm dịch vụ và tiện ích; đổi mới cơ cấu tài sản nợ- tài sản có, tăng trưởng tín dụng hợ lý trên cơ sở kiểm soát được rủi ro, xác định khách hàng mục tiêu, lĩnh vực kinh doanh, mở rộng tín dụng bán lẻ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tín dụng bán chéo sản phẩm doanh nghiệp với tăng huy động vốn; trích đủ dự phòng rủi ro; quản lý tài sản nợ - có đạt hiệu quả cao; luôn hướng tới khách hàng để cùng phát triển; giữ vững và mở rộng thị phần, phát huy thương hiệu, vị thế, văn hóa nghề nghiệp… tạo bước chuyển biến trong hoạt động kinh doanh phù hợp với mô hình mới đồng thời tiếp tục duy trì quy mô, chất lượng hiệu quả tăng trưởng theo mục tiêu đề ra.
2.1.1.2. Chỉ tiêu và hoạt động cụ thể của kế hoạch kinh doanh năm 2009:
2.1.1.2.1. Các chỉ tiêu cơ bản năm 2009:
Tổng tài sản : 2.960 tỷ đồng.
Huy động vốn cuối kỳ : 2.400 tỷ đồng, tăng trưởng 19,2%.
Huy động vốn bình quân : 2.140 tỷ đồng, tăng trưởng 23%.
Dư nợ tín dụng cuối kỳ : 2.550 tỷ đồng, tăng trưởng 10%
Dư nợ tín dụng bình quân : 2.400 tỷ đồng, tăng trưởng 16,6%
Thu dịch vụ ròng : 20 tỷ đồng, tăng trưởng 30,6%.
Tỷ lệ nợ xấu : 1,4%
Chênh lệch thu chi (không gồm thu nợ HTNB): 85,5 tỷ đồng tăng 22%
Trích đủ 100% CPRR : 6 tỷ đồng.
2.1.1.2.2. Các chỉ tiêu khác:
Chênh lệch lãi suất đầu ra-đầu vào : 4,1%/năm
Tỷ trọng trung dài hạn trong tổng dư nợ : 59%
Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh trong TDN : 50%
Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo trong TDN : 65%
Tỷ trọng dư nợ nhóm II trong TDN : 7%
Tỷ trọng dư nợ bán lẻ : 4,3%
Doanh thu khai thác phí bảo hiểm : 2,3 tỷ đ
Tỷ lệ giảm dư lãi treo của dư nợ nội bảng so với năm trướng:-10%
2.1.1.2.3. Các hoạt động:
*) Công tác huy động vốn:
Làm tốt công tác huy động vốn bằng biện pháp linh hoạt và phù hợp với diễn biến chung của thị trường và chỉ đạo điều hành của BIDV trên nguyên tắc phù hợp giữa lãi suất và kỳ hạn, thu hút tiền gửi đảm bảo giữ được nền vốn, an toàn, ổn định phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh và tính thanh khoản của chi nhánh.
Thực hiện tốt công tác tiếp thị, chính sách khách hàng, chăm sóc tốt đối với khách hàng là doanh nghiệp lớn, khách hàng truyền thống, khách hàng là cá nhân có tiền gửi lớn…
Đẩy mạnh các hình thức huy động vốn dân cư với nhiều kỳ hạn, lãi suất linh hoạt, hình thức khuyến mãi phù hợp.
Mở rộng mạng lưới huy động vốn, tăng quy mô hoạt động bằng cách nâng cấp các điểm giao dịch thành phòng giao dịch, mở thêm phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm tại địa bàn đông dân cư tại thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm Phả.
Xây dựng chính sách khách hàng, chính sách nguồn vốn, lãi suất để chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu khách hàng.
*) Công tác tín dụng, bảo lãnh, thẩm định, chất lượng tín dụng.
Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng trong giới hạn được giao, không để phát sinh thêm nợ xấu, lãi treo. thực hiện nghiêm túc cơ cấu dư nợ, đảm bảo các tỷ lệ, sử dụng vốn có hiệu quả.
Tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn và các chương trình mục tiêu kinh tế của tỉnh. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng bán lẻ, tín dụng xuất khẩu; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp tục giảm dần dư nợ cho vay trung, dài hạn, gia tăng tài sản bảo đảm để nâng tỷ trọng dư nợ có bảo đảm và giảm mức trích DPRR. Từng bước thực hiện chỉ đạo của BIDV về xây dựng mô hình chi nhánh bán lẻ, phòng giao dịch Bãi Cháy thực hiện chuyển dần các khách hàng lớn tập trung về Hội sở chi nhánh và tập trung cho vay bán lẻ.
Xây dựng chính sách tín dụng, kiểm soát chặt chẽ kinh doanh tín dụng, đặc biệt đối với từng nhóm khách hàng nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. gắn tăng trưởng tín dụng với phát triển dịch vụ tiện ích.
Quản trị rủi ro tín dụng, kiểm soát chặt chẽ kinh doanh tín dụng, đặc biệt đối với những khỏan dư nợ mới phát sinh, tăng thêm; đảm bảo mục tiêu giảm lãi treo; không để phát sinh thêm nợ xấu; thực hiện việc kiểm soát để giảm nợ nhóm II; triển khai nghiêm túc việc định dạng tín dụng nội bộ, phân loại đánh giá khách hàng.
*) Kết quả, hiệu quả kinh doanh, trích lập DPRR:
Bám sát lãi suất huy động cho vay trên địa bàn và lãi suất mua bán vốn FTP với Trung ương để điều hành lãi suất linh hoạt, đảm bảo chênh lệch lãi suất đầu ra-đầu vào tối đa, hiệu quả. Thực hiện chi tiêu đúng chế độ, tăng thu, tiết kiệm chi, kinh doanh có hiệu quả.
Chú trọng thay đổi cơ cấu thu nhập theo hướng tăng thu dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm dịch vụ vốn là thế mạnh của chi nhánh như: thanh toán, bảo lãnh, thẻ, kinh doanh ngoại tệ để đảm bảo mục tiêu chung về tăng trưởng lợi nhuận theo kế hoạch.
Thực hiện trích đủ 100% DPRR theo quy định.
Tiếp tục nâng cao chất lượng quản lý, thực hành tiết kiệm, tránh lãng phí trong toàn chi nhánh.
*) Phát triển mạnh mạng lưới dịch vụ và khai thác các sản phẩm.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện nhận thức về hoạt động dịch vụ trong giai đoạn mới, khẳng định dịch vụ là mặt trận quan trọng tạo nguồn thu ổn định, ít rủi ro và gia tăng nhanh chóng hàng năm, tạo sự chuyển dịch căn bản nguồn thu trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
Tăng cường tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ, chú trọng nghiên cứu, triển khai các loại hình sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu cho khách hàng và khách hàng mục tiêu. Chú trọng giới thiệu, hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Tiếp thị sản phẩm có nội dung cụ thể, có trọng điểm. Hình thành một đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp, nắm vững kiến thức về marketing cũng như về sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Có chính sách phí phù hợp từng nhóm khách hàng sử dụng dịch vụ để khuyên khích thu hút khách hàng truyền thống, khách hàng tốt.
Tập trung và có biện pháp chỉ đọa đồng bộ từ nhận thức đến các quy định, quy trình, cơ chế chính sách trong việc bán chéo sản phẩm dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng
Mở rộng dịch vụ thẻ ATM, POS, lắp đặt thêm máy mới tại khu đông dân cư, thuận tiện an toàn cho khách hàng, khắc phục nhanh chóng, kịp thời sai lỗi trong đường truyền, tiếp quỹ giấy in…để nâng cao hiệu quả, tiện ích sử dụng máy ATM, tăng nguồn thu phí dịch vụ.
*) Công nghệ thông tin và các ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm dịch vụ.
Tổ chức vận hành thông suốt hệ thống máy móc thiết bị đúng qui định, quy trình, bảo mật, phục vụ tốt hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
Rà soát, khắc phục xử lý lỗi đường truyền, thiết bị phòng ngừa rủi ro, đảm bảo tuyệt đối an toàn tác nghiệp.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ hiện đại phù hợp với phát triển sản phẩm mới, nâng cấp hệ thống đường truyền, nâng cao kỹ năng thao tác may móc thiết bị của cán bộ vào các quy trình nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu chất lượng phục vụ khách hàng.
*) Phát triển mạng lưới và nguồn nhân lực:
Tiếp tục hoàn thiện và triển khai quản lý, vận hành nhịp nhàng, hiệu quả mô hình dự án TA2 tại chi nhánh.
Nâng cấp các điểm giao dịch thành phòng giao dịch theo lộ trình; thành lập thêm 2 phòng giao dịch và 2 quỹ tiết kiệm trong giai đoạn tới 2009-2010.
Thực hiện tốt công tác tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch và quản lý cán bộ theo quy định của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; quan tâm bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ kế cận để tạo nguồn cán bộ cho tương lai. Đề xuất và có hướng quan tâm đãi ngộ đến cán bộ có trình độ năng lực, cán bộ giỏi.
*) Công tác kiểm tra nội bộ và chấp hành quy chế-quy trình, thực hiện các sổ tay nghiệp vụ:
Tăng cường công tác tự kiểm tra, giàm sát các mặt hoạt động nghiệp vụ tín dụng, kế toán, dịch vụ ngân quỹ, nguồn vốn…đặc biệt hoạt động tín dụng. Thực hiện phúc tra và chấn chỉnh kịp thời những kiến nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra đối với chi nhánh qua các đợt kiểm tra, thanh tra.
Tuân thủ các quy trình nghiệp vụ, sổ tay nghiệp vụ của BIDV ; duy trì và thực hiện tốt các quy trình theo hệ thông quản lý chất lượng ISO.
*) Phát triển thương hiệu -văn hóa.
Nâng cấp chất lượng phục vụ khách hàng, đổi mới phong cách giao dịch ứng xử với khách hàng văn minh lịch sự, hiện đại. Xây dựng một đội ngũ nhân vien bán hàng chuyên nghiệp, nắm vững kiến thưc về marketing cung như về sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Thực hiện và ứng dụng tốt hai bộ quy chuẩn của BIDV về quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp vào cuộc sống, coi đó là nét đẹp văn hóa trong ứng xử, giao dịch hàng ngày của mỗi cán bộ nhân viên và người lao động, hình thành bản sắc văn hóa doanh nghiệp BIDV.
*) Công tác khác:
Triển khai và chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương, chỉ đạo của Ngành và cụ thể hóa bằng chương trình hành động.
Thực hiện sự chỉ đạo điều hành theo chương trình, kế hoạch đảm bảo kỷ cương, kỷ luật. Thường xuyên tự kiểm tra giảm sát, thực hiện giao kế hoạch kinh doanh đến từng đơn vị, cá nhân, nâng cao tinh thần lao động sáng tạo của cán bộ nhân viên. Tổ chức theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh để có sự chỉ đạo điều hành kịp thời, hiệu quả.
2.1.2. Định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh:
Tăng cường chất lượng thẩm định dự án đầu tư nhằm đưa ra những quyết định cho vay chính xác để đảm bảo dự án hoạt động có hiệu quả và an toàn vốn cho vay.
Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư theo hướng họp lý, khoa học và đồng bộ, tránh rườm rà, không rõ ràng gây khó khăn cho công việc của các cán bộ thẩm định.
Nội dung thẩm định đảm bảo được tính khách quan, toàn diện và linh hoạt để đảm bảo phù hợp với đặc thù riêng của từng ngành.
Tiếp tục củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức thuộc những lĩnh vực có liên quan đến dự án cho đội ngũ cán bộ thẩm định để họ có những nhận định chính xác.
Cải thiện chất lượng thông tin phục vụ cho công tác thẩm định: cần phối hợp thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đưa ra những kết luận chính xác.
Đảm bảo hoàn thành trong thời gian quy định: Đối với dự án nhóm A tổng thời gian xem xét là 25 ngày, trong đó thời gian thẩm định là 19 ngày; đối với dự án nhóm B tổng thời gian xem xét là 18 ngày, trong đó thời gian thẩm định là 14 ngày; đối với những dự án còn lại tổng thời gian xem xét là 9 ngày, thời gian thẩm định là 4 ngày.
2.2. Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh:
2.2.1. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định dự án đầu tư vay vốn:
Phương pháp thẩm định ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thẩm định dự án đầu tư, muốn khắc phục được những hạn chế trong phương pháp thẩm định dự án đầu tư Ngân hàng có thể tiến hành: thực hiện đồng bộ tất cả những phương pháp thẩm định vì càng phân tích nhiều thì càng có thêm căn cứ để ra quyết định chính xác; tiến hành nghiên cứu, đổi mới những cách tính toán khoa học và hiện đại cho từng phương pháp;
Đối với thẩm định dự án đầu tư, vấn đề thường thấy ở các ngân hàng là chỉ quan tâm đến thẩm định tài chính dự án còn những nội dung khác cũng rất quan trọng như thị trường, công nghệ kỹ thuật thì lại đánh giá rất sơ sài và mang tính chất liệt kê là chủ yếu. Nhưng cũng phải thấy rằng, những nội dung trong thẩm định tài chính dự án có liên quan mật thiết với nhau, cái trước là cơ sở để đánh giá cho cái sau, như: khi tiến hành phân tích tài chính dự án, có những số liệu được lấy từ phần phân tích thị trường, kỹ thuật (như: doanh thu, chi phí, công suất…). Để hoàn thiện nội dung thẩm định dự án đầu tư thì Ngân hàng cần phải chú trọng tới một số mặt sau:
Đối với việc thẩm định khía cạnh thị trường: yêu cầu cán bộ thẩm định nắm vững phương pháp dự báo cung cầu thị trường, so sánh với các dự án tương tự, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể để có cái nhìn tổng quát nhất về thị trường hiện tại và tương lai của sản phẩm dự án, về thị trường và giá cả của các nguyên vật liệu đầu vào…từ đó có được những kết luận chính xác, an toàn và là cơ sở vững vàng cho đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
Đối với công tác thẩm định kỹ thuật: yêu cầu cán bộ thẩm định thực hiện thẩm định kỹ theo những nội dung đã quy định rất rõ ràng trong quy trình cấp tín dụng cho doanh nghiệp của Ngân hàng. Trong đó chú ý xem xét tính phù hợp của công nghệ đối với thị trường, sản phẩm đầu ra, tránh tình trạng nhập những công nghệ quá lạc hậu ảnh hưởng đến công suất, chất lượng sản phẩm sản xuất ra sau này; nắm được những thông tin về giá trị công nghệ tại thời điểm thực hiện dự án để có căn cứ tính mức khấu hao chính xác phục vụ cho công tác thẩm định tài chính sau này…Đây là nội dung mà cán bộ thẩm định muốn thực hiện tốt đòi hỏi phải có sự am hiểu về lĩnh vực công nghệ kỹ thuật, vì vậy nếu Ngân hàng thiếu đội ngũ cán bộ có thể đáp ứng được yêu cầu này thì cách tốt nhất là thuê chuyên gia thực hiện trong những dự án quan trọng, vốn lớn như vậy sẽ hạn chế bớt được rất nhiều rủi ro.
Thẩm định tổng mức đầu tư và khả năng khả thi của phương án nguồn vốn: trong quy trình cấp tín dụng cho doanh nghiệp của Ngân hàng đã quy định rất rõ về cách thực hiện cũng như tầm quan trọng của nội dung này, nên chỉ yêu cầu cán bộ thẩm định thực hiện tốt được như quy định là được. Còn về phía Ngân hàng phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện đúng theo quy trình đã quy định tránh việc làm qua loa, thiếu trách nhiệm.
Đối với nội dung thẩm định tài chính dự án: đây là nội dung vô cùng quan trọng nên được Ngân hàng đặc biệt quan tâm, kết quả tính toán trong phần này được lấy làm căn cứ chủ yếu để ra quyết định sau này. Vì vậy, việc hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính dự án, giảm bớt những sai sót xảy ra sẽ giúp Ngân hàng triệt tiêu bớt rủi ro, tăng hiệu quả kinh doanh. Dưới đây là một số kiến nghị mà Ngân hàng có thể tham khảo:
Chú ý tới những yếu tố tỷ giá, lạm phát, tỷ suất chiết khấu: Ngân hàng đang sử dụng phương pháp tính tỷ suất chiết khấu dựa vào chi phí sử dụng vốn bình quân của các nguồn tài trợ cho dự án nên Ngân hàng cần thẩm định kỹ những nguồn này. Mặt khác, tỷ suất này cũng thường xuyên biến động do ảnh hưởng của các yếu tố lạm phát, lãi suất trên thị trường nên Ngân hàng cũng cần có những phương pháp nhằm đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Yếu tố tỷ giá cũng cần được quan tâm trong những dự án đầu tư có những hợp đồng hợp tác với phía nước ngoài như những hợp đồng cung cấp công nghệ, nguyên liệu của nước ngoài…nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, chi phí của dự án và việc ảnh hưởng đến những chỉ tiêu hiệu quả tài chính là tất yếu. Việc dự báo chính xác những trường hợp có thể xảy ra trong tương lai sẽ giúp bảo hiểm được rất nhiều những khoản rủi ro của dự án.
Lập chính xác và theo quy định của Ngân hàng về bảng thông số của dự án đầu tư: đây là bảng tính rất quan trọng, làm cơ sở trong suốt quá trình tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính sau này, vì vậy, nếu lập chính xác ngay từ đầu thì việc tính toán sẽ dễ dàng và yên tâm hơn.
Thiết lập đầy đủ những bảng tính trung gian theo quy định và tính toán chính xác những chỉ tiêu có trong nội dung của từng bảng: hiện nay, việc này được cán bộ thẩm định thực hiện tương đối tốt nhưng không vì thế mà chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian của công việc. Việc làm này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải rất tỉ mỉ, cẩn thận và kiên trì do lượng thông tin và số liệu xử lý là tương đối lớn, vì vậy, cũng cần có sự thường xuyên đôn đốc và kiểm tra của những người có kinh nghiệm nhằm phát hiện những sai sót để sửa chữa kịp thời, tránh ảnh hưởng đến thời gian và chất lượng thẩm định. Mặt khác, ngân hàng cũng nên khuyến khích cán bộ thẩm định tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra những ý tưởng, phương pháp tính toán mới, giúp ích cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính nếu có thể.
Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư: hiện nay Ngân hàng đang sử dụng hệ thống chỉ tiêu hiệu quả tài chính gồm: NPV, IRR, DSCR, thời gian hoàn trả vốn vay, điểm hòa vốn và có lẽ như vậy là chưa đủ, ngân hàng có thể nghiên cứu, tìm hiểu và đưa vào tính toán thêm một số chỉ tiêu khác như: chỉ số doanh lợi (PI), lợi nhuận kế toán bình quân (AAP) là những chỉ tiêu dùng để bổ trợ cho NPV, tỷ số doanh thu/chi phí (B/C)…và phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu để có thêm căn cứ đánh giá và đưa ra quyết định chính xác. Ngân hàng cũng có thể tổ chức những buổi dự thảo giao lưu, trao đổi kinh nghiệm thực tế giữa các ngân hàng để qua đó bổ sung và hoàn thiện dần những thiếu sót của mình.
2.2.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ thẩm định:
Trong mọi hoạt động nói chung, con người là một tài sản vô giá, luôn được đặt ở vị trí trung tâm, không nằm ngoài tác động đó, trong hoạt động thẩm định cũng vậy, cán bộ thẩm định luôn đóng vai trò quan trọng và tác động trực tiếp tới chất lượng của công tác thẩm định dự án. Do tính đặc thù của công việc thẩm định dự án đầu tư mà cán bộ thẩm định không chỉ cần có trình độ chuyên môn mà còn phải có kiến thức ở nhiều lĩnh vực như: thị trường, kỹ thuật, kinh tế, xã hội…là những yếu tố luôn biến động, cần được bổ sung thường xuyên trong suốt quá trình hoạt động, vì vậy mà họ luôn bị đặt trước sức ép công việc rất lớn. Do đó, xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định chuyên nghiệp, có tư cách đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao là một yêu cầu cấp thiết của Ngân hàng. Và một số biện pháp mà Ngân hàng có thể thực hiện là:
Điều chỉnh và hoàn thiện quá trình tuyển dụng đầu vào: có biện pháp kiểm tra khoa học, hợp lý để tuyển chọn cán bộ đảm bảo chất lượng ngay từ những khâu tuyển dụng ban đầu để tránh tình trạng sau khi được tuyển lại phát hiện những cán bộ không đạt yêu cầu, như vậy sẽ rất tốn kém. Mặt khác, nếu làm được như vậy thì chất lượng cán bộ được tuyển dụng cũng được đảm bảo và việc đào tạo thêm chuyên môn, nghiệp vụ riêng của Ngân hàng cũng thuận lợi hơn.
Sau khi tuyển dụng cán bộ thì Ngân hàng cũng cần lưu tâm đến việc bố trí công việc cho cán bộ hợp lý, phù hợp với sở trường và năng lực của từng người. Ngoài ra cũng cần sắp xếp hợp lý giữa cán bộ lâu năm, kinh nghiệm với những cán bộ trẻ để qua đó, cán bộ có kinh nghiệm sẽ kèm cặp, truyền dạy và trao đổi kiến thức thực tế công việc trực tiếp với những cán bộ trẻ, điều này rất cần thiết vì những kiến thức này đều là những kiến thức thực tế nên rất tốt cho công việc.
Trong quá trình công tác, Ngân hàng cũng cần tiến hành những đợt kiểm tra lại trình độ chuyên môn của cán bộ, qua đó có thể tiến hành luân chuyển lại cán bộ giữa các bộ phận sao cho phù hợp với năng lực của họ.
Ngân hàng cũng cần chú trọng mở thêm các lớp đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định do các chuyên gia giảng dạy và khuyến khích các cán bộ đi học cũng như tạo điều kiện về thời gian, kinh phí cho họ tham gia.
Một nhược điểm lớn của cán bộ thẩm định là kiến thức chuyên môn về những lĩnh vực thị trường, kỹ thuật, kinh tế, xã hội còn rất hạn chế nên việc có một đội ngũ chuyên gia làm tư vấn cho họ trong những lĩnh vực này là rất cần thiết. Vì vậy, Ngân hàng có thể xem xét đến việc thành lập một nhóm có vấn cho công tác thẩm định dự án đầu tư trong tương lai.
Bên cạnh việc quan tâm chú ý đến việc nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng thì Ngân hàng cũng chú ý đến việc bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho những cán bộ này: do tính chất công việc là thường xuyên tiếp xúc với những dự án lớn nên cán bộ thẩm định không tránh khỏi việc đối mặt với những hành vi sai trái, vì vậy để hạn chế tình trạng này, Ngân hàng có thể tiến hành một số giải pháp: quán triệt quyền hạn và trách nhiệm cụ thể đến từng người, có những biện pháp trừng trị nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm cụ thể, tổ chức những buổi nói chuỵện về đạo đức nghề nghiệp với những cán bộ trong Ngân hàng…
Trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc tìm kiếm nhân tài đã khó thì việc giữ nhân tài còn khó hơn. Chính vì vậy, Ngân hàng cũng cần quan tâm đến những chính sách đãi ngộ cán bộ nhất định để cán bộ có lòng tin, từ đó sẽ dốc sức phục vụ cho sự nghiệp phát triển của Ngân hàng. Muốn vậy, Ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, cụ thể: hoàn thiện chính sách tiền lương một cách hợp lý, có chế độ thưởng phạt phân minh, thường xuyên có những buổi tổ chức khen thưởng những cán bộ có thành tích xuất sắc trong công việc và tiến hành tuyên dương trong toàn hệ thống, có chính sách quan tâm đến những cán bộ có hoàn cảnh khó khăn, ngoài ra cũng thường xuyên tiến hành những buổi liên hoan văn nghệ, thể thao, tổ chức những chuyến du lịch…để giảm bớt căng thẳng và sức ép do công việc, tạo tinh thần thoải mái để tiếp tục công tác và đạt thành tích trong công việc.
2.2.3. Nâng cao chất lượng thông tin của công tác thẩm định dự án đầu tư:
Đối với công tác thẩm định dự án đầu tư thì tầm quan trọng của thông tin là không thể phủ định, cũng cần khẳng định lại nó là đầu vào quan trong cho công tác thẩm định dự án của cán bộ thẩm định, nó quyết định đến chất lượng kết quả công tác này. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, thông tin được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau và vì vậy việc đảm bảo chất lượng thông tin: đầy đủ, chính xác, kịp thời là vô cùng cần thiết. Để hoàn thiện công tác thu thập và nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng có thể tham khảo một số giải pháp sau:
Thông tin được cung cấp từ khách hàng thông qua hồ sơ xin vay vốn (gồm hồ sơ về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hồ sơ về dự án xin vay vốn và những thông tin khác có liên quan) là nguồn thông tin chủ yếu vì vậy yêu cầu độ chính xác cao. Muốn vậy, cần phải yêu cầu các chủ đầu tư cung cấp đầy đủ và đạt yêu cầu bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể những nội dung cần cung cấp kết hợp sự hướng dẫn của cấp có thẩm quyền, sự đảm bảo bằng cam kết của chủ đầu tư…
Đa dạng hóa nguồn cung cấp thông tin cho công tác thẩm định dự án đầu tư: thông tin có thể được thu thập thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về tình hình biến động của thị trường đầu vào, đầu ra của sản phẩm của dự án, sự biến động của tỷ giá…đây là nguồn thông tin dồi dào, cập nhật, khách quan và trung thực nhất, đã có sự đánh giá, nhận xét từ các chuyên gia trong những lĩnh vực liên quan; hay từ các đối tác kinh doanh với những mối quan hệ lâu dài, từ những tổ chức tín dụng khác và một nguồn vô cùng quan trọng và đảm bảo chất lượng là từ các chuyên gia tư vấn trong những lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, quy hoạch, thị trường, các chính sách phát triển ngành, vùng, địa phương liên quan đến dự án đầu tư…nếu biết tận dụng thông tin từ những nguồn này thì Ngân hàng có thể tạo ra được kho thông tin tương đối phục vụ đắc lực cho việc thẩm định, ra quyết định cho vay vốn của mình, từ đó có thể hạn chế được thấp nhất những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra trong quá trình giải ngân vốn sau này.
Chú ý thu thập thông tin từ những dự án đã hoạt động, đang hoạt động và xử lý khối lượng thông tin đó, để có thêm căn cứ hữu ích cho hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Thành lập kho lưu trữ thông tin đã được thu thập và xử lý, vì đó sẽ là những tài liệu tham khảo vô cùng quan trọng cho công tác thẩm định những dự án tương tự sau này. Việc lưu trữ này có thể được tiến hành bằng một phần mềm chuyên dụng như trong hệ thống thư viện điện tử thông thường như vậy sẽ dễ dàng cho việc tiếp cận và nghiên cứu sau này của cán bộ thẩm định.
2.2.4. Hiện đại hóa công nghệ, trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định dự án đầu tư:
Trong suốt quá trình phát triển của mình, con người không ngừng tìm cách cải tiến các công cụ lao động để phục vụ hoạt động sống và làm việc của mình. Con người muốn làm việc hiệu quả thì không thể thiếu những phương tiện hỗ trợ, và đối với các cán bộ thẩm định nói riêng thì sự hiện đại của công nghệ và các trang thiết bị phục vụ trực tiếp cho công việc của họ sẽ giúp ích rất nhiều cho họ trong suốt quá trình làm việc nhằm đạt được một kết quả tốt nhất, đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt của ngành ngân hàng như hiện nay. Vì vậy, để theo kịp với nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh được với những Ngân hàng thương mại trên địa bàn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh phải tiến hành ngay những biện pháp đầu tư trang thiết bị và công nghệ đúng mức để phục vụ đắc lực cho hoạt động của ngân hàng nói chung và cho công tác thẩm định nói riêng. Cụ thể:
Ngân hàng có thể trang bị thêm máy photocopy, máy in hiện đại, đảm bảo chất lượng cho phòng để phục vụ cho việc xử lý thông tin và dữ liệu trong quá trình làm việc tránh tình trạng phải chờ đợi khi nhu cầu lớn ảnh hưởng đến thời gian hoàn thành của công việc.
Trong những nguồn cung cấp thông tin thì Internet là một nguồn hữu hiệu nhất, đảm bảo được tính kịp thời, chính xác và nếu biết khai thác thì khối lượng thông tin là rất lớn. Nhưng hiện nay, số lượng máy nối mạng internet là chưa nhiều, được bố trí ở ngoài hành lang nên khó khăn cho việc truy cập, mặt khác chất lượng đường truyền là rất kém-tốc độ chậm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả công việc, dễ khiến các nhân viên nản lòng trong việc truy cập. Vì vậy, để khắc phục Ngân hàng có thể lắp đặt riêng cho mỗi phòng ít nhất một máy tính nối mạng Internet, và lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo đáp ứng được nhu cầu công việc của mình.
Đối với những phương pháp thẩm định dự án đầu tư được sử dụng tại Ngân hàng đều là những phương pháp được tính toán bằng những cách truyền thống, đơn giản, ít tính cập nhật. Và như vậy, nếu theo tình hình hiện nay thì chỉ có thể cạnh tranh được với những ngân hàng trong nước còn trong tương lai, khi phải cạnh tranh với những Ngân hàng nước ngoài-vốn áp dụng những công nghệ tiên tiến với những công cụ thẩm định hiện đại, có độ chính xác cao- thì sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn. Vì vậy, ngay từ bây giờ Ngân hàng có thể đầu tư trang thiết bị cùng đội ngũ cán bộ có trình độ công nghệ cao để nghiên cứu, tìm hiểu những phần mềm thẩm định tiên tiến hơn trên cơ sở phát huy tính năng sẵn có của các phần mềm đang được sử dụng. Hiện nay, trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin, việc này có lẽ là rất cần thiết cho mục tiêu đứng vững và phát triển trong của Ngân hàng.
Ngân hàng cũng có thể mở những buổi hướng dẫn trực tiếp cho các cán bộ thẩm định nói riêng tiếp cận và sử dụng những phần mềm ứng dụng mới phục vụ cho công việc dưới sự giám sát trực tiếp của các chuyên gia về công nghệ hay những cán bộ tin học của Ngân hàng. Đặc biệt, đối với những cán bộ làm việc lâu năm thì hoạt động này cần được tiến hành nhiều hơn để không làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc của ngân hàng.
2.2.5. Hoàn thiện công tác tổ chức, điều hành việc thẩm định dự án đầu tư:
Tổ chức và quản lý điều hành công việc đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, nó giúp cho công việc được tiến hành khoa học, thống nhất trên cơ sở phân công công việc và trách nhiệm rõ ràng đến từng phòng ban và từng người, từ đó tiết kiệm được thời gian, chi phí và đảm bảo chất lượng công việc.
Để công tác tổ chức điều hành và quản lý phát huy hiệu quả tốt nhất, Ngân hàng cũng nên tiếp tục thực hiện nghiêm túc phân quyền phán quyết và thẩm định theo quy định; trong phân công công việc thì phải căn cứ vào khả năng, năng lực của mỗi cán bộ để phát huy trình độ, kinh nghiệm của mỗi cán bộ trong hoạt động thẩm định; quản lý thắt chặt trong suốt quá trình thẩm định như tổ chức một số đợt kiểm tra nhằm phát hiện và loại bỏ những sai sót ngay từ đầu; bên cạnh đó, có thể tổ chức những buổi hội thảo để tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực tiễn…
2.3. Những kiến nghị để hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh:
2.3.1. Kiến nghị với Nhà nước:
Nhà nước cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư tín dụng, tài chính ngân hàng, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, những quy định về thẩm định dự án đầu tư theo hướng thống nhất và phù hợp với cơ chế thị trường, từ đó tạo ra hành lang pháp lý thống nhất để các ngân hàng trong nước hoạt động và kinh doanh.
Thực hiện tốt vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh tế-chính trị-xã hội ổn định để hệ thống ngân hàng trong nước yên tâm hoạt động.
Trong từng thời kỳ, Nhà nước cần công bố những quy hoạch và định hướng phát triển của ngành, vùng và địa phương trong cả nước, để vừa là cơ sở để các nhà đầu tư có căn cứ để lập kế hoạch đầu tư, tranh thủ sự ưu đãi của Nhà nước, vừa là để các ngân hàng có chiến lược kinh doanh nhằm đảm bảo cung cấp đủ và kịp thời vốn cho nhu cầu đầu tư của từng thời kỳ, phù hợp với mục tiêu phát triển mà Nhà nước đặt ra.
Nhà nước cần có những chính sách nhằm khuyến khích và hỗ trợ việc củng cố và phát triển những hệ thống hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư nói riêng tại các ngân hàng như các cơ quan tư vấn (tư vấn luật và các lĩnh vực chuyên môn khác). Điều này là rất cần thiết hiện nay vì nhu cầu thông tin mà các ngân hàng cần trong quá trình thẩm định dự án đầu tư là rất lớn và sự nắm bắt thông tin của những cán bộ thẩm định là có hạn đối với từng nội dung thẩm định và từng lĩnh vực của dự án.
Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán nghiêm túc theo quy định và cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ theo yêu cầu của các ngân hàng. Để tăng tính pháp lý, Nhà nước cần thiết lập những hình thức xử phạt nghiêm minh khi phát hiện những sai phạm.
2.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Với vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến việc tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng và hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại phát triển. Để góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước cần thực hiện:
Phát huy vai trò định hướng hoạt động cho các ngân hàng thương mại trong nước thông qua việc thu thập, xử lý những thông tin về tín dụng, kinh tế, xã hội…để cung cấp cho các ngân hàng, phục vụ cho hoạt động thẩm định. Ngân hàng Nhà nước cũng cần mở rộng phạm vi, tăng cường chất lượng thông tin và đảm bảo tính cập nhật của Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần thông báo theo định kỳ định hướng phát triển của toàn hệ thống làm cơ sở để các ngân hàng thương mại xây dựng kế hoạch phát triển riêng của mình trong từng năm tiếp theo và có những chỉ tiêu định hướng phù hợp với mục tiêu phát triển của ngành theo khả năng của mình.
Xây dựng một quy trình và nội dung thẩm định dự án đầu tư thống nhất, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam và những thông lệ quốc tế cho toàn hệ thống ngân hàng, Do hiện nay, quy trình, nội dung thẩm định dự án đầu tư tại các ngân hàng không thống nhất, mỗi ngân hàng lại tự đặt ra một quy trình và nội dung riêng, như vậy rất khó cho công tác kiểm tra và quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Điều này cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên tiến hành kiểm tra, đôn đốc các ngân hàng hoạt động kinh doanh trung thực, khách quan và chấp hành đúng theo những quy định của pháp luật. Có những hình thức xử lý thích đáng khi phát hiện những hành vi sai trái và nên khen thưởng cho những ngân hàng không có vi phạm gì.
2.3.3. Kiến nghị với chủ đầu tư:
Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư trong tương lai thì chủ đầu tư cũng cần chú ý đến một số vấn đề:
Thực hiện đúng theo những yêu cầu và quy trình thẩm định dự án mà Nhà nước nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng quy định, đồng thời cũng cần nghiêm túc thực hiện theo đúng chế độ kế toán và kiểm toán mà Bộ tài chính đã ban hành nhằm đảm bảo tính chính xác và đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án tại Ngân hàng. Điều này rất cần thiết vì nó sẽ giúp giảm bớt những sai sót ngay từ đầu.
Vì chủ đầu tư là nguồn cung cấp thông tin làm cơ sở ban đầu cho công tác thẩm định dự án đầu tư nên thông tin do chủ đầu tư cung cấp càng chi tiết, chính xác và đầy đủ bao nhiêu thì càng dễ dàng cho công tác thẩm định sau này của Ngân hàng, vì vậy, chủ đầu tư nên chú trọng nâng cao chất lượng công tác lập dự án đầu tư vay vốn trên cơ sở nghiên cứu và phân tích kỹ từng khía cạnh của dự án đầu tư nhất là khía cạnh thị trường, kỹ thuật, phân tích tài chính của dự án.
Yêu cầu chủ đầu tư trung thực trong quá trình cung cấp thông tin nhất là những thông tin liên quan đến vấn đề nội bộ trong doanh nghiệp như: tình hình sản xuất kinh doanh, các báo cáo tái chính của doanh nghiệp, tình hình tổ chức quản lý và nhân sự của dự án…đây đều là những thông tin rất cần thiết để cán bộ thẩm định xem xét, đánh giá rủi ro của dự án đầu tư và có những giải pháp giúp chủ đầu tư khắc phục. Như vậy, đôi bên cùng có lợi.
Chủ đầu tư cũng cần thực hiện đúng những quy định và cam kết khi vay vốn tại Ngân hàng, nếu làm tốt điều này sẽ tạo được lòng tin và vun đắp mối quan hệ lâu dài với Ngân hàng, sẽ rất có ích trong những hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai.
Chủ đầu tư cũng nên có những tìm hiểu về những sản phẩm dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, những quy trình, thủ tục mà ngân hàng yêu cầu…để chủ động trong việc tiếp cận nguồn vốn, tránh những sai sót đáng tiếc ảnh hưởng đến thời gian thẩm định dự án sau này. Vì ai cũng biết thời gian đối với chủ đầu tư là rất quý, quá trình này càng rút ngắn bao nhiêu thì cơ hội của các chủ đầu tư càng nhiều bấy nhiêu.
KẾT LUẬN.
Như vây, qua khoảng bảy mươi trang viết của đề tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”, chúng ta đã thấy được một bức tranh toàn cảnh về thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh, thấy được những nỗ lực cũng như khó khăn của Ngân hàng trong công cuộc hoàn thiện công tác này. Hi vọng với những gì đã có hiện nay và trong tương lai không xa, chất lượng các dự án đầu tư của nước ta được cải thiện, nền kinh tế phát triển vươn tầm với những nước trong khu vực và trên thế giới.
Do thời gian có hạn, việc sưu tầm tài liệu và kiến thức thực tế còn hạn chế nên đề tài không tránh mắc phải những thiếu sót.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài này, tôi xin một lần nữa chân thành cảm ơn sự hướng dẫn giúp đỡ của cô Hoàng Thu Hà và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh nói chung, cán bộ phòng Quản lý rủi ro nói riêng đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ sơ thẩm định dự án khai thác hầm lò khu mỏ Hồ Thiên của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh.
Quy trình tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Sổ tay tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Trang web www.bidv.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21729.doc