Chuyên đề Hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam

Hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử là một phần quan trọng trong quá trình đổi mới và hiện đại hoá NHCTVN. Chuyên đề đã trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển hệ thống thanh toán điện tử của NHCT. Chuyên đề đã đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử của NHCTVN. Các giải pháp, kiến nghị đã đề cập về mặt văn bản chế độ, cơ sở pháp lý, biện pháp kỹ thuật-nghiệp vụ cả về vấn đề trước mắt cũng như lâu dài. Nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán điện tử là vấn đề mới, phức tạp dựa trên nền tảng công nghệ tin học và viễn thông liên tục phát triển mạnh mẽ, thay đổi nhanh chóng nên chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót nhưng tác giả hy vọng rằng với chuyên đề nghiên cứu này sẽ đóng góp vào quá trình hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHCTVN trong quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước.

doc66 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiệu quả nhất là hệ thống đã đáp ứng được mục tiêu mở rộng mạng lưới thanh toán trong và ngoài hệ thống. Chương trình được xử lý tích hợp, tự động cho việc thanh toán song phương với các NHTM khác với khối lượng thanh toán lớn, không tốn kém nhiều nhân lực, nhiều thời gian và ách tắc trong quá trình thanh toán. Đồng thời mở rộng thanh toán trong hệ thống đến các quỹ tiết kiệm và phòng giao dịch. 2.3.2. Hệ thống thanh toán quốc tế và chuyển tiền điện tử ngoại tệ trong hệ thống NHCTVN Trong những năm trước đây, do hoạt động thanh toán quốc tế của NHCTVN còn chưa phát triển, việc truyền nhận thông tin đối với các giao dịch TTQT giữa NHCTVN với các ngân hàng, các tổ chức tài chính khác và ngược lại đều chủ yếu được thực hiện bằng hình thức gửi thư hoặc thông qua hệ thống TELEX. Đầu năm 1995, để đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động TTQT của toàn hệ thống, NHCTVN đã tham gia vào hệ thống thanh toán viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT). Đây là một hệ thống thanh toán cho phép các ngân hàng có thể gửi và nhận các bức điện liên quan trong giao dịch TTQT một cách nhanh chóng, trực tiếp và đảm bảo an toàn bằng cách sử dụng các mẫu điện được quy định cho từng loại nghiệp vụ cụ thể. Tham gia vào hệ thống thanh toán này mỗi ngân hàng được cung cấp một mã nhận dạng riêng để thực hiện giao dịch (gọi là SWIFTCODE), trong đó quy định hội sở chính của ngân hàng sẽ bao gồm 8 ký tự, các chi nhánh thành viên gồm 11 ký tự. Ví dụ SWIFTCODE của NHCTVN là ICBVVNVX, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là ICBVVNVX122, NHCT Đà Nẵng là ICBVVNVX480 … Hiện nay có thể nói 95% số lượng các bức điện sử dụng trong giao dịch TTQT của NHCTVN đã được thực hiện thông qua hệ thống SWIFT. Hình thức TELEX và gửi đường thư thường dùng trong trường hợp các ngân hàng chưa tham gia vào hệ thống SWIFT. Tại hội sở chính NHCTVN, bộ phận SWIFT được bố trí thành một tổ độc lập trực thuộc Tổng giám đốc NHCTVN. Hiện nay mọi giao dịch TTQT chuyển đi và nhận đến của hệ thống NHCTVN với các ngân hàng khác trong nước và nước ngoài, trừ các giao dịch phát sinh từ TKTG ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam liên quan đến các khoản chuyển tiền cho khách hàng trong hệ thống NHCT vẫn được NHNTVN thực hiện giao nhận bằng cách trả báo có vào ngày làm việc hôm sau, còn lại đều được gửi và nhận thông qua hệ thống SWIFT. Để tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy nhanh chóng tốc độ giao dịch, thanh toán của các chi nhánh NHCT trong hoạt động TTQT, Ban lãnh đạo NHCTVN đã cho đăng ký SWIFT giao dịch của tất cả các chi nhánh thực hiện TTQT với các ngân hàng trên thế giới từ năm 2001. 2.3.3. Thanh toán trong hệ thống hiện đại hoá ngân hàng (INCAS) Tháng 11/2003, NHCTVN chính thức triển khai hệ thống INCAS (giai đoạn 1) trong khuôn khổ dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán. Xây dựng các hệ thống thông tin quản lý quan hệ khách hàng và hệ thống quản lý nội bộ ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ mới. Mục tiêu của dự án nhằm xây dựng mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, đảm bảo sự phát triển lâu dài và hội nhập quốc tế của NHCT. Từng bước xây dựng hệ thống các sản phẩm dịch vụ tập trung vào khách hàng, đa dạng hoá các kênh phân phối sử dụng công nghệ mới. Đảm bảo quản lý và xử lý tập trung giao dịch khách hàng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý đáp ứng yêu cầu phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng theo khách hàng/nhóm khách hàng/đơn vị quản lý của ngân hàng, kiểm soát rủi ro… Sơ đồ 7: Mô hình tổ chức và chức năng mới Sơ đồ 8: Mô hình sàn giao dịch Hệ thống tập trung xây dựng một số nội dung nghiệp vụ sau: - Tiền gửi - Cho vay - Tài trợ thương mại - Chuyển tiền - Ngân quỹ - Nghiệp vụ khác * Nghiệp vụ tiền gửi: Định ra và triển khai các sản phẩm tiền gửi của ngân hàng, theo dõi phân tích đánh giá các nguồn tiền gửi để có kế hoạch kịp thời cho việc sử dụng vốn. * Nghiệp vụ cho vay: Thiết kế một hệ thống có các chức năng Thực hiện các nghiệp vụ cho vay; tạo sản phẩm và khai báo tham số để theo dõi món vay, phân tích quản lý các món vay theo khách hàng, ngành nghề, sản phẩm vay; theo dõi các món vay; lập báo cáo; trích lập phòng ngừa rủi ro. * Nghiệp vụ tài trợ thương mại: Xây dựng một hệ thống tích hợp, là module thực hiện việc tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động tài trợ thương mại, thanh toán xuất nhập khẩu và bảo lãnh của hệ thống NHCTVN. * Nghiệp vụ chuyển tiền: Xây dựng một hệ thống đảm bảo các hoạt động chuyển tiền của NHCTVN trong và ngoài nước thông qua giao diện với SWIFT và hệ thống thanh toán liên ngân hàng của NHNN. Đáp ứng đầy đủ các nghiệp vụ hiện tại của NHCTVN. Tổ chức thực hiện và duy trì các loại hình dịch vụ thanh toán: kiều hối, nhờ thu, séc du lịch… theo đúng các chuẩn quốc tế mà các ngân hàng hiện đại trên thế giới thực hiện. * Nghiệp vụ Ngân quỹ: Nghiệp vụ ngân quỹ (Treasury) là nghiệp vụ đầu tư và quản lý các nghiệp vụ trên thị trường mở, thị trờng liên ngân hàng và các nghiệp vụ mua bán, kinh doanh ngoại tệ. Hệ thống xây dựng bao gồm: Xử lý giao dịch; quản lý rủi ro; xử lý thanh toán (Back office); hạch toán kế toán; tham số; vấn tin; báo cáo; hỗ trợ đặt kế hoạch, ra quyết định và quản lý hồ sơ thông tin khách hàng (CIF). * Nghiệp vụ khác: Bao gồm các chức năng: kinh doanh, đại lý bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ; dịch vụ két; kinh doanh chứng khoán và uỷ thác đầu tư; dịch vụ tiền lương, thu thuế và các hoạt động khác. 2.3.4.Tình hình thực hiện thanh toán thẻ điện tử tại NHCTVN * Sản phẩm và dịch vụ thẻ điện tử do NHCTVN phát hành - Hệ thống ATM: sản phẩm này cung cấp cho khách hàng dịch vụ rút tiền mặt hoặc sử dụng các dịch vụ khác thông qua hệ thống ATM của NHCTVN. - Thẻ tín dụng: thẻ do các NHTM là thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế phát hành trên cơ sở tín chấp hoặc thế chấp bằng chứng từ có giá. Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền bằng hàng hoá dịch vụ trong phạm vi hạn mức tín dụng của mình được ngân hàng phát hành thẻ cấp. * Các loại thẻ NHCTVN chấp nhận thanh toán - Thẻ do các ngân hàng nội địa phát hành + Thẻ VISA + Thẻ MASTER + Thẻ ATM của NHCTVN phát hành + Thẻ tiền lẻ của NHCTVN phát hành - Thẻ do các ngân hàng nước ngoài phát hành + Thẻ VISA + Thẻ MASTER * Thực trạng phát hành và thanh toán thẻ a. Hệ thống ATM Tháng 10 năm 2001, NHCTVN là ngân hàng đầu tiên đưa hệ thống giao dịch tự động (ATM) đi vào hoạt động tại Việt Nam. Giai đoạn đầu, các máy ATM được triển khai tại Hà Nội, sau đó đến thành phố Hồ Chí Minh. Sang năm 2002, NHCTVN triển khai mở rộng tại Đà Nẵng và Hải Phòng. Đến tháng 3/2004 mạng lưới ATM đã mở rộng tại các tỉnh lớn như Thanh Hoá, Nghệ An, Ninh Bình, Khánh Hoà, Cần Thơ, Bình Dương. Các dịch vụ hệ thống ATM hiện cung cấp bao gồm: Dịch vụ rút tiền mặt, dịch vụ vấn tin số dư, dịch vụ vấn tin giao dịch, dịch vụ đổi PIN, dịch vụ thanh toán hoá đơn, chuyển khoản và chuyển lương cho doanh nghiệp. Việc ra đời hệ thống ATM đã góp phần tạo dựng hình ảnh của NHCTVN là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ. Khách hàng được tiếp cận, sử dụng công nghệ, phương tiện hiện đại, được đáp ứng các nhu cầu giao dịch với ngân hàng mà không bị hạn chế về thời gian và không gian. Tháng 11 năm 2003, NHCTVN chính thức triển khai hệ thống INCAS trong khuôn khổ dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng Thế giới tài trợ, trong đó ATM là một phần của hệ thống. Các dịch vụ do hệ thống ATM mới cung cấp gồm; dịch vụ rút tiền mặt, dịch vụ vấn tin số dư, dịch vụ vấn tin giao dịch, dịch vụ đổi PIN, dịch vụ thanh toán hoá đơn, chuyển khoản và chuyển lương cho doanh nghiệp, yêu cầu sao kê. Hệ thống ATM mới có đặc điểm hơn hệ thống cũ là được kết nối thẳng vào hệ thống tài khoản cá nhân của khách hàng nên việc xử lý các giao dịch sẽ đơn giản và nhanh hơn hệ thống ATM cũ. Bảng 4: Tình hình hoạt động của hệ thống ATM Năm 2004 2005 2006 Số máy ATM 150 225 380 Số thẻ phát hành 21.000 35.000 55.000 Doanh số thanh toán (triệu đồng) 95.000 130.000 180.000 Nguồn: Số liệu phòng thẻ và ngân hàng điện tử NHCTVN b. Thẻ VISA, MASTER NHCTVN bước vào thị trường thẻ tín dụng tương đối chậm so với các ngân hàng khác nhưng đã có những chiến lược tiếp cận và từng bước mở rộng chiếm lĩnh thị trường. NHCTVN đã triển khai thanh toán thí điểm 2 loại thẻ Visa và MasterCard từ tháng 2/2004, đến tháng 6/2004 đã chính thức thanh toán trực tiếp thẻ quốc tế Visa, MasterCard ở các chi nhánh trong toàn hệ thống. Điều đặc biệt, do có sự lựa chọn dung, phù hợp, NHCTVN là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam triển khai thanh toán theo chuẩn EMV, chuẩn công nghệ mới nhất hiện nay. Nhìn vào toàn cảnh thị trường thẻ ở Việt Nam hiện nay, rõ rang là hoạt động thẻ của NHCTVN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thời gian qua. Tuy nhiên, có thể thấy hoạt động này còn quá khiêm tốn và không tương xứng với tầm vóc, tiềm năng của một ngân hàng lớn. Với những thách thức rất lớn trong xu hướng mở cửa và hội nhập nền kinh tế trong nước và khu vực, với sự phát triển không ngừng của những ứng dụng công nghệ thông tin, để có thể đưa ra sản phẩm dịch vụ thẻ có khả năng cạnh tranh trên thị trường, NHCTVN cần nhanh chóng xây dựng chiến lược đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ tầng, công nghệ và nhân lực hơn nữa. 2.3.5. Thực trạng triển khai E-banking tại NHCTVN Online banking – E-banking – Internet banking là việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua các kênh liên lạc thông tin điện tử, kể cả thông qua mạng Internet. Ngân hàng trên mạng (Net-Only bank) là ngân hàng chỉ thực hiện các hoạt động của mình thông qua mạng Internet mà không có các đại lý cụ thể ngoài địa chỉ pháp lý của mình. Ở Việt Nam, dịch vụ E-banking đã được khởi động từ những năm 1999, từ khi Bộ thương mại chủ trì dự án Kỹ thuật thương mại điện tử và NHCTVN được chọn là thành viên của dự án, thực hiện nghiên cứu về thanh toán điện tử trong thương mại điện tử, NHCT cũng chính thức bắt tay vào xây dựng hệ thống giao dịch ngân hàng qua Internet. Ngân hàng đã xây dựng hệ thống Website riêng và sau một thời gian dài chuẩn bị, ngày 6/11/2002 NHCTVN chính thức triển khai và đưa vào dịch vụ mới ngân hàng Internet và là ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ này ở Việt Nam. Tuy nhiên mới chỉ dừng ở việc vấn tin số dư khách hàng. Tháng 12 năm 2003, cũng trong khuôn khổ hệ thống INCAS, NHCTVN đã đưa ra hệ thống internet banking mới với nhiều chức năng cung cấp cho khách hàng như sau: + Sao kê tài khoản, vấn tin số dư và giao dịch + Chuyển tiền + Thanh toán hoá đơn Hiện nay, NHCTVN đang triển khai hệ thống INCAS. Xây dựng các hệ thống thông tin quản lý quan hệ khách hàng và hệ thống thông tin quản lý nội bộ ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ mới. Hệ thống quản lý tập trung, giao dịch trực tuyến. Điều này đã tạo cho NHCTVN có một cơ sở nền tảng để phát triển mới và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. 2.3.6. Quyền lợi và nghĩa vụ của NHCTVN khi tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. 2.3.6.1. Quyền lợi. - Được sử dụng mọi dịch vụ thanh toán do hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng cung cấp. - Yêu cầu trung tâm thanh toán quốc gia xác nhận đã nhận được lệnh thanh toán do mình gửi và cung cấp các thông tin liên quan đến việc thực hiện lệnh thanh toán đó. - Khiếu nại trực tiếp các thành viên gây sai sót, chậm trễ trong quá trình thực hiện lệnh thanh toán với mức bồi thường giới hạn trong phạm vi số tiền phải chuyển và tiền phạt chậm trả theo chế độ quy định. - Yêu cầu đơn vị nhận lệnh bồi thường do lỗi chậm trễ thanh toán những khoản chuyển nợi có uỷ quyền hợp lệ. Mức bồi thường giới hạn trong phạm vi số tiền phải chuyển và tiền phạt chậm trả theo chế độ hiện hành. 2.3.6.2. Các nghĩa vụ. - Tuân thủ các quy định về việc lập và gửi lệnh thanh toán qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu và các nội dung liên quan đến lệnh thanh toán đó. - Phối hợp với trung tâm thanh toán quốc gia, các thành viên và đơn vị thành viên khác để xử lý các lỗi phát sinh trong quá trình vận hành hệ thống và chuyển sang hệ thống dự phòng. - Trường hợp NHCT trong vai trò là đơn vị khởi tạo vi phạm quy định về việc lập, gửi lệnh thanh toán các số liệu, nội dung trên lệnh thanh toán bị sai, dẫn đến thanh toán chậm trễ, mất tiền và gây tổn thất vật chất khác thì NHCT phải có trách nhiệm về những thiệt hại do mình gây ra. - Thực hiện các quy định về phí và quản lý trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. - Không tiết lộ hoặc cung cấp thông tin thu được qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng cho các đối tượng không có trách nhiệm liên quan. - Có trách nhiệm chia sẻ các khoản thiếu hụt đối với các thành viên khác trong trường hợp một thành viên bất kỳ bị thiếu vốn trong quyết toán bù trừ. 2.3.7. Tổ chức vận hành. NHCT sử dụng chương trình xử lý giao dịch CI-TAD do NHNN Việt Nam xây dựng. Khi phần mềm CI-TAD được cài đặt hệ thống sẽ tự động tạo sẵn một người quản trị, là người sẽ thực hiện công việc chung của hệ thống. Bàn thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHCT được phân cấp vai trò như sau: - Kế toán giao dịch (Originator): Kế toán giao dịch có chức năng cơ bản là nhập dữ liệu chuyển tiền vào máy tính để tạo nên một giao dịch mới. Người soạn thảo giao dịch có trách nhiệm và là người duy nhất có thể sửa đổi dữ liệu của giao dịch do chính mình tạo ra trong trường hợp kế toán liên hàng hoặc người duyệt cuối cùng phát hiện sai sót. - Kế toán liên hàng (Confirmer): Sau khi kế toán giao dịch và ghi lại thông tin, kế toán liên hàng sẽ bổ sung các yếu tố cho lệnh chuyển tiền và đồng thời kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ có liên quan, kiểm tra số liệu trong giao dịch. Nếu phát hiện ra sai sót thì kế toán liên hàng sẽ gửi trả lại người soạn thảo để sửa chữa. - Kiểm soát giao dịch-Người duyệt cuối cùng (Approver): Là người kiểm tra cuối cùng và ký duyệt trước khi giao dịch được chuyển đi. Mỗi người duyệt cuối cùng đều được đăng ký và quản lý tại trung tâm kiểm soát của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Trung tâm kiểm soát cấp cho mỗi người duyệt cuối cùng một mã người ký duyệt (Approver code) dùng để xác nhận mỗi giao dịch được gửi đi. Khi đóng vai trò là ngân hàng A: Quy trình luân chuyển, kiểm soát và lưu trữ chứng từ: Do đặc điểm của hoạt động ngân hàng là có nhiều nghiệp vụ, mỗi nghiệp vụ có một loại chứng từ riêng, số lượng khách hàng mở tài khoản nhiều, các giao dịch xảy ra thường xuyên liên tục nên làm cho chứng từ kế toán phát sinh tại NHCT không chỉ nhiều về chủng loại mà số lượng phát sinh hàng ngày cũng rất lớn, luân chuyển phức tạp. Do vậy NHCT đã xây dựng quy trình luân chuyển chứng từ sau: - Chứng từ gốc là căn cứ để kế toán giao dịch, kiểm soát viên, người duyệt cuối cùng và dữ liệu trên máy tính kiểm soát lẫn nhau. Mỗi chứng từ đều được kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ sau đó mới được nhập liệu vào máy tính và kiểm soát. - Mỗi chứng từ phát sinh tại NHCT đều được phân loại và giao trách nhiệm cho một cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm để phân loại, kiểm soát, ghi sổ và lưu trữ. Ví dụ như khi có Séc nộp vào NHCT, người chịu trách nhiệm về séc phải phân loại xem séc bảo chi hay séc chuyển khoản, Séc do ngân hàng nào phát hành…từ đó ghi sổ và lưu trữ vào hồ sơ riêng của từng ngân hàng. - Chứng từ được lưu trữ theo từng loại riêng như: Séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,…và được lưu trữ hai lần: chứng từ giấy và chứng từ điện tử. Tạo giao dịch mới trên máy tính: Kế toán giao dịch: Nhập ký hiệu của từng loại giao dịch, mã số của ngân hàng gửi, thông tin người gửi, thông tin người nhận, nội dung chuyển tiền. Nếu dữ liệu nhập vào không hợp lệ và không đầy đủ thì chương trình sẽ không cho phép nhập dữ liệu vào ô tiếp theo. Khi các số liệu là hợp lệ, hệ thống đòi hỏi người tạo giao dịch cần có tệp tin mã xác thực. Kế toán giao dịch phải chỉ ra tệp tin chứa mã xác thực, nếu mã xác thực đúng thì quá trình thành công, ngược lại thì không thể ghi được thông tin của giao dịch vào cơ sở dữ liệu. Người tạo giao dịch chỉ có thể xoá được khi chưa được kế toán liên hàng duyệt hoặc các giao dịch do kế toán liên hàng thoái nhưng phải do chính mình tạo ra. Kiểm soát viên: Để bảm bảo độ chính xác của lệnh chuyển tiền, sau khi kế toán giao dịch tạo giao dịch và ghi lại thông tin, kế toán liên hàng sẽ bổ sung các yếu tố còn lại và kiểm soát lệnh chuyển tiền bằng các đối chiếu dữ liệu trên chứng từ gốc với dữ liệu đã được kế toán giao dịch nhập trên máy. Công việc được thực hiện bằng cách nhập bút toán giao dịch hoặc truy vấn tìm đến bút toán thích hợp. Sau khi có số bút toán thích hợp và thể hiện thông tin cần giao dịch cần kiểm tra, bổ sung. Lúc này kiểm soát viên có thể bổ sung các yếu tố còn lại và xác nhận hoặc có thể thoái giao dịch (nếu nhận thấy thông tin có sai sót). Trường hợp giao dịch có sai sót, kiểm soát viên sẽ không thể thao tác trên máy, trừ phi giao dịch được kế toán giao dịch duyệt lại. Người duyệt cuối cùng: Sau khi giao dịch được kế toán liên hàng xác nhận, người duyệt cuối cùng thực hiện nhiệm vụ của mình đó là kiểm soát một lần nữa lệnh chuyển tiền. Việc kiểm soát cũng phải căn cứ vào chứng từ gốc và căn cứ vào số bút toán để gửi lệnh đi hoặc thoái (nếu giao dịch có sai sót). Nếu giao dịch có sai sót, người duyệt cuối cùng cũng không thể thao tác trên máy và không thể gửi lệnh chuyển tiền đi được. Bất cứ một giao dịch nào cũng được thực hiện qua 03 giai đoạn kể trên và thời gian kể từ khi phát sinh lệnh đến khi ngân hàng bạn nhận được lệnh Đến tuỳ thuộc vào số lượng phát sinh trong ngày. Nếu lượng chứng từ ít thì giao dịch có thể chỉ diễn ra trong vài phút, tuy nhiên đối với những giao dịch phát sinh nhiều thì một giao dịch có thể “chờ” vài giờ đồng hồ thậm chí phải lùi lại đến ngày làm việc tiếp theo mới có thể Đi được. Giao dịch huỷ được thực hiện trong các trường hợp sau: - Lệnh chuyển tiền vượt hạn mức hoặc vượt quá số dư đang ở trạng thái chờ xử lý tại trung tâm. - Chứng từ chuyển tiền không hợp pháp, hợp lệ như: séc vượt quá hạn sử dụng, các dữ liệu trên UNT không khớp đúng với mẫu quy định… Giao dịch huỷ được tạo ra dựa trên các giao dịch gốc mà người dùng cần huỷ. Quá trình thực hiện một giao dịch huỷ phải được thực hiện qua hai bước sau: - Kế toán liên hàng tạo giao dịch cần huỷ căn cứ vào số bút toán của giao dịch. - Người kiểm soát duyệt giao dịch cần huỷ trước khi gửi giao dịch huỷ đi lên trung tâm. Một giao dịch huỷ khi được tạo ra vẫn có thể xoá được nếu như chưa được kiểm soát liên hàng duyệt hoặc bị kiểm soát liên hàng thoái. Giao dịch chỉ có thể được xoá bởi kế toán liên hàng tạo giao dịch đó. Người kiểm soát liên hàng có thể thoái các giao dịch đã được kế toán liên hàng duyệt hoặc có thể thoái các giao dịch huỷ do chính mình đã duyệt. Sau khi thoái giao dịch, người kiểm soát không thể thao tác với giao dịch đó nữa trừ khi các giao dịch này lại được kế toán liên hàng duyệt lại. Yêu cầu hoàn chuyển giao dịch: Lệnh yêu cầu hoàn chuyển giao dịch phát sinh trong các trường hợp: - NHCT đã thực hiện một lệnh chuyển tiền nhưng có sự nhầm lẫn về ngân hàng nhận, số TK, tên người nhận… - Sau khi phát hiện ra nhầm lẫn, thanh toán viên dùng lệnh huỷ giao dịch nhưng không thành công, giao dịch đã được chuyển tới ngân hàng nhận. - Lệnh hoàn chuyển được chuyển thẳng tới ngân hàng nhận như một yêu cầu đính chính hoặc như một yêu cầu đòi trả lại món tiền đã chuyển nhầm. Yêu cầu hoàn chuyển dựa trên giao dịch gốc. Một yêu cầu hoàn chuyển giao dịch trước khi được hệ thống chuyển đi phải qua hai bước: - Tạo yêu cầu hoàn chuyển: do kế toán liên hàng tạo - Duyệt: do người kiểm soát thực hiện Kết quả của một yêu cầu hoàn chuyển là nhận được trả lời của ngân hàng nhận yêu cầu. Có 2 trường hợp xẩy ra: - Ngân hàng nhận chấp nhận trả tiền cho giao dịch đã chuyển nhầm trước đó. - Ngân hàng nhận từ chối việc hoàn trả lại tiền của giao dịch bị nhầm và nói rõ lý do của việc từ chối. Điện tra soát lệnh chuyển tiền: Điện tra soát nhằm vấn tin gửi tới ngân hàng nhận, yêu cầu xác minh một số thông tin được ghi trong phần yêu cầu tra soát của ngân hàng gửi các bước tạo lệnh tra soát: - Kế toán liên hàng nhập vào số bút toán của lệnh chuyển tiền cần tra soát. - Kế toán liên hàng kiểm tra lệnh tra soát lần cuối trước khi lệnh tra soát được chuyển đi. Kết quả của lệnh tra soát là nhận được trả lời từ ngân hàng nhận. Khi đóng vai trò là ngân hàng B: NHCT xử lý các lệnh chuyển tiền đến như sau: Quy trình xử lý đối với các lệnh chuyển tiền đến: Người kiểm soát sẽ kiểm soát những lệnh chuyển tiền đến hợp lệ. Chỉ những giao dịch đến đã được kiểm soát thì mới có thể thực hiện được các bước tiếp theo. Kiểm soát lệnh chuyển tiền đến Kiểm soát viên là người đầu tiên kiểm soát khi nhận được lệnh chuyển tiền để duyệt các lệnh chuyển tiền đến hợp lệ. Trong quá trình thực hiện giao dịch khi đang nhận file hoặc đang cập nhật các file dữ liệu đến mà xảy ra sự cố hoặc đối chiếu không cân, kiểm soát viên sẽ kiểm tra các yếu tố sau: kiểm tra lại xem các giao dịch đến đã được kiểm soát hết chưa. Trong trường hợp chưa cập nhật hết các file giao dịch đến có thể thực hiện việc cập nhật lại file dữ liệu. Từ chối, chấp nhận lệnh chuyển Nợ đến Kế toán liên hàng hoặc người kiểm soát sẽ trả lời các giao dịch đến cho bên ngân hàng gửi (trường hợp giao dịch ghi Nợ). - Đối với kế toán liên hàng: thực hiện truy vấn để tìm đến giao dịch thích hợp. Sau đó sẽ trả lời từ chối hoặc chấp nhận, nếu từ chối phải nêu rõ lý do. Vào duyệt để gửi cho ngân hàng gửi lệnh chuyển tiền bị từ chối. - Đối với kiểm soát liên hàng: thực hiện truy vấn để hiện giao dịch, sau đó thoái hoặc duyệt trả lời của kế toán liên hàng. Xử lý điện tra soát đến Đây là việc thực hiện trả lời yêu cầu tra soát từ ngân hàng gửi. Thực hiện trả lời tra soát qua 2 bước: - Kế toán liên hàng trả lời duyệt - Kiểm soát liên hàng kiểm soát và tạo lệnh tra soát trả lời. Trong quá trình thực hiện lệnh thanh toán, kế toán giao dịch, kế toán liên hàng và người kiểm soát sẽ luôn thực hiện vấn tin để kiểm tra sự chính xác, hợp lệ của lệnh chuyển tiền như thực hiện vấn tin về TK, vấn tin về trạng thái cần giao dịch, tra cứu số liệu giao dịch… cũng như việc đối soát số liệu nhằm thống kê các giao dịch gửi đi thành công, các giao dịch gửi đến, đồng thời hỗ trợ cho việc báo cáo đối chiếu dữ liệu tại NHCT với dữ liệu nhận từ trung tâm xử lý. 2.4. Đánh giá kết quả đạt được. Sau một thời gian thực hiện, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã đạt được những thành công như mong đợi. Với nền tảng công nghệ hiện đại cùng sự đầu tư, chuẩn bị có chiều sâu cả về nhân lực, NHCT đã bắt nhịp được nhanh chóng và thu được kết quả khả quan. 2.4.1. Những thành công. Thông qua vận dụng thanh toán điện tử liên ngân hàng, NHCT đã nâng cao được khả năng thanh toán nhanh nhạy, an toàn, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng trong giao dịch thanh toán nhờ đó đã thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, mở rộng được khối lượng TK thanh toán của cá nhân và các doanh nghiệp. Thanh toán điện tử liên ngân hàng cũng đã tạo điều kiện để NHCT phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Home banking, ATM…Qua việc thực hiện vận hành hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, NHCT đã tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị hiện đại với khối lượng lớn có giá trị, đảm bảo việc vận hành thông suốt và có độ mở được trong tương lai với kỹ thuật, công nghệ ngân hàng mới. NHCT cũng có điều kiện nâng cao hiểu biết của đội ngũ cán bộ về các công nghệ ngân hàng hiện đại. Qua một thời gian thực hiện vận hành, hệ thống thanh toán hoạt động có hiệu quả, tốc độ thanh toán cao. Từ khi vận hành đến nay không có sự cố nào xảy ra gây thất thoát lớn về tài sản của khách hàng và ngân hàng. Mặc dù nếu lượng chứng từ phát sinh trong ngày nhiều thì thời gian thanh toán có thể lâu nhưng vẫn đảm bảo nhanh hơn các hình thức thanh toán trước đây trung bình chỉ 15 phút là có thể xử lý xong một lệnh thanh toán mà vẫn đảm bảo độ an toàn. Khâu kiểm soát, lưu chuyển chứng từ được thực hiện chặt chẽ nên đảm bảo tính an toàn lớn cho các lệnh chuyển tiền. Dựa vào bảng kết quả thanh toán ta nhận thấy, khối lượng thanh toán theo đường thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHCT ngày càng gia tăng. Trong năm 2006 tổng số món Đi điện tử liên ngân hàng là 18.312 món với tổng só tiền là 9.800 tỷ đồng. Tổng số món đến 20.386 món với tổng số liền là 9.800 triệu đồng. Đến quý I năm 2007, số món đi điện tử liên ngân hàng 10.274 món với tổng số tiền là 4.834 tỷ đồng (chiếm 7% tổng số tiền phát sinh Đến trong quý) và số món đến điện tử ngân hàng là 11.224 món với tổng số tiền là 4.834 tỷ đồng. Như vậy, cùng với thời gian hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng ngày càng chứng tỏ được vai trò của mình trong việc tổ chức thanh toán. Bảng 5: Kết quả thanh toán của NHCTVN (Đơn vị: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2006 Quý I/2007 Số món Số tiền Tỷ trọng Số món Số tiền Tỷ trọng Tại chi nhánh 171.72 160.683 54% 44.019 33.847 52% Đi trong hệ thống 37.047 20.028 7% 8.024 4.314 7% Đến trong hệ thống 96.785 46.653 16% 22.431 11.014 174% Đi bù trừ 50.423 11.231 4% 5.604 1.557 2% Đến bù trừ 94.668 11.231 4% 14.041 1.557 2% Đi khác hệ thống 2.283 16.129 5% 430 1.742 3% Đến khác hệ thống 775 13.483 5% 132 1.751 3% Đi điện tử liên ngân hàng 18.312 9.800 3% 10.274 4.834 7% Đến điện tử liên ngân hàng 20.386 9.800 3% 11.224 4.834 7% Tổng cộng 1266.624 299.038 677.617 65.45 2.4.2. Những hạn chế. Mặc dù không thể phù nhận những thành công của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nhưng bên cạnh đó không thể không có những bất cập cần tháo gỡ, triển khai, đầu tư thoả đáng mạnh mẽ. Tại NHCT mặc dù cho đến nay các sai lầm xảy ra chưa có trường hợp nào nghiêm trọng, song việc để xảy ra các sai sót như: chuyển tiền sai địa chỉ, sai TK, sai tên khách hàng, sai số hiệu ngân hàng …gây nên sự chậm trễ trong thanh toán, giảm lòng tin của khách hàng vào hệ thống cũng như chính các ngân hàng. Nhiều khoản thanh toán bị xử lý và truyền đi chậm, mức độ an toàn của các khoản thanh toán nhiều khi chưa được đảm bảo. Nhiều món chuyển tiền vẫn phải theo bù trừ thủ công mà chưa thể thực hiện được hoàn toàn trên máy. 2.4.3. Nguyên nhân. Nguyên nhân chủ quan - Trình độ cán bộ nhân viên thiếu đồng bộ, các cán bộ thành thạo về quy trình nghiệp vụ và am hiểu về công nghệ thông tin không nhiều. - Việc luân chuyển chứng từ còn chậm do còn nhiều thủ tục hành chính cần tuân theo. - Khâu kiểm soát chứng từ quá chặt chẽ, đôi lúc hơi thừa như trường hợp sau: Mỗi người sử dụng (kế toán giao dịch, kiểm soát viên, người duyệt cuối cùng) đều có mật khẩu riêng thì mới vào được hệ thống ngoài ra các chứng từ in ra phải có chữ ký của người có liên quan. Như vậy công việc của những người làm thanh toán điện tử liên ngân hàng nhiều khi quá tải. Nguyên nhân khách quan - Mức sống chung và sự thiếu hiểu biết về các dịch vụ thanh toán điện tử của người dân còn thấp. - Môi trường pháp lý trong việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng. - Vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật. Việc mua sắm trang thiết bị công nghệ hiện đại và xây dựng các cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật đủ đáp ứng cho hệ thống thanh toán qua ngân hàng hiện đại cũng cần chi phí rất lớn mà các ngân hàng thương mại đang vấp phải bởi sự khống chế của Luật các tổ chức tín dụng. Quy định về mua sắm, đầu tư vào tài sản cố định (Điều 88) là “Tổ chức tín dụng được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình không quá 50% vốn tự có”. Như vậy theo quy định này, tổng số vốn dùng vào mua sắm, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng bằng tất cả các nguồn vốn tự có, đi vay, liên doanh liên kết… đều không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. Quy định này đã làm khống chế việc mua sắm, đầu tư vào tài sản cố định đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Chương III: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN ĐIỆN TỬ LIÊN NGÂN HÀNG TẠI NHCTVN. 3.1. Quan điểm định hướng trong việc nâng cao chất lượng thanh toán điện tử liên ngân hàng. 3.1.1. Định hướng hoạt động kinh doanh nói chung của NHCTVN. Định hướng kinh doanh năm 2007 Đẩy mạnh khai thác mọi nguồn vốn, hướng tới việc tạo lập một cơ cấu nguồn vốn cân đối, chi phí đầu vào thấp. Ø Bằng mọi biện pháp để duy trì các khách hàng truyền thống. Giao trách nhiệm cụ thể cho các phòng nghiệp vụ có quan hệ trực tiếp với khách hàng chủ động đưa ra biện pháp thu hút vốn khi đơn vị có nguồn thu. Làm tốt công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng kể cả doang nghiệp và dân cư có nguồn tiền gửi lớn, để đàm phán giữ nguồn khi đến hạn, tuyệt đối không để khách hàng mất thiện cảm vì chưa được quan tâm đầy đủ. Ø Nghiên cứu phân tích thị trường, tìm kiếm các đơn vị là các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có nguồn thu để khai thác vốn. Thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền để thu hút nguồn vốn từ dân cư. Tiếp tục đưa ra các hình thức khuyến mãi mới (quà tặng, các chính sách lãi suất) phù hợp, hấp dẫn khách hàng gửi tiền. Có chính sách chăm sóc khách hàng đặc biệt để duy trì ổn định khách hàng gửi tiền truyền thống. Tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý, giám sát, hướng tới một cơ cấu tín dụng an toàn. Chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng chỉ đạo của NHNN Việt Nam. Ø Tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với khả năng quản lý và kế hoạch của NHNN giao. Kiên quyết thực hiện chính sách cho vay có chọn lọc để đảm bảo an toàn vốn. Luôn cập nhật thông tin về khách hàng, ngành hàng để đầu tư vốn đúng hướng. Giảm dần dư nợ hoặc chấm dứt quan hệ tín dụng đối với khách hàng làm ăn yếu kém, có dấu hiệu chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Tuyệt đối không để nợ quá hạn mới phát sinh. Ø Đẩy mạnh công tác tiếp thị để thu hút khách hàng vay mới, chú trọng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, hộ gia đình để tăng dư nợ ngắn hạn, dư nợ ngoài quốc doanh. Rà soát, đánh giá lại toàn bộ khách hàng đang có dư nợ không có tài sản đảm bảo, đôn đốc khách hàng bổ sung tài sản để nâng dần tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo trong tổng dư nợ. Tiếp tục thực hiện các biện pháp để tận thu các khoản nợ khó đòi đã được xử lý hạch toán ngoại bảng. Tập trung phát triển hoạt động dịch vụ để tăng thu phí dịch vụ trong tổng thu nhập phù hợp với sự phát triển của một ngân hàng hiện đại. Ø Đây là một nhiệm vụ trọng yếu trong xu thế cạnh tranh và hội nhập và là hướng đi tất yếu để đa dạng hoá nguồn thu. Trước hết, cần hoàn thiện và mở rộng các sản phẩm dịch vụ hiện có, nghiên cứu và đưa vào ứng dụng sản phẩm dịch vụ mới trên cơ sở khai thác tiện ích của công nghệ ngân hàng hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh dịch vụ cho vay hỗ trợ học sinh du học; có kế hoạch tiếp thị ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ Internet banking, nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng về thông tin nhanh chóng, kịp thời. Ø Tiếp tục giao chỉ tiêu phát triển thẻ ATM, Visacard cho từng phòng nghiệp vụ. Chủ động làm việc với các đơn vị có quan hệ gửi tiền, vay vốn để ký hợp đồng mở và chuyển lương qua thẻ. Khảo sát địa điểm thích hợp để đặt máy ATM mới và cơ sở chấp nhận thẻ. Đảm bảo an toàn mọi mặt hoạt động, phát triển đúng định hướng chỉ đạo của NHNN Việt Nam. Phối hợp kiểm tra, giám sát chặt chẽ tất cả các mặt công tác, đảm bảo đúng quy trình nghiệp vụ, chế độ quy định. Tuyệt đối không để xảy ra rủi ro, thất thoát tài sản của ngân hàng và khách hàng. 3.1.2. Định hướng trong việc đưa ra các giải pháp Trong điều kiện hội nhập quốc tế đã và đang trở thành yêu cầu bức xúc, tất yếu với mỗi quốc gia thì việc đưa ra định hướng, giải pháp cho bất kỳ một vấn đề gì cũng cần xem xét trong bối cảnh chuyển động của nền kinh tế toàn cầu chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi một địa phương hay một quốc gia. Đặc biệt là Việt Nam với chủ trương hội nhập, tham gia các tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu như tham gia ATFTA, WTO… và các cam kết, đàm phán của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng trong các hiệp định đa phương và ký kết song phương. Hội nhập đòi hỏi các ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung phải hội tụ đủ các điều kiện để có thể cạnh tranh cũng như hợp tác, liên kết trong kinh doanh. Hội nhập kinh tế của ngành ngân hàng đặt ra những yêu cầu và thách thức về thực hiện chính sách mở cửa lĩnh vực dịch vụ ngân hàng song song với quá trình tăng trưởng, cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải phát huy được ưu thế của người đi sau “đi tắt, đón đầu”, học tập kinh nghiệm của những người đi trước. Các dịch vụ, công nghệ ngân hàng mới đưa vào phải có độ mở để có thể linh hoạt thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin. Việc đào tạo cán bộ cũng cần phải bảo đảm có khả năng thích ứng với sự thay đổi của khoa học công nghệ. Tránh đào tạo theo kiểu “học gì biết nấy”, như vậy khi ứng dụng một công nghệ ngân hàng hiện đại vào không cần phải đào tạo lại từ đầu, tiết kiệm được rất nhiều chi phí mà từ trước đến nay ngành ngân hàng phải chịu một cách lãng phí. Hơn nữa hội nhập về hoạt động tài chính nói chung, hội nhập về hoạt động ngân hàng nói riêng có độ phức tạp, nhạy cảm cao cho nên hội nhập ngân hàng phải được tiến hành thận trọng, không nóng vội. Các giải pháp đưa ra phải phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế và hội nhập ngân hàng là điều tất yếu trong thời đại hiện nay. Tuy nhiên, các giải pháp đưa ra cũng phải phù hợp với thực tế của Việt Nam. Việt Nam đang vận hành nền kinh tế thị trường ở mức tiếp cận ban đầu, còn nhiều bỡ ngỡ, bất cập về cơ chế, môi trường, kỹ thuật công nghệ, trình độ, kinh nghiệm quản lý và điều hành nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả không nhiều, khả năng tài chính của nhiều doanh nghiệp còn yếu, tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp còn kéo dài. Người dân có thói quen tiêu dùng tiền mặt nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp và người dân còn ít. Ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài tình trạng chung như vậy, Nhà nước ngay từ thời kỳ đầu của quá trình chuyển đồi nền kinh tế không có được chiến lược và định hướng lâu dài cho việc xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều ở tình trạng chung đó là cơ sở hạ tầng còn thấp, trình độ công nghệ thông tin còn lạc hậu, cán bộ ngành ngân hàng phần nhiều được đò tạo theo kiểu chắp vá, không làm quen ngay với công nghệ ngân hàng hiện đại. Ngành ngân hàng Việt Nam với một mạng lưới rộng lớn nhưng chưa mạnh, tồn tại những yếu kém nội tại, hoạt động trong điều kiện kinh tế còn yếu, các văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã hạn chế rất nhiều khả năng cạnh tranh và áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng Việt Nam. Như vậy, khi đặt vấn đề tin học hoá công nghệ ngân hàng, áp dụng các dịch vụ hiện đại ngoài những yếu tố nội tại như vốn tự có thấp, trình độ tin học của cán bộ ngân hàng và các yếu tố yếu kém khác, chúng ta không thể không đề cập đến thực trạng nền kinh tế nói chung và thực trạng các doanh nghiệp nói riêng. Công việc khắc phục những yếu kém cố hữu trong các doanh nghiệp và ngân hàng để phát triển toàn diện nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay là hết sức cấp bách. Vì vậy NHCT, NHNN, các cơ quan quản lý nhà nước, Quốc hội, Chính phủ cần có các biện pháp thích hợp, linh hoạt để có thể tiến nhanh hơn nữa đến thời đại của công nghệ thông tin. 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán điện tử liên ngân hàng. Sau một quá trình vận hành hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã chứng minh được những hiệu quả rõ rệt mà hệ thống đem lại. tuy nhiên, thanh toán điện tử liên ngân hàng là phương thức thanh toán mới ở nước ta nên trong quá trình vận hành vẫn còn có những tồn tại nhất định. Để góp phần hoàn thiện nâng cao chất lượng làm cho phương thức thanh toán không ngừng đổi mới, mở rộng, nâng cao tốc độ luân chuyển vốn, góp phần kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. NHCT cần giải quyết tốt những vấn đề đặt ra một cách đồng bộ để có thể tiến xa hơn nữa trong lĩnh vực thanh toán để bắt kịp và hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, thực hiện thành công mục tiêu đề ra. 3.2.1. Đào tạo nguồn nhân lực Trong bất lỳ lĩnh vực nào thì con người cũng là nhân tố quan trọng để tiến tới thành công, nhận thức đúng tầm quan trọng của con người trong điều kiện kinh doanh ngày càng gay gắt sẽ đem đến thành công bền vững cho bất kỳ tổ chức kinh tế nào. Do vậy, mỗi cán bộ ngân hành phải không ngừng được đào tạo và tự đào tạo. Công nghệ thông tin không ngừng phát triển kéo theo đó là các mặt nghiệp vụ cũng không ngừng thay đổi theo. Nếu như các cán bộ ngân hàng không ngừng trao đổi nghiệp vụ, học thêm ngoại ngữ, nâng cao trình độ hiểu biết về công nghệ tin học thì sẽ “tụt hậu”, không thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của công việc. Do đặc trưng của ngành ngân hàng, các nhân viên thường xuyên giao dịch với khách hàng nên đòi hỏi mỗi nhân viên ngân hàng còn phải là một người tiếp thị cho ngân hàng, nhân viên ngân hàng chính là cầu nối giữa ngân hàng với khách hàng của mình. Phong cách giao dịch, thái độ phục vụ của mỗi nhân viên sẽ tác động trực tiếp đến khách hàng có đến giao dịch với ngân hàng lần sau hay không. Bên cạnh đào tạo nghiệp vụ cũng cần đào tạo tác phong giao dịch lịch sự, văn minh nhằm tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái khi đến giao dịch tại ngân hàng. Thanh toán viên phải là người trực tiếp hướng dẫn tận tình, chu đáo cho khách hàng khi họ đến giao dịch lần đầu. Tạo được sự tin tưởng, hài lòng khi lần đầu tiên đến với ngân hàng cũng có nghĩa là ngân hàng đã có thêm được khách hàng mới. Về phía ngân hàng, ngay từ ban đầu cần tuyển dụng những cán bộ có trình độ nhằm tránh đào tạo lại, tiết kiệm chi phí. Có chế độ lương, thưởng hợp lý, công bằng đúng với năng lực và sự đóng góp của mỗi người. Cần cung cấp kịp thời cho cán bộ các văn bản hướng dẫn quyết định, quy chế liên quan nhằm giúp họ nắm bắt được từng bước một cách rõ ràng, hiểu được ý nghĩa và tầm quản trọng của công việc họ làm. Cần khuyến khích các cán bộ tự học bằng cách giúp đỡ về thời gian và kinh phí. Bên cạnh các hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần phát triển các hoạt động đoàn thể như văn nghệ, thể dục thể thao… với nội dung phong phú, thiết thực. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về luật ngân hàng…cũng như các phong trào thi đua trong kinh doanh tạo khí thế sôi nổi, đoàn kết trong cơ quan góp phần dẩy mạnh hoạt động kinh doanh. 3.2.2. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Ngân hàng phải không ngừng tăng cường đầu tư công nghệ hiện đại hoá ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng quản lý và hướng tới khách hàng là chiến lược quan trọng có tính quyết định tới sự thành công hay thất bại trong cuộc cạnh tranh trên thị trường tiền tệ hiện có rất nhiều định chế trong và ngoài nước đang hoạt động với môi trường ngày càng thông thoáng. Mở cửa và hội nhập kinh tế có nghĩa là các ngân hàng Việt Nam phải cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh, là những ngân hàng được trang bị đầu tư kỹ thuật tiên tiến nhất với đầy đủ các điều kiện là một ngân hàng hiện đại. Như vậy, nếu không trang bị các thiết bị tiên tiến, áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại vào hoạt động của mình thì các ngân hàng Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh thành công và nguy cơ “thua trên sân nhà” là không thể tránh khỏi. Công nghệ ngân hàng hiện đại, trụ sở làm việc khang trang, thái độ phục vụ khách hàng hiện đại, phương thức giao dịch khoa học sẽ tạo vị thế và niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Ngân hàng cần trang bị thiết bị tin học thoả đáng như số lượng máy vi tính, sự tương thích giữa phần cứng và phần mềm, sử dụng thiết bị truyền thông có tốc độ cao nhằm tránh tắc nghẽn trong thanh toán. Trong điều kiện vốn đầu tư có hạn thì thường xuyên rà soát các thiết bị hiện có, tận dụng và nâng cấp các thiết bị có thể được. Trang bị thêm máy vi tính phù hợp với đòi hỏi của công việc. Ưu tiên những máy vi tính tốt cho chứng từ thanh toán điện tử liên ngân hàng. Nên thường xuyên bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời những thiết bị có nguy cơ hỏng hóc, tránh ách tắc do sự cố kỹ thuật. Cần tổ chức công tác dự phòng như: nguồn điện, đường truyền, máy chủ dự phòng…đảm bảo liên lạc thông suốt, chính xác, an toàn, hiệu quả, nhanh chóng của chuyển tiền. 3.2.3. Đẩy mạnh công tác Marketing Trước hết, NHCT nên đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí…và trên internet nhằm giới thiệu các sản phẩm mới với những tính năng ưu việt của chúng, đặc biệt là các sản phẩm mới, không truyền thống của ngân hàng như hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Ngoài việc đẩy mạnh tiếp thị quàng cáo thì việc đổi mới phong cách phục vụ là rất quan trọng. NHCT cũng cần thực hiện chủ động tìm kiếm khách hàng, xây dựng một bộ phận có chuyên môn cao về Marketing ngân hàng nhằm khai thác, tìm kiếm khách hàng đến với mình hoặc phòng nghiệp vụ có thể phân chia khu vực hoạt động thành những khu vực nhỏ và khuyến khích, giao trách nhiệm cho cán bộ chủ phòng tích cực tìm kiếm khách hàng trong khu vực mình phụ trách. Việc tìm kiếm khách hàng ở đây chính là việc chủ động tiếp xúc với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu cụ thể của họ như: nhu cầu tăng vòng quay của vốn, nhu cầu giảm chi phí trong thanh toán, nhu cầu loại bỏ rủi ro trong khâu thanh toán… từ đó tư vấn, giải thích các tiện ích của từng dịch vụ ngân hàng để khách hàng lựa chọn sử dụng hoặc nếu chưa có nhu cầu sử dụng hiện tại thì tương lai họ sẽ có hoặc họ sẽ có thể nói lại cho người thân bạn bè… Việc tiến hành các biện pháp nhằm thu hút khách hàng sẽ không mang lại hiệu quả lâu dài nếu NHCT không tiếp tục chăm sóc, củng cố mối quan hệ với khách hàng. Để làm tốt điều đó đòi hỏi NHCT nắm bắt được thông tin từ phía khách hàng như: tình hình tài chính, kết quả kinh doanh, khả năng tiêu thụ cũng như đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp…từ đó xây dựng chính sách khách hàng phù hợp với từng nhóm khách hàng. Thực hiện nới lỏng các quy trình thủ tục trong quy trình nghiệp vụ, giảm phí cho khách hàng truyền thống và có khối lượng thanh toán lớn tạo sự thông thoáng, hấp dẫn cho khách hàng. Đối với những khách hàng mới, để tạo ấn tượng tốt thì NHCT cũng có thể giảm phí chuyển tiền nếu như khối lượng giao dịch lớn, hay tặng quà, gửi thiệp chúc mừng nhân các ngày lễ như tết hay kỷ niệm ngày thành lập doanh nghiệp. Ngoài các cách tìm hiểu khách hàng trên, NHCT còn phải tiếp cận khách hàng bằng cách mở rộng các phòng giao dịch ở những nơi tập trung dân cư, tập trung nhiều doanh nghiệp. Thực hiện nối mạng với khách hàng để xoá bỏ được khoảng cách về không gian giao dịch. 3.3. Những kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với NHCTVN. NHCTVN cần tích luỹ và tập trung hơn nữa vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật về công nghệ thông tin ngân hàng hiện đại để đủ sức tiếp cận với thực tế và trong tương lai phát triển khoa học công nghệ ngân hàng mới. Trang bị thêm máy tính mới và ưu tiên đầu tư những máy tính hiện đại cho hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, đầu tư vào những thiết bị truyền thông có tốc độ cao nhằm tránh tắc nghẽn trong thanh toán, nâng cao nhất khả năng của hệ thống. Làm được điều đó, NHCT đã có thể tận dụng tối đa năng suất thanh toán bằng công nghệ hiện đại của mình, từ đó tiết kiệm được chi phí trong thanh toán, góp phần nâng cao lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của mình. Tích cực đào tạo cán bộ có trình độ công nghệ thông tin ngân hàng vừa có thể ứng phó ngay với thực tế trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài, đảm bảo cho việc phát triển công nghệ trong tương lai. Đây thực sự là một vấn đề hết sức quan trọng, cần đặt lên hàng đầu, có tính quyết định đến sức cạnh tranh của NHCT trong thời gian tới khi mà thời đại công nghệ hiện đại trong thương trường thương mại điện tử đang phát triển như vũ bão. Cần triển khai nhanh chóng và hiệu quả hệ thống thanh toán của NHCT với các khách hàng lớn truyền thống. Thực hiện ngân hàng bán lẻ, ngân hàng qua mạng, trao đổi thông tin với khách hàng qua mạng và các trang web… Cần làm tốt hon nữa công tác Marketing ngân hàng. Đây cũng là yếu kém chung trong toàn ngành ngân hàng nước ta hiện nay do chưa nhận thức được đúng tầm quan trọng của công tác Marketing. Để các doanh nghiệp cũng như người dân biết và sử dụng các dịch vụ thanh toán hiện đại của mình thì NHCT cần tiến hành tuyên truyền, quảng cáo các dịch vụ đó trên đài phát thanh, truyền hình, báo chí và trên mạng nhằm giúp cho một số lượng đông đảo người dân biết và hiểu được tiện ích của dịch vụ thanh toán do ngân hàng đem lại. 3.3.2. Những kiến nghị với NHNN. Là “ngân hàng của các ngân hàng”, NHNN phải hướng mục tiêu điều chỉnh có hiệu quả hoạt động của NHCT theo đúng chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn đầu tư, thanh toán cho nền kinh tế. NHNN cần mở rộng hơn nữa các ngân hàng được tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Hiện nay mới chỉ có một số chi nhánh của các NHTM lớn và số ít NHTM cổ phần tham gia vào hệ thống đã làm giảm rất nhiều hiệu quả của thanh toán điện tử liên ngân hàng. NHNN cần mở rộng hơn nữa quy định về thời gian thanh toán, hiện nay theo quy định chỉ mới có 6 giờ trong một ngày, 30 giờ trong một tuần khách hàng sử dụng hệ thống thanh toán hiện đại này, như thế không đáp ứng được nhu cầu thanh toán cao của nền kinh tế. Cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong thanh toán điện tử liên ngân hàng như giản lược quy trình luân chuyển chứng từ, tránh phải chuyển hoá qua nhiều lần một chứng từ từ chứng từ giấy sang chứng từ điện tử, quá nhiều chữ ký cho một quá trình luân chuyển. Quy định về thành viên cũng không nên khắt khe như vậy sẽ mở rộng được số lượng ngân hàng tham gia hệ thống. Hiện nay, mỗi ngày có khoảng 1000 tỷ đồng chưa chuyển qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng do hệ thống chưa phát huy được hết công suất. Do vậy, NHNN cần nhanh chóng tạo mọi điều kiện cho các TCTD cũng như hoàn thiện hơn nữa về quy trình nghiệp vụ, kỹ thuật…để toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tham gia đầy đủ vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Quy trình nghiệp vụ của một lệnh thanh toán cần được rút bớt, tránh những thủ tục hành chính phiền hà cho khách hàng cũng như bản thân các TCTD tham gia vào hệ thống. Như vậy sẽ nâng cao được năng suất lao động cho ngân hàng và tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. NHNN cũng cần tích cực hơn nữa trong việc chuẩn bị tổ chức thanh toán giá trị thấp theo lô nhằm cải thiện hệ thống thanh toán bù trừ. Vấn đề bảo đảm an toàn trong quá trình truyền, nhận xử lý thông tin dữ liệu trong thanh toán điện tử liên ngân hàng phải được NHNN đặc biệt coi trọng và quy định chặt chẽ trong quy chế thanh toán điện tử liên ngân hàng. Việc bảo mật dữ liệu và tính xác thực của lệnh thanh toán điện tử được thực hiện bằng công nghệ chữ ký điện tử phải được đảm bảo an toàn, tránh những mất mát dữ liệu có thể xảy ra. Hệ thống máy tính, trang thiết bị và cơ sở dữ liệu dự phòng đảm bảo cho hoạt động thanh toán được thông suốt phải được quy định chặt chẽ đối với ngân hàng chủ trì và thành viên. Hiện nay, quy chế chưa đề cập đến chất lượng và độ an toàn của đường truyền thông giữa ngân hàng chủ trì và các thành viên. Tích luỹ và tập trung vốn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật về công nghệ thông tin ngân hàng hiện đại, đủ sức tiếp cận với thực tế và trong tương lai phát triển của khoa học công nghệ mới. 3.3.3. Kiến nghị với cơ quan quản lý. Sự đổi mới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng không thể tách rời khỏi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo môi trường thuận lợi sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: Luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật các TCTD… Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực chưa có văn bản nào liên quan đến hoạt động thanh toán liên ngân hàng. Vì vậy để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán qua ngân hàng nói riêng, Nhà nước cần phải: Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật. Hiện nay, văn bản pháp quy cao nhất điều chỉnh hoạt động của ngân hàng, TCTD đó là Luật các TCTD và Luật NHNN. Hai luật này góp phần có hiệu quả, tạo môi trường pháp lý cho các TCTD thực hiện kinh doanh. Tuy nhiên cho đến nay cũng bộc lộ nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế và xu thế hội nhập, cần đựơc sớm nghiên cứu tháo gỡ trước để tạo các văn bản hướng dẫn khác. Ngoài ra cần xây dựng và hoàn thiện các cơ chế về thương mại điện tử, thanh toán điện tử trong phạm vi nền kinh tế nói chung và đối với ngân hàng nói riêng. Đẩy mạnh hoạt động thương mại với những thị trường lớn như: Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN…từng bước tham gia vào các tổ chức lớn kinh tế thương mại Châu Á Thái Bình Dương và các tổ chức thương mại thế giới. Khai thác có hiệu quả về tài nguyên, sức lao động để hiện đại hoá đồng bộ nền kinh tế, nhằm cải tạo môi trường cho hoạt động thanh toán điện tử được vận hành có hiệu quả. KẾT LUẬN Hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử là một phần quan trọng trong quá trình đổi mới và hiện đại hoá NHCTVN. Chuyên đề đã trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển hệ thống thanh toán điện tử của NHCT. Chuyên đề đã đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử của NHCTVN. Các giải pháp, kiến nghị đã đề cập về mặt văn bản chế độ, cơ sở pháp lý, biện pháp kỹ thuật-nghiệp vụ cả về vấn đề trước mắt cũng như lâu dài. Nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán điện tử là vấn đề mới, phức tạp dựa trên nền tảng công nghệ tin học và viễn thông liên tục phát triển mạnh mẽ, thay đổi nhanh chóng nên chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót nhưng tác giả hy vọng rằng với chuyên đề nghiên cứu này sẽ đóng góp vào quá trình hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHCTVN trong quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0373.doc
Tài liệu liên quan