Chuyên đề Hoàn thiện hệ thống Thông tin tín dụng nhằm nâng cao chất lượng công tác chấm điểm tín dụng tại các NHTM Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại diễn ra trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong đó hoạt động tín dụng mang đến thu nhập cao nhất cho ngân hàng, nhưng cũng là lãnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Do đó, song song với việc mở rộng hoạt động tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng như xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, chính sách dự phòng rủi ro, xác định giới hạn tín dụng đối với khách hàng, ban hành sổ tay tín dụng đặc biệt là phải hoàn thiện hệ thống TTTD nhằm nâng cao chất lượng công tác chấm điểm tín dụng.

doc48 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện hệ thống Thông tin tín dụng nhằm nâng cao chất lượng công tác chấm điểm tín dụng tại các NHTM Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính hiệu quả của chấm điểm tín dụng. Vì chấm điểm tín dụng là một công việc phức tạp, đòi hỏi khả năng tổng hợp từ những thông tin về doanh nghiệp đến những thông tin mang tính vĩ mô như thông tin về ngành, lĩnh vực, khu vực hay cả nền kinh tế. Để xử lý chính xác các thông tin này thì cần các cán bộ tín dụng có trình độ thu thập, xử lý thông tin - đặc biệt là các thông tin mang tính định tính- và sử dụng thành thạo công nghệ hiện đại. Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt trong các công tác, công tác chấm điểm tín dụng cũng không là ngoại lệ II. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TTTD ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG 1. Hệ thống thông tin tín dụng (Hệ thống TTTD) Kết quả của công tác chấm điểm tín dụng chính xác đến mức nào phụ thuộc phần lớn vào nguồn thông tin tín dụng hiện có, nó là chìa khoá để ngân hàng hiểu rõ về doanh nghiệp. Thông tin tín dụng là những thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng, nó đòi hỏi phải phong phú, đa dạng và chính xác. Một số TTTD chủ yếu: 1.1. Báo cáo tài chính Báo cáo tài chính là những báo cáo phản ánh tình hình tài sản của đơn vị vào những thời điểm nhất định, kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình sử dụng vốn trong các thời kỳ nhất định. Báo cáo tài chính được lập bằng phương pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Đây là cơ sở quan trọng giúp các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nắm bắt, đánh giá được thực trạng tài chính của đơn vị từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Trong việc chấm điểm các chỉ số tài chính, báo cáo tài chính là nguồn thông tin đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến quyết định tín dụng của NHTM, vì vậy đòi hỏi chúng phải chính xác, đầy đủ và đáng tin cậy. Các báo cáo tài chính được sử dụng chủ yếu là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. a. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định (thường là cuối quí, cuối năm), thường được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán, chia làm 2 bên: một bên phản ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong Bảng cân đối kế toán, các khoản mục tài sản được sắp xếp theo khả năng thanh khoản, các khoản mục nguồn vốn được sắp xếp thành Nợ và Vốn chủ sở hữu hoặc theo thời hạn thành nguồn ngắn hạn và nguồn dài hạn. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp, thể hiện cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của đơn vị. Cấu trúc của bảng cân đối kế toán: Bảng: Bảng cân đối kế toán ngày ….tháng…..năm….. Đơn vị tính: Tài sản Nguồn vốn Khoản mục N-1 N Khoản mục N-1 N I. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn I. Nợ 1. Tiền mặt 1. Nợ ngắn hạn 2. Phải thu 2. Nợ dài hạn 3. Dự trữ 3. Nợ khác 4. Tài sản lưu động khác II. TSCĐ và đầu tư dài hạn II. Vốn chủ sở hữu 1. TSCĐ hữu hình 1. Vốn ban đầu 2. TSCĐ vô hình 2. Quỹ 3. Tài sản tài chính 3. Lợi nhuận chưa phân phối Tổng tài sản Tổng nguồn vốn Trên bảng cân đối kế toán, tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn. Ngoài ra còn một số khoản mục ngoại bảng không được phản ánh trên Bảng cân đối kế toán như tài sản thuê mua, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận bán hộ… Bảng cân đối kế toán được sử dụng để tính các chỉ số tài chính sau: Chỉ tiêu thanh khoản: Khả năng thanh toán ngắn, khả năng thanh toán nhanh. Chỉ tiêu về nợ: Tỷ lệ nợ phải trả so với tổng tài sản, so với nguồn vốn chủ sở hữu, so với tổng dư nợ Ngân hàng. b. Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Báo cáo kết quả kinh doanh thường gồm các khoản mục sau: Bảng Báo cáo kết quả kinh doanh từ …….đến…….. Đơn vị tính: STT Chỉ tiêu Số hiệu TK Mã số Số tiền 1. Doanh thu bán hàng 2. Các khoản giảm doanh thu 3. Doanh thu thuần 4. Giá vốn hàng bán 5. Lợi nhuận gộp 20 =10-11 6. Doanh thu từ hoạt động tài chính 515 21 7. Chi phí hoạt động tài chính 635 22 8. Chi phí bán hàng 641 24 9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 642 25 10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính 30 =20-(21+22)-(24+25) 11. Thu nhập khác 711 31 12. Chi phí khác 811 32 13. Lợi nhuận thuần khác 40 =31-32 14. Tổng thu nhập trước thuế 50 =30+40 15. Thuế thu nhập doanh nghiệp 51 16. Tổng thu nhập sau thuế 60 =50-51 Trên cơ sở các thông tin trong báo cáo kết quả kinh doanh, cán bộ tín dụng có thể tiến hành đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu: Vòng quay hàng tồn kho Kỳ thu tiền bình quân Doanh thu thuần/Tổng tài sản Các chỉ tiêu thu nhập: + Tổng thu nhập trước thuế/Doanh thu thuần + Tổng thu nhập trước thuế/Tổng tài sản + Tổng thu nhập trước thuế/Vốn chủ sở hữu Khi sử dụng báo cáo này, cán bộ tín dụng cần phân biệt rõ các phần số liệu phản ánh chỉ là giá trị kế toán, không phải là tiền. Ví dụ như doanh thu được hiểu là số tiền thu được từ việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thanh toán hay chấp nhận thanh toán cho đơn vị. Còn chi phí được hiểu là số tiền doanh nghiệp thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho đơn vị khác để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Hai khái niệm này không trùng với khái nhiệm thu-chi vì nó được ghi nhận tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế như doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm dịch vụ hay mua nguyên vật liệu mặc dầu doanh nghiệp chưa thu tiền hàng và cũng chưa trả tiền cho nhà cung cấp. Điều này giải thích việc một số doanh nghiệp có lợi nhuận kế toán nhưng vẫn phá sản do mất khả năng thanh toán hay nói cách khác là không có lợi nhuận bằng tiền thật. Vì vậy, bên cạnh việc phân tích báo cáo kết quả kinh doanh, cán bộ tín dụng còn phải kết hợp với việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. c. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo này ghi nhận các luồng tiền vào, ra của doanh nghiệp từ đó phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định cũng như tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền trong kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có cấu trúc như sau: Bảng Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ ……….đến ……… Đơn vị tính: Khoản mục Mã số Kỳ trước Kỳ này I. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh 1. Các khoản chi 2. Các khoản thu Lưu chuyển thuần từ hoạt động kinh doanh 20 II. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư 1. Các khoản chi 2. Các khoản thu Lưu chuyển thuần từ hoạt động đầu tư 30 III. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính 1. Các khoản chi 2. Các khoản thu Lưu chuyển thuần từ hoạt động tài chính 40 Lưu chuyển thuần trong kỳ (20+30+40) 50 Tiền và tương đương tiền đầu kỳ 60 Ảnh hưởng của tỷ giá 61 Tiền và tương đương tiền cuối kỳ (50+60+61) 70 Các số liệu trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ là thông tin quan trọng trong công tác chấm điểm tín dụng vì đó là các giá trị bằng tiền, phát sinh thực. Trên cơ sở phân tích kết hợp báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ, cán bộ tín dụng đánh giá được khả năng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp và phần vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng. Từ đó xác định chính sách tín dụng của doanh nghiệp áp dụng cũng như được hưởng. Nó nói lên uy tín của doanh nghiệp cũng như các chính sách ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng. Ngoài ra, trên cơ sở tính toán các luồng tiền ra – vào, cán bộ tín dụng sẽ xác định được thời điểm có thặng dư ngân quỹ của doanh nghiệp. Đây sẽ là cơ sở đảm bảo việc thanh toán nợ của doanh nghiệp cho ngân hàng. Xây dựng lịch trả nợ phù hợp với chu kỳ ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ giúp đảm bảo quyền lợi của cả doanh nghiệp và ngân hàng cũng như duy trì tốt mối quan hệ lâu dài giữa doanh nghiệp và ngân hàng. 1.2 Các thông tin khác Để đánh giá khả năng “tín dụng” của khách hàng thì ngân hàng phải thu thập cả những thông tin tài chính và phi tài chính về khách hàng đó. Tuy nhiên các báo cáo tài chính chỉ cung cấp các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài việc phân tích các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng còn phải thu thập các thông tin phi tài chính khác. Đây là những thông tin không sẵn có, khó lượng hoá nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ thu thập, phân tích và tổng hợp tốt. Các thông tin phi tín dụng chính được sử dụng trong công tác chấm điểm tín dụng là: Tìm hiểu chung về khách hàng Các thông tin cho ta cái nhìn tổng quan về khách hàng như: Lịch sử công ty Những thay đổi về vốn góp Những thay đổi về cơ chế quản lý Những thay đổi về công nghệ hoặc thiết bị Những thay đổi trong sản phẩm Lịch sử về các quá trình liên kết, hợp tác, giải thể Khía cạnh chính trị và xã hội đằng sau các hoạt động kinh doanh này Điều kiện địa lý Những thông tin này được dùng để đánh giá chung về khả năng hiện tại cũng như tính cạnh tranh của công ty trong tương lai. Đây là điều cần thiết để chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính của công ty. b.Tìm hiểu về khả năng quản trị điều hành của ban lãnh đạo Khả năng quản trị điều hành của ban lãnh đạo là một trong những yếu tố then chốt quyết định hiệu quả hoạt động cũng như sự phát triển của doanh nghiệp trong hiện tại và cả tương lai, vì vậy, nó là một trong những thông tin cần phân tích khi thực hiện chấm điểm tín dụng. Các thông tin thể hiện khả năng quản trị của bộ máy lãnh đạo là: Danh sách ban lãnh đạo công ty Trình độ chuyên môn của ban lãnh đạo công ty Khả năng, kinh nghiệm, cách thức quản lý, đạo đức của người lãnh đạo, các kết quả đạt được như Giá trị doanh thu gia tăng, Mức độ giảm hoặc kiềm chế mức tăng chi phí, mức gia tăng lợi nhuận, khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ của khách hàng… c. Tìm hiểu về tình hình và uy tín giao dịch với ngân hàng Đối với các khách hàng truyền thống, ngân hàng đã có sẵn thông tin về lịch sử giao dịch của khách hàng này với ngân hàng. Đó là những hồ sơ lưu trữ của cán bộ tín dụng, cán bộ kế toán giao dịch. Các hồ sơ này ghi chép các thông tin về ý thức trả nợ của khách hàng (trả nợ đúng hạn hay phải gia hạn nợ), tiềm lực tài chính (đã bao giờ mất khả năng thanh toán với ngân hàng chưa, số dư tiền gửi trung bình tháng tại ngân hàng), số lượng ngân hàng khác mà doanh nghiệp có giao dịch… Tuy nhiên, đối với các khách hàng mới, lần đầu đặt quan hệ với ngân hàng thì việc thu thập các thông tin này rất phức tạp, tốn kém cả về tiền bạc và thời gian. Cách làm phổ biến hiện nay của các ngân hàng Việt Nam là yêu cầu khách hàng tự cung cấp kết hợp với việc trao đổi thông tin tín dụng với các ngân hàng khác qua trung tâm thông tin tín dụng CIC. Như vậy, qua việc nghiên cứu, phân tích các báo cáo tài chính và các thông tin tham khảo khác, cộng với việc quan sát thực tế của mình, cán bộ tín dụng có thể loại trừ các thông tin kém trung thực, giúp thực hiện có hiệu quả công tác chấm điểm tín dụng, giúp ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng chính xác. 2. Sự cần thiết phải chia sẻ TTTD giữa các ngân hàng Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng mỗi một ngân hàng đều thiết lập cho mình một hệ thống TTTD riêng. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng TTTD nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng thì đòi hỏi các ngân hàng phải chia sẻ thông tin với nhau. Lý luận điển hình về lợi ích của việc chia sẻ thông tin: Giả thiết Số lượng ngân hàng cho vay là 10 Thu nhập hàng tháng của khách hàng vay là X Trường hợp 1: 10 ngân hàng không chia sẻ thông tin Hạn mức TD mỗi ngân hàng : 4X (bội số thu nhập) Dư nợ tối đa của 10 ngân hàng đối với mỗi khách hàng :40X Giả sử trong 1.000 khách hàng có 5 khách hàng bị quá hạn + Tổn thất cho cả 10 ngân hàng: 200X + Thiệt hại cho mỗi ngân hàng: 20X Kết luận: Cả 10 ngân hàng đều gánh chịu thiệt hại do không chia sẻ thông tin. Lý do là các ngân hàng đều “mù tịt thông tin” về hành vi “vay nợ chồng chất” của khách hàng và không biết khi nào thị dừng ngay việc cho vay lại. 2.2 Trường hợp 2: 10 ngân hàng đều chia sẻ thông tin Hạn mức tín dụng mỗi ngân hàng đối với mỗi khách hàng: 2X (bội số của thu nhập). Dư nợ tối đa của 10 ngân hàng đối với mỗi khách hàng: 20X Giả sử trong 1000 khách hàng có 5 khách hàng bị quá hạn: + Tổn thất cho cả 10 ngân hàng: 100X + Thiệt hại cho mỗi ngân hàng: 10X Kết luận: Cả 10 ngân hàng đều được hưởng lợi từ việc chia sẻ thông tin. Lý do là các ngân hàng đều hạn chế tài sản chịu rủi ro xuống chỉ còn 20 lần thu nhập hàng tháng của khách hàng. Nói cách khác, mỗi ngân hàng hạn chế tài sản chịu rủi ro chỉ còn bằng 2 lần thu thập hàng tháng của khách hàng. 2.3 Trường hợp 3 : 5 ngân hàng chia sẻ thông tin và 5 ngân hàng không chia sẻ thông tin Chỉ tiêu Chia sẻ Không chia sẻ Số lượng ngân hàng 5 5 Hạn mức tín dụng mỗi ngân hàng đối với khách hàng 4X 4X Dư nợ tín dụng tối đa của 5 ngân hàng đối với khách hàng 20X 20X Giả sử trong 1000 khách hàng có 5 khách hàng bị quá hạn Tổn thất cho cả 10 ngân hàng 100X 100X Thiệt hại cho mỗi ngân hàng 20X 20X Kết luận: Mặc dù 5 ngân hàng chia sẻ thông tin, giới hạn hạn mức tín dụng ở mức 20 lần thu nhập hàng tháng của khách hàng. Tuy nhiên 5 ngân hàng còn lại do không chia sẻ thông tin nên tiếp tục cho khách hàng vay dẫn đến rủi ro cho cả 10 ngân hàng. 2.4 Trường hợp 4 : 8 ngân hàng chia sẻ thông tin 2 ngân hàng không chia sẻ thông tin Chỉ tiêu Chia sẻ Không chia sẻ Số lượng ngân hàng 8 2 Hạn mức tín dụng mỗi ngân hàng đối với khách hàng 2,5X 4X Dư nợ tối đa của ngân hàng đối với khách hàng 20X 8X Giả sử trong 1000 khách hàng có 5 khách hàng bị quá hạn Tổn thất cho cả 10 ngân hàng 100X 40X Thiệt hại cho mỗi ngân hàng 12,5X 20X Như vậy, ta có bảng số liệu tóm tắt về kết quả của việc chia sẻ thông tin Lợi ích của việc chia sẻ thông tin Chỉ tiêu Tổn thất ngành Tổn thất cho mỗi ngân hàng share Tổn thất cho mỗi ngân hàng not share Tất cả không share 200x 20x Tất cả đều share 100x 10x 5 share, 5 not share 200x 20x 20x 8 share, 2 not share 140x 12.5x 20x Như vậy, tính hiệu quả của các hệ thống TTTD có thể giảm bớt tỷ lệ vỡ nợ và tạo cơ hội nhiều hơn cho những người vay có thu nhập thấp, điều này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thực hành tín dụng; Tuy nhiên, những giả thuyết này cần phải được kiểm chứng bằng kinh nghiệm thực tiễn. Những nghiên cứu trong tương lai của chúng ta đòi hỏi phải thu thập thông tin từ lĩnh vực thử nghiệm Guatemalan, lĩnh vực dùng kinh nghiệm để phân tích những hiệu ứng chặn và hiệu ứng đẩy của hệ thống thông tin. 3. Vai trò của hệ thống TTTD 3.1 Vai trò của hệ thống TTTD đối với phát triển kinh tế - xã hội Hệ thống TTTD góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Ông Gienn Hubbard, nguyên chủ tịch hội đồng tư vấn kinh tế Mỹ dưới thời Tổng thống George .W.Bush đã đưa ra kết luận rằng: “kinh tế thế giới cần được tăng cường liên kết và phụ thuộc vào nhau nhiều hơn nữa”. Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản đã từng có nhiều động lực phát triển kinh tế thế giới, nhưng tiềm năng phát triển còn nhỏ hơn yêu cầu kinh tế. Cải cách tài chính thông qua các Trung tâm thông tin tín dụng và công nghệ chấm điểm tín dụng đang nổi lên trong thị trưòng có tiềm năng tiêu dụng rộng lớn. Nhờ đó, có thể hỗ trợ giảm sự phụ thuộc của kinh tế kế hoạch hoá tập trung để kinh tế phát triển bền vững. 3.2 Vai trò của hệ thống thông tin tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng và các tổ chức khác Hệ thống TTTD góp phần đảm bảo an toàn trong hoạt động của hệ thống tiền tệ, ngân hàng và phát triển mở rộng tín dụng. Nhờ chia sẻ tốt TTTD, việc cho vay được phát triển thuận lợi cho cả người vay và mở rộng cho vay tiêu dùng, mua nhà, mua xe ô tô, thẻ tín dụng… Nhưng, ngoài việc chia sẻ 2 loại thông tin trên, sự an toàn và tính hiệu quả của hoạt động tín dụng còn phụ thuộc vào mức độ rủi ro, vào chính sách tài chính tiền tệ đồng bộ, sự tin cậy của người tiêu dùng. Ngoài ra hệ thống thông tin tín dụng góp phần đẩy mạnh phát triển thị trường thẻ bền vững. Hệ thống này giúp định danh cho tài khoản mới, quản lý các tài khoản đã có, tổng hợp chất lượng các dòng thu nhập; cung cấp cả thông tin tích cực và thông tin tiêu cực; chấm điểm tín dụng hàng tháng, phân tích thuộc tính đối với khách hàng để xây dựng mô hình rủi ro hàng tháng, lợi ích cho việc phát triển thị trường Visa Card. 3.2.1 Hiệu ứng chặn và hiệu ứng đẩy của TTTD Để chứng minh hiệu quả của hệ thống thông tin tín dụng, chúng ta xem xét kết quả bài phân tích của Craig Meintosh, trường đại học California tại San Diego và Bruce widick trường đại học San Francisco (tháng 9/2001) “trong những khu vực mà mức độ cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính nhỏ đang ngày càng gay gắt, thì để đối phó với tình trạng gia tăng nợ quá hạn của người vay, người ta rất cần có một hệ thống thông tin tín dụng có thể cung cấp cho người cho vay cả những thông tin tiêu cực và thông tin tích cực về người vay. Vì thế, chúng tôi đã phát triển một mô hình trong đó diễn tả cách thức mà những hệ thống TTTD sử dụng hiệu ứng chặn để thu hẹp phạm vi lựa chọn người vay cũng như để giải quyết những vấn đề về rủi ro đạo đức. Mô hình dưới đây cũng được sử dụng để đưa ra những tiên đoán về hiệu quả của hệ thống TTTD đối với tỷ lệ vỡ nợ.” Kết quả là: với hiệu ứng chặn, nó giúp ngăn chặn những khách hàng xấu trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng và hiệu ứng đẩy thì ngược lại, nó giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, với mức lãi suất thấp hơn (do giảm chi phí điều tra thông tin). Đặc biệt, nó hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, loại hình chiếm trọng lớn và có vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển. Ngoài ra, nó còn có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu người vay từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. Bảng số liệu phân tích chứng minh tác động chặn và đẩy của TTTD. Mức độ chấp nhận Khoản vay Tỷ lệ quá hạn TTTD đầy đủ TTTD không đầy đủ 40% 1.08% 2.92% 60% 1.90% 3.35% 75% 3.04% 4.07% 100% 9.31% 9.31% Với việc cho phép 60% khoản vay được chấp nhận, khi sử dụng TTTD không đầy đủ sẽ phát sinh tỷ lệ nợ quá hạn là 3.35% so với 1.90% khi sử dụng TTTD đầy đủ. Nói cách khác, tỷ lệ nợ quá hạn khi sử dụng TTTD không đầy đủ cao hơn 76.3% khi sử dụng TTTD đầy đủ Tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ chấp nhận khoản vay TTTD đầy đủ TTTD không đầy đủ 3% 74.80% 39.80% 4% 83.20% 73.7% 5% 88.9% 84.60% 6% 93.10% 90.80% Với việc chọn tỷ lệ nợ quá hạn là 4%, khi sử dụng TTTD đầy đủ bạn sẽ chấp nhận được tỷ lệ 83.20% các khoản xin vay, trong khi đó bạn sẽ chỉ chấp nhận được 73.70% các khoản vay nếu bạn sử dụng TTTD không đầy đủ. Như vậy, nếu có 100 000 khoản xin vay bạn sẽ từ chối 11 000 khoản xin vay một cách lãng phí (không phát sinh nợ quá hạn) nếu bạn sử dụng TTTD không đầy đủ. 3.2.2 Điều tra của WB và đánh giá thực tế hiệu quả hoạt động TTTD đối với hoạt động ngân hàng. Theo số liệu điều tra năm 2001 – 2002 của 34 nước, đối với các ngân hàng, hiệu quả dành được từ sử dụng TTTD như sau: Giảm thời gian xử lý : + 55% số ngân hàng trả lời giảm được ít nhất 25% thời gian. + 9% số ngân hàng trả lời không thay đổi. Giảm chi phí : + 49% các ngân hàng trả lời giảm được ít nhất 25% chi phí. + 12% số ngân hàng trả lời không thay đổi. Giảm nợ xấu: + 62% số ngân hàng trả lời giảm được 25% hoặc hơn + 5% số ngân hàng trả lời không thay đổi. Đối với tầm quan trọng của báo cáo TTTD được WB khảo sát ở 34 ngân hàng các nước Mỹ latin năm 1999 – 2000 cho thấy: Về thế chấp: + 30% ngân hàng trả lời TTTD là rất quan trọng + 12 ngân hàng trả lời ít quan trọng; Về thông tin tài chính: + 24 ngân hàng trả lời TTTD là rất quan trọng. + 17 ngân hàng trả lời ít quan trọng; Lịch sử người vay với ngân hàng: + 24 ngân hàng trả lời thông tin tín dụng về lịch sử người vay là rất quan trọng. + 18 ngân hàng trả lời ít quan trọng. Một số nghiên cứu khác đã đưa ra kết quả của việc giảm chi phí và tiết kiệm thời gian từ các báo cáo tín dụng và cho điểm tín dụng của các ngân hàng như sau: Một ngân hàng ở Canada: thời gian xử lý giảm từ 9 ngày xuống còn 3 ngày, trong 18 tháng từ khi chấm điểm tín dụng được thực hiện. Một ngân hàng ở Mỹ: thời gian xử lý giảm từ 3 – 4 tuần xuống còn vài giờ. Một ngân hàng ở Hà Lan: thời gian xử lý giảm từ 8 – 10 giờ xuống còn 15 phút cho các khách hàng có sẵn thông tin và 45 phút với các khách hàng mới. Ở Mỹ: trung bình chi phí xử lý một khoản vay doanh nghiệp nhỏ giảm từ 250$ xuống còn 100$ sau khi thực hiện chấm điểm tín dụng. Một điều tra khác, ở Argentina đối với một ngân hàng lớn và một ngân hàng nhỏ, dự tính tỷ lệ nợ xấu khoảng 40%. Dựa vào báo cáo của Maijnoni Miller, Mylenko và Powell (2003) chuyên gia của Ngân hàng thế giới đưa ra con số sau do hiệu quả của việc sử dụng thông tin tín dụng giúp giảm tỷ lệ nợ xấu: + Đối với ngân hàng lớn (giảm 41%); do thông tin tín dụng giảm 1,31% và mô hình với ngân hàng tư nhân chỉ tính có thông tin giảm 2,22%. + Đối với ngân hàng nhỏ (giảm 78%) do thông tin tín dụng giảm 0.52% và mô hình với ngân hàng tư nhân chỉ tính có thông tin giảm 2,42%. 3.3 Vai trò của hệ thống TTTD đối với khách hàng vay vốn. Báo cáo tín dụng là căn cứ để cho phép các tổ chức tín dụng chia sẻ thông tin tín dụng khi có quyền bảo vệ thông tin cá nhân. Nó đảm bảo cho việc thu thập thông tin của các hãng TTTD và bảo đảm công bằng, trung thực trong chia sẻ thông tin giữa các tổ chức tín dụng. Khuôn khổ pháp lý đối với báo cáo tín dụng trên toàn thế giới có nhiều, nhưng các luật có liên quan đến hoạt động của hãng TTTD nhằm bảo vệ quyền lợi khách hàng vay vốn bao gồm: Các quy định liên quan đến bảo mật ngân hàng; luật bảo vệ dữ liệu; bảo vệ người tiêu dùng; các quy định về hỗ trợ tín dụng và tín dụng tiêu dùng; việc cung cấp thông tin bảo mật của cá nhân hoặc công ty trong các luật hiện có. Kết quả là, mức độ chia sẻ thông tin tăng lên dẫn đến việc đánh giá tín dụng đúng hơn đối với những người vay nghèo hơn và hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả hơn thông qua tỷ lệ vỡ nợ giảm xuống. Tỷ lệ vỡ nợ giảm xuống sẻ giảm chi phí cho vay cho nên việc cho những người vay có ít tài sản vay đối với những khoản vay nhỏ sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho người cho vay. Điều đó hàm ý rằng việc áp dụng hãng TTTD rất có khả năng đem lại mức độ linh động cao hơn cho cả hệ thống tài chính chính thức và không chính thức trong việc cho vay đối với những người vay nghèo cận biên, vốn trước đây luôn bị từ chối cho vay. Như vậy, tác động vĩ mô của TTTD đầy đủ là giúp giảm tỷ lệ tổn thất do nợ xấu gây ra; Giúp ngân hàng tiết kiệm vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài ra, nó còn giúp tăng khối lượng tín dụng cấp cho khách hàng tốt, đảm bảo việc cấp tín dụng nhiều nhưng vẫn giữ được sự an toàn cần thiết, tức là giúp nâng hiệu quả sử dụng nguồn lực quý là vốn cho nền kinh tế. 4. Đo lường tính hiệu quả của hệ thống TTTD Thông qua nghiên cứu, phân tích hoạt động thông tin tín dụng của 120 quốc gia trên thế giới, WB đưa ra một số chỉ số, gọi là chỉ số thông tin tín dụng. Chỉ số này được xây dựng trên cơ sở 6 yếu tố then chốt đo lường phạm vi, khả năng tiếp cận và chất lượng thông tin tín dụng sẵn có. Mỗi yếu tố được gắn với 1 điểm số trong tổng số 6 điểm của chỉ số TTTD, 6 yếu tố đó gồm có: Thu thập và cung cấp cả hai loại TTTD tích cực và tiêu cực (thông tin tiêu cực để phòng ngừa rủi ro tín dụng, thông tin tích cực để lựa chọn khách hàng) Thu thập và cung cấp TTTD cả đối với doanh nghiệp và cá nhân vay (lịch sử vay vốn, cấp hạng tín nhiệm, tình hình vay nợ hiện tại….). Thu thập và cung cấp TTTD đối với các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính khác (công ty tài chính, cho thuê tài chính), các công ty bảo hiểm, các tổ chức cung cấp dịch vụ công cộng, bán lẻ. Lưu trữ dữ liệu lịch sử trên 5 năm Giới hạn thu thập các khoản vay có giá trị trên 1% GDP/người. Pháp luật quy định, người tiêu dùng có quyền truy cập vào dữ liệu lưu trữ của chính họ Chỉ số này có giá trị từ 0 đến 6, giá trị càng cao thể hiện hoạt động thông tin tín dụng càng hoàn thiện. Kết quả phân tích cũng cho thấy có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tăng cường chia sẻ thông tin với năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Phân tích cho thấy, cứ thêm một điểm trong chỉ số thông tin tín dụng thì tín dụng cho khu vực tư nhân sẽ tăng thêm 6%. Điều đó có nghĩa là cứ tăng thêm 1 điểm trong chỉ số thông tin tín dụng thì sẽ tăng tương ứng 0.9% tăng thêm trong GDP và 0.7% tăng thêm trong tăng trưởng năng suất lao động. Chương II: THỰC TRẠNG VIỆC THU THẬP VÀ CHIA SẺ TTTD ĐỂ PHỤC VỤ CHO CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY I- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM Trong cơ chế thị trường, hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro. Thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian qua cho thấy chất lượng tín dụng chưa tốt, hiệu quả tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao, bình quân những năm gần đây là khoảng 5% và chưa có khuynh hướng giảm vững chắc, khả năng xảy ra rủi ro tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn. Để giải quyết vấn đề này cần đẩy mạnh việc xây dựng các mô hình đánh giá rủi ro phù hợp với thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, trong đó việc sử dụng mô hình chấm điểm tín dụng để đánh giá rủi ro, xếp hạng tín nhiệm khách hàng được coi là khá phù hợp và đang được các ngân hàng xây dựng và đưa vào áp dụng. Giai đoạn từ 1994 đến 2000 Trong giai đoạn này việc phân tích và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn hầu hết được thực hiện tại hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh. Ví dụ như Ngân hàng Công thương bắt đầu thực hiện từ năm 1994, ngân hàng Đầu tư và Phát triển bắt đầu thực hiện từ năm 1995 (trong các văn bản 493/NHĐT ngày 20/6/1998 và văn bản 516/NHĐT ngày 01/7/1998 về hướng dẫn một số chỉ tiêu trong tiêu chuẩn xếp hạng doanh nghiệp). Ngoài ra, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn còn được tiến hành tại các ngân hàng liên doanh, ngân hàng Nhà nước. Nhưng các NHTMCP thì chưa, việc xếp hạng tín nhiệm lúc này mang tính hình thức, sử dụng ít. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay Trước những biến đổi của hoạt động ngân hàng, với sự quản lý của NHNN ngày càng thông thoáng hơn, linh hoạt và hiệu quả hơn. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng trong nước, nước ngoài, trong xu thế hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi cải thiện công tác xét cấp tín dụng phải nhanh chóng, hiệu quả hơn. Hầu hết các ngân hàng đều thực hiện phân tích và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đi vay để phục vụ công tác quản trị tín dụng. Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có thông báo số 1963/NHNNo –05,06 ngày 18 -8-2000 về phân loại khách hàng, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu có công văn 1087/CV – TD ngày 07/6/2002 của Giám đốc về phân loại khách hàng. NHTMCP Đông Á dự thảo xây dựng các chỉ tiêu chấm điểm phân loại khách hàng là doanh nghiệp, ngân hàng liên doanh Việt Nam – Đài Loan, Ngân hàng Ngoại thương … đều bước đầu áp dụng công tác chấm điểm tín dụng. Như vậy, công tác chấm điểm tín dụng để xếp hạng tín nhiệm cho doanh nghiệp vay vốn đã được các NHTMQD quan tâm từ 1994, sau đó mở rộng ra các NHTM ngoài quốc doanh từ năm 2000 và đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ: Hệ thống chỉ tiêu phân tích xây dựng được hoàn thiện từng bước, phù hợp với đặc điểm từng ngân hàng. Các chỉ tiêu phân tích cũng thường xuyên bổ sung, thay thế, tập trung vào mục tiêu đo lường và dự đoán rủi ro tín dụng chính xác hơn. Vận dụng phương pháp xếp hạng tiên tiến, các chỉ tiêu được lượng hoá bằng cách tính điểm, căn cứ vào tổng số điểm của các chỉ tiêu để xếp hạng tín nhiệm. Mức hạng trước năm 2002 không nhiều, thường các ngân hàng xếp thành ba loại A,B và C theo mức độ rủi ro từ thấp đến cao. Từ năm 2002 đến nay, một số ngân hàng xếp thành nhiều loại hơn, có quan tâm đến sự khách nhau về ngành nghề kinh doanh, quy mô lớn, nhỏ. Tiêu chuẩn dùng để so sánh thường so với kỳ trước hoặc tiêu chuẩn quốc tế. Nguồn thông tin dùng để so sánh thường so với kỳ trước hoặc tiêu chuẩn quốc tế. Nguồn thông tin dùng để phân tích chủ yếu: Báo cáo tài chính năm liền kề năm kế hoạch, hồ sơ lịch sử của khách hàng, kết quả kiểm tra trước, trong và sau khi vay, thông tin của tổ chức CIC và quan sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác tổ chức phân tích và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn của các ngân hàng giai đoạn này đều tương tự như nhau. Cụ thể, việc xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phân tích có thể do một bộ phận chuyên trách thực hiện, hoặc một nhóm người kiêm nhiệm thực hiện và chịu trách nhiệm. Tổ chức phân tích và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn tiến hành theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm một lần. Giám đốc ngân hàng chi nhánh hoặc hội sở sẽ chịu trách nhiệm tổ chức phân tích và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn. Mỗi cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm phân tích và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp do mình phụ trách, sau đó trình báo cho giám đốc. Tuỳ theo từng ngân hàng, giám đốc có thể triệu tập cuộc họp để xét duyệt lại việc xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của các cán bộ tín dụng. Kết quả xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp vay vốn được lập thành văn bản và lưu tại hồ sơ khách hàng, giúp ngân hàng thương mại quản lý rủi ro, sử dụng kết quả đánh giá rủi ro để đưa ra các quyết định tín dụng thích hợp, có hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro như: Nếu doanh nghiệp vay vốn được xếp loại C hoặc B là các doanh nghiệp có mức rủi ro cao, khi đề nghị vay vốn, ngân hàng hoặc không cho vay, hoặc cho vay, nhưng ngân hàng phải cẩn trọng hơn, điều kiện cho vay và biện pháp giám sát chặt chẽ hơn… vì khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này rất kém và ngược lại. Khi doanh nghiệp vay đang sử dụng vốn vay, kết quả xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là thông tin quan trọng để ngân hàng đưa ra biện pháp xử lý thích hợp các khoản vay có vấn đề như: giảm hạn mức tín dụng, tăng đảm bảo, yêu cầu bảo lãnh, lập dự phòng rủi ro TD…Điều này đã góp phần không nhỏ vào việc giảm dư nợ quá hạn so với tổng dư nợ, mở rộng cho vay, để tăng thu nhập của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên việc xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế với nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan cần phải được hoàn thiện. Trong đó, một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới công tác chấm điểm tín dụng của các ngân hàng là TTTD còn thiếu, chất lượng thông tin chưa cao, việc chia sẻ thông tin còn hạn chế. II. THỰC TRẠNG TTTD TẠI VIỆT NAM Để tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, nhất thiết cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin. Thu thập thông tin dù là bước đầu tiên của quá trình chấm điểm tín dụng nhưng lại đặc biệt quan trọng. Chất lượng thông tin thu thập được trong giai đoạn này quyết định tính chính xác, độ tin cậy của kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Do vậy, ngân hàng cần chú trọng thu thập thông tin và khai thác triệt để mọi nguồn thông tin có thể thu thập được. 1. Hồ sơ vay vốn của khách hàng. Hiện nay hồ sơ vay vốn của khách hàng gồm các các giấy tờ pháp lý và các báo cáo tài chính của 3 năm gần nhất. Các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp nộp cho ngân hàng chủ yếu là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường không được các doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ. Mà các báo cáo tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giải thích và làm rõ cho nhau, nên việc thiếu bất cứ báo cáo tài chính nào cũng gây khó khăn cho công tác chấm điểm tín dụng. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giải thích cho các số liệu trên Bảng cân đối kế toán và là cơ sở đối chiếu với Báo cáo kết quả kinh doanh. Không có báo cáo này, cán bộ tín dụng sẽ mất thời gian và chi phí xác định lại xem tính chính xác, trung thực của các số liệu kế toán để có đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu không có nó, không thể chấm điểm một số chỉ tiêu của doanh nghiệp như xu hướng lưu chuyển tiền tệ, trạng thái lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động, cán bộ tín dụng buộc phải cho 0 với các chỉ tiêu này dẫn đến chấm điểm cho doanh nghiệp thiếu chính xác, ảnh hưởng đến việc xếp hạng doanh nghiệp. Hơn thế nữa, báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo phản ánh các luồng tiền vào – ra thực tế của doanh nghiệp. Nó thể hiện chính xác nhu cầu tài chính và năng lực trả nợ tại các thời điểm xác định của doanh nghiệp. Đây là căn cứ quan trọng giúp các quyết định tài trợ của ngân hàng có tính tương thích với nhu cầu tài chính cũng như khả năng trả nợ của doanh nghiệp, đảm bảo tài trợ đúng thời điểm khi doanh nghiệp có thâm hụt ngân quỹ và thu nợ khi doanh nghiệp có thặng dư ngân quỹ. Mặt khác, báo cáo kết quả kinh doanh của một số doanh nghiệp cũng chưa thực sự cập nhật theo đúng chuẩn mực Kế toán mới, dẫn đến cung cấp không đầy đủ thông tin cho chấm điểm tín dụng. Ví dụ như Chuẩn mực kế toán qui định từ năm 2004, trong báo cáo kết quả kinh doanh phải có trình bày chỉ tiêu “chi phí lãi vay”. Tuy nhiên một số doanh nghiệp vẫn chưa cập nhật, khiến cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong việc xác định và chấm điểm chỉ số thanh toán lãi vay (lợi nhuận trước thuế + chi phí lãi vay/chi phí trả lãi vay). Rất mất thời gian trong việc yêu cầu doanh nghiệp bổ sung đầy đủ các thông tin này, đôi khi các cán bộ tín dụng phải trực tiếp đến tận doanh nghiệp để thu thập. Cuối cùng, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp hầu như chưa được kiểm toán nên đòi hỏi thời gian để xem xét tính trung thực cũng như làm ảnh hưởng dến độ chính xác của kết quả chấm điểm tín dụng. 2. Thông tin lưu trữ tại ngân hàng Hiện nay, thông tin tín dụng được lưu trữ ở ngân hàng theo cách thức: Phòng tín dụng: lưu trữ thông tin về tình hình dư nợ, cho vay, thu nợ của khách hàng; tình hình tài chính của khách hàng, tiến trình thực hiện phương án kinh doanh. Phòng kế toán giao dịch (và có thể cả Ban kiểm soát và hỗ trợ kinh doanh): Có nhiệm vụ thu lãi, gốc và giải ngân theo khế ước, thực hiện các giao dịch cho khách hàng …nên phòng này lưu trữ nguồn thông tin khá phong phú về khách hàng bảo gồm cả thông tin tín dụng và phi tín dụng. Các thông tin lưu trữ tại đây hỗ trợ đắc lực cho cán bộ tín dụng trong việc thực hiện công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Phòng tổng hợp và tiếp thị: Tổng hợp số liệu của cả ngân hàng trên các mặt huy động vốn, sử dụng vốn, doanh thu, chi phí và lợi nhuận…Cán bộ tín dụng có thể sử dụng để ra quyết định. Có thể thấy rằng thông tin được lưu trữ ở ngân hàng là khá phong phú, tuy nhiên còn tản mạn và thiếu tập trung. Điều này làm mất thời gian của cán bộ tín dụng trong việc thu thập thông tin, làm chậm tiến độ ra quyết định cho vay. Sự chậm trễ này gây nhiều bất lợi cũng như phiền toái cho khách hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng cũng như giảm sức cạnh tranh. Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi sự xuất hiện của ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài với hệ thống thông tin đầy đủ, tác phong làm việc chuyên nghiệp, nhanh chóng. Hiện nay một số ngân hàng Việt Nam cũng đã triển khai các phần mềm quản lý có tính tương thích cao. Tuy nhiên lượng thông tin được mã hoá và quản lý chưa nhiều, hiệu quả sử dụng còn hạn chế. Chúng ta cần một hệ thống lưu trữ và xử lý đầy đủ các thông tin về khách hàng với tính tập trung cao, dễ sử dụng để giúp cán bộ tín dụng có thể truy xuất thông tin dễ dàng. Đây sẽ là cơ sở để tiến hành áp dụng phần mềm tin học chấm điểm tự động trong tương lai. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng cũng là một yêu cầu chung cho tất cả các ngân hàng trong quá trình hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. 3. Thông tin từ các cuộc điều tra, phỏng vấn trực tiếp khách hàng Việc phỏng vấn, tiếp xúc trực tiếp với lãnh đạo doanh nghiệp, người lao động, thăm quan nhà xưởng, kho hàng cũng giứp cán bộ tín dụng nắm bắt được tình hình thực tiễn của doanh nghiệp. Tuy nhiên do điều kiện nhân lực có hạn, việc này không được tiến hành thường xuyên. Nếu có thì thường báo trước cho doanh nghiệp dẫn đến tình trạng dàn dựng, làm sai tình hình thực. Các nhân viên ngân hàng đôi khi thiếu hiểu biết chung về ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp cũng như thiếu kỹ năng phân tích, thống kê nên kết quả bị hạn chế. 4. Thông tin tín dụng từ trung tâm thông tin tín dụng CIC Trung tâm thông tin tín dụng ( Credit information center- viết tắt là CIC) của Ngân hàng Nhà nước được Ngân hàng thế giới xem xét và đánh giá là một tổ chức đăng ký tín dụng công (Public credit registries) hoạt động hiệu quả, hữu hiệu ở khu vực Châu Á. Với đặc điểm là một tổ chức TTTD công, hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam sẵn có tất cả các ưu điểm chung giống như các tổ chức đăng ký tín dụng công khác, đó là: Cung cấp thông tin cho Ngân hàng trung ương để đưa ra các quy định về giám sát các tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm góp phần đảm bảo an toàn, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng tài chính của mỗi nước. Ngân hàng Trung ương phát triển các chính sách tín dụng thận trọng và các nghiệp vụ cho các tổ chức tài chính, gồm cả trong kinh doanh và quản lý rủi ro tín dụng. Đây là một cách cung cấp các dịch vụ TTTD cho các tổ chức tài chính để họ có thể làm tốt hơn quyết định cho vay. Thu thập TTTD về người vay từ các TCTD và cung cấp thông tin trở lại cho các TCTD để phục vụ kinh doanh tín dụng. Hệ thống TTTD trong thị trường tài chính góp phần làm giảm sự không cân xứng về thông tin giữa những người vay, cho phép người cho vay đánh giá rủi ro chính xác hơn và cải thiện chất lượng đầu tư, dễ dàng tư vấn chọn lựa phương án và giảm chi phí tín dụng cho người vay tốt, từ đó tăng khối lượng tín dụng và góp phần phát triển kinh tế. Ngoài ra, hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam còn có những đặc điểm ưu việt riêng: Hoàn toàn phù hợp với xu thế và thông lệ chung về hoạt động thông tin tín dụng (TTTD) của khu vực và quốc tế. Là một hệ thống của Ngân hàng nên hiệu lực pháp lý trong ngành cao trong việc báo cáo thông tin, chia sẻ cũng như trong việc khai thác sử dụng thông tin. Thông tin chia sẻ gồm cả thông tin tích cực và thông tin tiêu cực nên đã giúp ích nhiều cho việc quản lý của NHNN. Đối với TCTD, nó một mặt góp phần ngăn ngừa hạn chế rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, mặt khác với thông tin tích cực nó góp phần lựa chọn khách hàng tốt, giảm chi phí điều tra thông tin. Từ đó nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng tín dụng và góp phần tăng trưởng kinh tế nói chung. Là một hệ thống thông tin riêng của ngành ngân hàng, những người ngoài hệ thống không được tiếp cận thông tin chia sẻ của TCTD. Do đó rất đảm bảo về an toàn bảo mật thông tin, không gây các khiếu kiện không cần thiết cũng như không làm ảnh hưởng đến cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD. Do là hệ thống riêng của ngành ngân hàng, có tính bảo mật cao nên trong những trường hợp cần thiết, NHNN có thể sử dụng công cụ này thực hiện điều tra khảo sát hoặc thực hiện thêm những nhiệm vụ khác ngoại nhiệm vụ TTTD thông thường như: Thu thập báo cáo những khoản vay vượt quá 5%, 15% vốn tự có của từng TCTD; thu thập, lưu trữ, thông báo việc phát hành séc quá số dư, séc giả, séc khống… ; Thu thập điều tra thông tin về doanh nghiệp nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt Nam phục vụ cho nhiệm vụ quản lý nhà nước; điều tra đột xuất về rủi ro tín dụng; khảo sát thông tin về các doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Qua 13 năm hoạt động, hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM và hiệu qủa hoạt động của NHNN: Do thu thập được tương đối đầy đủ thông tin về hoạt động tín dụng trong nền kinh tế (CIC đã thu thập được thông tin về dư nợ gần 80% trên tổng dư nợ toàn ngành) nên đã giúp NHNN có những thông tin quan trọng cần thiết trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng; Do chia sẻ thông tin giữa các TCTD nên đã góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng. Có thể nói đến nay không còn hiện tượng khách hàng có vấn đề nhưng vẫn đi vay ỏ nhiều ngân hàng cùng một lúc với số tiền lên hàng nghìn tỷ đồng, hoặc thành lập các công ty con để đồng thời vay ở nhiều TCTD như trường hợp Epco – Minh Phụng năm 1994. Từ đó đã góp phần đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng. Do có cả thông tin về cá nhân vay nên góp phần mở rộng tín dụng đến doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Điều này đã mang lại lợi ích rất lớn: (i) mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp này tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn từ hệ thống TCTD; (ii) Từ đó đã góp phần mở rộng thị trường tín dụng chính thức và thu hẹp thị trường tín dụng không chính thức (thị trường chợ đen cho vay nặng lãi), Điều này được thể hiện khá rõ tại khu vực Lâm Đồng, Hà Tây, Đồng Tháp… nơi mà các chi nhánh NHNN tổ chức tốt việc cung cấp thông tin về cá nhân vay trên địa bàn cho các TCTD. Hoạt động TTTD đã góp phần thay đổi dần văn hoá tín dụng và nâng cao đạo đức kinh doanh của người vay. Vì người vay có ý định lừa đảo đã biết rằng ngân hàng có một hệ thống thông tin tín dụng nên khó mà lừa đảo qua mắt được. Thực tế là, hiện tượng lừa đảo, một tài sản thế chấp vay nhiều nơi, vay TCTD này để trả TCTD khác, một gia đình thành lập nhiều công ty để vay đã bị hệ thống TTTD phanh phui, từ đó làm nản lòng những ý định xấu trong thị trường tín dụng. Như vậy, hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số thành quả đáng khích lệ, đã hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động tín dụng nói chung. Đến nay, hệ thống TTTD đã thu thập được hơn 800 nghìn hồ sơ khách hàng có quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng tại các tổ chức tín dụng,trong đó 85 ngàn hồ sơ khách hàng là doanh nghiệp, với tổng dư nợ khoảng 400 ngàn tỷ đồng. Việc hỏi tin của các tổ chức tín dụng cũng tăng 50% mỗi năm, bình quân 200 bản tin/ngày góp phần ngăn ngừa hạn chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, TTTD của Việt Nam cũng mới ở giai đoạn đầu, còn một số khó khăn và tồn tại như chất lượng thông tin chưa thực sự tốt, chưa đảm bảo thông tin nhanh nhậy, kịp thời, chính xác, chi phí để mua thông tin còn cao. 5. Các nguồn thông tin khác Ngoài các nguồn trên, ngân hàng còn sử dụng các thông tin thu thập từ báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, cán bộ đồng nghiệp. Tuy nhiên hoạt động này được tiến hành chưa hiệu quả do nhiều cán bộ tín dụng còn chưa tích cực thu thập, khai thác tốt nguồn thông tin này để nâng cao tính chính xác của công tác chấm điểm tín dụng. Tóm lại, hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng là tương đối đa dạng, tuy nhiên vẫn chủ yếu dựa vào các báo cáo tài chính của khách hàng nên độ tin cậy chưa cao. Trong trường hợp có ít thông tin thì cán bộ tín dụng khó có thể kiểm chứng tính chính xác của thông tin. Điều này ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả chấm điểm tín dụng do không đảm bảo đầu vào. Chương III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ TĂNG CƯỜNG CHIA SẺ HỆ THỐNG TTTD TẠI VIỆT NAM Một là: Củng cố và phát triển hệ thống TTTD của ngân hàng đảm bảo cơ cấu có đủ tầm gánh vác nhiệm vụ chính trị được giao bao gồm: Trung tâm TTTD; bộ phận thông tin tại các chi nhánh NHNN; các trung tâm TTTD, các bộ phận thông tin khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Khi cần thiết có thể có một số chi nhánh trực thuộc Trung tâm TTTD. Toàn ngành cần thực hiện nghiêm túc Quy chế hoạt động TTTD ban hành kèm theo Quyết định 1117/2004/QĐ – NHNN ngày 8/9/2004 của Thống đốc NHNN và các quyết định, chỉ thị của NHNN có liên quan đến hoạt động TTTD nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng theo hướng hiệu quả, an toàn, bền vững. Hai là: Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các chủ đầu tư. Trước mắt phải kiểm toán tài liệu bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động tài chính của các đơn vị xin vay vốn, mà đầu tiên là thực hiện đối với các dự án có quy mô từ trung bình trở lên. Ba là:Các NHTM phải nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ việc báo cáo và khai thác TTTD từ Trung tâm TTTD nhằm góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Vì vậy, các NHTM cần khẩn trương kiện toàn tổ chức hoạt động TTTD, phát triển hoạt động TTTD trong hệ thống gắn với việc thực hiện quản trị rủi ro tín dụng; Bốn là: Các NHTM cần tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu tín dụng chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các chi nhánh NHTM và các phòng ban NHTM Trung ương. Năm là: Khi xem xét cấp tín dụng đối với khách hàng, đặc biệt là đối với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng phải khai thác và sử dụng thông tin từ Trung tâm TTTD. Cần phải có quy định sử dụng Báo cáo thông tin từ Trung tâm TTTD như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay; Sáu là: Trung tâm TTTD nhanh chóng củng cố đội ngũ cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hoá và tự động hóa tất cả các công đoạn xử lý nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin, đẩy mạnh việc thu thập thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và phục vụ cho hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời đi sâu phân tích, đánh giá xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng Bảy là: Thanh tra NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung tâm TTTD phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các tổ chức tín dụng, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những đơn vị vi phạm chế độ báo cáo TTTD. Tám là: Xây dựng hệ thống thông tin 2 chiều giữa các NHTM và NHNN hữu hiệu, với các quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên, thực hiện thưởng phạt nghiêm minh để đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin của các NHTM, tránh cho vay chồng chéo, tránh xảy ra hiện tượng một khách hàng vay tại nhiều ngân hàng khác, có thể khác hoặc cùng hệ thống với cùng một hồ sơ vay. Mặt khác, giúp NHNN quản lý và đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM, nhằm hạn chế rủi ro tín dụng Chín là: Xây dựng hệ thống thông tin thu thập từ bên ngoài như: Thông tin từ cơ quan thuế, từ người tiêu dùng, từ các công ty chuyên cung cấp dịch vụ về xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, từ reuter, từ bloomberg… Mười là: Bên cạnh việc xây dựng hệ thống thông tin đã nêu trên, các thông tin ở tầm vĩ mô cần phải công bố công khai, đảm bảo tính minh bạch. Cụ thể thời gian tới, cơ quan thống kê cần xây dựng, tính toán và công bố rộng rãi các hệ số tài chính trung bình ngành, nhóm ngành làm cơ sở phân tích và xếp hạng được thuận lợi. Mười một là: Tăng cường ứng dụng CNTT: Để hình thành, phát triển và hoàn thiện hoạt động TTTD cần có rất nhiều yếu tố. Trong đó, có một yếu tố căn bản không thể thiếu, thậm chí có tính chất sống còn trong kỷ nguyên thông tin hiện nay chính là công nghệ tin học. Chúng ta đều thấy rằng khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thì quy mô ngân hàng, khách hàng của ngân hàng ngày càng tăng lên. Điều đó đòi hỏi cơ quan thông tin tín dụng phải thực hiện chức năng của mình dựa trên những giải pháp công nghệ hiện đại nhất với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ tin học và truyền thông. Sẽ không thể lưu trữ, xử lý và bảo quản một hệ thống cơ sở dữ liệu to lớn đến như vậy nếu không có một giải pháp công nghệ thích hợp. Tương tự như vậy, để tăng cường tốc độ và tính hiệu quả của việc thu thập thông tin, cả thông tin ban đầu và thông tin cập nhật định kỳ thì thông tin tín dụng phải áp dụng những phương pháp truyền thông hiện đại và phương pháp thu thập thông tin tự động, trực tuyến trên cơ sở công nghệ tin học. Trong việc xử lý thông tin, xếp loại tín dụng, chấm điểm tín dụng trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh một khối lượng lớn chỉ tiêu thông tin trong kho dữ liệu cực lớn thì vai trò của công nghệ tin học lại càng không thể thiếu. Nhu cầu tiếp cận, khai thác sử dụng kho thông tin này với yêu cầu tức thời, chính xác, an toàn càng thấy sự quan trọng của giải pháp công nghệ tin học và truyền thông tiên tiến nhất. Giả sử, để thu thập, lưu trữ, xử lý được hàng triệu hồ sơ khách hàng, nếu không có công nghệ tin học thì phải cần công sức của hàng trăm lao động, phải có kho cực lớn để lưu trữ văn bản. Đặc biệt là phải cập nhập thông tin dư nợ hàng ngày cho hàng triệu khách hàng, tạo lập hàng trăm bản trả lời thông tin một ngày, truyền tin đi và về là một khối lượng công việc rất lớn. Một điều đáng nói hơn là nếu thu thập, xử lý, trả lời thông tin bằng thủ công thì độ chính xác không thể cao, không thể nhanh nhạy, kịp thời. Như vậy, có thể nói tin học đã giúp công tác thông tin tín dụng tăng năng suất lao động lên hàng nghìn lần, đảm bảo thông tin nhanh nhạy, chính xác kịp thời và giảm chi phí để hạ giá thành thông tin, cũng tức là hạ chi phí thông tin đầu vào cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin cần lưu ý tính tương thích, tính hiệu quả, sự cân đối đồng bộ giữa trang thiết bị mua sắm với đào tạo, sử dụng cán bộ, với khả năng tài chính và sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngân hàng trong từng thời kỳ. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại diễn ra trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong đó hoạt động tín dụng mang đến thu nhập cao nhất cho ngân hàng, nhưng cũng là lãnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Do đó, song song với việc mở rộng hoạt động tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng như xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, chính sách dự phòng rủi ro, xác định giới hạn tín dụng đối với khách hàng, ban hành sổ tay tín dụng…đặc biệt là phải hoàn thiện hệ thống TTTD nhằm nâng cao chất lượng công tác chấm điểm tín dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí ngân hàng tháng 4, 9, 10 năm 2005 2. Tạp chí khoa học đào tạo Ngân hàng năm 2005 3. tạp chí Công nghệ ngân hàng năm 2005 4. Sổ tay tín dụng ngân hàng Công thương Việt Nam 5. Báo cáo hội nghị tổng kết công tác tín dụng ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2004. 6. Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ cá thể, tài liệu tập huấn cán bộ tín dụng ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội năm 2004. 7. Định mức tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp, Lê Phúc Tiến - Nguyễn Công Nghiệp, 2002, NXB Thống kê. 8. Giáo trình Ngân hàng thương mại, TS Phan Thị Thu Hà, ĐH kinh tế quốc dân. 9.Giáo trình nghiệp vụ tín dụng, PGS. TS Nguyễn Văn Tiến, Học viện Ngân hàng. 10. Định mức tín nhiệm tại Việt Nam, TS Lê Đắc Sinh, NXB Thống Kê, 2002 MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36563.doc
Tài liệu liên quan