Chuyên đề Hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập quỹ dự phòng rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ dự phòng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa

MỤC LỤC: LỜI MỞ ĐẦU8 Phần A: MỞ ĐẦU10 CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ.10 1. Lí do chọn đề tài.10 2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu.11 2.1. Mục tiêu nghiên cứu.11 2.2. Đối tượng nghiên cứu.11 2.3. Phạm vi nghiên cứu.11 2.4. Phương pháp nghiên cứu.11 2.5. Tóm tắt nội dung, bố cục của đề tài.12 Phần B: NỘI DUNG13 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN TRÍCH LẬP QUỸ DỰ PHÒNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM.13 1. Cơ sở lí luận.13 1.1. Dự phòng rủi ro trong hoạt động của NHTM.13 1.1.1 Rủi ro - nhân tố tất yếu trong hoạt động của NHTM.13 1.1.2 Rủi ro trong hoạt động của NHTM.14 2. Nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của NHTM.14 2.1 Một số quy định chung.14 2.2 Tài khoản sử dụng trong nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của NHTM.15 3. Nghiệp vụ kế toán sử dụng dự phòng rủi ro của NHTM.17 3.1 Điều kiện sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.17 3.2 Phương pháp hạch toán: 18 4. Những nhận định về kế toán trích lập quỹ dự phòng rủi ro. 19 4.1 Tác phẩm thứ nhất: 20 4.1.1. Nội dung liên quan đề tài.20 4.1.2 Những đóng góp của đề tài.20 4.1.3 Những hạn chế của đề tài.20 4.2 Tác phẩm thứ hai.20 4.2.1 Nội dung của đề tài20 4.2.2 Những đóng góp của đề tài.20 4.2.3 Những hạn chế của đề tài.20 4.3 Tác phẩm thứ ba.21 4.3.1 Nội dung của đề tài21 4.3.2 Những đóng góp của đề tài.21 4.3.3 Những hạn chế của đề tài.21 CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.22 1. Phương pháp định tính.22 2. Phương pháp định lượng.22 2.1. Phương pháp thu thập thông tin.22 2.2. Phương pháp thu thập số liệu thực tế.22 2.3 Phương pháp trực quan.22 2.4 Phương pháp lí luận.22 3. Đánh giá về nội dung.22 3.1. Mở rộng nghiệp vụ trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro.22 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro.25 CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN TRÍCH LẬP QUỸ DỰ PHÒNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG No&PTNT THỌ XUÂN.26 1. Khái quát về chi nhanh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 26 1.1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.26 1.2. Mô hình tổ chức của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.27 1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 29 2. Thực trạng nghiệp vụ kế toán trích lập qũy dự phòng rủi ro tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.30 2.1. Tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.30 2.2. Sự cần thiết của dự phòng rủi ro trong hoạt dộng của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.31 2.3. Tài khoản sử dụng trong việc trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng.33 2.4. Quy trình thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.34 2.5. Thực trạng nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.35 2.5.1 Các căn cứ để trích lập.35 2.5.2 Phương pháp hạch toán trích lập dự phòng rủi ro:36 2.6. Thực trạng nghiệp vụ kế toán sử dụng dự phòng rủi ro.37 2.6.1 Các quy định về sử dụng dự phòng để xủ lý rủi ro đối với chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.37 2.6.2 Phương pháp hạch toán sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. 38 3. Đánh giá về nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 39 3.1. Những kết quả đạt được. 39 3.2. Những vướng mắc còn tồn tại.40 4. Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng.42 4.1. Hoàn thiện căn cứ trích lập dự phòng rủi ro.42 4.2. Nâng cao nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng.44 4.3. Nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng.45 Phần C: KẾT LUẬN46 CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN.46 1. Kết luận.46 2. Nhận xét về đề tài và các định hướng của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân trong thời gian tới. 47 1.1. Ý nghĩa của đề tài. 47 2.2. Các định hướng tương lai của đơn vị trong thời gian tới. 47 2.2.1. Tăng cường tính chủ động trong sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. 48 2.2.2 Tăng cường sự hỗ trợ của kiểm toán và thanh tra ngân hàng. 49 3. Một số kiến nghị.50 3.1. Kiến nghị đối với ngân hàng No&PTNT Việt Nam.50 3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân.50 Danh mục tham khảo:52

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập quỹ dự phòng rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ dự phòng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự phòng rủi ro một cách khoa học, thông minh và hết sức cần thiết với loại hình ngân hàng cấp 2 như ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 4.2.3 Những hạn chế của đề tài. Tuy nhiên vì đây là đề tài nghiên cứu về doanh nghiệp bảo hiểm nên không thể áp dụng mô thức này một cách hoàn toàn được. 4.3 Tác phẩm thứ ba. Đề tài nghiên cứu: “Quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại”. Tiến sĩ: Vũ Viết Ngoạn, giảng viên học viện tài chính. 4.3.1 Nội dung của đề tài Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản ( tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn.Thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa là một tài sản có tính thanh khoản cao thì khả năng sinh lời càng thấp và ngược lại, một nguồn vốn có tính thanh khoản càng cao thì thường có chi phí huy động càng lớn, do đó, làm giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay. 4.3.2 Những đóng góp của đề tài. Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động ngân hàng. Sớm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ của NHTM đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế. 4.3.3 Những hạn chế của đề tài. Các quy định này cần được tiến hành từng bước phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo tính độc lập, đặc thù của nước ta. CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1. Phương pháp định tính. Địa điểm nghiên cứu, thời gian nghiên cứu. Địa điểm: Ngân hàng No&PTNT chi nhánh Huyện Thọ Xuân-Thanh Hóa. Thới gian: Từ ngày 15.3.2011 đến 14.5.2011 2. Phương pháp định lượng. 2.1. Phương pháp thu thập thông tin. Qua thời gian thưc tập tại ngân hàng tôi đã quan sát, tìm hiểu về hoạt động của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân để đi sâu tìm hiểu rõ hơn về về nghiệp vụ trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. 2.2. Phương pháp thu thập số liệu thực tế. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh ngân hàng, tôi đã quan sát hoạt động kinh doanh về việc trích lập và sử dụng dự phòng. Tôi đã ghi chép, thu thập và xử lý số liệu thu thập được tại ngân hàng No&PTNT chi nhánh Huyện Thọ Xuân-Thanh Hóa va so sánh với phương thức trích lập dự phòng của ngân hàng No&PTNT Việt Nam để làm cơ sở đánh giá giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập quỹ dự phòng rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ dự phòng tại chi nhánh đã thực sự có hiệu quả hay chưa. Bảng 1: Hoạt động kinh doanh về nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Đơn vị tính: triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Trích dự phòng rủi ro 39564 57232 69387 Tổng số Lũy kế 47835 86729 103908 (Nguồn: Báo cáo về trích lập dự phòng của phòng kinh doanh) Bảng 2: Tình hình thu nhập và chi phí của ngân hàng một số năm Đơn vị tính: triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 Tổng thu nhập 24980 54845 59543 Tổng chi phí 7908 10215 11765 Chênh lệch 17072 44630 47778 (Nguồn: Báo cáo của phòng kế toán ngân quỹ ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân ) 2.3 Phương pháp trực quan. Trong thời gian thực tập tại ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân, tôi nhận thấy công việc của một nhân viên ngân hàng thực thụ-Nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rất cần kinh nghiệm thực tiễn, đảm bảo chắc chắn trong công tác kế toán và quy trình nghiệp vụ. Đồng thời trong thời gian làm việc cần có sự nhanh nhẹn và có kinh nghiệm. Đến một thời gian quy định, nhân viên ngân hàng được chuyển đổi công việc để nâng cao nghiệp vụ của mình. 2.4 Phương pháp lí luận. Sử dụng phương pháp lí luận để nhận định nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng tại ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân để thấy được vai trò quan trọng việc giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh cũng như giảm thiểu ở mức thấp nhất trong sự an toàn về nguồn vốn của ngân hàng. 3. Đánh giá về nội dung. 3.1. Mở rộng nghiệp vụ trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Đối với tình hình thực hiện trích lập dự phòng cụ thể của các NHTM Việt Nam, do chưa thể ngay lập tức thay đổi được căn cứ phân loại tài sản Có, và việc trích lập dựa trên tiêu chí thời hạn của khoản vay là chủ yếu, nên để hoàn thiện hơn việc trích lập dự phòng thì các NHTM cần mở rộng đối tượng trích lập: Đối với bất kỳ khoản cho vay nào của ngân hàng, ngay khi giải ngân ra đã có thể tiềm ẩn rủi ro. Cho dù ngân hàng đã thẩm định rất kĩ thì những biến động mang tính khách quan có thể ảnh hưởng đến khoản vay. Bởi thế, ngay khi khoản vay mới được giải ngân hoặc đang ở trạng thái bình thường, chưa phải là quá hạn thì cũng không có nghĩa là ngân hàng sẽ không gặp rủi ro. Vì thế ngay khi cho vay, ngân hàng cần trích lập dự phòng rủi ro cho khoản vay đó theo một tỷ lệ nhất định, khoảng từ 1% đến 2% giá trị của khoản vay. Tuy trích lập với tỷ lệ thấp nhưng ngân hàng cần duy trì việc trích lập này thường xuyên để có nguồn ổn định đảm bảo đáp ứng khi tổn thất xảy ra. Đối với khách hàng có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng, nhiều tổ chức tín dụng khác nhau, khi khách hàng có một khoản vay bị xếp vào dạng quá hạn ở một ngân hàng thì ngân hàng cũng cần trích lập dự phòng cho khoản vay của khách hàng đó ở ngân hàng mình, dù khoản vay đó vẫn chưa quá hạn. Việc trích lập này để đảm bảo an toàn cho ngân hàng vì khi một khoản vay đã quá hạn thì các khoản vay khác của khách hàng đó cũng tiềm ẩn nguy cơ khó thu hồi. Ngân hàng cần trích lập dự phòng cho cả các khoản lãi của các khoản nợ khó thu hồi. Khi một khoản nợ của ngân hàng không thu hồi được thì khoản lãi của khoản vay đó cũng sẽ không thu được. Do đó, nó gây ảnh hưởng đến kế hoạch doanh thu của ngân hàng. Việc trích lập này có thể chỉ cần thực hiện theo một tỷ lệ nhỏ của khoản lãi mà ngân hàng nhẽ ra thu được. Tuy nhiên điều này sẽ phản ánh chính xác hơn những thiệt hại mà ngân hàng phải gánh chịu khi rủi ro xảy ra. Đối với các hoạt động bảo lãnh thanh toán của ngân hàng, ngân hàng đã thu được phí bảo lãnh nhưng chưa phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà mới chỉ theo dõi ngoại bảng. Vì thế, rủi ro có thể xảy ra bất cứ khi nào. Trong hoạt động của các ngân hàng hiện đại ngày nay, hoạt động bảo lãnh rất phát triển dưới nhiều hình thức, nên đây là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cũng cần duy trì một tỷ lệ trích lập dự phòng nhất định cho hoạt động này. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Để việc trích lập dự phòng được thực hiện có hiệu quả và sử dụng hợp lý, tránh tăng chi phí hoạt động của ngân hàng một cách không cần thiết, thì ngân hàng phải kiểm soát được chất lượng tài sản Có. Muốn vậy, ngân hàng cần phải có các biện pháp thu thập, phân tích và quản lý thông tin có hiệu quả. Các thông tin mà ngân hàng thu thập có thể là các thông tin về khách hàng vay, về xếp hạng doanh nghiệp, về thị trường trong và ngoài nước, về các chính sách kinh tế vĩ mô…hoặc cũng có thể là các thông tin kịp thới về tình hình hoạt động của ngân hàng, về tình hình huy động vốn hay cấp tín dụng của các chi nhánhh trực thuộc…Viẹc thu thập và quản lý các thông tin này là rất quan trọng, nó giúp cho ngân hàng đánh giá được chính xác những rủi ro tiềm ẩn, từ đó có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Để thu thập thông tin có hiệu quả thì việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại là rất cần thiết. Việc thực hiện chương trình quản lý thông tin ngân hàng tập trung dựa trên việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho ngân hàng rất nhiều trong công tác quản lý nguồn vốn tài sản, quản lsy rủi ro… nhờ đó ngân hàng sẽ cải thiện được hiệu quả kinh doanh. CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA NGHIỆP VỤ KẾ TOÁN TRÍCH LẬP QUỸ DỰ PHÒNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG No&PTNT THỌ XUÂN. 1. Khái quát về chi nhanh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân 1.1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Năm 1988, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Theo đó ngân hàng No& PTNT Thọ Xuân được ra đời theo quyết định số 51/QĐ-NH ngày 27/06/1988 của Tổng giám đốc NHNN Việt Nam( Nay là Thống đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam) và là một trong 27 huyện trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp Thanh Hóa. Theo đó ngân hàng được mang tên ngân hàng nông nghiệp Thọ Xuân, đến năm 1997 chính thức đổi tên thành ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Giai đoạn mới thành lập: ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân đã gặp rất nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều thử thách. Từ đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, mạng lưới hoạt động đều rất thiếu thốn và lạc hậu. kết quả hoạt động kinh doanh khi mới thành lập chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng, song nguồn vốn chỉ có khoảng 1 tỷ đồng. Được tập trung cho vay hai thành phần kinh tế là : Doanh nghiệp Nhà Nước 38% và HTX 62%, Nợ quá hạn chiếm 7,6% trên tổng dư nợ. Có thể tín dụng bao cấp: cho vay theo quy định, theo kế hoạch nhà nước, lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất huy động. Do đó hoạt đông của ngân hàng gặp nhiều khó khăn và chưa có định hướng đầu tư vào các loại hình mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Giai đoạn 2000 - nay: là thời kì hoạt động ngân hàng hướng theo cơ chế thị trường nên ngân hàng đã tự lực về vốn và tìm kiếm thị trường đầu tư. Theo chủ trương này ngân hàng đã mở rộng thêm các phòng giao dịch để tiến hành nhanh chóng mở rộng mạng lưới kinh doanh và bắt đầu hình thành hệ thống các chi nhánh ngân hàng phục vụ người nghèo. Các hoạt động của ngân hàng được phát triển và ngày càng đa dạng. Đồng thời ngân hàng cũng thực hiện khoán tài chính và bắt đầu thực hiện kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế trong giai đoạn này. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ và ban lãnh đạo, trong những năm qua, ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Từ nguồn vốn và dư nợ rất thấp, đến nay ngân hàng đã có khối lượng vốn lớn, dư nợ không ngừng tăng trưởng. Ngân hàng vẫn đang tiếp tục phát triển và mở rộng không ngừng để phục vụ ngày càng tốt hơn việc phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung trên địa bàn huyện Thọ Xuân. 1.2. Mô hình tổ chức của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Bộ máy tổ chức của ngân hàng No&PTNT được áp dụng theo phương thức quản lý trực tuyến: ban giám đốc quản lý tất cả các phòng ban ở trung tâm cũng như các phòng ban tại các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc. Mỗi phòng ban thực hiện những chức năng và nhiệm vụ được qui định rõ ràng, có quyền hạn và trách nhiệm cụ thể. Các phòng ban ở trung tâm quản lý về mặt nghiệp vụ đối với các phòng ban tương ứng tại các chi nhánh ngân hàng quận, các phòng giao dịch và các quĩ tiết kiệm. Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức của ngân hàng No và PTNT Thọ Xuân. Phòng kế toán ngân quỹ Phòng thẩm định Phòng kinh doanh Giám đốc Phòng hành chính Phòng tín dụng Giám đốc: có nhiệm vụ chủ yếu là điều hành và quản lí mọi hoạt động của chi nhánh theo pháp luật của nhà nước và các quy chế của ngân hàng nhà nước Phòng tín dụng: tiến hành tổng hợp báo cáo tình hình nợ đến hạn phả trả và thực hiện cho vay trực tiếp(chuyên cầm cố sổ tiết kiệm và thực hiện giao dịch với các doanh nghiệp). Phòng kinh doanh: có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kinh doanh theo định hướng của ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Đồng thời cân đối nguồn vốn, sử dụng vốn và điều hòa vốn kinh doanh. Phòng kế toán ngân quỹ: chịu trách nhiệm về công tác tài chính và hạch toán kế toán của chi nhánh theo dúng quy định. Đây là phòng có trách nhiệm hậu kiểm những chứng từ kế toán của phòng ban khác tại ngân hàng. Phòng thẩm định: thực hiện thẩm định tính hiệu quả của các khoản vay các dự án xin vay để tư vấn cho giám đốc và phòng tin dụng trong quyết định cho vay. Phòng hành chính: thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa tài sản cố định, mua sắm công cụ lao động, xử lí văn thư… Với mô hình tổ chức như trên, ban lãnh đạo của ngân hàng có thể nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động kinh doanh của tất cả các chi nhánh quận và các phòng giao dịch. Từ đó ban lãnh đạo sẽ có biện pháp chỉ đạo hợp lý, chính xác giải quyết những vướng mắc trong quá trình hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu phát sinh. 1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Bảng 3: Tình hình nguồn vốn và dư nợ của ngân hàng No và PTNT Thọ Xuân trong một số năm. Đơn vị: tỷ đồng. Năm 2007 2008 2009 2010 Nguồn vốn huy động + Nguồn vốn VNĐ + Nguồn vốn ngoại tệ 334 317 22 425 386 31 615 537 74 974 905 79 Dư nợ + Dư nợ VNĐ +Dư nợ ngoại tệ 129 122 23 142 137 33 203 163 37 298 220 56 (Nguồn: Phòng kế toán ngân quỹ ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân) Với những thuận lợi và cả những khó khăn gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân đã biết tranh thủ những thuận lợi, tận dụng thời cơ, từng bước vượt qua khó khăn, nhờ vậy, chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động kinh doanh những năm qua, khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống NHTM Việt Nam. Qua các số liệu trên, có thể thấy tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngân hàng là khá cao. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm hơn 50%, tốc độ tăng trưởng bình quân của mức dư nợ hàng năm hơn 30%. Đây là tốc độ phát triển rất nhanh. Nó chứng tỏ ngân hàng thực sự hoạt động có hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư cũng như trong việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. 2. Thực trạng nghiệp vụ kế toán trích lập qũy dự phòng rủi ro tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 2.1. Tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Trong những năm qua, ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân đã sử dụng tốt đồng vốn huy động vào việc cho vay có hiệu quả. Khối lượng tín dụng ngày một tăng cả về số lượng và chất lượng, phạm vi kinh doanh và đối tượng khách hàng không ngừng được mở rộng. Nhờ vậy hoạt động tín dụng đã đem lại nguồn thu ổn định cho ngân hàng. Bảng 4: Tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân qua một số năm. Đơn vị tính: tỷ đồng Thời điểm 2007 2008 2009 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008 +/- %+/- +/- %+/- Tổng dư nợ 157 200 278 +43 +27,3% +78 +39% Chia theo thời hạn: + Ngắn hạn +Trung hạn 143 49 158 75 189 79 +15 +26 +10,5% +53% +31 +4 +19% +5,3% Chia theo đồng tiền: + Bằng VND + Bằng ngoại tệ 137 35 163 37 223 56 +26 +2 +19% +5,7% +60 +19 +36,8% +51% ( Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm 2007,2008,2009,2010 của ngân hàng No và PTNT) Từ 2007 đến nay, không chỉ dừng lại ở các khách hàng truyền thống và lĩnh vực truyền thống, hoạt động cho vay của ngân hàng đã được mở rộng về cả phạm vi và đối tượng khách hàng. Ngân hàng đã mở rộng đầu tư tín dụng cho mọi thành phần kinh tế, chú trọng mở rộng cho vay trung dài hạn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất. Qua các số liệu trên, có thể thấy, trong ba năm gần đây, mức dư nợ của chi nhánh không ngừng tăng. Chỉ trong thời gian 2 năm mức dư nợ đã tăng gần gấp đôi. Trong đó, cho vay ngắn hạn vẫn là chủ yếu, nhưng tỷ trọng cho vay trung dài hạn cũng ngày càng tăng trong tổng dư nợ. Tốc độ tăng của dư nợ trung dài hạn là hơn hẳn so với dư nợ ngắn hạn. Cho vay bằng VNĐ của chi nhánh vẫn là chính, nhưng cho vay bằng ngoại tệ cũng đang được đẩy mạnh, với tốc độ tăng trưởng cao. Vốn đầu tư tín dụng của ngân hàng được tập trung chủ yếu cho các dự án, phương án thực sự có hiệu quả, không phân biệt thành phần kinh tế. Thời gian qua, ngân hàng đã mở rộng phương thức cho vay đồng tài trợ với các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần trên địa bàn, đồng thời mở rộng cho vay hộ sản xuất, cho vay sinh hoạt đối với các tầng lớp dân cư với mức dư nợ lên tới hàng trăm tỷ đồng. Cùng với sự tăng trưởng về số lượng tín dụng, chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng ngày càng tăng. Đó là do ngân hàng đã có nhiều biện pháp thích hợp như: qui trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, từng bộ phận trong việc thẩm định tín dụng; theo dõi chặt chẽ qui trình sử dụng vốn vay cũng như việc trả nợ của khách hàng; nâng cao nhận thức của cán bộ tín dụng; thực hiện cơ chế khoán tài chính và tiền lương cùng với sự chỉ đạo chặt chẽ; công tác kiểm tra kiểm soát được thực hiện thường xuyên... 2.2. Sự cần thiết của dự phòng rủi ro trong hoạt dộng của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Hoạt động của ngân hàng No và PTNT Thọ Xuân cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro như bất kì ngân hàng nào. Mặc dù các biện pháp đánh giá, quản lý rủi ro ngày càng được hoàn thiện hơn, nhưng vẫn không thể loại bỏ hoàn toàn những rủi ro vốn có của hoạt động ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM vẫn gặp một số trở ngại: Qui chế cho vay mới nhất của Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 đã tạo nhiều thuận lợi cho các ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Theo đó khách hàng xin vay sẽ được đánh giá theo nhiều tiêu chí như năng lực pháp lý, uy tín, năng lực lãnh đạo, tình hình tài chính ... Tuy nhiên, việc đánh giá và thẩm định chính xác năng lực khách hàng không phải là điều dễ dàng. Nó chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan xuất phát từ năng lực của cán bộ tín dụng, những rủi ro mang tính đạo đức... Vì thế rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đối với ngân hàng No và PTNT Thọ Xuân nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung hiện nay, bên cạnh nguy cơ phát sinh rủi ro tín dụng do sự yếu kém của chất lượng tín dụng xuất phát từ việc chưa tuân thủ các điều kiện vay vốn, thực hiện không đầy đủ các yếu tố của bộ hồ sơ cho vay, các biện pháp bảo đảm tiền vay không có hiệu quả... thì hoạt động của các NHTM đang chứa đựng nguy cơ đổ vỡ cap do mức dư nợ tồn đọng rất lớn. Tỷ lệ nợ tồn đọng của các NHTM Việt Nam hiện nay lớn gấp 4 lần vốn tự có. Đây là những khoản nợ để lại do yếu tố lịch sử từ thời kì bao cấp, nhưng nó lại đang trở thành một gánh nặng rất lớn cho ngân hàng trong quá trình lành mạnh hoá tài chính. Một nguyên tắc đối với bất kì một khoản vay nào là ngân hàng yêu cầu phải có bảo đảm tín dụng. Đó có thể là bảo đảm đối vật hoặc bảo đảm đối nhân. ở Việt Nam, bảo đảm đối nhân chưa thực sự phổ biến. Còn đối với bảo đảm đối vật, tức là khách hàng dùng tài sản là bất động sản hoặc động sản để đảm bảo, thì ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn khi xử lý. Hệ thống pháp lý liên quan đến việc xử lý các tài sản đảm bảo chưa hoàn chỉnh, ví dụ như quyền sở hữu, quyền sử dụng, cơ chế chuyển nhượng, phát mại tài sản, những nguyên tắc định giá, đấu giá...Sự phối kết hợp giữa các ngành chưa chặt chẽ, nhiều nơi chính quyền địa phương chưa thực sự ủng hộ ngân hàng trong việc thu giữ và phát mại tài sản đảm bảo. Sự cộng tác của cơ quan pháp luật hiệu quả còn thấp. ở Việt Nam, thị trường bất động sản chưa thực sự phát triển và không có tổ chức. Như vậy mặc dù có tài sản đảm bảo, ngân hàng cũng không thể hạn chế triệt để rủi ro tín dụng. Đối với nợ không có tài sản đảm bảo và con nợ không còn thì việc hoàn chỉnh hồ sơ để trình chính phủ cho xoá nợ cũng gặp một số vướng mắc: một số đơn vị đã giải thể hoặc tự tan rã từ lâu rất khó lấy xác nhận của cấp có thẩm quyền, một số doanh nghiệp thực chất đã ngừng hoạt động và không có khả năng trả nợ ngân hàng song chưa đủ thủ tục để tuyên bố phá sản hoặc giải thể... Xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan nói trên, việc ngân hàng sử dụng nguồn quỹ dự phòng để hạn chế những ảnh hưởng của việc mất vốn trở nên rất quan trọng. Dự phòng rủi ro được trích lập dựa trên việc phân loại tài sản Có của ngân hàng trở thành một nguồn quỹ cần thiết và chủ động của ngân hàng nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh. 2.3. Tài khoản sử dụng trong việc trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng. Tài khoản loại 2: Tài khoản 2051, 2061, 2111, 2121,....: Tài khoản nợ trong hạn và đã được gia hạn nợ. Tài khoản 2052, 2062, 2112, 2122,....: Tài khoản nợ quá hạn đến 180 ngày có khả năng thu hồi. Tài khoản 2053, 2063, 2113, 2123,....: Tài khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày có khả năng thu hồi. Tài khoản 2058, 2068, 2118, 2128,....: Tài khoản nợ khó đòi. Tài khoản 479004: Tài khoản các khoản phải trả về dự phòng rủi ro tín dụng. Tài khoản này được mở tiểu khoản cho từng ngân hàng đơn vị trực thuộc, mở cho nội tệ riêng, ngoại tệ riêng. Tài khoản 872: Tài khoản chi dự phòng. Gồm các tài khoản chi tiết: Tài khoản 8721: Tài khoản chi dự phòng giảm giá vàng, ngoại tệ. Tài khoản 8722: Tài khoản chi dự phòng nợ phải thu khó đòi. Tài khoản 8723: Tài khoản chi dự phòng giảm giá chứng khoán. Tài khoản 8724: Tài khoản chi dự phòng dịch vụ thanh toán. Tài khoản 8725: Tài khoản chi dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Tài khoản 790001: Tài khoản thu hoàn nhập dự phòng rủi ro. Tài khoản 971: Tài khoản nợ bị tổn thất đang trong thời gian theo dõi. Tài khoản này được mở tiểu khoản theo từng khách hàng nợ và từng khoản nợ, có các tài khoản chi tiết: Tài khoản 971001: Tài khoản nợ bị tổn thất đang trong thời gian theo dõi. Tài khoản 971005: Tài khoản dự phòng rủi ro đã đưa vào chi phí. Tài khoản 971006: Tài khoản dự phòng rủi ro đã chuyển về Trụ sở chính. 2.4. Quy trình thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Định kì hàng quí, các chi nhánh trực thuộc ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân căn cứ theo các qui định, thực hiện: Phân loại tài sản có tại thời điểm ngày cuối cùng của tháng thứ hai trong quí và dự kiến số tiền phải trích lập ( theo mẫu 01 ) gửi chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Tập trung các khoản rủi ro đủ điều kiện xử lý trình Hội đồng xử lý rủi ro của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân xét duyệt. Lập phương án thu hồi nợ đối với những khoản nợ đã được xử lý rủi ro trước đây. Trên cơ sở báo cáo của các chi nhánh đơn vị trực thuộc, Hội đồng xử lý rủi ro của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân tổ chức họp để quyết định các vấn đề sau: Lập biểu tổng hợp phân loại tài sản có và trích lập dự phòng của toàn đơn vị để gửi về Trụ sở chính ( theo mẫu 01 ). Xét duyệt các khoản rủi ro của đơn vị mình theo mức được phân cấp xử lý theo qui định. Kết quả xét duyệt được lập thành danh sách ( theo mẫu 02 ). 2.5. Thực trạng nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 2.5.1 Các căn cứ để trích lập. Ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân thực hiện trích lập dự phòng dựa trên việc phân loại tài sản “Có” theo quyết định 488 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Có thể tổng kết việc phân loại tài sản Có và tỉ lệ trích tương ứng theo bảng sau: Bảng 5: Phân loại tài sản Có và tỷ lệ trích lập dự phòng Phân Loại Hoạt động cấp tín dụng Dịch vụ Thanh toán I II III IV Khoản thanh toán hộ khách hàng, TCTD khác quá hạn thu hồi Nợ trong hạn và được gia hạn Nợ quá hạn Cho vay +Có tài sản bảo đảm +Không có TS bảo đảm <181 <91 181-360 91-180 >360 >180 CK-tái CK thương phiếu & GTCG quá hạn <31 31-60 >60 Bảo lãnh trả thay <61 61-180 >180 Cho thuê tài chính <181 181-360 >361 Tỉ lệ trích 0% 20% 50% 100% 20% Các loại tài sản Có không phải trích lập dự phòng bao gồm: Những khoản cho vay bằng nguồn tài trợ uỷ thác đầu tư theo từng hiệp định đã kí kết với các tổ chức nước ngoài, đã được trích dự phòng theo yêu cầu của từng hiệp định và có cơ chế xử lý rủi ro riêng. Những khoản nợ đang trong thời gian được khoanh nợ, giãn nợ theo các quyết định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Tổng số tiền phải trích lập dự phòng của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân bao gồm số tiền phải trích cho cả hai loại tài sản Có là hoạt động tín dụng và hoạt động dịch vụ thanh toán theo qui định trên. 2.5.2 Phương pháp hạch toán trích lập dự phòng rủi ro: Nhận được dự phòng rủi ro do các chi nhánh ngân hàng cấp 1 chuyển về, kế toán hạch toán: Nợ TK: 5112 – Chuyển tiền đến Có TK: 479004 – Các khoản phải trả về dự phòng rủi ro tín dụng ( Mở và hạch toán riêng tiểu khoản cho từng đơn vị ngân hàng trực thuộc, nội tệ riêng, ngoại tệ riêng). Khi tập hợp đủ dự phòng của các ngân hàng cơ sở, lập các lệnh chuyển về Trụ sở chính . Trên lệnh chuyển tiền phải ghi rõ chuyển dự phòng rủi ro nội tệ, ngoại tệ của quí...năm... về Sở giao dịch ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Kế toán hạch toán: Nợ TK: 479004 – Các khoản phải trả về dự phòng rủi ro tín dụng. Có TK: 5111 – Chuyển tiền đi. Đồng thời hạch toán ngoại bảng: Nhập TK 971006 – Dự phòng rủi ro đã chuyển về Trụ sở chính của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân ( Mở và hạch toán riêng tiểu khoản cho từng ngân hàng trực thuộc, nội tệ riêng, ngoại tệ riêng ). Sơ đồ 3: Sơ đồ hạch toán kế toán trích lập dự phòng rủi ro TK chuyển tiền đi TK 479004 TK chuyển tiền đến (2a) (1) (2b) Nhập: TK 971006 (1). Nhận dự phòng rủi ro của các chi nhánh ngân hàng cấp 1 chuyển về. (2). a- Chuyển dự phòng rủi ro về Trụ sở chính. b- Đưa ra theo dõi ngoại bảng. 2.6. Thực trạng nghiệp vụ kế toán sử dụng dự phòng rủi ro. 2.6.1 Các quy định về sử dụng dự phòng để xủ lý rủi ro đối với chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Các trường hợp được sử dụng nguồn dự phòng đã trích để xử lý rủi ro: Do chi nhánh ngân hàng No và PTNT Thọ Xuân là chi nhánh cấp 2 thuộc ngân hàng No&PTNT Việt Nam, nên theo qui định về phân cấp xử lý rủi ro, thì chi nhánh được quyền xử lý rủi ro đối với các trường hợp tài sản “ Có” có thời gian quá hạn ( kể cả trường hợp các tổ chức bị phá sản, giải thể nhưng chưa hoàn thành việc thanh toán tài sản ) như sau: Những khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 721 ngày trở lên; những khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên. Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 91 ngày trở lên. Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được từ 361 ngày trở lên. Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê từ 721 ngày trở lên. Số tiền thanh toán hộ khách hàng, tổ chức tín dụng khác ( không bao gồm những khoản trả thay cho người được bảo lãnh ) đã quá hạn thu hồi từ 181 ngày trở lên. Số ngày quá hạn được tính từ thời điểm hạch toán chuyển quá hạn trên tài khoản kế toán cho đến thời điểm xử lý rủi ro. Mức xử lý rủi ro cho một khách hàng tính cả nội tệ và ngoại tệ qui đổi ( theo tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố ) tại thời điểm xử lý rủi ro như sau: Khách hàng là doanh nghiệp nhà nước: 2 tỷ đồng trở xuống. Các khách hàng còn lại: 1 tỷ đồng trở xuống. Đối với các trường hợp vượt quyền xử lý của chi nhánh thì chi nhánh phải tập hợp chuyển về Trụ sở chính để xử lý. Nguyên tắc xử lý rủi ro: Chi nhánh chỉ được xử lý rủi ro trong phạm vi số dư quĩ dự phòng đã trích còn trên tài khoản tại Sở giao dịch ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Trường hợp sử dụng vượt phải được phê duyệt bằng văn bản của Chủ tịch Hội đồng xử lý rủi ro tại Trụ sở chính theo nguyên tắc có hoàn trả. Đối với những khoản được xử lý rủi ro ( trừ những khoản Chính phủ cho phép xoá nợ cho khách hàng ) phải thực hiện đúng các nguyên tắc sau đây: Không được điều chỉnh giảm số nợ trong hồ sơ cho vay đối với phần nợ đã được xử lý rủi ro. Bảo đảm bí mật và tuyệt đối không được thông báo cho khách hàng biết về việc xử lý rủi ro. Ngân hàng trực tiếp cho vay tiếp tục theo dõi và có biện pháp tích cực thu hồi nợ như đối với các khoản nợ thông thường. 2.6.2 Phương pháp hạch toán sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. Nhận được giấy báo Có của Sở giao dịch ngân hàng No và PTNT Thanh Hóa chuyển nguồn dự phòng về, kế toán hạch toán: Nợ TK: 5112- Chuyển tiền đến. Có TK: 479004- Các khoản phải trả về dự phòng rủi ro tín dụng. Căn cứ trên các hồ sơ rủi ro được duyệt, trung tâm chuyển dự phòng rủi ro cho các chi nhánh đơn vị trực thuộc, kế toán hạch toán: Nợ TK: 479004- Các khoản phải trả về dự phòng rủi ro tín dụng. Có TK: 5111- Chuyển tiền đi. Đồng thời hạch toán ngoại bảng: Xuất TK 971006 theo từng đơn vị ngân hàng trực thuộc. Sơ đồ 4: Sơ đồ hạch toán kế toán sử dụng dự phòng rủi ro TK chuyển tiền đi TK 479004 TK chuyển tiền đến (2a) (1) (2b) Xuất: TK 971006 Nhận chuyển nguồn dự phòng từ Trụ sở chính. a- Chuyển dự phòng cho các đơn vị. b- Xuất khỏi ngoại bảng 3. Đánh giá về nghiệp vụ kế toán trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. 3.1. Những kết quả đạt được. Ngay khi Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định 488, ngân hàng No&PTNT Việt Nam đã sớm có sự chỉ đạo cho các chi nhánh, đơn vị chủ động trong việc dự kiến trích lập dự phòng và xử lý rủi ro. Thời gian qua, chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân đã thực hiện nghiêm túc công tác trích lập dự phòng và sử dụng có hiệu quả dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời, chi nhánh cũng xây dựng kế hoạch và đề ra các biện pháp tích cực trong thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Bảng 6: Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân qua các năm. Đơn vị tính: tỷ đồng. Năm Trích dự phòng rủi ro Nợ quá hạn đã xử lý rủi ro Tổng số Lũy kế Tổng số Lũy kế 2005 2006 2007 2008 2009 531 4789 10628 14687 57232 531 7120 16848 29874 86729 0 127 358 39674 21782 0 127 360 40062 59374 ( Nguồn: Báo cáo về trích lập dự phòng của phòng kinh doanh ) Sau ba năm thực hiện qui định về trích lập dự phòng của Ngân hàng Nhà nước, số tiền trích lập dự phòng của chi nhánh ngày càng tăng tương ứng với qui mô mở rộng hoạt động của ngân hàng. Đồng thời số nợ quá hạn được xử lý rủi ro bằng nguồn dự phòng cũng ngày càng tăng. Điều này cho thấy công tác trích lập dự phòng và xử lý rủi ro của các chi nhánh cũng như của trung tâm đã đi vào nề nếp. Các chi nhánh, đơn vị đều chú trọng đến việc trích lập dự phòng, xử lý rủi ro và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro đã giúp ngân hàng giảm đáng kể số nợ tồn đọng từ nhiều năm trước. Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ của chi nhánh đã giảm từ 2,67% năm 2005 xuống còn 1,32% năm 2007. Nguồn quĩ đã trở thành một nguồn quan trọng và hữu hiệu để ngân hàng xử lý các khoản nợ xấu, làm sạch hơn bảng cân đối của ngân hàng. Bởi lẽ, đối với ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân, xuất phát từ những đặc thù của ngân hàng thì những khoản nợ tồn đọng cũng như những khoản nợ quá hạn mới phát sinh do nguyên nhân khách quan chiếm tỷ trọng rất lớn. Bởi vậy, việc sử dụng quĩ có hiệu quả đã giúp ngân hàng rất nhiều trong việc lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh. 3.2. Những vướng mắc còn tồn tại. Có thể thấy rằng, việc phân loại tài sản Có để trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là một vấn đề khá mới mẻ, mới được các ngân hàng thực hiện trong khoảng 3 năm nay. Vì vậy, quy định này vẫn còn một số điểm vướng mắc, hạn chế nhất định, Do đó, trong công tác thực hiện trích lập và sử dụng dự phòng, ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân nói riêng và các NHTM nói chung gặp phải một số vướng mắc xuất phát từ chính quy định của Ngân hàng Nhà nước: Một là, theo qui định, căn cứ để trích lập dự phòng là dựa trên việc phân loại tài sản Có của ngân hàng, với hai hoạt động chính là hoạt động tín dụng và hoạt động dịch vụ thanh toán. Việc phân loại này chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn của các khoản vay chứ chưa dựa vào yếu tố rủi ro của khoản vay. Tức là việc đánh giá nợ quá hạn mới chỉ dựa trên cơ sở định lượng mà chưa tính tới yếu tố định tính. Đây là điểm khác biệt cơ bản trong tiêu chí phân loại nợ của ta so với thông lệ quốc tế trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng. Hai là, theo qui định, các ngân hàng chỉ trích lập dự phòng đối với những khoản nợ đã quá hạn. Còn đối với những khoản nợ trong hạn và đã được gia hạn nợ thì tỷ lệ trích lập là 0%. Điều này rõ ràng làm các ngân hàng bị động trong việc xử lý rủi ro và không phản ánh tính lành mạnh của báo cáo tài chính của NHTM. Vì thực chất, đối với những khoản nợ được điều chỉnh kì hạn nợ ( lãi hoặc gốc ) hoặc được gia hạn nợ cũng được coi là một cấp độ quá hạn và ngân hàng đều phải trích lập dự phòng rủi ro cho những khoản này. Mặt khác, trên thực tế, đối với những khoản nợ trong hạn, thậm chí cả những khoản ngân hàng vừa mới giải ngân đã có thể có rủi ro, khách hàng sẽ không thể hoặc gặp khó khăn trong việc hoàn trả. Nếu thực hiện theo đúng qui định mà chờ đến khi trích đủ mức dự phòng thì ngân hàng có thể bị thiệt hại, làm giảm sức cạnh tranh của ngân hàng. Ba là, các NHTM hiện nay mới chỉ trích dự phòng cho hoạt động tín dụng là chủ yếu. Và qui định của Ngân hàng Nhà nước cũng mới qui định rõ ràng về việc phân loại tài sản Có và tỉ lệ trích lập đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, đối với các ngân hàng hiện đại, hoạt động dịch vụ, hoạt động thanh toán của ngân hàng sẽ càng ngày càng mở rộng và đa dạng, đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Bởi vậy, một qui định chi tiết hơn về việc trích lập dự phòng đối với hoạt động dịch vụ thanh toán là rất cần thiết. Bốn là, hiện nay nguyên tắc xử lý rủi ro là chỉ xử lý nợ gốc, không xử lý lãi. Trong khi đối với hoạt động cho vay thông thường, các NHTM sẽ theo dõi và hạch toán tiền lãi trên tài khoản tiền lãi cộng dồn dự thu, có nghĩa là ngân hàng hạch toán theo thời điểm số lãi đó phát sinh chứ không phải thời điểm số lãi đó thực sự được thu nhận. Khi khoản vay được chuyển nợ quá hạn theo dõi và được xử lý rủi ro bằng dự phòng thì số lãi đó sẽ phải thoái thu. Năm là, theo qui định phân quyền về xử lý rủi ro thì tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân chỉ được xử lý rủi ro đối với những khoản nợ quá hạn trong phạm vi số tiền nhất định qui định cho từng loại đối tượng. Còn các trường hợp khác phải gửi về trung tâm điều hành để Hội đồng xử lý rủi ro tại Hội sở chính ra quyết định. Điều này đã phần nào hạn chế tính tự chủ trong phòng ngừa và xử lý rủi ro của chi nhánh. Đồng thời nó cũng tạo thêm một khối lượng chứng từ lớn mà chi nhánh phải lập, làm giảm tính kịp thời, hiệu quả trong việc xử lý rủi ro. Sáu là, để được sử dụng số dự phòng đã trích vào việc xử lý rủi ro, chi nhánh phải kiểm tra xem khoản vay đó có đáp ứng đủ các điều kiện và hồ sơ đã đầy đủ theo qui định hay chưa. Như vậy, không phải bất cứ khoản vay nào cũng được xử lý bằng dự phòng mà phải hội đủ các điều kiện nhất định. Qui định này đã làm hạn chế tính chủ động của chi nhánh cũng như làm giảm hiệu quả thực sự của quĩ dự phòng. Bảy là, hiện nay việc trích lập dự phòng và xử lý rủi ro của các NHTM được thực hiện theo từng quí. Trong khi đó, hoạt động của ngân hàng biến động theo từng ngày, cũng như những rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng có thể gặp phải cũng có thể thay đổi theo từng ngày. Vì thế, việc trích lập và xử lý rủi ro theo từng quí có thể không phản ánh kịp thời và chính xác tình hình hoạt động của ngân hàng. 4. Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 4.1. Hoàn thiện căn cứ trích lập dự phòng rủi ro. Để việc trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng phản ánh thực chất hơn về chất lượng hoạt động của NHTM thì việc trích lập phải dựa trên những căn cứ phù hợp hơn. Có nghĩa là tài sản Có của NHTM phải được phân loại theo các tiêu thức hợp lý hơn, dựa trên cả yếu tố định tính chứ không chỉ yếu tố định lượng, dựa trên yếu tố rủi ro của các tài sản chứ không chỉ dựa trên yếu tố thời hạn của các tài sản như hiện nay. Mọi loại tài sản đều có thể đưa đến những rủi ro cho ngân hàng. Các khoản cho vay vốn lưu động, trang trải hàng tồn kho, cho vay trung dài hạn, cho thuê tài chính, đầu tư, góp vốn cổ phần, tài sản khác..., tất cả đều tiềm ẩn những rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên, đối với mỗi cách thức sử dụng vốn của ngân hàng thì lại chịu ảnh hưởng của những nhân tố khác nhau, do đó mức độ rủi ro cũng khác nhau. Vì thế, việc trích lập dự phòng rủi ro chỉ thực chất khi ngân hàng trích lập dựa trên việc đánh giá chính xác mức độ rủi ro của các tài sản Có khác nhau. Hoạt động cho vay của ngân hàng có thể được phân loại thành năm hạng như sau: (1) Đạt tiêu chuẩn hoặc bình thường ( standard or pass ): là các khoản cho vay mà ngân hàng không nghi ngờ gì về khả năng trả nợ của khách hàng. Hay nói cách khác, các khoản cho vay này được đảm bảo đầy đủ, cả vốn gốc và lãi bằng tiền hoặc các giá trị thay thế cho tiền như chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, tín phiếu kho bạc và trái phiếu. (2) Cần quan tâm hoặc cảnh giá ( specially mentioned or watch ): là các khoản cho vay có thể tiềm ẩn yếu tố mất khả năng hoàn trả nợ vay trong tương lai nếu không kiểm tra hoặc xem xét. (3) Dưới chuẩn ( substandard ): là những khoản cho vay mà khả năng trả nợ bị thiệt hại, nguồn trả nợ cơ bản bị thiếu hụt và ngân hàng phải cần đến nguồn trả nợ thứ cấp. Đó là những tài sản thế chấp, bán tài sản cố định, tái tài trợ hoặc vốn khác. Những khoản nợ quá hạn ít nhất 30 ngày cũng thường được xếp vào hạng dưới chuẩn. (4) Khó đòi ( doubtful ): là những khoản cho vay mà khả năng tổn thất là rõ ràng, việc thu hồi nợ trọn vẹn là đáng ngờ và không chắc chắn. Những khoản vay đã quá hạn ít nhất 180 ngày là thuộc hạng này, trừ phi những khoản vay đó có đảm bảo. Khả năng tổn thất của những khoản vay này là rõ ràng nhưng chưa đến mức xếp hạng tổn thất. (5) Tổn thất ( loss ): là những khoản vay được xem là không thể thu hồi, giá trị thấp kém, mặc dù vẫn được coi là tài sản của ngân hàng nhưng trong tương lai không có khả năng phục hồi. Những khoản cho vay quá hạn ít nhất 1 năm đều được xếp hạng tổn thất, trừ khi khoản vay đó có đảm bảo chắc chắn. Trên cơ sở phân loại nợ thành các hạng khác nhau, ngân hàng có thể trích dự phòng rủi ro theo những tỷ lệ tương ứng cụ thể như sau: Hạng Tỷ lệ trích lập dự phòng Đạt tiêu chuẩn Cần quan tâm Dưới chuẩn Khó đòi Tổn thất 1% - 2% 5% - 10% 10% - 30% 50% - 75% 100% 4.2. Nâng cao nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng. Trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro là biện pháp phòng ngừa rủi ro dựa trên cơ sở tự chịu trách nhiệm, tự chủ của các ngân hàng. Việc trích lập dự phòng sẽ ảnh hưởng đến chi phí hoạt động, và do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận hàng năm của các ngân hàng, ảnh hưởng đến thu nhập của các nhân viên. Vì thế, mức dự phòng được trích lập cho thất thoát vốn phải dựa chủ yếu trên cơ sở nhận thức của Ban lãnh đạo ngân hàng về chất lượng hoạt động của ngân hàng tại những thời điểm nhất định. Cụ thể là Ban lãnh đạo phải thường xuyên rà soát lại các khoản cho vay có vấn đề và chất lượng tín dụng nói chung, phân tích các điều kiện tài chính kinh tế hiện tại và tương lai, kinh nghiệm trong quá khứ về mức độ thất thoát vốn...Số dự phòng được trích vào chi phí sẽ phản ánh đúng rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, chi phí hoạt động của ngân hàng được tính toán hợp lý hơn. Nhờ đó, ngân hàng vừa có nguồn để đáp ứng kịp thời khi rủi ro xảy ra nhưng cũng đảm bảo thu nhập của cán bộ nhân viên. 4.3. Nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng. Nên nếu có những dấu hiệu có thể xảy ra thì cán bộ ngân hàng sẽ là người nhận biết sớm nhất. Và cũng là người thấy được biện xử lý hữu hiệu nhất. Vì thế nếu trình độ của cán bộ ngân hàng, đặc biệt là trình độ của cán bộ tín dụng ngày càng được nâng cao thì những rủi ro có thể xâyr ra với ngân hàng sẽ được ngăn chặn kịp thời, và hoạt động ngân hàng sẽ an toàn và hiệu quả hơn. Các ngân hàng cần xây dựng được các chiến lược, các kế hoạch cụ thể về đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng một cách thường xuyên. Đó là các chương trình đào tạo để đội ngũ cán bộ được nâng cao tay nghế, cũng như cập nhật, bổ sung các kiến thức mới về kinh tế tiền tệ, về tư duy kinh doanh trong điều kiện mới, về công nghệ ngân hàng hiện đại. Có như vậy, cán bộ ngân hàng mới đánh giá chính xác hơn về những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, cũng như có ý thức hơn trong việc phòng ngừa rủi ro. Phần C: KẾT LUẬN CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN. 1. Kết luận. Trong hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng, ai cũng muốn tránh xa thứ rủi ro này, bởi chúng tiêu tốn lợi nhuận, làm kiệt quệ năng lực tài chính và thậm chí là đứt khả năng nghĩa vụ chi trả hay cam kết tài chính với đối tác. Do vậy thời gian cuối năm hệ thống ngân hàng Việt Nam phải loại bỏ một lý do quan trọng nhất là khủng hoảng tài chính. Bởi trong đó không có khủng hoảng nợ, tỷ lệ nợ xấu (theo chuẩn kế toán Việt Nam) tương đối thấp. Nên hệ thống NHTM Việt Nam trong suốt thời gian qua đã có những chuyển biến rõ rệt và không ngừng hoàn thiện về mọi mặt để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nhưng đi kèm với việc mở rộg và phát triển, các ngân hàng đồng thời cũng phải đối mặt với môi trường kinh doanh phức tạp hơn. Việc cho phép các ngân hàng trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh là rất phù hợp với hệ thống cải cách ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Việc trích đúng, trích đủ dự phòng rủi ro có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện khẩu lệnh “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, làm giảm đi những chi tiêu quá mức và không hợp lý của ngân hàng. Nguồn quỹ này là một mguồn vững chắc giúp các ngân hàng bù đắp những tổn thất mất vốn trong một môi trường đầu tư mới tiềm ẩn biết bao rủi ro. Nó rất thích hợp vứi một nền kinh tế đang phát triển, với một hành lang pháp lý chưa thực sự đầy đủ để bảo vệ các ngân hàng. Do mới đưa vào áp dụng nên việc thực hiên trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro ở các ngân hàng cũng không tránh khỏi những vướng mắc. các NHTM cần phối hợp chặt chẽ với ngân hàng nhà nước và Bộ Tài Chính để đảm bảo rằng các NHTM trích đúng và đủ dự phòng rủi ro. Trong tương lai, những sửa đổi trong cơ chế, quy định về trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro cho phù hợp với thông lệ quốc tế chắc chắn sẽ góp phần nâng cao ý nghĩa của công tác này trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. 2. Nhận xét về đề tài và các định hướng của ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân trong thời gian tới. 1.1. Ý nghĩa của đề tài. Đối với ngân hàng: Đề tài mang lại ý nghĩa to lớn trong việc phòng ngừa rủi ro, tuy đây là khoản trích lập không nhiều nhưng lại rất quan trọng và có ý nghĩa. Đây là khoản tiền dư phòng chung và riêng rất cần thiết và mang tính bảo đảm cho ngân hàng trong việc ổn định kinh doanh và hoạt động tốt. Đối với bản thân: Qua thời gian thực tập tại ngân hàng tôi đã có thêm nhiều kinh nghiệm cũng như những hiểu biết mới về nghiệp vụ kế toán trích lập quỹ dự phòng rủi ro, dể biết được tầm quan trọng của vấn đề mà mình nghiên cứu. Đồng thời cũng nhận thấy những ưu điểm của việc trích lập quỹ dự phòng đê có những định hướng trong tương lai. 2.2. Các định hướng tương lai của đơn vị trong thời gian tới. Trong những năm tới, ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân phấn đấu thực hiện tốt các chiến lược kinh doanh, không ngừng củng cố và phát triển để phục vụ tốt hơn nữa cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Cụ thể trong năm 2004, ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển kinh doanh giai đoạn 2005-2010 của ngân hàng đã được ngân hàng No&PTNT Việt Nam phê duyệt, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, đầu tư vốn và đào tạo nguồn nhân lực để phát huy hiệu quả công nghệ ngân hàng, mở rộng hơn nữa quan hệ với các chi nhánh cùng cấp. Đối với công tác trích lập dự phòng và xử lý rủi ro, chi nhánh đề ra một số phương hướng cụ thể trong năm 2009 như sau: Tổng hợp tình hình và xử lý kịp thời việc trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, cũng như kết quả thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro của tất cả các chi nhánh quận và trung tâm. Tổ chức kiểm tra một số chi nhánh và triển khai xây dựng đề cương cho các chi nhánh tự kiểm tra, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện công tác thông tin báo cáo nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong công tác tổng hợp trích lập dự phòng. 2.2.1. Tăng cường tính chủ động trong sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. Việc sử dụng nguồn dự phòng để xử lý rủi ro là công việc nội bộ của ngân hàng, khách hàng không được biết cũng như sau khi đã được xử lý rủi ro, ngân hàng vẫn có các biện pháp tích cực để thu hồi lại những khoản nợ đó. Vì thế, hoàn toàn có thể nới lỏng các điều kiện trong việc sử dụng nguồn dự phòng đã trích để các ngân hàng chủ động hơn trong việc xử lý rủi ro. Chẳng hạn, các ngân hàng có thể mở rộng phạm vi phân quyền xử lý rủi ro cho các chi nhánh, cụ thể ở đây là ngân hàng No&PTNT Việt Nam mở rộng phạm vi phân quyền cho các chi nhánh trực thuộc. Việc xử lý rủi ro tập trung ở trụ sở chính có thể thuận lợi cho việc quản lý hòan toàn hệ thống nhưng lại làm giảm đi tính chủ động của các chi nhánh trực tiếp thực hiện giao dịch cũng như làm giảm tính kịp thời của việc xử lý. Do vậy, ngân hàng No&PTNT Việt Nam có thể phân quyền rộng hơn cho các chi nhánh, để các chi nhánh tự xử lý rủi ro căn cứ trên số dự phòng hiện có cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh thay vì tập hợp về Trụ sở chính và đợi kết quả xử lý, chánh trường hợp có sự chênh lệch về thời gian. Mức xử lý rủi ro cho từng khách hàng trong các trường hợp cụ thể có thể linh hoạt hơn thay vì bị giới hạn ở mức 1 tỷ đồng và 2 tỷ đồng như hiện nay. Các chi nhánh có thể tự điều chỉnh mức này tùy thuộc vào những tổn thất phải gánh chịu. Bên cạnh đó, cũng cần giảm bớt các điều kiện về hồ sơ, giấy tờ mà các chi nhánh phải lập. Hiện nay, để một khoản vay được xử lý rủi ro, các chi nhánh phải tập hợp rất nhiều giấy tờ có liên quan mất rất nhiều thời gian nên việc xử lý không kịp thời. Khối lượng giấy tờ nầy tập trung ở trụ sở chính cũng làm giảm hiệu quả công tác ra quyết định xử lý rủi ro. Vì vậy, thay vào đó, các chi nhánh có thể căn cứ dựa trên hồ sơ cũng như tình hình theo dõi khách hàng vay trước đây để xử lý rủi ro khi cần thiết. Như vậy, việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi rõe phản ánh kịp thời nhu cầu tài chính của ngân hàng trong tong điều kiện cụ thể. Ngoài ra, các chi nhánh cũng sẽ tự chủ hơn trong việc cân đối thu chi đảm bảo lành mạnh hóa tình hình tài chính. 2.2.2 Tăng cường sự hỗ trợ của kiểm toán và thanh tra ngân hàng. Việc trích lập dự phòng có ảnh hưởng tới chi phí hoạt động của ngân hàng do đó ảnh hưởng tới lợi nhuận cũng như sổ thuế phải nộp của ngân hàng. Ngân hàng hoạt động không lành mạnh có thể lợi dụng đìều này để làm tăng chi phí hoạt động, giảm bớt số thuế phải nộp cho nhà nước. Vì thế việc kiểm tra giám sát việc thực hiện trích lập dự phòng của các ngân hàng là cần thiết để tránh lạm dụng nguồn quỹ này. Các ngân hàng có thể tự kiểm tra hoạt động này thông qua công tác kiểm toán nội bộ. Các cơ quan quản lý có thể kiểm tra về công tác trích lập dự phòng của một ngân hàng thông qua hạot động kiểm toán độc lập hoặc thanh tra ngân hàng. Bởi vậy, các kết quả kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập hay thanh tra ngân hàng là căn cứ quan trọng để đánh giácông tác trích lập dự phòng của một ngân hàng. Bản thân ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý cần quan tâm đến nguồn thông tin này để đánh giá chính xác hơn về công tác trích lập dự phòng của ngân hàng, từ đó có những điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, kết quả kiểm toán hay thanh tra ngân hàng cũng là căn cứ quan trọng để các ngân hàng có cái nhìn tổng quát về mọi hoạt động, từ đó xác định một mức dự phòng hợp lý hơn. các kiểm toán viên hay thanh tra viên dựa trên dựa kinh nghiệm của mình có thể tư vấn cho ngân hàng một mức dự phòng hợp lý hơn. Bởi vậy các ngân hàng cần quan tâm hơn đến các kết quả kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập và kết quả thanh tra ngân hàng. Các kiểm toán viên và thanh tra viên cần tăng cường sự hỗ trợ cho ngân hàng trong việc xác định và trích lập dự phòng. 3. Một số kiến nghị. 3.1. Kiến nghị đối với ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Do việc trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn rất mới mẻ ở Việt Nam nên Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh các quy định cho phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như phù hợp với tình hình thực tế của các NHTM Việt Nam. Những quy định của Ngân hàng Nhà nước sẽ góp phần định hướng cũng như tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các ngân hàng trong việc trích lập dự phòng để xử lý rủi ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần đề xuất với Bộ Tài Chính để các NHTM được phép duy trì một tỷ lệ dự phòng hợp lý hơn. 3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng No&PTNT Thọ Xuân. Về các khoản trích lập dự phòng cần được điều chỉnh phù hợp giữa dự phòng chung và dự phòng riêng để không xảy ra các trường hợp thừa, thiếu dẫn đến những sai sót không đáng có. Ngoài ra cần có ngững biện pháp linh hoạt để quỹ dự phòng được sử dụng hợp lý, hiệu quả. Căn cứ vào đìêu kiện thực tế của ngân hàng, ngân hàng có thể áp dụng các hình thức phân loại nợ hợp lý hơn, để việc trích dự phòng phản ánh đúng rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, ban lãnh đạo ngân hàng cần nhận thức một cách đúng đắn rằng không nên quá dựa dẫm và ỷ lại vào nguồn quỹ này. Bởi lẽ, việc quá ỷ lại vào việc đã có dự phòng có thể khiến các ngân hàng liều lĩnh hơn khi cho vay, không tiến hàng thẩm định khả năng trả nợ của khách hàng một cách khoa học, nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng... dẫn đến chất lượng tín dụng thấp kém. Vì thế rủi ro có thể xảy ra liên tục, số tiền được trích vào dự phòng tăng liên tục, ngân hàng sẽ giảm vốn và giảm cho đến khi không còn đủ điều kiện để hoạt động. Nguồn quỹ dự phòng có thể là một nguồn vốn hữu hiệu để các ngân hàng xử lý rủi ro nhưng cũng có thể là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Điều đó tuỳ thuộc vào nhận thức đúng đắn của ban lãnh đạo ngân hàng về vai trò của dự phòng rủi ro, để từ đó có kế hoạch chỉ đạo thích hợp, khai thác tốt nhất ý nghĩa của nguồn quỹ này. Danh mục tham khảo: Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, chủ biên: Ts. Nguyễn Thị Mùi, năm 2005. Giáo trình kế toán ngân hàng thương mại, chủ biên Ts. Nguyễn Thị Thanh Hương, NSƯT. Vũ Thiện Thập. Chỉ thị số 05/2005/CT-NHNN ngày 26 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN. Thông tư số: 15/2010/TT-NHNN Quy định về phân loại nợ,trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro cho vay trong hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ. Internet (thuvienluat.com.vn;tailieu.vn…)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docl thi803 sa769u.doc
Tài liệu liên quan