Nền kinh tế đang phát triển rất mạnh mẽ không ngừng cả về chiều sâu và cả chiêu rộng. Sự sôi động đó thể hiện ngày càng rõ nét ở hoạt động đầu tư của các tổ chức, các doanh nghiệp, các đơn vị trong nền kinh tế. Để hoạt động đó ngày càng thu được hiệu quả thì hoạt động thẩm định tài chính dự án của các Ngân hàng TM là một yếu tố đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới quyết định đầu tư của các đơn vị,tổ chức vay vốn. Làm thế nào để sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nói chung,vốn tín dụng nói riêng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có ý nghĩa quyết định đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng.Tuy nhiên, đối với Ngân hàng Thương Mại Việt Nam và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng ,công tác thẩm định tài chính dự án mới được quan tâm trong mấy năm gần đây. Do đó, dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong quá trình thực hiện vẫn tồn tại những hạn chế cũng như cần tìm ra những giải pháp hợp lý để khắc phục tình trạng đó.
Hòa theo sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế,đặ biệt cùng với việc gia nhập WTO, làn sóng đầu tư từ trong và ngoài nước đang rất mạnh mẽ. Điều đó làm cho nhu cầu tài trợ vốn từ các ngân hàng ngày càng lớn và được mở rộng hơn,đó là cơ hội lớn cho các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, cơ hội đó cũng sẽ chia đôi đôi với các ngân hàng nước ngoài,điều đó sẽ gây ra sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Từ thực tế đó buộc các ngân hàng trong nước ngày càng phải hoàn thiện mình hơn nữa, nhanh chóng khắc phục các khiếm khuyết và nâng cao hơn quy trinh công tác hoạt động để tăng cường vị thế và uy tín với khách hàng. Có như vậy các ngân hàng trong nước mới dành được những dự án lớn và có chất lượng. Một trong những giải pháp quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu đó là không ngừng cải tiến,nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư.
94 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư mới dây chuyền sản xuất tôn tráng kẽm cuộn và tấm tại NH TMCP Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều khó khăn vì trượt giá. Giá xây dựng cũng tăng đến chóng mặt. Nhiều vật liệu xây dựng như xi măng, sắt thép tăng 2-3 lần
Có hai nhân tố tác động tác động tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đó là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
a/ Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất: Quy trình, Nội dung thẩm định tài chính dự án còn nhiều chỗ thiếu sót:
Quy trình thẩm định được quy định thống nhất từ Trung ương cho tới các Chi nhánh của Ngân hàng tại các tỉnh thành phố. Mẫu báo cáo thẩm định được xây dựng tuy đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng, nhưng vẫn chưa có sự hoạt động trong cách xây dựng, vẫn còn có những hạn chế cần phải khắc phục.
- Đánh giá kế hoặch doanh thu từ năm trong những năm đầu thực hiện dự án không khả thi do dự kiến tiến độ thi công dự án chưa chính xác, làm ảnh hưởng đến việc tính toán dòng tiền dự kiến của dự án,từ đó làm sai lệch các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
- Khi thẩm định tài chính dự án,cán bộ tín dụng thường chấp nhận dự toán của chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà chưa đánh giá một cách toàn diện,do vậy ở một số dự án khi đi vào thực hiện đã bộc lộ nhiều khó khăn do thiếu vốn .
Phân tích độ nhảy, yếu tố rủi ro, đực biệt là khi xác định thời gian thu hồi vốn đều ít tính đến hệ số chiết khấu hoặc tính chưa đúng tỷ lệ .
- Thẩm định dòng vào và dòng ra còn chưa sát với thực tế
Khi tính toán doanh thu và chi phí, ngân hàng thường dựa vào mức công suất dự kiến và giá bán dự kiến. Trong các dự án, ngân hàng thường căn cứ trên công suất thiết kế sau khi tham khảo tình hình tiêu thụ của các sản phẩm cùng loại, định hướng phát triển của ngành, dự báo nhu cầu thị trường, ngân hàng đưa ra mức công suất có thể huy động được, từ đó tính ra khối lượng tiêu thụ trong năm của dự án. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là việc dự tính như vậy mức độ chính xác và phù hợp với thực tế của các dự đoán là như thế nào, có quá chủ quan khi đánh giá hay không?
Có thể khẳng định là việc dự tính như thế là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết phải dự tính, nhưng thực tế cho thấy tuy các cán bộ thẩm định đã có những cố gắng trong việc tìm kiếm thông tin nhưng nhiều khi các dự tính của họ chỉ dựa trên cảm tính, nên tính chính xác là không cao. Hơn nữa, tại các chi nhánh, việc xác định doanh thu tiêu thụ chỉ dựa trên quá trình xem xét liệu sản phẩm của dự án có được thị trường chấp nhận hay không mà thôi.
Ngoài ra, do việc tính toán doanh thu và chi phí dựa rất nhiều vào dự tính về công suất huy động được nên đối với nhiều dự án ngân hàng dự tính không chính xác mức huy động công suất thiết kế dẫn tới sự không chính xác về các mức doanh thu và chi phí do đó các tính toán có sự khác biệt với thực tế. Mặt khác, khi thẩm định giá bán còn chưa tính đến một cách thích đáng tác động các nhân tố ảnh hưởng.
- Độ chính xác của luồng tiền chưa được đảm bảo.
Tính toán chính xác luồng tiền là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì thông qua luồng tiền ta có thể tính toán được các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác phản ánh được hiệu quả tài chính của dự án. Tuy nhiên, như ở các phần trên đã đề cập việc dự tính không chính xác giá bán sản phẩm, doanh thu và chi phí dẫn tới luồng tiền được xác định không chính xác. Ngoài ra, trong việc tính toán luồng tiền cũng còn một số vấn đề cần phải được cải thiện.
Giá trị thanh lý tài sản cố định tại năm cuối của dự án làm tăng dòng tiền của dự án. Nhưng, trong một số dự án khoản này không được tính đến hoặc không tuân thủ quy tắc giá trị thời gian của tiền. Ví dụ, khi dự tính giá bán thanh lí tài sản cố định theo giá sắt vụn với mức giá ở thời điểm hiện tại nhưng khi tính luồng tiền lại được đưa vào để tính tại thời điểm năm cuối của dự án.
- Các chỉ tiêu tài chính chưa được tính một cách chính xác
Hiện nay, trong khi tính toán các chỉ tiêu tài chính để xác định hiệu quả tài chính của dự án, ngân hàng chưa xây dựng được mọt hệ thống các chỉ tiêu tiêu chuẩn đối với từng ngành nghề với mục đích dùng các chỉ tiêu đó để so sánh tính hiệu quả và an toàn tài chính của dự án.
Khi sử dụng các chỉ tiêu tài chính để đánh giá một dự án, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã rất chú trọng đến giá trị thời gian của tiền, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án hiện đại được sử dụng để đánh gái như NPV, IRR. Nhưng trong các chỉ tiêu như thời gian hoàn vốn đầu tư lại được tính một cách đơn giản, không coi trọng giá trị thời gian của tiền.
Trong đó, nguồn trả nợ vốn vay bao gồm các nguồn như sau: từ KHCB, từ lợi nhuận dùng để trả nợ, và từ các nguồn khác.
Thông qua công thức ở trên, ta có thể nhận thấy vấn đề giá trị thời gian của tiền trong việc tính toán thời gian thu hồi vốn đầu tư chưa được nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn. Nguồn trả nợ của dự án dùng để tính toán chỉ tiêu này được cộng dồn một cách vô lí khi mà giá trị tiền tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau được cộng với nhau rồi đem so sánh với giá trị vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại. Do đó, khi tính toán chỉ tiêu này ngân hàng cần phải đưa các giá trị tương lai về cùng một thời điểm quy chiếu để xem xét thì hợp lý hơn.
- Nguồn trả nợ của dự án được dự tính chưa chính xác
Nguồn trả nợ của dự án được xác định dựa trên nguồn khấu hao cơ bản, lợi nhuận sau thuế và từ các nguồn khác, trong đó nguồn trả nợ chính là khấu hao và lợi nhuận sau thuế. Trong những năm mà dự án bị thua lỗ, lợi nhuận sau thuế là âm, do đó nguồn trả nợ chỉ trông chờ vào khấu hao cơ bản. Việc trích khấu hao trên thực tế nhiều khi khác xa so với số liệu trên sổ sách nên nguồn trả nợ của dự án là không đúng như những dự tính của ngân hàng. Do vậy, nếu các cán bộ thẩm định chỉ dựa hoàn toàn vào số liệu về khấu hao cơ bản và lợi nhuận sau thuế của dự án mà không xem xét đến các nguồn khác thì trong những trường hợp xảy ra rủi ro thì ngân hàng khó có thể thu hồi được vốn.
Do đối tượng vay vốn của Ngân hàng Ngoại thương chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, mà theo quy chế về quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, phần lợi nhuận sau thuế phải được phân bổ vào nhiều khoản khác nhau như: trích lập các quỹ (khen thưởng, phúc lợi, đầu tư phát triển...) và các khoản khác. Do vậy, nguồn trả nợ nếu dựa trên toàn bộ lợi nhuận sau thuế là thiếu chính xác, mà phải loại trừ một số khoản. Trên thực tế, cán bộ tín dụng cho biết, phần lợi nhuận tối đa được dùng có thể trả nợ là khoảng 60% lợi nhuận sau thuế. Trong mẫu báo cáo thẩm định có đề cập đến việc loại trừ một số khoản trích có nguồn gốc từ lợi nhuận sau thuế nhưng khi tiến hành thẩm định tài chính cán bộ thẩm định thường bỏ sót khoản này.
- Phân tích độ nhạy của dự án còn mang nặng tính chủ quan
Khi thẩm định mà tiến hành phân tích độ nhạy là một bước tiến tích cực, có ảnh hưởng tốt tới chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Nhưng trong khi phân tích độ nhạy của dự án, ngân hàng vẫn dựa trên những dự báo mang tính chất chủ quan (tuy có tham khảo thông tin từ thị trường) nhiều hơn là dựa trên những nguồn thông tin có cơ sở vững chắc. Điều này được thể hiện rõ nét khi ngân hàng dự tính các yếu tố như giá bán, sản lượng, chi phí đầu vào tăng hay giảm 5% hoặc 10% qua các năm. Thực tế đâu phải chỉ là tăng hay giảm với mức độ đó.
Thứ hai: Cán bộ thẩm định còn bất cập về trình độ nghiệp vụ,kiến thức, chưa được huấn luyện tốt về kỹ năng thẩm định.
Do yêu cầu của công tác tổ chức, trong năm qua, một số cán bộ làm công tác tín dụng lâu năm,có kinh nghiệm thuyên chuyển, nhận công tác mới và một số cán bộ mới được tăng cường về các phòng ban khác. Tuy đã được học ở các trường đại học,cao đẳng, được học theo các lớp tập huấn và tự trau dồi kiến thức để theo kịp sự phát triển về nghiệp vụ ngân hàng cũng như đòi hỏi ngày cnàg phức tạp trong công tác thẩm định nhưng quá trình thẩm đinh chưa được thực hiện theo đúng bài bản,chưa tuân thủ đúng nội dung quy trình thẩm định.Điều đáng lưu ý là thiếu sự lưu tâm tới các giả định của số liệu nên trong trong dự án mà chỉ lắp số liệu đó vào để tính toán.Có thể nói rằng cán bộ thẩm định của ngân hàng lấy thông tin chủ yếu từ khách hàng và nguồn dự kiến của ngân hàng mà chưa tham khảo được thông tin từ các dự án tương tự hay nguồn thông tin từ các nhà cung cấp và đối tác của khách hàng.
Thứ ba: Thông tin, số liệu làm căn cứ tính toán,thẩm định, nhất là thẩm định tài chính chưa đầy đủ,thiếu chính xác dẫn đến khó đánh giá hay đánh giá sai về khách hàng,về hiệu quả kinh tế-xã hội và tính khả thi của dự án.
- Pháp lệnh kế toán, thống kê chưa được thực hiện nghiêm túc.Việc hạch toán của doanh nghiệp nhiều khi không đúng thực chất và chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc nên rất khó đánh giá đúng thực trạng khả năng tài chính.Việc hoạch toán cửua doanh nghiệp nhiều khi không đúng thực nhất và chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc nên rất khó đánh giá thực trạng khả năng tài chính, tình hình thanh toán, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác việc hoạch toàn không được cập nhật, doanh nghiệp chỉ có bản cân đối tài khoản hay lập quyết toán theo tháng, quý, thậm chí 6 tháng một lần nên số tài liệu cung cấp cho ngân hàng không kịp thời, thường là lạc hậu so với hiện tại.
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một số doanh nghiệp tư nhân thường lên đồng thời hai bảng cân đối lỗ- lãi riêng. Để đối phó với cơ quan thuế, doanh nghiệp thường sử dụng bảng cân đối lỗ để chịu thuế thấp. Nhưng ngược lại, để có cơ sở vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp tư nhân thường sử dụng bảng cân đối lãi để tạo ra tình hình tài chính mạnh, do đó tạo ra sự không chính xác trong thông tin làm ảnh hưởng tối chất lượng thẩm định.
- Bên cạnh số liệu lịch sử về doanh nghiệp thiếu chính xác, số liệu nêu trong báo cáo khả thi hoặc luận chứng kinh tế kỹ thuật cũng ở tình trạng như vậy. Trong đó các con số dự kiến về cân đối thu chi, về khả năng tiêu thụ thường là ước tính, chưa mang tính khoa học cao nhất là áp dụng phương pháp toán học để tính toán, từ đó, kết quả tính toán các chỉ tiêu điểm hòa vốn, NPV, IRR và mốc để so sánh các chỉ tiêu đi cùng chưa chính xác.
Thứ 4:Cơ sở vật chất tại ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định còn thiếu thốn, lạc hậu, chưa có hệ thống máy tính hiện đại với phần mềm dành riêng cho việc hệ thống hóa thông tin và tính toán các chỉ tiêu hiểu quả tài chính dự án.Điều kiện vật chất cung cấp cho các cán bộ thẩm định trong quá trình làm việc còn chưa đạt yêu cầu. Hầu như chưa có cán bộ nào được trang bị máy tính xách tay trong quá trình đi công tác do đó hạn chế trong việc xử lý thông tin và phân tích dự án.
Thứ 5: Các hệ thống quy trình nghiệp vụ mặc dù đã được triển khai nhưng việc áp dụng còn có những thiếu sót, bất cập dẫn đến hiệu quả hạn chế.
b/ Nguyên nhân khách quan:
Chất lượng của thẩm định tài chính dự án không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan xuất phát từ chính ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ dự án, cụ thể :
Thứ nhất: Tình trạng thiếu trung thực và năng lực còn hạn chế trong việc điều hành quản lý dự án cảu chủ đầu tư.Các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn, dự án chưa đủ tài chính để đượng đầu tư vốn nhưng do chủ đầu tư tin vào khả năng sẽ thành công của dự án hoặc thậm chí chủ dự án muốn chiếm dụng vốn của ngân hàng nên lập dự án hết sức hoàn hảo dưới sự tư vấn của chuyên gia cho nên việc thẩm định và đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay là rất khó khăn.
Bên cạnh đó, một số dự án xin vay vốn ngân hàng chỉ là một phần, một mảng của dự án phát triển tổng thể của một tổng công ty, có trường hợp doanh nghiệp xin vay vốn để đầu tư thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất…như vậy việc tính toán hiệu quả kinh tế rất khó khăn và thông thường là tính doanh thu, chi phí, lợi nhuận chung cho cả dây chuyền hay toàn bộ doanh nghiệ, nên các chỉ tiêu thường là không xác đáng.
Thứ hai: Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế, môi trường pháp lý chưa lành mạnh ,chủ trương của các ngành hữu quan không thống nhất dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định và quyết định cho vay. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới đã đem lại những lợi ích to lớn cho đất nước. Tuy nhiên nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định tới các yếu tỗ vĩ mô mà điều này lại tác động tới chất lượng kiểm định tài chính. Thị trường đầu vào và đầu ra thường xuyên có những biến động to lớn gây nên những thay đổi to lớn về giá bán sản phẩm, giá mua nguyên liệu đầu vào trong một số dự án, đã làm giảm tính chính xác cho việc thẩm định dự án.
Trong nền kinh tế ngày nay, vai trò của Nhà nước có ý nghĩa hết sức to lớn, ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển lành mạnh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, ở nước ta sự quản lý của nhà nước vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở góc độ ban hành các văn bản chồng chéo, không rõ ràng. Điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thẩm định dự án của ngân hàng do luôn xảy ra tình trạng các doanh nghiệp không tuân thủ hoặc lách luật. Bên cạnh đó những thay đổi thường xuyên của các chế độ, chính sạch như hiện nay cũng làm cho ngân hàng khó đưa ra những dự đoán trong tương lai và do vậy chất lượng thẩm định dự án không cao.
Thứ ba: Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng tiền mặt để thanh toán ,do đó lượng tiền mặt luân chuyền qua hệ thống ngân hàng còn ít gây khó khăn cho việc theo dõi thu chi của doanh nghiệp vay vốn nên không thể nắm chắc được tinh hình của doanh nghiệp đó, xét xem doanh nghiệp đó có sử dụng tiền vay đúng mục đính, đúng tiến độ không, để từ đó có các biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn các hành vi sai phạm, thu hồi vốn nếu cần thiết…qua đó nâng cao chất lượng tín dụng và cũng góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định.
Tóm lại trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được, công tác thẩm định dự án của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội vấn còn nhiều hạn chế nhất định, điều này đặt ngân hàng trước những thử thách mới, đòi hỏi các biện pháp tháo gỡ. Để hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án, các nguyên nhân trên cần được khắc phục thông qua việc thực thi một số biện pháp nhất định
CHƯƠNG II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
1. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHNT Hà Nội
1.1.Định hướng chung phát triển của Ngân hàng
Định hướng chung của VCB Hà Nội trong thời gian tới được trình bày rõ nét trong đề tài cơ cấu ngân hàng Ngoại thương, đã được Chính phủ thông qua và bắt đầu thực hiện từ năm 2001.
Trong xu thế hiện nay là phát huy thế mạnh về công nghệ, uy tín thương hiệu ngân hàng đối ngoại, kết hợp với đa dạng hoá các sản phẩm ngân hàng, tích hợp nhiều tiện ích , mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất , quyền chọn để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong thời gian tới Ngân hàng Ngoại thương phấn đấu đạt được những mục tiêu sau:
- Giải quyết dứt điểm nợ khê đọng khó đòi là kết quả của thời kì bao cấp, khoản này là rất lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính của Ngân hàng.
- Phấn đấu nâng tỷ trọng đầu tư cho nền kinh tế, nâng cao thị phần tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương trong toàn ngành.
- Lập ủy ban quản lý tài sản, và nguồn vốn để có thể chủ động hơn trong phòng chống rủi ro thanh toán đối với ngân hàng.
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn, tăng tỷ trọng nguồn vốn VND. Đổi mới công tác điều hành vốn theo hướng tạo điều kiện cho các chi nhánh chủ động hơn trong công tác quản lý vốn, đồng thời nâng cao vai trò của hội sở chính trong việc điều hòa vốn của toàn hệ thống theo tinh thần vừa khuyến khích các chi nhánh tích cực huy động vốn, tạo điều kiện cho các chi nhánh tăng khả năng trong công tác tín dụng.
- Xây dựng mô hình tổ chức theo hướng hướng về khách hàng, phục vụ đáp ứng tốt nhất cho sự tiện lợi của khách hàng. Hiện nay mô hình tổ chức của Ngân hàng theo mô hình truyền thống, tức có sự phân tách giữa các phòng ban theo chức năng, nghiệp vụ. Do đó, đối với khách hàng giao dịch với ngân hàng, họ phải đi qua rất nhiều phòng ban khác nhau mới có thể giải quyết được công việc. Nhưng, với mô hình tổ chức kiểu mới, khách hàng có thể giải quyết công việc thông qua một phòng duy nhất. Do vậy, yếu điểm không quan tâm và không nắm bắt được nhu cầu của khách hàng được khắc phục, mặt khác lại có thể có được sự phối kết hợp giữa các phòng ban khác nhau một cách nhịp nhàng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực để đáp ứng điều kiện hoạt động cạnh tranh gay gắt trong thời gian sắp tới. Xây dựng đội ngũ làm công tác khách hàng mang tính hệ thống.
- Kết hợp hài hòa, đồng bộ giữa công cụ lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng, phí thanh toán để đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
- Tích cực triển khai các đề án nhằm hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để bắt kịp với trình độ cộng nghệ ngân hàng của khu vực và trên thế giới.
- Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, dần dần tiến tới tách bạch hóa hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán ra khỏi hoạt động tác nghiệp ngân hàng.
1.2. Định hướng chung về hoạt động tín dụng của ngân hàng
Ngân hàng phấn đấu đạt được mức tăng trưởng dư nợ tín dụng hàng năm từ 18 - 20% trở lên, trong đó tín dụng xuất nhập khẩu chiếm 50-60% tổng dư nợ. Thị phần thanh toán xuất nhập khẩu chiếm 29%, tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ đến hạn giảm xuống dưới 2%.
● Ngân hàng chủ trương đa dạng hóa các sản phẩm, loại hình tín dụng. Phát triển cơ sở khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trên nền tảng một chính sách Marketing đồng bộ và hiệu quả. Định hướng khách hàng là nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng.
● Nâng cao chất lượng tín dụng thông qua việc chú trọng từ khâu thẩm định, giám sát tiền vay và kiểm tra, kiểm soát khi cho vay để tăng cường tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn từ 30 - 40% tổng dự nợ.
● TiÕp tục nâng cao chất lượng hoạt động mọi mặt với trọng tâm nâng cao chất lựong tài sản có, hiệu quả đồng vốn đầu tư,tiêu chuẩn hóa quy trình hoạt động và dịch vụ phục vụ khách hàng.
● Phát triển mạng lưới phủ sóng ở các đô thị lớn. Mở rộng hệ thống mạng lưới các chi nhánh cấp 1, cấp 2 vào phòng giao dịch phù hợp với nhu cầu phát triển hoạt động ngân hàng ở địa phương, tăng cường khả năng tiếp cận, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và doanh nghiệp, tăng cường tiếp xúc với các đối tượng có nhu cầu về vốn, nâng cao tư duy kinh tế thị trường, củng cố uy tín trong nước và trên trường quốc tế, tranh thủ tiếp cận các nguồn vốn ủy thác.
● Tiếp tục phát triển nguồn lực cho tương lai
1.3. Đính hướng trong công tác thẩm định tài chính dự án
● Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng phải đứng trên góc độ của người cho vay của Ngân hàng trong từng giai đoạn.
● Công tác thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong hoạt ngành và nhằm phục vụ hoạt động cho vay của ngân hàng trong từng giai đoạn.
● Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được phổ cập hóa trong toàn hệ thống với tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau.
● Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên,liên tục,toàn diện đối với tất cả các dự án xin vay trong quá trình cho vay từ xem xét dự án cho đến giai ngân,thu nợ,thu lãi.
● Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng phải được tiến hành theo một quy trình khoa học,hiện đại sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ ngân hàng.
● Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng đặc thù cho hoạt động cho vay của ngân hàng,duy trì phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh thương trường.
● Công tác thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức ,chỉ đạo điều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay.
● Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo.khả năng phân tích, tổng hợp và phải thường xuyên được tổng kết, rút ra kinh nghiệm ,bài học để hoàn thiện và phát triển.
2. Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội
Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, đáp ứng được nhưng yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động cho vay tại Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội nói riêng và của nền kinh tế nói chung thì điều đầu tiên và trước hết là phải có một nhận thức và định hướng đúng.
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư ngày càng được khuyến khích, mở rộng. Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư ngày càng trở nên qua trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng khoản vay của ngân hàng. Từ thực trạng hoạt động công tác thẩm đinh tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội, chúng ta thấy rõ một vấn đề nổi lên là cần nhanh chóng nâng cao và hoàn thiện công tác này.
2.1. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định dự án một cách hợp lý,khoa học và hiệu quả nhất
● Về phương pháp thẩm định:
Phương pháp thẩm định có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định đến việc dự án có hiêu quả, khả thi hay không. Do đó cán bộ thẩm đinh cần lựa chọn phương pháp thẩm định có hiệu quả nhất, hợp lý và phủ hợp nhất với hoàn cảnh thực tế.
Phương pháp thẩm định của ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội cũng khá là hợp lý nhưng cần phải được tiêu chẩn hóa để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Ngoài các chỉ tiêu NPV, IRR đang được sử dụng, nên được sử dụng thêm các chỉ tiêu khác để có thể đánh giá tổng quát hơn, bên cạnh đó cũng cần chú ý tới sử dụng phương pháp mô phỏng tình huống, phân tích điểm hòa vốn để xét rủi ro của dự án. Từ đó sẽ giúp ngân hàng có được nhưng kết quả chính xác hơn, đưa ra những quyết định hợp lý hơn.
Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội tiếp nhận các hồ sơ vay vốn ở những lĩnh vực khác nhau, đa dạng ngành nghề. Vì vậy phương pháp xây dựng cũng nên được xây dựng cho từng loại dự án khác nhau, thuộc những ngành nghề, lĩnh vự khác nhau để có thể tiện lợi cho quá trình thẩm định cũng như theo dõi dự án. Chẳng hạn không thể đòi hỏi các tiêu chuẩn trong một dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hoàn toàn giống như các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp.
Là một ngân hàng thế mạnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, với nền kinh tế hội nhập hiện nay, bên cạnh các dự án đầu tư trong nước, Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội sẽ phải thẩm định dự án đầu tư nước ngoài vì vậy cần phải xây dựng phương pháp sát với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
● Về nội dung thẩm định:
Đi kèm với phương pháp cũng cần hoàn thiện hơn nữa các nội dung thẩm định tài chính dự án để có thể có những kết quả chính xác nhất. Nội dung thẩm định cần hoàn thiện ở những mặt sau:
- Thẩm định tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ:
Trong tính toán tổng vốn đầu tư của dự án, cán bộ thẩm định của ngân hàng thường chỉ để ý đến đơn giá do chủ đầu tư đưa ra mà ít có sự so sánh với giá thị trường. Do đó, nên xem xét kỹ về các số lieu giá cả thiết bị, đơn giá nguyên vật liệu tính cho tài sản lưu động ròng…có sát với thị trường không. Chi nhánh nên xây dựng thành một khung giá với những dự án có tài sản cố định và tài sản lưu động tương đối giống nhau để rút ngắn được thời gian tính toán cho cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó phải thường xuyên cập nhật thông tin thị trường để khung giá đặt ra luôn sát với thị trường. Các biến động về lạm phát hay tỷ giá hối đoái cũng cần được tình đến để ước lượng khoảng dự phòng phù hợp. Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội cũng cần có sự so sánh đối chiếu giữa những dự án thuộc cũng lĩnh vực, loại hình được thực hiện bởi các công ty khác để tăng tính khác quan trong tính vốn đầu tư.
Về phía nguồn tài trợ, Ngân hàng cần xác định được các nguồn tài trợ và vị trí của từng nguồn tài trợ đối với dự án. Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội cần phải thận trọng trong khi ra quyết định cho vay nếu xét trong trường hợp dự án không thành công mà ngân hàng chỉ được trả nợ sau khi các nguồn khác được thanh toán. Vốn chủ đầu tư đóng góp trong dự án cần đặc biệt quan tâm độ trách nhiệm của chủ đầu tư có không chỉ là tấm đệm an toàn cho dự án mà còn có ảnh hưởng đến thái độ trách nhiệm của chủ đầu tư trong thực hiện dự án. Vốn của chủ đầu tư nên quy định phải trên một tỷ lệ nhất định trong tổng vốn đầu tư. Qua đó, chi nhánh có thể giảm thiểu rủi ro với khoản cho vay, tránh được những tổn thất.
Đối với các nguồn khác, ngân hàng phải xem xét tính khả thi và chắc chắn của từng nguồn, đảm bảo là trong quá trình thực hiện dự án không bị đình trệ vì thiếu vốn.
- Thẩm định dòng tiền của dự án:
Một trong những yếu tố quyết đinh tới tính chính xác của NPV cũng như các chỉ tiêu tài chính khác là việc tính toán dòng tiền chênh lệch chính xác. Muốn vậy cần phải tính chính xác các yếu tố doanh thu chi phí từng năm của dự án cũng như thời điểm xuất hiện các dòng doanh thu, chi phí đó.
Chi nhánh cần phải xác định được rõ ràng mọi nguồn tạo ra doanh thu cho dự án khi tính toán doanh thu của dự án, bao gồm: doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thù từ sản phẩm phụ…chác tính toán một cách khái quát. Phải xem xét cẩn thận đến đơn giá của sản phẩm do chủ đầu tư đưa ra: có hợp lý không, có tính cạnh tranh trên thị trương không băng việc so sánh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường, đặc biệt các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài.
Bên cạch đó, chi nhánh cần cú ý tới chi phí khấu hao và chi phí trả lãi khi tính chi phí của dự án. Cán bộ thẩm định cần xem xét phương pháp khấu hao được áp dụng có hợp lý và hợp pháp không; tổng mức khấu hao của các năm có bằng nguyên giá hay không và tính cả các khấu hao của các thiết bị của doanh nghiệp vừa dùng phục vụ dự án vừa dùng phục vụ cho mục đích khác của doanh nghiệp. Chính sách khấu hao của doanh nghiệp có phù hợp với quy định của luật pháp hay không. Chi nhánh cần xây dựng một danh mục những tài sản cố định và tỷ lệ khấu hao hợp lý tương ứng với mỗi tài sản đó tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định đối chiếu khi tiến hành thẩm định. Đối với chi phí trả lãi cần xem xét thận trọng trong trường hợp dự án đi vay theo lãi suất biến đổi.
Một vấn đề nữa cần chú ý khi tính toán dòng tiền của dự án là phải tính tới chi phí cơ hội vì hiện nay chi phí này vẫn chưa được Chi nhánh đưa vào khi tính toán thẩm định dòng tiền.
- Thẩm định lãi suất chiết khấu:
Ngân hàng hiện nay đang lấy lãi suất cho vay trung vào dài hạn cộng với một phần bù rủi ro nhất định làm lãi suất chiết khấu. Đây là cách tính tương đối đơn giản so với việc phải tính chi phí vốn trung bình của dự án. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phần bù rủi ro được cộng thêm là bao nhiêu là hợp lý và đối với mỗi dự án khác nhau thuộc các lĩnh vực khác nhau thì phần bù rủi ro cũng phải khác nhau. Do đó, chi nhánh cần xây dựng một phương pháp xác định lãi suất chiết khấu một cách hợp lý.
Trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam còn chưa hoàn hảo thì việc tính toán chi phí vốn trung bình là rất khó khăn nên trước mắt chi nhánh vẫn có thể sử dụng cách cũ để xác định lãi suất chiết khấu nhưng cần tính toán phần bù rủi ro hợp lý cho từng loại hình dự án cụ thể. Tuy nhiên trong tương lai, khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển thì cần xây dựng một cách tính chính xác hơn nhằm đảm bảo sự hợp lý giữa lợi nhuận thu được và rủi ro phải chấp nhận.
- Thẩm định rủi ro của dự án:
Bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, Chi nhánh cần áp dụng các phương pháp phân tích tình huống và phân tích mô phỏng để xác định rủi ro của dự án. Việc sử dụng các phương pháp này đòi hỏi khối lượng tính toán rất lớn nên nhất định phải có phần mềm chuyên dụng để xử lý. Các tình huống được đặt ra để phân tích cần hợp lý, tránh tình trạng đưa ra nhiều tình huống nhưng vẫn không đánh giá được rủi ro của dự án.
2.2. Giải pháp về quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho công tác thẩm định có hiệu quả. Với mỗi ngân hàng thì sẽ có quy trình thẩm định riêng biệt tùy theo quy định. Quy trình thẩm định của ngân hàng được quy định trong cẩm nang tín dụng do Hội sở chính ban hành. Tuy nhiên, nhìn chung việc hướng dẫn đối với công tác thẩm định còn chung chung, chưa cụ thể cho các loại dự án như dự án công nghiệp, dự án cơ sở hạ tầng…
Việc phân cấp trong quá trình thẩm định sẽ tạo điều kiện chuyên môn hóa các đơn vị nhưng cũng sẽ gây khó khăn cho công tác thẩm định bởi phòng đầu tư dự án trực tiếp thẩm định tài chính trong khi chỉ có phòng quan hệ khách hàng mới trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Nếu không có sự phối hợp tốt và chặt chẽ giữa hai phòng ban này thì công tác thẩm định sẽ không mang tính chính xác được. Chính vì vậy trong thẩm định cần có sự thống nhất, hỗ trợ giữa các phòng ban với nhau, đảm bảo phân cấp trong thẩm định một cách có hiệu quả.
Cần giám sát chặt chẽ quá trình thẩm định nhằm tránh những sai sót có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, công tác thẩm định tài chính cũng được thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau. Những giai đoạn càng về sau thì độ chính xác của các dữ liệu càng cao hơn. Ở cuối mỗi giai đoạn thì người thẩm định cần đưa ra kết luận bác bỏ dự án hay tiếp tục phân tích để tránh tình trạng dự án không hiệu quả nhưng lại gây lãng phí thời gian cho các cán bộ phân tích.
Hiện nay, có nhiều ngân hàng diễn ra tình trạng thời gian thẩm định kéo dài, trong khi đó lại không đưa ra câu trả lời rõ ràng cho khách hàng. Do đó dễ dẫn tới tình tràng dự án bị treo, không có vốn để thực hiện. Vì vậy đối với công tác thẩm định tài chính là công tác thẩm định quan trọng nhất cần quy định rõ thời gian cho khách hàng.
2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đội ngũ nhân viên thẩm định
Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động thẩm định, hoạt động mà kết quả của nó phụ thuộc rất lớn vào trình độ, kinh nghiệm, những ý kiến chủ qua của người cán bộ thẩm định. Chính vì thế phải không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định, kết hợp với rèn luyện tư cách đạo đức.
Trước hết, Chi nhánh phải thực hiện tuyển dụng, chọn những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đạu đức, sức khỏe, nhiệt tình với công việc, có ý thức và khả năng tiếp thu tốt những kiến thức nghiệp vụ chuyên môn ngày càng cao, Công việc của cán bộ thẩm đinh có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư hay không đầu tư, nếu một quyết định sai lầm là do sai sót của cán bộ thẩm định, cũng với sự thiếu đi sâu, đi sát của cán bộ lãnh đạo đều có thể gây hiệu quả đáng tiếc. Vì vậy, việc tiến hành tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng ở chi nhánh là việc là rất quan trọng đối với công tác kinh doanh và cân phải được tiến hành khẩn trương.
Trên cơ sở tiêu chuẩn hóa cán bộ,ngân hàng nên có hướng đào tạo ,đào tạo lại, tuyển chọn và sử dụng phù hợp với những yêu cầu cơ bản sau:
- Có năng lực, trình độ chuyên môn để phân tích, tổng hợp các vấn đề được nêu trong hồ sơ dự án, nhận thức rõ ảnh hưởng của các yếu tố bên trong và bên ngoài tới việc thực hiện dự án đầu tư theo kế hoạch đã được xác định để xác định mức độ khả thi của dự án.
- Biết thu thập, xử lý các thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá, thẩm định.
Nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của ngành, của địa phương có liên quan đến sản phẩm của dự án, đến dự án của doanh nghiệp.
- Có bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm trong việc thẩm định dự án,phong cách làm việc khẩn trương,khoa học.Có tinh thần học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ nhất là nghiệp vụ thẩm định, trình độ ngoại ngữ, tin học.
- Bố trí đủ cán bộ tín dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ công tác thẩm định được giao.
Ngân hàng nên tổ chức cho cán bộ thẩm định tham gia các khóa tập huấn, đào tạo để hoàn thiện hơn nữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Ngoài việc cho cán bộ thẩm định tham gia các lớp tập huấn do trung ương tổ chức, chi nhánh có thể tự tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ thẩm định, mời các chuyên gia, các giáo sư của các trường đại học về tham gia giảng bài, trao đổi để gắn hơn nữa lý thuyết với thực tế.
Ngoài ra ngân hàng cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi, khen thưởng thỏa đáng với các cán bộ tín dụng giỏi, làm việc có hiệu quả về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời kỷ luật nghiêm minh các cán bộ có những hành vi tiêu cực.
Nhưng để đem lại hiệu qua cao cho công tác thẩm định thì ngoài việc củng cố nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định thì chi nhánh còn phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ hơn nữa nhằm ngăn ngừa những sai sót trong việc tính toán hiệu quả dự án, việc tuân thủ các quy chế, thủ tục trong quá trình thẩm định cũng như ngăn chặn những hành vi sai lệch về đạo đức. Tuy nhiên công tác tổ chức điều hành thẩm định phải được tiến hành sao cho các dự án được thẩm định ngày càng nhanh nhưng vẫn đảm bảo chất lượng.
Ngoài ra, chi nhánh cẩn chú trọng xác lập mối quan hệ về thẩm định với các NHTM khác để có thể trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Hàng quý tổ thẩm định dự án nên có các báo cáo tổng hợp tình hình thẩm định các dự án được thực hiện trong kỳ, tổ chức đánh giá, rút ra kinh nghiệm cho từng cán bộ thẩm định để chất lượng của hoạt động thẩm định cũng như thẩm định tài chính dự án ngày càng được nâng cao.
2.4.Hoàn thiện quy trình thu thập và xử lý thông tin
Thông tin là những yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong quá trình thẩm định tài chính dự án về đơn vị vay vốn và về những yếu tố khác. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến công tác thẩm định tại chi nhánh chưa đạt kết quả cao.Nó là một trong những biện pháp quan trọng nhất hiện nay đối với chi nhánh vì số lượng và chất lượng thông tin đang là khâu yếu nhất,gây ra các hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án.
Khi chủ đầu tư dự án xin vay vốn thì việc thu thập thông tin để phân tích , thẩm định là một công việc bắt buộc và vô cùng quan trọng.Hiện nay,các dự án xin vay hoặc là không có đủ thông tin để dự kiến chính xác các yếu tố tính toán hoặc là được cố ý làm cho tính khả thi của nó không đúng như thực tế để tranh thủ được chấp nhận vay vốn rất phổ biến hiện nay do đó nếu ngân hàng không có đủ thông tin để kiểm tra, đánh giá thẩm định thì khi cho vay khả năng rủi ro do không thu hồi vốn đúng hạn hoặc mất vốn sẽ rất cao.
Thông tin cần được tìm hiểu và thu thập theo các yếu tố cơ bản sau:
- Thông tin về tính năng, đặc điểm hoạt động của máy móc thiết bị,công nghệ sản xuất… để đánh giá công suất, sản lượng đảm bảo cho doanh thu của dự án cũng như góp phần thẩm định chi phí sản xuất kinh doanh( công suất thiết bị càng lớn thì khả năng hạ giá thành càng nhiều).
- Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh,về thị trường nguyên lieu…để thẩm định giá cả tiêu thụ sản phẩm,chi phí sản xuất kinh doanh,doanh thu.
- Thông tin về biến động giá cả,về tỷ giá hối đoái để bổ sung cho việc thẩm định giá bán sản phẩm ,hạch toán chi phí kinh doanh,xác định lãi suất ngân hàng( lãi suất ngân hàng là một trong những yếu tố để tính toán lãi suất chiết khấu).
Ngoài những vấn đề về thông tin cần thu thập, chi nhánh cần nhận thấy rằng việc phân tích xu hướng và tình hình kinh tế vĩ mô nhiều khi lại là rất quan trọng vì nó chi phối, ràng buộc các tình hình cụ thể. Đó là tình hình về cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước, tình hình phát triển công nghệ…nói xa hơn nữa là các động thái kinh tế đặc trưng của khu vực và thế giới và đặc biệt là lộ trình hội nhập của nền kinh tế trong nước vào nền kinh tế thế giới.
Vấn đề đặt ra là phải tổ chức, thu thập, khai thác các thông tin nói trên. Chi nhánh Ngoại thương Hà Nội đã quan tâm xây dựng hệ thống thông tin phòng chống rủi ro song hệ thống này do nhiều lý do khác nhau mà vẫn còn những hạn chế nhất định.Bên cạnh việc chúng ta phải tăng cường hoàn thiện hệ thống này,mặt khác phải thu thập thông tin qua nhiều kênh khác nhau. Chi nhánh cần phải chọn lựa, khai thác các kênh đầy đủ vừa chính xác lại vừa hiệu quả.
Các kênh thông tin mà chi nhánh cần tham khảo, đó là:
+ Kênh thông tin của các nghành chuyên môn,quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực mà dự án đang đàu tư.
+ Kênh thông tin từ các báo cáo, nghiên cứu và hội thảo khoa học chuyên đề về từng ngành nghề,các dự án cùng loại.
+ Kênh thông tin của các phương tiện truyền thông, tin tức, báo chí.
Đối với một loại thông tin thì có nhiều nguồn khác nhau để kiểm tra, đảm bảo tính khách quan của thông tin. Vì thế chi nhánh cần kiểm tra thông tin một cách độc lập nhằm đảm bảo các thông tin sử dụng trong quá trình thẩm định là chính xác và đầy đủ.
Với các thông tin tài chính do bên khách hàng cung cấp nên được kiểm tra bởi các hãng kiểm toán độc lập để đảm bảo tính trung thực, khách quan. Chi nhánh cũng cần hợp tác với các chi nhánh khác trong cùng hệ thống Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam cũng như các ngân hàng ngoài hệ thống để nhằm xây dựng được hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng.
2.5.Giải pháp về trang thiết bị công nghệ
Trang thiết bị công nghệ là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc hoàn thành tốt một quá trình thẩm định tài chính dự án. Chính vì thế cần phải đầu tư thích đáng cho yếu tố công nghệ và thiết bị phục vụ công tác thẩm định. Đối với ngân hàng, việc thường xuyên nâng cấp thiết bị, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động thẩm định,cụ thể:
- Nâng cấp phần cứng, đồng thời cập nhật những phần mềm mới nhất phục vụ tính toán và phân tích các chỉ tiêu tài chính. Chi nhánh cũng cần tiếp tục bổ sung về thiết bị công nghệ cho cả chi nhánh nói chung và bộ phận thẩm định nói riêng.
- Xây dựng mạng thông tin nội bộ với cơ sở dữ liệu phong phú, quản lý khoa học để thực hiện tốt việc phối hợp, hỗ trợ giữa các phòng ban với phòng thẩm định lấy thông tin về khách hàng thông qua quan hệ tài chính của khách hàng với các bộ phận khác như phòng kế toán,phòng thanh toán quốc tế.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin về khách hàng, khách hàng tiềm năng của Ngân hàng,tìm kiếm và bổ sung thường xuyên cho kho dữ lieu này để khi cần cho công tác thẩm định hoặc tái thẩm định là có thể sử dụng được ngay.
- Xây dựng và hoàn thiện một quy trình thẩm định riêng của chi nhánh một cách chặt chẽ và hợp lý hơn
2.6.Giải pháp về tổ chức điều hành
Các dự án xin vay vốn đưa đến ngân hàng có quy mô rất đa dạng, việc xem xét,sắp xếp,phân công dự án cần phải căn cứ vào năng lực, sở trường của các mỗi người để phát huy thế mạnh của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên bố trí những dự án có quy mô lớn,tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt,kinh nghiệm. Hiện nay nhiệm vụ thẩm định đối với các dự án là rất lớn và đòi hỏi cao nhưng ở ngân hàng ngoại thương Hà Nội mới chỉ coi là một tổ. Vì vậy việc thành lập một phòng thẩm định chuyên trách là một vấn đề mà lãnh đạo chi nhánh nên cân nhắc,
Chi nhánh cần quy định chi tiết,cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định.Ngân hàng cũng nên kiểm tra và cân nhắc lại đối với những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu công việc.
Cần hoàn thiện hơn trong toàn bộ hệ thống thẩm định và tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng thẩm định với các phòng ban khác.
Chi nhánh cần tiến hành hoạt động thanh tra,kiểm tra để đảm bảo công tác thẩm định tài chính dự án nhằm thực hiện hoạt động thẩm định theo đúng quy trình,các chuẩn mực đã đề ra. Công việc này cần được tiến hành từ những dự án nhỏ bởi sự chủ quan,tiến hành qua quýt đối với những dự án nhỏ này nhiều khi lại dẫn đến không đảm bảo chất lượng trong quá trình thẩm định gây ra hậu quả đáng tiếc.
Công việc kiểm tra, giám sát phải được thực hiện trên mọi mặt từ việc tuân thủ các quy định chung tới năng lực chuyên môn và đạo đức của cán bộ thẩm định.
Song bên cạnh với việc tiến hành kiểm tra,giám sát trong quá trình thẩm định, Chi nhánh cũng cần theo dõi tiến hành thu nợ, đặc biệt quan tâm tới những trường hợp dự án được đánh giá là tốt nhưng kết quả lại không trả được vốn và lãi đúng hạn,phải tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết các nguyên nhân đó.
Để hoạt động thẩm định ngày càng hoàn thiện thì định kỳ phòng thẩm định cần có báo cáo thẩm định để Ban Giám đốc nắm bắt được tình hình hiện tại và có những định hướng phát triển cho tương lai.
3. Kiến nghị
3.1. Kiến nghị với chính phủ
- Việc đầu tiên cần xem xét đó là vấn đề việc đẩy mạnh công tác cải cách hành chính của Chính phủ, đặc biệt cần phải xem xét đến các thủ tục hành chính quá rườm rà,gây khó khăn trong việc xin phép đầu tư,lập dự án của chủ đầu tư bởi điều đó cũng làm ảnh hưởng tới quá trình thẩm định của ngân hàng.
- Hiện nay, các doanh nghiệp thường thiếu trung thực trong việc công tác kế toán tài chính khiến cho các báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp cung cấp cho Ngân hàng không đáng tin cậy gây khó khăn và thiếu chính xác trong quá trình thẩm định ,làm ảnh hưởng tới các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dụ án cũng như của doanh nghiệp mà ngân hàng đang thẩm định
- Chính phủ cần yêu cầu các Bộ,ngành xây dựng,công khai hệ thống thông tin về những biến động thường xuyên trong lĩnh vực mình quản lý,giúp ngân hàng có những thông tin chính xác,đáng tin cậy để tham khảo trong quá trình thẩm định các dự án trong lĩnh vực đó.
- Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng cho phù hợp với hoạt động của mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác mọi tiềm năng về lao động, cơ sở vật chất…tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư,tức là có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư thích hợp.Đồng thời Nhà nước cũng phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng để phù hợp với đường lối phát triển kinh tế- xã hội,thông lệ và chuẩn mực quốc tế,trước hết là các cam kết của chính phủ về hội nhập quốc tế và mở cửa thị trường tài chính.
3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các văn bản để hệ thống hóa một cách đầy đủ về hoạt động của thẩm định tài chính dự án sao cho phù hợp với tình hình thực tế của nước ta hiện nay.Ngân hàng có thể ban hành một “ cẩm nang” chung về quy trình, nội dung, phương pháp thẩm định…Tổ chức các lớp đào tạo, các buổi hội thảo, hội nghị, định kỳ có tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm cho cán bộ ngành trong toàn hệ thống để làm bài học trong lĩnh vực đầu tư.
Đầu tư nâng cao chất lượng phục vụ của trung tâm thông tin tín dụng ( CIC), làm cho trung tâm thực sự trở thành nguồn cung cấp thông tin nhanh chóng hiệu quả và toàn diện cho các Ngân hàng TM trong quá trình hoạt động.
Tăng cường vai trò quản lý của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng TM theo hướng chặt chẽ, hiệu quả mà không bó buộc, bằng việc áp dụng các công cụ mang tính thị trường hơn như công cụ thị trường mở…
3.3. Đối với chủ đầu tư
Yêu cầu các chủ đầu tư cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa với phía ngân hàng trong việc thực hiện dự án. Cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho cán bộ ngân hàng một cách nhanh chóng và đảm bảo tính trung thực của các thông tin. Từ đó có thể cùng với Ngân hàng đưa ra những kế hoạch hpj lý và hiệu quả cho dự án. Các chủ đầu tư cũng cần nâng cao năng lực và thẩm định dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định của Bộ kế hoạch và đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án.
Các chủ đầu tư dự án cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của các công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự hiệu quả. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu chi tiết trên các khía cạnh như thị trường, kỹ thuật, tài chính của dự án đầu tư và đảm bảo thực hiện đầu tư theo đúng nội dung luận chứng kinh tế kỹ thuật được phê duyệt.
Các dự án phải được xác định đầu tư theo đúng tổng vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm nhiều khối lượng nhưng tính ít để dễ duyệt, khiến trong quá trình xây dựng xẩy ra thiếu vốn cần phải bổ sung, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và tiến độ xây dựng.
3.4. Kiến nghị với NHNT Việt Nam
- NHNT Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện một quy trình thẩm định dự án hoàn chỉnh, chặt chẽ áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NHNT.
- Xây dựng chiến lược về phát triển hoạt động tài trợ dự án đối với hệ thống NHNT.
- Linh động hơn nữa trong việc trao quyền quyết định đầu tư dự án cho các chi nhánh.
C. KẾT LUẬN
Nền kinh tế đang phát triển rất mạnh mẽ không ngừng cả về chiều sâu và cả chiêu rộng. Sự sôi động đó thể hiện ngày càng rõ nét ở hoạt động đầu tư của các tổ chức, các doanh nghiệp, các đơn vị trong nền kinh tế. Để hoạt động đó ngày càng thu được hiệu quả thì hoạt động thẩm định tài chính dự án của các Ngân hàng TM là một yếu tố đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới quyết định đầu tư của các đơn vị,tổ chức vay vốn. Làm thế nào để sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nói chung,vốn tín dụng nói riêng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có ý nghĩa quyết định đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng.Tuy nhiên, đối với Ngân hàng Thương Mại Việt Nam và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng ,công tác thẩm định tài chính dự án mới được quan tâm trong mấy năm gần đây. Do đó, dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong quá trình thực hiện vẫn tồn tại những hạn chế cũng như cần tìm ra những giải pháp hợp lý để khắc phục tình trạng đó.
Hòa theo sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế,đặ biệt cùng với việc gia nhập WTO, làn sóng đầu tư từ trong và ngoài nước đang rất mạnh mẽ. Điều đó làm cho nhu cầu tài trợ vốn từ các ngân hàng ngày càng lớn và được mở rộng hơn,đó là cơ hội lớn cho các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, cơ hội đó cũng sẽ chia đôi đôi với các ngân hàng nước ngoài,điều đó sẽ gây ra sự cạnh tranh gay gắt giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Từ thực tế đó buộc các ngân hàng trong nước ngày càng phải hoàn thiện mình hơn nữa, nhanh chóng khắc phục các khiếm khuyết và nâng cao hơn quy trinh công tác hoạt động để tăng cường vị thế và uy tín với khách hàng. Có như vậy các ngân hàng trong nước mới dành được những dự án lớn và có chất lượng. Một trong những giải pháp quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu đó là không ngừng cải tiến,nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cùng với những kiến thức đã học được trong quá trình học tập tại trường, em đã tìm hiểu về tình hình thực tế công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội cùng với một ví dụ điển hình về vấn đề thẩm định dự án cụ thể, từ đó mạnh dạn nêu ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tạo Chi nhánh. Tuy nhiên do những hạn chế về trình độ và thiếu kinh nghiệm thực tế cũng như thời gian tìm hiểu ngắn cùng một số hạn chế khác khiến nội dung của chuyên đề thực tập hẳn sẽ còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em kính mong sẽ nhận được sự góp ý, phê bình từ các thầy cô giáo cùng tất cả các cô, các bác,các anh chị làm việc tại ngân hàng để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo trinh thẩm định tài chính dự án – PGS. TS Lưu Thị Thiên Hương- NXB Tài chính
2/ Giáo trình Lập Dự Án Đầu Tư- PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt –NXB Thống Kê,2005
3/ Nguyễn Xuân Thuỷ(1996)- Quản trị dự án đầu tư - Nhà xuất bản Thống kê.
4/ Phạm Thế Trung(2001) – Phân tích và quản lý các dự án đầu tư - Nhà xuất bản Thống kê
5/ Một số báo cáo và tạp chí chuyên ngành Tài chính Ngân hàng các năm 2005,2006,2007,2008:
+ Tạp chí tài chính, tạp chí ngân hàng, tài chính thông tin tài chính...
+ Thời báo tài chính, thời báo ngân hàng...
6/ Báo cáo Hoạt động kinh doanh năm 2002, VCB
7/ Mẫu báo cáo thẩm định dự án trung và dài hạn, VCB
8/ Tài liệu thẩm định dự án “Đầu tư mới dây chuyền sản xuất tôn tráng kẽm dạng cuộn và tấm tại công ty Thái Nam”.
9/ Quy trình thẩm đình tài chính dự án hoạt động cho vay tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ
10/ Quy trình thẩm đình tài chính dự án hoạt động cho vay tín dụng đối với khách hàng là các tổ chức
11/ Số liệu tổng hợp tín dụng ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội
12/ Tập san Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội 2008
13/ Quy định của Ngân hàng Ngoại Thương về cho vay đối vói khách hàng
14/ Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội các năm 2006,2007,2008
15 / Các tài liệu tham khảo khác:
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu 1.1: Vốn huy động của ngân hàng qua các năm (không bao gồm vốn chủ sở hữu) 9
Biểu 1.2 : Tổng dư nợ tại Ngân hàng Cổ phần Thương Mại Việt Nam- chi nhánh Hà Nội qua các năm 13
Bảng 1.1 : Bảng số liệu về một số hoạt động của Ngân hàng năm 2007 15
Bảng 2.1 Bảng phân tích tổng hợp hiệu quả - khả năng trả nợ của dự án 34
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp 43
Bảng 2.3: Tình hình công nợ của Công ty 45
Bảng 2.4 Bảng khả năng thanh toán của công ty 46
Bảng 2.5: Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: 47
Bảng2.6 : Bảng cân đối trả nợ 53
Biểu 2.1: Tỷ trọng dư nợ theo loại tiền 58
Bảng 2.2: Dư nợ theo ngành nghề kinh doanh 58
Bảng 2.3: Tỷ trọng dư nợ theo ngành nghề kinh doanh (số liệu bảng trên) 59
Bảng 3.4. Tình hình nợ xấu VCB tại thời điểm 12/2000 và 1/2001 62
Bảng 3.5. Tỷ lệ nợ quá hạn theo thành phần kinh tế. 62
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
+ NH : Ngân hàng
+ TMCP: Thương Mại Cổ Phần
+ NT : Ngoại Thương
+ NH TMCP NT: Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương
+ NHNT: Ngân hàng Ngoại Thương
+ HĐTD : Hội Đồng Tín Dụng
+ KHCB: Khấu hao cơ bản
+ TKTG: Tài khoản trung gian
+ HTPT: Hỗ trợ phát triển
+ DNNN: Doanh nghiệp Nhà Nước
+ TNHH : Trách Nhiệm Hữu Hạn
+ CBCNV : Cán Bộ Công Nhân Viên
+ DAĐT : Dự án Đầu tư
+ SXKD; Sản xuất kinh doanh
+ NSNN: Ngân sách Nhà Nước
+ VLĐ: Vốn Lưu Động
+ CNV: Công nhân viên
+ TSCĐ: Tài Sản cố định
+ CSH; Chủ sở hữu
+ VCB: Vietcombank
+ VCBTW : Vietcombank Trung Ương
+ VCBHN : Vietcombank Hà Nội
+ NHNN : Ngân hàng Nhà Nước
+ NHTM: Ngân hang Thương Mại
+ QLTD : Quản lý tín dụng
+ TW : Trung Ương
PHỤ LỤC
Công ty con ở trong nước:
+ Công ty Cho thuê Tài chính Vietcombank - VCB Leasing
+ Công ty TNHH Chứng khoán Vietcombank –VCBS
+ Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản Vietcombank - VCB AMC
+ Công ty TNHH Cao ốc Vietcombank 198 -VCB Tower
Công ty con ở nước ngoài:
Công ty Tài chính Việt Nam – Vinafico Hongkong
Hai văn phòng đại diện tại Singapore và Paris
Ba Công ty liên doanh:
+ Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank – VCBF
+ Ngân hàng Liên doanh ShinhanVina
+ Công ty Liên doanh TNHH Vietcombank – Bonday - Bến Thành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22000.doc