Hoàn thiện môi trường pháp lý là một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng, nó sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động của ngân hàng và nó cũng tạo ra niềm tin của khách hàng vào sự vững mạnh của ngân hàng. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình thực hiện hai bộ luật Ngân hàng, và bộ luật Kế hoạch, cần xây dựng hướng dẫn chi tiết, đầy đủ, dễ hiểu việc thực hiện hai bộ luật này để nó có tính kỷ cương cao, phù hợp với tình hình thực tế. Việc ban hành các văn bản phải có sự thống nhất chặt chẽ và sự phối hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác, và cũng để cho hệ thống pháp lý đồng bộ. Việc các văn bản Luật và dưới luật được ban hành một cách đồng bộ, một cách có hệ thống sẽ giúp cho mọi hoạt động tài chính tiền tệ, tín dụng đều được pháp luật hoá, nó sẽ tạo một môi trường ổn định về pháp lý, chính sách cho các ngân hàng giúp tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các ngân hàng hoạt động.
Chính phủ cũng cần đánh giá một cách toàn diện và xử lý hợp lý các mối quan hệ giữa nguồn lực bên trong và bên ngoài nước theo hướng là đảm bảo cho nợ của quốc gia nằm trong phạm vi an toàn, kiểm soát được. Do vậy, chính phủ cần chỉ đạo và quán triệt các bộ, ngành các cấp lập kế hoạch nguồn vốn sao cho thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
Chính phủ cũng cần xác định rõ các lĩnh vực, các công trình mà Nhà nước phải đầu tư toàn bộ, các lĩnh vực cần huy động vốn để xây dựng các kế hoạch nguồn vốn cụ thể cho việc huy động vốn theo cơ chế minh bạch, không phân biệt thành phần kinh tế tư nhân hay nhà nước.
Ngoài ra, nhà nước cần sớm ban hành các quy chế, quy định về việc công bố thông tin, về các thông tin, số liệu mà ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần phải công khai; các thông tin, số liệu này phải có cơ quan kiểm duyệt để minh bạch hoá thông tin; phải có hệ thống thông tin thích hợp, phải cung cấp những thông tin cần thiết cho công chúng theo hướng phù hợp với thông lệ, quy định của quốc tế.
Như vậy, tất cả sự tham gia của Chính phủ, của Nhà nước cần phải hướng tới mục tiêu là tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các ngân hàng; mọi hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng phải được diễn ra công khai, hợp pháp nhằm tránh gây tổn thất cho các chủ sở hữu, cho các bên tham gia. Mặt khác, Nhà nước cũng cần phải xem xét lại việc thực hiện các chính sách của mình thông qua các công cụ của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ nhằm tăng tính tự chủ, sáng tạo cho các ngân hàng và phù hợp với nền kinh tế thị trường.
100 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện lập kế hoạch nguồn vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Hàng năm, Giám đốc Sở giao dịch, chi nhánh cấp I bảo vệ kế hoạch với Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam hoặc người được Tổng giám đốn uỷ quyền.
Việc tổ chức bảo vệ kế hoạch được thực hiện tại Trụ sở chính hoặc theo vùng, tại từn địa phương sau đó được tổng hợp cân đối chung toàn quốc làm căn cứ để trình Hội đồng quản trị phê duyệt
- Các đơn vị phụ thuộc Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I có trách nhiệm bảo vệ kế hoạch với giám đốc cấp trên.
Bước 5: Ra quyết định và thể chế hoá quyết định:
Sau khi các đơn vị xác định được kế hoạch nguồn vốn của mình, và bảo vệ thành công kế hoạch đó trước ban lãnh đạo. Kế hoạch đó sẽ được trình lên Hội đồng quản trị. Theo Điều 17, quyết định số 115/QĐ – HĐQT-KHTH quy định:
- Chậm nhất 30 ngày sau khi tổ chức bảo vệ kế hoạch xong trên phạm vi toàn quốc, Hội đồng quản trị phê duyệt chính thức tổng thể kế hoạch kinh doanh năm để Tổng giám đốc thông báo chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh hàng năm ( theo mẫu số 05/KHTH ) cho Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I.
- Chậm nhất ngày 10 tháng đầu quý, Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam thông báo chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh quý ( theo mẫu số 06/KHTH và 07/KHTH ) cho Sở giao dịch và chi nhánh cấp I để điều hành kinh doanh hàng ngày.
- Các chỉ tiêu được Tổng giám đốc thông báo chính thức là căn cứ để điều hành kế hoạch tại cơ sở.
* Trình tự lập kế hoạch.
Thứ nhất là Thông báo số kiểm tra.
Số kiểm tra kế hoạch kinh doanh năm: Trước ngày 31/10 năm hiện hành, Trụ sở chính thông báo số kiểm tra kế hoạch kinh doanh năm kế hoạch cho Sở giao dịch, chi nhánh cấp I để làm căn cứ xây dựng kế hoạch kinh doanh năm chuẩn bị việc bảo vệ kế hoạch kinh doanh đối với Trụ sở chính.
Số kiểm tra kế hoạch kinh doanh quý được thực hiện:
- Bằng chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh Tổng giám đốc đã thông báo quý trước (bao gồm cả các chỉ tiêu điều chỉnh trong quý hiện hành ) cho đến khi được thông báo chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh chính thức quý tiếp theo.
- Trường hợp cần thiết, tuỳ theo tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh năm, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam có văn bản chỉ đạo cho phép các địa phương được thực hiện tối đa bằng 30% phần vượt kế hoạch địa phương đăng ký so kế hoạch kinh doanh quý trước (nếu không có văn bản của Tổng giám đốc, Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I thực hiện theo trên).
Thứ hai là trình tự lập kế hoạch dài hạn và kế hoạch năm
- Căn cứ vào chiến lược kinh doanh dài hạn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; định hướng kinh doanh hàng năm của Hội đồng quản trị; chỉ tiêu kiểm tra của Trụ sở chính, Giám đốc Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I xây dựng kế hoạch kinh doanh gửi trụ sở chính, kèm theo các bản thuyết minh giải trình rõ tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh kỳ trước, dự kiến kỳ kế hoạch
Biểu mẫu lập kế hoạch kinh doanh dài hạn và kế hoạch hàng năm được thực hiện theo mẫu số 01/KHTH và mẫu số 04/KHTH.
- Thời hạn gửi kế hoạch:
Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I gửi về Trụ sở chính trước ngày 15/12 năm hiện hành.
Giám đốc Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I quy định thời hạn gửi kế hoạch của các đơn vị phụ thuộc đảm bảo việc tổng hợp kế hoạch kinh doanh toàn đơn vị gửi về Trụ sở chính đúng thời gian quy định.
Thứ ba là trình tự đăng ký kế hoạch quý.
- Căn cứ vào tình hình cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn cuối quý trước, tiến độ thực hiện kế hoạch năm, Giám đốc Sở giao dịch, Chi nhánh cấp I đăng ký kế hoạch kinh doanh quý gửi Trụ sở chính, trong đó phải giải trình rõ tình hình thực hiện qúy trước, dự kiến quý kế hoạch, và các giải pháp chủ yếu để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch.
(Đối với nội tệ đăng ký theo mẫu 02/KHTH và 04/KHTH. Đối với ngoại tệ đăng ký theo mẫu số 03/KHTH và 04/KHTH – xem chi tiết phụ lục)
- Thời gian gửi kế hoạch quý: Trước ngày 15 tháng thứ 3 quý hiện hành.
2.4. Đánh giá về công tác lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
2.4.1. Những mặt đạt được
Lập kế hoạch là một vấn đề rất quan trọng đối với mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình kinh doanh mà các doanh nghiệp xác định loại hình kế hoạch nào là trọng tâm của mình. Các doanh nghiệp sản xuất thì kế hoạch sản xuất là quan trọng nhất, đối với các doanh nghiệp thương mại thì kế hoạch kinh doanh lại là kế hoạch quan trọng nhất. Và đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như ngân hàng thì kế hoạch nguồn vốn là một trong những kế hoạch quan trọng nhất bởi vốn đóng vai trò rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Công tác lập kế hoạch nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội từ năm 2003 cho đến năm 2007 đã đạt được một số điểm sau:
Thứ nhất là công tác lập kế hoạch nguồn vốn đã phát huy được vai trò của mình đối với ngân hàng trong thực tế. Nó đã trở thành một hoạt động không thể thiếu được của ngân hàng và đã được sự quan tâm thích đáng của ngân hàng. Đây cũng chính là bước trung gian biến ý tưởng thành hiện thực. Lập kế hoạch đã chi tiết hoá ý tưởng, đã chi tiết hoá những cái chung chung mang tính chất định tính thành những con số cụ thể. Công tác lập kế hoạch ở ngân hàng đã thể hiện như một công cụ quan trọng trong quản lý. Ngân hàng đã sử dụng bản kế hoạch như mệnh lệnh tác động xuống cấp dưới, buộc cấp dưới phải tuân theo và đảm bảo thực hiện kế hoạch giúp cho quá trình huy động vốn của ngân hàng trong những năm qua là khá trôi chảy, thuận lợi, mặc dù ngân hàng đã phải trải qua nhiều biến động và khó khăn. Điều này được thể hiện rõ qua hoạt động kinh doanh, thu hút vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội tiếp tục phát triển mạnh và toàn diện, nhiều chỉ tiêu cơ bản vượt mục tiêu do Trụ sở chinh đặt ra, năm 2006 kế hoạch huy động vốn là 5100 tỷ, nhưng thực hiện là 7953 tỷ, tăng so kế hoạch là 55,94%; năm 2007 tỷ lệ này là 6686 tỷ, 8320 tỷ và 24,4%. Có thể nói đây là thành tựu lớn nhất mà công tác lập kế hoạch nguồn vốn đã đạt được .Điều này đạt được là do cơ chế đúng đắn, việc tổ chức bảo vệ kế hoạch kinh doanh được cải tiến, thống nhất được việc quản lý tập trung của Trụ sở chính và khả năng thực hiện của Chi nhánh.
Thứ hai, công tác lập kế hoạch của ngân hàng ngoài việc phát huy tác dụng là phân bố và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của ngân hàng. Thông qua việc lựa chọn các phương án tối ưu mà ngân hàng đã tiết kiệm nguồn lực của tổ chức và sử dụng nguồn lực một cách có trọng tâm, trọng điểm. Công tác lập kế hoạch đã định hướng được cho sự phát triển của ngân hàng, sự định hướng này thể hiện thông qua các kế hoạch cụ thể về từng loại nguồn vốn, nó đã vạch ra con đường đi cụ thể cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Ngân hàng đã xác định rõ điều hành kế hoạch kinh doanh năm 2008 theo hướng tập trung, ổn định và phát triển. Chi nhánh đã làm tốt việc chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn theo hướng ổn định, tăng cường huy động nguồn vốn từ dân cư và nguồn vốn trung dài hạn, giảm dần nhận tiền gửi có kỳ hạn và tiền vay ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác, thường xuyên bảo đảm khả năng thanh khoản xuyên suốt cả năm 2008. Và với việc phát triển kế hoạch Marketing đã tìm kiếm, khai thác và thu hút khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn, tiềm năng của ngân hàng đã liên tục mang lại doanh thu cao cho ngân hàng.
Thứ ba, việc hoạch định ra kế hoạch nguồn vốn đã có tác dụng thúc đẩy sự nỗ lực của ngân hàng trong quá trình phát triển của mình. Đặc biệt là trong những năm gần đây, Chi nhánh đã thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đáp ứng ngày càng nhiều sản phẩm tiện ích cho khách hàng và trọng tâm hướng tới nguồn vốn có tính ổn định, hạn chế dần các nguồn vốn thiếu tính ổn định. Chi nhánh đã triển khai một loạt các hình thức huy động vốn đa dạng như: Huy động tiền gửi tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp, phát hành kỳ phiếu ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn, trái phiếu… Do vậy, Chi nhánh đã đáp ứng kịp thời theo yêu cầu của địa phương, đã có những chính sách khách hàng hợp lý, đáp ứng yêu cẩu của cạnh tranh. Và điều này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngân hàng trên thị trường.
Thứ tư, Chi nhánh đã quan tâm đến việc bổ sung, chỉnh sửa các chính sách, cơ chế, quy trình nghiệp vụ theo thực tế gắn với thông lệ quốc tế nên đã giúp cho Chi nhánh vận hành công việc không vướng mắc nhiều, hạn chế được sai sót và thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Chi nhánh đã ban hàng các văn bản chỉ đạo công tác lập kế hoạch nguồn vốn kịp thời, thông thoáng, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong công tác lập kế hoạch nguồn vốn như:
- Văn bản số 02/NHNo – KHTH ngày 03/1/2006 quy định “Quản lý hạn mức dư nợ, dư có tài khoản điều hoà vốn gắn với quản lý thanh khoản trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam”, Văn bản số 2343/NHNo – KHTH về việc giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện quyết định số 02/NHNo – KHTH.
- Văn bản số 295/QĐ-HĐQT-KHTH ngày 08 tháng 5 năm 2006 của Chủ tịch HĐQT “V/v tỷ lệ quỹ dự trữ thanh toán trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam”.
- Văn bản số 2817/NHNo – KHTH ngày 09/08/2006 của Tổng giám đốc về việc trả phí quỹ dự trữ thanh toán ngoại tệ tại Trụ sở chính.
- Văn bản số 2226/NHNo – KHTH ngày 22/06/2006 của Tổng giám đốc về việc trả phí thừa vốn vượt kế hoạch theo điều 18 QĐ 115/HĐQT.
Việc ban hành các văn bản mới đã tạo sự đầy đủ và đồng bộ của cơ chế kế hoạch. Tạo được tính nghiêm túc chấp hành kỷ luật kế hoạch của Chi nhánh.
Thứ năm, công tác lập kế hoạch của ngân hàng đã liên kết và thống nhất mọi hoạt động trong quản lý. Việc bố trí công tác lập kế hoạch nguồn vốn theo các tổ chức, theo kỳ hạn đã phát huy được tính độc lập và sáng tạo, tính chuyên môn hoá và năng lực nghề nghiệp của mỗi cá nhân, mỗi cán bộ tham gia công tác lập kế hoạch nguồn vốn, song nó vẫn không làm mất đi tính phối hợp giữa các hoạt động, giữa các phòng ban khác trong ngân hàng làm cho công tác thực thi kế hoạch diễn ra trôi chảy.
Thứ sáu, để lập được kế hoạch thì các nhà quản lý phải biết chính xác về các nguồn lực của Chi nhánh, do đó các nhà quản lý phải tiến hành điều tra. Qua sự điều tra đó, công tác lập kế hoạch nguồn vốn sẽ cho ngân hàng biết được những thông tin vô cùng quan trọng về nguồn lực của mình. Nguồn lực này có thể là nguồn nhân lực, công nghệ thông tin, bộ máy lập kế hoạch …Do vậy, Chi nhánh đã không ngừng nâng cao tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình, luôn gắn công tác điều hành với công cụ điều hành như: kế hoạch, lãi suất, quyền phán quết cho vay… Chi nhánh luôn luôn quan tâm, phát triển các dịch vụ mới nhằm đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn, khách hàng tiềm năng như việc ký kết với Công ty cổ phần Điện Lực, Truyền hình cáp về việc thu phí qua hệ thống của ngân hàng.
Thứ bảy, Chi nhánh thường xuyên đổi mới từng bước về mô hình tổ chức, xây dựng ngân hàng theo hướng Tập đoàn tài chính, thực hiện lộ trình cổ phần hoá. Tiếp tục coi trọng công tác đào tạo cán bộ, tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, từng bước đáp ứng yêu cầu kinh doanh, hội nhập. Công tác phòng, chống tham nhũng cũng được chi nhánh thực hiện tích cực, đồng thời Chi nhánh tăng cường thực hiện tiết kiệm chống lãng phí theo đúng chủ trương “tiết kiệm là quốc sách” của đất nước. Từ đó Chi nhánh luôn tạo được động lực trong kinh doanh, có cơ chế nâng cao thu nhập cho người lao động và khuyến khích họ làm ra nhiều lợi nhuận, thường xuyên coi trọng các phong trào thi đua.
Thứ tám, công tác lập kế hoạch nguồn vốn cũng giúp cho việc thực hiện kế hoạch trở nên dễ dàng hơn. Bản kế hoạch đã chỉ ra các chương trình để thực hiện các phương án, đề án phát triển đã được đề ra. Các chương trình là hệ thống các mục tiêu, mục đích và các phương thức, các hành động để thực hiện mục tiêu đó, và được đảm bảo bằng nguồn lực nhất định. Công tác lập kế hoạch nguồn vốn còn cung cấp cho ngân hàng một cơ sở quan trọng để kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các phương án, các đề án phát triển của ngân hàng. Nó cho phép các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo phát hiện những sai sót, sai phạm trong quá trình quản lý, thực hiện để từ đó có những phương án điều chỉnh sao cho phù hợp với kế hoạch và với thực tế, tránh được những rủi ro nhất định. Do đó, Chi nhánh cũng không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, tham mưu cho lãnh đạo trong việc chỉ đạo điều hành kinh doanh một cách nhanh nhậy, đảm bảo mọi hoạt động của Chi nhánh tuân thủ theo đúng quy định, đồng thời thực hiện kỷ cương, kỷ luật điều hành, xử lý kịp thời, nghiêm túc đúng quy chế mọi vi phạm phát sinh trong điều hành kế hoạch.
Cuối cùng là Chi nhánh luôn đẩy mạnh hoạt động Marketing và xây dựng thương hiệu AGRIBANK với phương châm: “Vì sự thành đạt của Ngân hàng và khách hàng”. Chi nhánh thường xuyên chú ý thực hiện tốt công tác tiếp thị, tuyên truyền và quảng cáo về các sản phẩm cũng như các dịch vụ tiện ích cho khách hàng của ngân hàng thông qua hệ thống thông tin đại chúng như Truyền hình, các Báo, đài… Hoạt động tiếp thị, thông tin tuyên truyền quảng bá thương hiệu và xây dựng giá trị thương hiệu có bước phát triển mạnh, trực tiếp nâng cao có hiệu quả rõ rệt của thương hiệu AGRIBANK trong nước và quốc tế đã tạo được một số điểm nhấn quan trọng có tính quyết định đưa thương hiệu AGRIBANK lan toả sâu rộng trong các tầng lớp dân cư như: Quảng bá vàng miếng “3 chữ A” và quảng bá sản phẩm của NHNo trên các lĩnh vực kinh tế xã hội….
Như vậy, công tác lập kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội được tổ chức khá tốt và công tác lập kế hoạch đã phát huy được vai trò và thế mạnh của mình trong Chi nhánh.
2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những mặt mà ngân hàng Nam Hà Nội đã đạt được thì ngân hàng vẫn còn gặp phải một số tồn tại, một số khó khăn như sau:
Một là, tuy Chi nhánh đã có nhiều cố gắng song công tác lập kế hoạch nguồn vốn vẫn còn bị hạn chế, vẫn ở trong trạng thái bị động, một số phòng giao dịch chưa coi trọng, tập trung sức vào công tác lập kế hoạch nguồn vốn do vậy việc họ vẫn chưa tập trung nhiều vào công tác huy động vốn, cơ cấu nguồn vốn thiếu ổn định. Trong cơ cấu nguồn vốn thì tỷ trọng nguồn vốn ngoại tệ trong tổng nguồn vốn kinh doanh còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đầu tư khép kín đối với khách hàng, chưa phát huy được chính sách khách hàng của ngân hàng. Do vậy nó làm cho việc thực hiện kế hoạch nguồn vốn có nhiều khó khăn.
Hai là, Sự liên kết giữa kế hoạch nguồn vốn và kế hoạch Marketing chưa chặt chẽ. Tuy rằng công tác tiếp thị Marketing đã được đặt ra nhưng chưa được quan tâm đúng mức nhất là quảng bá sản phẩm tại địa phương. Việc triển khai văn hoá doanh nghiệp và quảng bá thương hiệu, thực hiện quy định về biểu hiện cần chú ý để nâng cao tính quảng bá. Việc thực hiện phong cách giao dịch như ăn mặc, quầy giao dịch của một số chi nhánh, phòng giao dịch chưa thực hiện đúng quy định, chưa văn minh lịch sự làm giảm uy tín đối với khách hàng, nhiều cán bộ ngân hàng, trong đó có cả cán bộ giao dịch không nắm rõ về các sản phẩm tiền gửi của ngân hàng mình, nên đã không tuyên truyền, giải thích rõ cho khách hàng hiểu, cũng là một nguyên nhân làm hạn chế khách hàng đến với Ngân hàng Nông nghiệp, điều này ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện kế hoạch nguồn vốn của Chi nhánh.
Một số nơi có trụ sở ngân hàng, phòng giao dịch là đi thuê chưa ổn định, điều này gây khó khăn trong việc sửa chữa, nâng cấp cho phù hợp với nhu cầu kinh doanh ngày càng đòi hỏi cao.
Ba là, Thị phần vốn huy động tại các khu vực thành thị, nơi kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Tuy Chi nhánh trong những năm qua đã có nhiều giải pháp tích cực để thực hiện kế hoạch nguồn vốn từ các hoạt động huy động vốn từ các nguồn để bù đắp số vốn giảm do giảm vốn vay các tổ chức tín dụng nên tốc độ tăng trưởng vốn thấp hơn so với tốc độ tăng chung của toàn hệ thống.
Một số chi nhánh, phòng giao dịch thì việc cập nhật văn bản chỉ đạo của cấp trên đặc biệt là văn bản chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam về lãi suất, và những quy định về huy động vốn còn chưa kịp thời do vậy trong công tác chỉ đạo huy động vốn thường chậm, không phát huy được lợi thế cạnh tranh sản phẩm huy động vốn của đơn vị mình trên địa bàn. Việc phát hành trái phiếu một số đơn vị làm chưa tốt, chưa nghiên cứu kỹ các văn bản chế động nếu còn thực hiện phát hành trái phiếu sau ngày 10/10/2006.
Bốn là, mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy lập kế hoạch còn đang trong quá trình hoàn thiện, chưa theo kịp so với thông lệ quốc tế. Trình độ cán bộ gồm cả quản lý và tác nghiệp chưa đáp ứng kịp thời tình hình kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Năm là, các hình thức huy động vốn tuy đã đa dạng hoá, lãi suất huy động tuy đã điều chỉnh kịp thời nhưng chưa thực sự hấp dẫn với khách hàng bên cạnh hệ thống các ngân hàng thương mại khác, ngân hàng thương mại cổ phần phát triển mạnh và luôn sử dụng lãi suất huy động cao hơn, không tuân thủ những thoả thuận về lãi suất mà Hiệp hội ngân hàng đưa ra.
Sáu là, do sự biến động bất thường của giá vàng, giá ngoại tệ, giá dầu trên thị trường thế giới, dẫn đến sự biến động giá thị trường tiền tệ trong nước đã gây tâm lý cho người gửi. Nhiều nguời dân đã rút vốn từ ngân hàng ra để mua vàng và ngoại tệ…
Cuối cùng là, về hệ thống công nghệ thông tin. Hệ thống thanh toán, dịch vụ, thẻ ATM… của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hiện nay chưa có nhiều tiện ích do vậy nhiều khách hàng đã rời bỏ NHNo & PTNT sang quan hệ với các ngân hàng thương mại khác có hệ thống thanh toán và dịch vụ có tiện ích hơn.
Mặt khác, hiện nay nhu cầu kết nối trực tuyến giữa các doanh nghiệp lớn với ngân hàng đề họ thực hiện việc thanh toán chuyển tiền giữa doanh nghiệp với khách hàng của họ là rất lớn. Muốn vậy, ngân hàng phải là người chủ động xây dựng các phần mềm để giúp doanh nghiệp trong thanh toán chuyển tiền nhằm huy động được các nguồn vốn rẻ. Công nghệ thông tin của ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội cũng như của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chưa làm được nhiều. Nếu tốc độ như hiện nay thì các Ngân hàng khác sẽ chiếm lĩnh và chúng ta sẽ mất dần khách hàng.
Như vậy, tất cả các yếu tố trên đều có những ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình lập và thực hiện kế hoạch nguồn vốn của NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
2.4.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan.
- Còn chậm đổi mới về mô hình tổ chức, quản trị điều hành, quản trị rủi ro.
- Trong chỉ đạo điều hành còn bất cập, việc nắm bắt, dự báo những biến động về nguồn vốn nội tệ, ngoại tệ chưa tốt do thông tin còn hạn chế. Hoạt động phân tích ngành, phân tích đánh giá thị trường để xây dựng cơ cấu đầu tư tín dụng còn yếu, chưa xây dựng được chiến lược cụ thể về đầu tư tín dụng cho từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế.
- Công tác hiện đại hoá ngân hàng và kế toán khách hàng (IPCAS) giai đoạn II còn chậm nên việc áp dụng các sản phẩm cũng chậm, khả năng cạnh tranh thấp.
- Công tác đào tạo mới chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt, chưa chú trọng việc đào tạo chuyên sâu cán bộ đầu ngành gồm cả quản lý và tác nghiệp; chưa đáp ứng kịp tình hình kinh doanh trong cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập.
- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại cơ sở nhìn chung chất lượng chưa cao, chưa thường xuyên. Một số việc khi phát hiện cũng chưa xử lý kịp thời, kiên quyết, chưa thực sự làm tốt công tác cảnh báo, dự báo những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh.
- Thực hiện Marketing chưa mang tính chuyên nghiệp cao và còn quá mỏng chưa xứng với tầm vóc của NHNo & PTNT Nam Hà Nội cũng như của NHNo & PTNT Việt Nam.
Nguyên nhân khách quan.
Năm 2007, diễn biến chung về cân đối vốn của toàn ngành ngân hàng biểu hiện bất thường: 8 tháng đầu năm, nguồn nội tệ dư thừa kéo dài, dư nợ nội tệ tăng trưởng chậm. Nhưng những tháng cuối năm dư nợ cho vay nội tệ tăng trưởng cao trong khi đó nguồn vốn nội tệ lại có xu hướng giảm mạnh. Về cân đối vốn ngoại tệ lại xuất hiện tình trạng theo hướng ngược lại.
Lập kế hoạch nguồn vốn chủ yếu là lập kế hoạch cho công tác huy động vốn. Do đó các nhân tố tác động tới công tác huy động cũng chính là các nhân tố ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch nguồn vốn. Vậy nguyên nhân khách quan của những tồn tại trên là:
- Đầu năm: Nguồn vốn nội tệ tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước là do sự biến động của thị trường tài chính tiền tệ, giá vàng biến động thất thường, các doanh nghiệp cố phần hoá có nhiều nguồn thu từ bán cổ phần, tăng vốn…trong khi đó ngân hàng là kênh duy nhất để gửi nguồn tạm thời nhàn rỗi của dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội. Nguồn ngoại tệ tăng chậm, nhu cầu cho vay ngoại tệ tăng cao do ảnh hưởng của nhập siêu lớn.
- Những tháng cuối năm:
+ Nguồn vốn ODA và đầu tư trực tiếp nước ngài đạt cao nhất từ trước tới nay.
+ Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thu hút tiền từ lưu thông về thông qua việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
+ Thị trường địa ốc, chứng khoán ấm dần lên, các Ngân hàng thương mại phải giải ngân các dự án lớn đã cam kết, cho vay khắc phục lũ lụt thiên tai tập trung vào cuối năm. Nhu cầu vay vốn phục vụ Tết nguyên đán cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng dư nợ của Chi nhánh cao.
Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng trong lãi suất, các sản phẩm dịch vụ của một ngân hàng hiện đại như thẻ ATM, thẻ nội địa, thẻ quốc tế…Đặc biệt sự không nghiêm túc thực hiện cam kế về lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LẬP KẾ HOẠCH NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NAM HÀ NỘI
3.1. Định hướng hoàn thiện lập kế hoạch của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
3.1.1. Mục tiêu
Năm 2008 được dự báo là năm thị trường Tài chính - Tiền tệ có nhiều biến động lớn. Hàng loạt chính sách điều chỉnh của Nhà nước sẽ được thực thi trong năm : Tăng khung giá các loại đất; điều chỉnh chính sách quản lý giá các mặt hàng như: Xăng dầu, Than, điện… theo cơ chế thị trường; Thị trường Bất động sản biến động khó lường; Lãi suất VNĐ tiếp tục ở mức cao, các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập và đi vào hoạt động; Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng kiểm soát lạm phát… Đây là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư tín dụng cho doanh nghiệp. Đây cũng chính là những cơ hội và những thách thức trong việc cạnh tranh phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong lộ trình “Hội nhập và xây dựng Tập đoàn tài chính ngân hàng”. Để tiếp tục xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam phát triển bền vững, Ngân hàng đã xác định mục tiêu tổng quát như sau: “Tập trung sức toàn bộ hệ thống, thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ Đề án cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã được phê duyệt và tập trung xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thành tập đoàn tài chính; tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư và đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá, đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp”
Hướng theo mục tiêu tổng quát của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, mục tiêu phấn đấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội năm 2008 là: Phát huy tính dân chủ, đoàn kết, tự chủ để phấn đấu hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2008 tạo tiền đề để cuối năm đạt hạng doanh nghiệp loại AAA.
Mục tiêu cụ thể của NHNo & PTNT Nam Hà Nội về công tác lập kế hoạch nguồn vốn đó là xây dựng kế hoạch nguồn vốn hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế và nguồn lực của Ngân hàng nhằm thu hút tối đa nguồn vốn huy động với chi phí thấp nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
3.1.2. Định hướng phát triển
Đối với công tác huy động vốn:
- Phấn đấu tổng nguồn vốn cuối năm đạt 9.000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động tại địa phương là 6.814 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2007.
- Tỷ lệ tiền gửi dân cư chiếm 30% tổng nguồn vốn huy động tại địa phương ( khoảng 2.700 tỷ đồng ).
- Từng bước cải thiện cơ cấu nguồn vốn theo hướng ổn định và hiệu quả.
- Không để xảy ra bất cứ trường hợp vi phạm quy chế điều hành kế hoạch, quản lý hạn mức dư nợ, quy chế quản lý lãi suất….
Các chỉ tiêu cụ thể cho từng loại hình huy động vốn có thể theo dõi ở bảng sau:
Bảng 3.1. Kế hoạch cụ thể cho các chỉ tiêu huy động vốn năm 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
Thực hiện năm 2007
Kế hoạch năm 2008
+/- số tương đối
+/- số tuyệt đối
A
TỔNG NGUỒN VỐN
8320
9000
680
8,2%
A1
NV huy động hộ TW
2186
2186
0
0%
A2
NV huy động địa phương
6134
6814
680
11,09%
1
NỘI TỆ
5562
6182
620
11,15%
A
TG DÂN CƯ
1544
1752
208
13%
TG không kỳ hạn
12
15
3
29%
TG dưới 12 tháng
151
186
35
23%
TG từ 12 tháng trở nên
1382
1551
169
12,23%
B
TG TCKT – XH
3488
3900
412
11,8%
TG không kỳ hạn
1065
1100
35
3,3%
TG dưới 12 tháng
135
159
24
17,8%
TG từ 12 tháng trở lên
2288
2641
353
15,43%
C
TG TCTD
530
530
0
0%
*
Nguồn vốn khác
2186
2186
0
0%
2
NGOẠI TỆ
572
632
60
10,5%
A
TG DÂN CƯ
452
478
26
5,8%
TG không kỳ hạn
2
3
1
50%
TG dưới 12 tháng
101
113
12
12%
TG từ 12 tháng trở lên
349
362
13
3,7%
B
TG TCKT – XH
78
115
36
47%
TG không kỳ hạn
71
90
19
27%
TG dưới 12 tháng
4
22
17
383%
TG từ 12 tháng trở lên
2
3
1
21%
C
TG TCTD
39
39
0
O%
D
TG UỶ THÁC ĐẦU TƯ
3
0
-3
-100%
Nguồn: Báo cáo thuyết minh kế hoạch năm 2008
Đối với công tác Tín dụng
- Phấn đấu đạt mức dư nợ tại địa phương cuối năm là 2.400 tỷ đồng, tăng trưởng 23% so với năm 2007.
- Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn: 60% tổng dư nợ.
- Số lượng khách hàng mới tăng từ 30% đến 35% so với năm 2007, đến 31/12/2008 có 30.000 doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với NHNo.
- Tỷ lệ nợ xấu: tối đa 2% tổng dư nợ
Kế hoạch về các chỉ tiêu chi tiết theo dõi ở bảng sau:
Bảng 3.2. Cơ cấu chi tiết cho từng loại dư nợ cụ thể
Đơn vị: Tỷ đồng
STT
CHỈ TIÊU
Thực hiện năm 2007
Kế hoạch năm 2008
+/- So năm trước
Số tiền
%
I
Nội tệ
1.021
1.161
140
14%
a
Ngắn hạn
599
600
1
0%
b
Trung hạn
98
120
22
22,4%
c
Dài hạn
324
441
117
36,1%
II
Ngoại tệ USD quy đổi
848
1.012
164
19,34%
Ngoại tệ USD nguyên tệ
52.981
63.225
10.244
19,34%
a
Ngắn hạn
16.500
27.500
11.000
66,7%
Ngắn hạn quy đổi
264
440
176
66,7%
b
Trung hạn
625
625
0
0%
Trung hạn quy đổi
10
10
0
0%
c
Dài hạn
35.856
35.100
-756
-2%
Dài hạn quy đổi
574
562
-12
-2%
III
Ngoại tệ EUR quy đổi
75
87
12
16%
Ngoại tệ EUR nguyên tệ
3.274
3.800
526
16%
IV
Tổng dư nợ
1.944
2.260
316
16%
1
Nội tệ
1.021
1.161
140
14%
2
Ngoại tệ quy đổi
923
1.099
176
19%
Dư nợ trung và dài hạn
1.081
1.220
139
13%
Tỷ lệ trung và dài hạn
56%
54%
0
-2%
Nguồn: Báo cáo thuyết minh kế hoạch năm 2008
Công tác Tài chính.
- Phấn đấu quỹ thu nhập cuối năm đạt mức 114 tỷ đồng, tăng trưởng 10% so với năm 2007 (đủ quỹ thu nhập chi lương và thưởng theo quy định)
- Tỷ lệ thu ngoài Tín dụng trên 10%.
- Tỷ lệ chi khác: 2% tổng chi.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện lập Kế hoạch nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội
Chúng ta đều biết, Ngân hàng không thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình nếu như ngân hàng rơi vào tình trạng thiều vốn hoặc huy động vốn quá nhiều nhưng không sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được. Do vậy hoạt động quan trọng nhất đối với mọi ngân hàng là lập kế hoạch nguồn vốn đặc biệt là về hoạt động huy động vốn, hay chúng ta có thể gọi là hoạt động “đầu vào”, nếu như “đầu vào” thuận lợi sẽ góp phần cho “đầu ra” thông thoáng hơn. Nhưng các yếu tố “đầu vào” lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, như môi trường kinh doanh, các yếu tố thuộc về bản chất của ngân hàng như chiến lược kinh doanh phát triển cùa ngân hàng, chiến lược về khách hàng, các chính sách về lãi suất của ngân hàng... Thời kỳ 2003-2007 là thời kỳ mà Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội đã đạt được những mục tiêu nhất định trong công tác lập kế hoạch nguồn vốn, tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được đó, ngân hàng vẫn còn có một số tồn tại, khó khăn như đã phân tích ở trên. Ngân hàng thực hiện kế hoạch nguồn vốn trong công tác huy động vốn dựa trên nguyên tắc là: Nguồn vốn tăng trưởng ổn định, huy động tối đa nguồn lực tài chính của chính ngân hàng, cũng như của bên ngoài, tăng cường huy động vốn từ các nguồn vốn có kỳ hạn và nguồn nội tệ để có thể cải thiện cơ cấu nguồn vốn. Do vậy, để đạt được những mục tiêu đã đề ra, để phát huy tối đa tiềm năng của mình, cũng như tăng khả năng cạnh tranh của mình thì ngân hàng đã tập trung thực hiện một số giái pháp sau nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch nguồn vốn để đạt được hiệu quả cao nhất.
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy trình lập kế hoạch nguồn vốn
Kết hợp nghiên cứu thị trường và thiết lập mục tiêu
Lập kế hoạch suy cho cùng là thiết lập các chương trình hành động nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Một bản kế hoạch hoàn thiện khi nó có hệ thống mục tiêu nhất định. Do vậy, để công tác lập kế hoạch diễn ra thuận lợi thì phải chú ý tới chất lượng của hệ thống mục tiêu muốn thực hiện. Mục tiêu chính là cái mà ngân hàng cần vươn tới, là kết quả mà ngân hàng mong muốn có trong tương lai. Mục tiêu cần vươn tới cần phải đảm bảo các chỉ tiêu cơ bản là mục tiêu phải rất cụ thể, có thể đo lường được, phải thể hiện được tham vọng và có tính khả thi, có thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu. Do đó, biện pháp ở đây là để có một mục tiêu đảm bảo các tiêu chí trên trong một bản kế hoạch nguồn vốn thì phải kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu thị trường với công tác thiết lập nên mục tiêu. Việc kết hợp giữa việc nghiên cứu thị trường và thiết lập nên mục tiêu sẽ đảm bảo tính thiết thực của mục tiêu và đảm bảo cho mục tiêu đề ra là hướng vào thị trường, hướng vào khách hàng, vào đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. Việc kết hợp giữa nghiên cứu thị trường và mục tiêu cũng sẽ làm cho mục tiêu đề ra mang tính thiết thực hơn. Và với những mục tiêu lớn, mục tiêu chiến lược thì cần được chia nhỏ thành các mục tiêu chiến thuật và mục tiêu tác nghiệp. Qua đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lập kế hoạch.
Mặt khác, mục tiêu đề ra phải phù hợp với chính sách của Đảng, của Ngân hàng Nhà nước và của cả NHNo & PTNT Việt Nam nhằm đảm bảo sự điều tiết định hướng của Ngân hàng Nhà nước. Để làm được điều đó, Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội phải hiểu rõ và quán triệt đường lối và chính sách của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giao cho. Đồng thời, mục tiêu được đề ra trong kế hoạch nguồn vốn phải luôn tôn trọng mục tiêu dài hạn và chiến lược phát triển của ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội nói riêng và NHNo & PTNT Việt Nam nói chung.
Củng cố lại công tác thống kê, báo cáo trong toàn hệ thống
- Tăng cường cán bộ chuyên trách làm công tác thống kê tại tất cả các đơn vị bao gồm các chi nhánh, các phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh...
- Triển khai tập huấn chế độ báo cáo thống kê trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng các loại kế hoạch.
Phát triển thêm các hình thức sản phẩm mới
Hiện nay, thì các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội đã được cải tiến nhiều song sự cạnh tranh của các sản phẩm này vẫn còn yếu do các sản phẩm chưa được đa dạng, phong phú. Vì vậy, trong kế hoạch nguồn vốn của mình, ngân hàng cần phát triển thêm các hình thức huy động mới, tạo ra các sản phẩm mới, sản phẩm mũi nhọn của ngân hàng mình nhằm tạo ra sự khác biệt so với các sản phẩm của các ngân hàng khác, từ đó sẽ tăng khả năng huy động vốn và khả năng cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác.
Vậy để xác định các sản phẩm mới cần đưa ra thì ngân hàng không những phải căn cứ vào các loại kế hoạch nguồn vốn, căn cứ vào việc phát triển các hình thức huy động vốn của ngân hàng mà ngân hàng cần phải căn cứ vào nhu cầu của khách hàng để từ đó đưa ra những chính sách phát triển, đưa ra những sản phẩm mới nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Vị trí mà Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội đặt trụ sở hiện nay là một nơi trung tâm của khu phía Nam Hà Nội, gần nhiều trường Đại học, gần nhiều khu đô thị mới... dân cư đông đúc, dân cư có thu nhập khá... Đây là yếu tố rất thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát triển các dịch vụ của mình như: đa dạng hoá các hình thức tiền gửi thanh toán hưởng lãi, không hưởng lãi có ưu đãi các dịch vụ khác, phát triển các dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ, tăng cường các trạm thẻ ATM...
Mặt khác, dân cư là một đối tượng tiềm năng của hoạt động huy động vốn của ngân hàng, bởi tiền tiết kiệm của dân cư có tính chất ổn định, lâu dài; đồng thời nếu như ngân hàng hạn chế khả năng mở rộng mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, xã hội thì việc Chi nhánh Nam Hà Nội xác định việc huy động vốn từ dân cư là mũi nhọn, là quan trọng của công tác huy động vốn là hoàn toàn đúng, và phù hợp với xu thế hiện nay. Do vậy, ngân hàng cần tập trung phát triển các sản phẩm hướng tới nhóm khách hàng này, có thể bằng các hình thức khuyến mại, các hình thức tiết kiệm mới đa dạng hơn, phong phú hơn và có khả năng thu hút khách hàng nhiều hơn nhằm nâng cao chất lượng kế hoạch nguồn vốn từ dân cư.
Thay đổi chính sách điều hành và quản lý lãi suất huy động
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một công cụ quan trọng có tính quyết định trong việc huy động vốn của hệ thống ngân hàng, do vậy lãi suất có ảnh hưởng lớn tới chất lượng các loại kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng. Lãi suất thực chất chính là cái giá của việc sử dụng vốn khách hàng gửi vào ngân hàng. Lãi suất là thành phần chính, chủ yếu trong chi phí của ngân hàng, nhưng nó cũng chính là khoản thu nhập của người gửi tiền hay của người mua các loại chứng khoán ngân hàng ngoài những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Tất cả mọi khách hàng đều muốn họ sẽ thu được một khoản lợi nhuận, một khoản thu nhập tốt nhất từ những món tiền mà họ gửi vào ngân hàng, trong khi đó ngân hàng thì lại muốn huy động được những món tiền có chi phí thấp để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Đây là một mâu thuẫn luôn luôn tồn tại ở tất cả mọi ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại. Để giái quyết mâu thuẫn này, các ngân hàng trong công tác lập kế hoạch của mình, đều phải đề ra các chính sách, biện pháp hợp lý để quản lý lãi suất huy động vốn. Các chính sách này đều phải đảm bảo cho ngân hàng có thể huy động được tối đa nguồn vốn với chi phí hợp lý, và cũng phải đảm bảo được quyền lợi của người gửi tiền và của cả ngân hàng. Việc xây dựng chính sách này, ngân hàng phải dựa trên cơ sở chính sách khách hàng và phải đưa ra mức lãi suất hợp lý, hiệu quả; phải đảm bảo tính linh hoạt của nó; phải phản ánh đúng tình hình cung và cầu trên thị trường vốn và phải tuân thủ theo đúng yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng có chính sách lãi suất hợp lý sẽ giúp cho việc thu hút khách hàng, nâng cao chất lượng các loại kế hoạch nguồn vốn, nó còn giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
3.2.3. Phát triển công nghệ
Trong nền kinh tế hiện nay thì yếu tố công nghệ có vai trò hết sức quan trọng, nó chính là đòn bẩy của sự phát triển, là điều kiện để các ngân hàng có thể dễ dàng hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các chất lượng của các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, nó cũng ảnh hưởng đến hình ảnh của một ngân hàng, đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, khoa học công nghệ ngày càng thâm nhập sâu hơn vào tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Do vậy, để nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của mình, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình so với các ngân hàng khác thì ngân hàng phải áp dụng những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của tiến bộ khoa học công nghệ, phải áp dụng những thiết bị, máy móc hiện đại nhất để quá trình xử lý các nghiệp vụ của ngân hàng diễn ra an toàn, nhanh chóng, chính xác và thuận tiện; Ngân hàng cũng phải đề ra các tiêu chuẩn đề thực hiện việc tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá các hoạt động của ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế...
3.2.4. Nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng
Con người chính là yếu tố quan trọng nhất, quyết định trong mọi hoạt động của mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức. Đối với ngành ngân hàng thì con người chính là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, họ chính là nhân tố góp phần vào việc ngân hàng có gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng hay không, có giữ chân được khách hàng hay không...Do vậy, công tác tuyển dụng và đào tạo nhân lực tại các ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng. Để nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng thì ngân hàng cần phải có chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ, hiệu quả.
Đối với công tác tuyển dụng nhân viên: ngân hàng phải căn cứ vào nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực còn thiếu của các phòng ban để tuyển thêm nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển của chi nhánh, đảm bảo quá trình hoạt động và phát triển của ngân hàng và kế hoạch hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới. Sau khi xác định được nhu cầu cần tuyển dụng thì ngân hàng tổ chức tuyển dụng sao cho tuyển dụng được đội ngũ nhân viên đúng với chuyên môn cần tuyển.
Đối với công tác đào tạo cán bộ ngân hàng, thì chuyên môn luôn có một vai trò rất quan trọng, Ngân hàng đã liên tục mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhân viên để bổ sung cho họ những kiến thức về chuyên môn, cũng như những kiến thức mới về công nghệ ngân hàng, về công tác quản lý.... Ngân hàng có thể mời các chuyên gia về giảng dạy tại chính ngân hàng mình hoặc cũng có thể trợ cấp kinh phí cho các cán bộ công nhân viên theo học các lớp học buổi tối ở các trường đại học chuyên ngành, hoặc ngân hàng có thể tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên đi khảo sát thực tế tại các ngân hàng bạn ở trong nước cũng như ở nước ngoài...
3.2.5. Một số giải pháp khác
- Tập trung tổng kết chuyên đề kế hoạch tổng hợp, đánh giá đúng mặt được, chưa được, phân tích kỹ những mặt còn tồn tại để xây dựng những giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn đã đề ra trong bản kế hoạch nguồn vốn ngay từ những tháng đầu năm.
- Cụ thể hoá chiến lược phát triển từ từng năm. Đảm bảo kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở có giải pháp cụ thể để tăng trưởng nguồn vốn nội và ngoại tệ theo kế hoạch và tính ổn định. Thực hiện cân đối tích cực theo hướng: Có nguồn vốn mới được cho vay tập trung đầu tư tín dụng ở vùng nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu đảm bảo chất lượng , đáp ứng đủ vốn đã cam kết đầu tư các dự án lớn, đồng tài trợ về nhiều giải pháp để ngăn chặn nợ xấu phát sinh, đảm bảo khả năng thanh khoản cao, bền vững, hiệu quả. Đồng thời tăng cường năng lực tài chính từ hệ số an toàn, tăng vốn tính đến thực sự chuyển từng đơn vị hoạt động thành trung tâm sinh lời, đảm bảo tăng thu, tiết kiệm chi tạo lợi nhuận ngày càng tăng và có đủ sức để trích lập dự phòng rủi ro và tăng mức sống cho cán bộ nhân viên.
- Rà soát lại toàn bộ các văn bản hiện hành để tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa, xây dựng các chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ, quản trị nội bộ để từ đó tạo hành lang cho việc huy động đảm bảo đúng pháp luật, tiến tới theo thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình thực tế như các tỷ lệ bảo toàn an toàn vốn...
- Tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại, kinh doanh vốn, hợp tác quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ và các bộ ngành trong việc khai thác và thu hút các dự án nước ngoài; chú trọng khai thác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài...
- Nâng cao tính kỷ cương, kỷ luật trong điều hành kế hoạch, thực hiện việc kiểm tra định kỳ và đột xuất về việc chấp hành chế độ kế hoạch của Trụ sở chính và các cấp ngân hàng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
- Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới hoạt động theo quyết định 888 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gắn với ttăng cường cơ sở vật chất, tiện ích phục vụ, nâng cao năng suất lao động cho cán bộ và lợi ích cho khách hàng.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn cơ chế quản lý kế hoạch cho đội ngũ làm công tác kế hoạch để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Hoàn thiện môi trường pháp lý là một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng, nó sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động của ngân hàng và nó cũng tạo ra niềm tin của khách hàng vào sự vững mạnh của ngân hàng. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình thực hiện hai bộ luật Ngân hàng, và bộ luật Kế hoạch, cần xây dựng hướng dẫn chi tiết, đầy đủ, dễ hiểu việc thực hiện hai bộ luật này để nó có tính kỷ cương cao, phù hợp với tình hình thực tế. Việc ban hành các văn bản phải có sự thống nhất chặt chẽ và sự phối hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác, và cũng để cho hệ thống pháp lý đồng bộ. Việc các văn bản Luật và dưới luật được ban hành một cách đồng bộ, một cách có hệ thống sẽ giúp cho mọi hoạt động tài chính tiền tệ, tín dụng đều được pháp luật hoá, nó sẽ tạo một môi trường ổn định về pháp lý, chính sách cho các ngân hàng giúp tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các ngân hàng hoạt động.
Chính phủ cũng cần đánh giá một cách toàn diện và xử lý hợp lý các mối quan hệ giữa nguồn lực bên trong và bên ngoài nước theo hướng là đảm bảo cho nợ của quốc gia nằm trong phạm vi an toàn, kiểm soát được. Do vậy, chính phủ cần chỉ đạo và quán triệt các bộ, ngành các cấp lập kế hoạch nguồn vốn sao cho thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
Chính phủ cũng cần xác định rõ các lĩnh vực, các công trình mà Nhà nước phải đầu tư toàn bộ, các lĩnh vực cần huy động vốn để xây dựng các kế hoạch nguồn vốn cụ thể cho việc huy động vốn theo cơ chế minh bạch, không phân biệt thành phần kinh tế tư nhân hay nhà nước...
Ngoài ra, nhà nước cần sớm ban hành các quy chế, quy định về việc công bố thông tin, về các thông tin, số liệu mà ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần phải công khai; các thông tin, số liệu này phải có cơ quan kiểm duyệt để minh bạch hoá thông tin; phải có hệ thống thông tin thích hợp, phải cung cấp những thông tin cần thiết cho công chúng theo hướng phù hợp với thông lệ, quy định của quốc tế.
Như vậy, tất cả sự tham gia của Chính phủ, của Nhà nước cần phải hướng tới mục tiêu là tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các ngân hàng; mọi hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng phải được diễn ra công khai, hợp pháp nhằm tránh gây tổn thất cho các chủ sở hữu, cho các bên tham gia. Mặt khác, Nhà nước cũng cần phải xem xét lại việc thực hiện các chính sách của mình thông qua các công cụ của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ nhằm tăng tính tự chủ, sáng tạo cho các ngân hàng và phù hợp với nền kinh tế thị trường.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước
Thứ nhất là Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh việc điều hành có hiệu quả các chính sách tài chính, chính sách tiền tệ nhằm duy trì sự ổn định tiền tệ của quốc gia, để người gửi tiền yên tâm gửi tiền vào các ngân hàng thay vì họ mua vàng hay ngoại tệ, bất động sản.... Không những thế, nó sẽ giúp cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, có hiệu quả hơn, giúp các ngân hàng có thể tồn tại được. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lý hơn với mục đích là khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất, tỷ giá, thị trường mở và một số công cụ khác nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của người gửi tiền.
Thứ hai là Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh nghiệp vụ thị trường mở, một trong những công cụ phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ nhưng không cần trực tiếp tác động vào lãi suất, sẽ không gây ra những biến động bất lợi cho việc đầu tư. Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải duy trì mức tỷ giá ổn định, bởi trong điều kiện hiện nay xu hướng hội nhập kinh tế, các mối quan hệ đan xen lẫn nhau, nhất là quan hệ kinh tế tiền tệ ... thì chính sách tỷ giá có vai trò rất quan trọng.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào trong các lĩnh vực kinh doanh, các sản phẩm của mình; có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, có thể cử các nhân viên có năng lực, có trình độ chuyên môn đi đào tạo tại các ngân hàng bạn và các ngân hàng thế giới. Ngân hàng Nhà nước cũng phải tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện tham gia vào các hoạt động kinh doanh liên ngân hàng, vào các hoạt động kinh doanh mới đặc biệt là lĩnh vực Chứng khoán. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng phải cho phép các ngân hàng thương mại được cải thiện các công tác thanh toán, về kỹ thuật, về trình độ công nghệ để phù hợp với Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với xu thế chung, nhằm nâng cao khả năng thanh toán nhanh chóng, an toàn và chính xác.
3.3.3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam.
- Ban hành Quy chế huy động vốn trong toàn Hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam để phù hợp với quá trình hiện đại hoá Ngân hàng, tạo thêm nhiều sản phẩm tiện ích cho người gửi tiền và sử dụng dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp.
- Đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, bám sát lãi suất thị trường đề thu hút khách hàng, nâng cao tính cạnh tránh với các Ngân hàng khác.
- Kiến nghị Trụ sở chính làm người trực tiếp giao dịch, quan hệ với các cơ quan như Bộ và các cơ quan ngang Bộ trong việc tìm kiếm các dự án có vốn đầu tư nước ngoài để đăng ký làm ngân hàng phục vụ.
- Kiến nghị Trụ sở chính có biện pháp quản lý lãi suất, ít nhất là trong địa bàn các đô thị lớn có nhiều ngân hàng, để giảm thiểu tính cạnh tranh không lành mạnh ngay trong nội bộ Ngân hàng Nông nghiệp. Tăng cường tính kịp thời thông báo lãi suất của các Ngân hàng Nông nghiệp lớn trên trang Web của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
- NHNo & PTNT Việt Nam cần xem xét lại tỷ lệ dự trữ thanh toán và lãi suất điều vốn dự trữ thanh toán để giảm giá đầu vào vốn khả dụng, đảm bảo tính cạnh tranh của ngân hàng với các ngân hàng khác.
- NHNo &PTNT Việt Nam nên giao quyền chủ động hơn cho các đơn vị trong việc đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, cử cán bộ đi đào tạo ngắn ngày tại nước ngoài để đáp ứng yêu cầu hội nhập.
- Cải tiến hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu kinh doanh đối ngoại, kết nối thanh toán giao dịch, vấn tin,... với các khách hàng lớn.
3.4. Những tiền đề nhằm thực hiện những kiến nghị trên.
- Hoàn thiện các chính sách, các quy định về công tác lập kế hoạch phải đồng bộ về các giải pháp với nhau nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Và các chính sách, quy định này phải phù hợp với quá trình hội nhập, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động của các ngân hàng...
- Nâng cao trình độ của các cán bộ làm công tác lập kế hoạch, cũng như toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng.
- Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin quảng cáo nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng đối với người dân và với các khách hàng.
- Tích cực nghiên cứu thị trường, phát hiện các thị trường mục tiêu nhằm thu hút và giữ chân các khách hàng lớn, tiềm năng
- Tích cực,chủ động tham gia “hội nhập nhưng không hoà tan”
KẾT LUẬN
Có thể nói huy động vốn là nhu cầu thiết yếu của bất cứ một ngân hàng nào, là vấn đề quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Việc làm chủ các nguồn vốn huy động sẽ giúp các ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy công tác lập kế hoạch cho việc huy động vốn là quan trọng đối với mọi ngân hàng. Trong điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay thì việc huy động vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội, từ các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế để có vốn đầu tư vào các doanh nghiệp, các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, góp phần vào việc tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước. Không những thế việc huy động vốn còn giúp các ngân hàng có thể đứng vững, có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay. Điều này cũng chính là nguyên nhân khiến cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội quyết định tập trung vào công tác huy động vốn, xây dựng các kế hoạch huy động vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất..., xác định đây chính là một lĩnh vực kinh doanh có tính chất chủ đạo của mình.
Công tác lập kế hoạch huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam cung cấp các thông tin về các hình thức, các phương thức huy động vốn, các phương thức marketing nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng....
Do sự trải nghiệm thực tế của em còn ít ỏi, và nhận thức còn hạn hẹp nên bài viết này của em chắc chắn còn nhiều thiếu xót, em mong các thầy cô hướng dẫn, chỉ bảo em để em có nhìn nhận đúng đắn nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – Giáo trình Khoa học quản lý I - PGS.TS Đoàn Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – NXB Khoa học và kỹ thuật – 2004 – Hà Nội
2
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – Giáo trình Ngân hàng thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà –NXB Thống kê – 2006 – Hà Nội
3
Lê Văn Tư - Quản trị Ngân hàng thương mại – NXB Tài chính, 2005
4
PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn - Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – NXB Thống kê
5
Vũ Thị Hoa - Luận văn “Giải pháp thực hiện kế hoạch huy động vốn giai đoạn 2006 – 2010 tại ngân hàng đầu tư phát triển Thăng Long” – Khoá 45, khoa Kinh tế phát triển
6
Quyết định số 115/QĐ-HĐQT-KHTH của NHNo & PTNT Việt Nam V/v ban hành Quy định về xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh đối với sở giao dịch, chi nhánh trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
7
Các báo cáo tổng kết kết quả hoạt động từ năm 2003 đến năm 2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
8
Báo cáo tổng kết chuyên đề về công tác kế hoạch tổng hợp năm 2006, phương hướng mục tiêu và giải pháp năm 2007 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
9
Báo cáo thuyết minh kế hoạch kinh doanh năm 2008 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
10
Quy chế về Tổ chức và hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 1377/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12304.doc