Có thể nói thành công mà tổng công ty có được là do lỗi lực phấn đấu đạt chất lượng công trình cao đem lại. Những công trình do tổng công ty đảm nhiệm luôn đảm bảo yêu cầu kỹ, mỹ thuật làm hài lòng các chủ đầu tư trong nước và quốc tế. Tổng công ty đã coi chất lượng công trình là thước đo uy tín và sự tồn tại của công ty. Để nâng cao chất lượng công trình cần có nhiề các giải pháp được tiến hành đồng bộ, ở đây ta chỉ đề cập đến giải pháp quan trọng là tăng cường công tác kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng nhằm đảm bảo chất lươưựg công trình.
Trong quá trình quản lý chất lượng công trình, Tổng công ty cần thường xuyên quan tâm tới công tác kiểm tra chất lượng công trình ở tất cả các khâu, bắt đầu từ khâu chuẩn bị thi công. Xây lắp kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, thiết bị lắp đặt trong công trình bán sản phẩm, các thiết bị máy móc phục vụ cho thi công công trình và cuối cùng là khâu nghiệm thu, bàn giao cho chủ đầu tư và dự án được đưa vào sử dụng. Công việc kiểm tra phải được tiến hành một cách sát sao, nghiêm túc, phải phân công trách nhiệm của các bộ phận kiểm tra chất lượng công trình xây dựng một cách rõ ràng và cụ thể, công tác kiểm tra có hai loại: kiểm tra định kỳ, tức là định kỳ kiểm tra các loại máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xem chúng có hoạt động tốt không, có đảm bảo chất lượng không Kiểm tra định kỳ thường được thực hiện theo năm, quý, tháng, tuần và được xác định trước những công việc cần kiểm tra. Loại thứ hai là kiểm tra thường xuyên là loại kiểm tra hàng ngày, hàng tuần, hình thức này thường áp dụng đối với những công trình có giá trị lớn, tiến độ căng thẳng và những công trình có độ nguy hiểm cao, không những kiểm tra các loại máy móc, thiết bị, nguyên vật lie4euk mà còn kiểm tra công tác an toàn đối với người lao động. Ngoài ra, có loại kiểm tra thứ ba là kiểm tra bất thường được áp dụng khi có số vấn đề không đảm bảo an toàn hoặc đáp ứng kip thời cho công trình. Vì chi phí nguyên vật liệu cho thi công công trình chiếm khoảng 70% giá thành công trình do đó, việc chất lượng công trình có đảm bảo đúng theo thiết kế hay không phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguyên vật liệu và các chi tiế thiết bị được cung ứng. Cho nên, việc kđỉ tra chất lượng các loại nguyên vật liệu và thiết bị máy móc là một việc không thể thiếu trong quá trình thi công công trình. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng các loại nguyên vật liệu thì tổng công ty phải có quan hệ làm ă tin tưởng với những người cung ứng các loại vật liệu tư, thiết bị máy móc và phải có bản hợp đồng mua bán, ngoài các điều khoản thông thường thì trong hợp đồng đó phải ghi rõ ngươi cung ứng chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu đáp ứng yêu cầu của tổng công ty. Bên cạnh đó , tổng công ty phải tăng cường công tác bảo quản các loại vật tư để lâu ngày trong kho dễ bị xuống cấp, hàng tháng phải tiến hành kiểm tra tu bổ, bảo dưỡng các loại máy móc thiết bị thi công, sau khi thi công xong công trình thì cần có bộ phận kiểm tra lại số lượng giá trị còn lại, chất lượng như thế nào, đồng thời lập ra kế hoạch sữa chữa, bảo hành bảo quản hợp lý trách nhiệm của từng bộ phận kiểm tra như sau:
Cán bộ thu mua: Có trách nhiệm lập ra kế hoạch thu mua các loại vật tư theo yêu cầu khối lượng và chất lượng công việc, đồng thời cán bộ thu mua là người chịu trách nhiệm tìm người cung ứng có uy tín, gía cả hợp lý và đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu như: độ ẩm, núi bảo quản và phải có những biện pháp khắc phục kịp thời.
Như vậy, việc tăng cường công tác kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng là một công tác hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng công trình, từ đó nâng cao được uy tín của Tổng công ty trên thị trường, tạo ra sự tin tưởng đối với các chủ đầu tư trong và ngoài nước và làm tăng cơ hội trúng thầu. Ngoài ra, kết hợp với việc phân công trách nhiệm của các cán bộ phận kiểm tra thì Tổng công ty nên có các biện pháp thưởng, phạt hợp lý để khuyến khích nỗ lực của các cán bộ kiểm tra, tăng tinh thần trách nhiệm của cán bộ kiểm tra trong công việc.
40 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện quy chế pháp lý đấu thầu và việc áp dụng chế độ đấu thầu ở công ty thông tin viễn thông Điện lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều sau:
Chỉ có một nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
+ Ưu điểm: các nhà thầu tham gia dự thầu là những nhà thầu có khả năng thực sự đầy đủ mọi mặt, đáp ứng được các yêu cầu mà bên mời thầu đặt ra. Công tác tổ chức đấu thầu tốn ít thời gian và chi phí hơn đấu thầu rộng rãi.
+ Nhược điểm: Do hạn chế về số lượng nhà thầu nên cũng hạn chế một sự đa dạng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu và đôi khi giá trúng thầu không phải là giá thấp nhất do có sự móc ngoặc giữa các nhà thầu và như vậy, chủ đầu tư chưa chắc đã tiết kiệm được tối đa lượng vốn đầu tư.
Chính vì vậy hình thức đấu thầu này được áp dụng trong các trường hợp sau:
* Chỉ có một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của hồ sơ mời thầu, nhưng tối thiểu có 3 nhà thầu có khả năng tham gia.
* Các nguồn vốn sử dụng có yêu cầu tiến hành đấu thầu hạn chế.
* Do yêu cầu về tiến độ thực hiện dự án được người có thẩm quyền quyết định đấu đầu tư chấp thuận.
c) Chỉ định thầu: là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp đặc biệt. Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, dịch hoạ hiện thi công công việc kịp thời. Những gói thầu có tính chất như nghiên cứu, thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh quốc phòng thì cũng được chỉ định thầu nhưng phải do thủ tướng chính phủ quyết định. Cuối cùng là những gói thầu đặc biệt do thủ tướng chính phủ quyết định trên cơ sở báo cáo thẩm định của bộ kế hoạch và đầu tư có ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ vốn, các cơ quan có liên quan.
+ Ưu điểm: công tác tổ chức đấu thầu tốn ít thời gian và chi phí hơn đấu thầu hạn chế.
+ Nhược điểm : hình thức chỉ định thầu là triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các nhà thầu. Giá quyết toán thường cao hơn so với giá trị dự án, ngoài ra tiến độ thi công còn kéo dài tiến độ cấp phát vốn. Hơn nữa, nhà thầu được chọn chưa chắc đã đưa ra được phương án tối ưu cho chính dự án.
2) Các phương thức đấu thầu
Tuỳ theo yêu cầu của chủ đầu tư và tính chất phức tạp của công trình mà áp dụng phương thức đấu thầu khác nhau. Trong xây dựng cơ bản thường áp dụng các hình thức sau:
+ Đấu thầu một túi hồ sơ (một phong bì) là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu vào một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và đấu thầu xây lắp.
+ Đấu thầu hai túi hồ sơ: là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về gía trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ kỹ thuật sẽ được xem trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất giá để đánh giá.
+ Đấu thầu hai giai đoạn: phương thức này chỉ áp dụng cho những trường hợp sau:
- Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có gía trị từ 500 tỷ đồng trở lên.
- Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp.
- Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay.
Quá trình thực hiện phương thức này như sau:
a) Giai đoạn thứ nhất: các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thực.
b) Giai đoạn thứ hai: Bên mời thầu các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức về đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều toi kiên hợp đồng, già dự thầu.
3, Các nguyên tắc cần nắm vững trong hoạt động đấu thầu
Để hoạt động đấu thầu thực sự có hiệu quả thì không chỉ đối với các nhà thầu mà còn đối với bên mời thầu phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc sau:
+Nguyên tắc sau cạnh tranh với điều kiện ngang nhau: Mỗi cuộc đấu thầu đều được tham gia của một số nhà thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các nhà thầu là như sau, không phân biệt đối sử.
+Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ: Các nhà thầu phải nhận được đầy đủ tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng và có hệ thống về quy mô khối lượng, quy cách yêu cầu về chất lượng, tiến độ và điều kiện thực hiện công trình.
+ Nguyên tắc đánh giá công bằng: các hồ sơ thầu phải được đánh giá theo cùng một chuẩn mực bởi một hội đồng xét thầu có đủ khả năng và phẩm chất. Lý do để xét chọn hay loại bỏ phải đươc giải thích rõ ràng, tránh sự ngờ vực.
Nguyên tắc trach nhiệm phân minh: Khôn chỉ có nghĩa vụ, quyền lợi các bên liên quan được để cập và chi tiết. Hoá trong hợp đồng mà vi phạm trách nhiệm của các bên trong từng phần việc đều được phân minh, vạch vòi mà không để sai sót nào không đáng có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên liên quan điều đó biết rõ mình sẽ chịu hậu quả gì nếu sơ xuất và do đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong việc kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro.
+Nguyên tắc bảo hành và bảo hiểm thích đáng: Các khoản mục về bảo hành, bảo lãnh và bảo hiểm... Cũng phải đề cập trong hợp đồng một cách rõ ràng để các bên cùng áp dụng.
Việc tuân thủ nguyên tắc trên có tác dụng tích cực đối với công tác thầu. Nó kích thích sự cố gắng một cách nghiêm túc của mỗi bên và thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên nhằm vào mục tiêu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu vì chất lượng, tiến độ, tài chính của dự án và do đó đảm bảo lợi ích chính đáng cho cả chủ công trình lẫn bên nhà thầu, góp phần tiết kiệm các nguồn lực xã hội.
II)Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tham dự thầu.
1) Nhân tố cạnh tranh.
Nhân tố cạnh tranh có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với phương thức đấu thầu rộng rãi. Nếu số lượng nhà thầu tham gia nhiều thì gây tác động tích cực đến giá thầu. Giá thầu sẽ sát với tình hình thực tiễn, tích kiệm đuợc một số lượng vốn đáng kể cho nhà nước, bởi lẽ, tất cả các nhà thầu để tập trung trí tuệ, năng lực hiện có trong tính toán để từ đó đưa ra mức giá thầu hợp lý nhất. Ngược lại, nếu số lượng nhà thầu ít thì cạnh tranh về giá thầu giảm đi, giá trúng thầu chưa chắc là tối ưu đối với chủ đầu tư. Tuy nhiên, cũng phải xem xét mặt trái của nó, bởi vì nếu có nhiều nhà thầu lớn tham dự, chủ đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn nhà thầu tối ưu nhất và các nhà thầu cạnh tranh rất gay gắt, điều này có thể dẫn đến giá trúng thầu không phải là giá có hiệu quả.
2) Trình độ tham gia của các đối tác.
Đối với bên mời thầu: Trình độ của ban quản lý dự án và đầu tư càng cao thì càng dễ dàng xác định chính sác giá thầu đối với các nhà đầu tư, từ đó đưa ra quyết định nhanh chóng, hứa hẹn một môi trường đầu tư tốt đẹp. Nếu trình của đầu tư không đáp ứng được thực tế, công việc xúc tiến chậm, kéo dài thời gian, do dự, thiếu tự tin và không quyết đoán sẽ gây ra ảnh hưởng cho công tác đấu thầu.
Đối với nhà thầu: yêu cầu trình độ phải cao và nhanh chóng nắm bắt được tòan bộ nội dung của dự án mà mình sắp tham gia dự thầu, có như vậy mới tính toán chính xác, hợp lý và khoa học dự thầu tạo điều kiện cho công tác đấu thầu thành công tốt đẹp.
3) Chất lượng quy mô và khối lượng công trình.
Trong đấu thầu đối với dự án có quy mô lớn, chất lượng cao cần thiết phải đòi hỏi nhà thầu có trình độ cao và có uy tín trên tt. Tuy nhiên trong quá trình thi công nếu chỉ có một nhà thầu bao trọn gói hết công trình lớn thì khi chủ đầu tư thanh toán không kịp sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Do đó cần phải phối hợp giữa các nhà thầu khi cùng tham gia một dự án, điều này sẽ khai thác tối đa thế mạnh của từng nhà thầu và từ đó sẽ góp phần thúc đẩy triển khai thành dự án và đảm bảo chất lượng công trình.
4) Nhân tố vốn
Vốn ở đây là vốn của ban quản lý dự án (chủ đầu tư) thanh toán cho nhà thầu. Nếu lượng cốn lớn đảm bảo quy vòng thanh toán nhanh chóng theo hợp đồng đã ký kết và quản lý sẽ tạo cho dự án triển khai đúng chất lượng và tiến bộ. Ngược lại, xuất hiện tình trạng kéo dài tiến độ thi công công làm ảnh hưởng đến nhiều mặt khác như: Tăng chi phí, thời gian, giảm doanh thu, lương công nhân…
IV) Tổ chức trong xây lắp và mua sắm hàng hoá
Để nâng cao chất lượng xây dựng các công trình và tăng cường công tác quản lí, hạn chế sự mất mát, lãng phí nguyên vật liệu cũng như nhân lực thi công, góp phần tích cực vào việc hạ giá thành các công trình, đấu thầu thực sự trở thành một biện pháp thúc đẩy, thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học mới, các công nghệ mới…vào công tác mua bán và xây lắp hàng hoá.
Theo cơ chế đấu thầu mới ban hành kèm theo nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 và 14/2000 CP của chính phủ, qui định phạm vi và đối tượng áp dụng đối với các dự án đầu tư tại Việt Nam và phải được tổ chức đấu thầu tại Việt Nam gồm:
Các dự án đầu tư thực hiện theo qui chế quản lí đầu tư và xây dựng cơ bản.
Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức kinh tế Nhà nước (các doanh nghiệp Nhà nước) từ 30% trở lên vào vốn pháp định, vốn kinh doanh và vốn cổ phần.
Các dự án sử dụng vốn tài trợ các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài được thực hiện trên cơ sở nội dung điều ước được các bên kí kết (các bên tài trợ và các bên Việt Nam). Trường hợp có những nội dung trong dự thảo điều ước khác với qui chế này thì cơ quan được giao trách nhiệm đàm phán kí kết. Điều ước phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi kí kết.
Các dự án cần lựa chọn đối tác đầu tư để thực hiện, chỉ thực hiện khi có từ hai nhà thầu trở lên cùng muốn tham gia một dự án ( đối với đầu tư trong nước).
Đây là những dự án qui định bắt buộc, còn các đối tượng khác khi Nhà nước chỉ khuyến khích áp dụng.
Các điều kiện cơ bản để tổ chức đấu thầu.
Việc tổ chức đấu thầu chỉ được thực hiện khi có đầy đủ các điều kiện sau:
Phải có văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của người có thẩm quyền.
Kế hoạch đấu thầu đã được người có thẩm quyền phê duyệt.
Hồ sơ mời thầu đã được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trong quá trình tham gia đấu thầu có hai loại chủ thể: chủ thể đầu tư ( bên mời thầu ) và các tổ chức kinh tế tham gia dự thầu ( các nhà thầu). Tuy nhiên, để trở thành tổ chức đấu thầu thì các chủ thể này phải thoả mãn những điều kiện quyết định.
Những điều kiện đối với bên mời thầu.
Thông thường, bên mời thầu là các chủ đầu tư công trình. Trong một số trường hợp, bên mời thầu có thể là các tổ chức tổng thầu khi muốn tìm kiếm các nhà thầu phụ đảm nhận một số công việc nhất định của quá trình xây dựng công trình. Để tổ chức quá trình đấu thầu, các chủ thể này phải đảm bảo một số trường hợp, bên mời thầu có thể là các tổ chức tổng thầu khi muốn tìm kiếm các nhà thầu phụ đảm nhiệm một số công việc nhất định của quá trình xây dựng công trình. Để tổ chức quá trình đấu thầu, các chủ thể này phải đảm bảo một số điều kiện sau:
Phải có đủ hồ sơ về đối tượng dự kiến đấu thầu đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt, trong đó quan trọng nhất là thiết kế và dự toán.
Có khả năng đảm bảo đủ vốn để thanh toán theo hợp đồng.
Bảo đảm được mặt bằng, giấy phép sử dụng đất và giấy phép xây dựng, nghĩa là có đủ điều kiện pháp lí để tiến hành công tác xây dựng công trình.
Nắm chắc qui chế đấu thầu và có những kinh nghiệm. Bên mời thầu có thể sử dụng dịch vụ tư vấn để khắc phục sự lúng túng và đặc biệt là để tránh những thua thiệt có thể gặp phải.
Ngoài ra, bên mời thầu không được tham gia với tư cách là nhà thầu đối với các gói thầu do mình tự tổ chức.
1.2) Những điều kiện đối với nhà thầu.
Điều kiện đầu tiên đối với các nhà thầu là nhà thầu phải có giấy đăng kí kinh doanh và giấy phép hành nghề. Điều này có nghĩa, chỉ có các pháp nhân kinh tế mới đủ điều kiện trở thành nhà thầu. Các nhà thầu phải có đủ năng lực về kĩ thuật và tài chính đáp ứng được nhu cầu của gói thầu. Nhà thầu chỉ được tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu, dù là đơn phương hay liên doanh dự thầu. Trường hợp Tổng công thị trường đứng lên dự thầu thì các đơn vị trực thuộc không được phép tham dự với tư cách là nhà thầu độc lập trong cùng một gói thầu.
Trình tự tổ chức đấu thầu xây lắp và mua sắm hàng hoá:
Chỉ sau khi cơ quan có thẩm quyền cho phép, chủ đầu tư mới được tiến hành những công việc đầu tiên của quá trình đấu thầu. Cơ quan đó là cơ quan cớ thẩm quyền quyết định đầu tư. Việc tổ chức đấu thầu phải tuân thủ theo qui trình do Nhà nước qui định. Đấu thầu và dự thầu là những công việc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các khâu công việc của quá trình này đan xen nhau theo một trình tự nhất định. Trong đó, có những công việc thuộc trách nhiệm của bên mời thầu, có những công việc thuộc trách nhiệm của các nhà thầu. Việc tổ chức đấu thầu xây lắp và mua sắm hàng hoá được thực hiện trình tự sau:
Sơ tuyến (nếu có)
Lập hồ sơ mời thầu
Gửi thư hoặc thông báo mời thưầu
Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu
Mở thầu
Trình duyệt nội dung hợp đồng
Công bố kết quả và thương thảo hợp đồng
Trình duyệt kết quả đấu thầu
Đánh giá xếp hạng nhà thầu
2.1) Sơ tuyển nhà thầu ( nếu có)
Việc sơ tuyển nhà thầu phải được tiến hành đối với các gói thầu có giá trị từ 200 tỉ đồng trở lên, nhằm lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm thực hiện, theo các bước sau:
Lập hồ sơ sơ tuyển, bao gồm: thư mời thầu, chỉ dẫn sơ tuyển, các mức tiêu chuẩn đánh giá và phụ lục kèm theo.
Thông báo mời sơ tuyển.
Nhận và quản lí hồ sơ dự sơ tuyển.
Trình duyệt kết quả kết quả sơ tuyển.
2.2) Hồ sơ mời thầu.
Sau khi sơ tuyển (nếu có), bên mời thầu đã chọn được một số nhà thầu thích hợp tham dự. Bên mời thầu phải chuẩn bị đầy đủ các tài liệu, thông số kĩ thuật có liên quan và nêu rõ các điều kiện của công trình để bên nhà thầu chuẩn bị. “ Hồ sơ mời thầu” là toàn bộ tài liệu do bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu bao gồm:
- Thư mời thầu:
- Mẫu đơn dự thầu
- Chỉ dẫn đối với nhà thầu
- Các điều kiện ưu đãi ( nếu có)
- Các loại thuê bao qui định của pháp luật
- Hồ sơ thiết kế kĩ thuật kèm theo bản tiêu lượng và chỉ dẫn kĩ thuật.
- Tiến độ thi công
- Tiêu chuẩn đánh giá ( bao gồm cả phương pháp và cách qui đổi và cùng một mặt bằng để xác định giá đánh giá )
- Các điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng
- Mẫu bảo lãnh dự thầu
- Mẫu thoả thuận hợp đồng
- Mẫu bao lãnh thực hiện hợp đồng.
“Hồ sơ mời thầu” phải người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi phát hành.
2.3) Thư hoặc thông báo mời thầu
Tuỳ theo đối tượng và mức độ đấu thầu, thư hoặc thông báo mời thầu được công bố trước ngày mời thầu sao cho bên dự thầu có đủ thời gian tìm hiểu công việc để lập hồ sơ dự thầu (ít nhất là 30 ngày trước ngày mời thầu). Nội dung thủ tục hoặc thông báo mời thầu gồm:
- Tên và địa chỉ của bên mời thầu
- Khái quát dự án, địa điểm thời gian xây dựng và các nội dung khác.
- Chỉ dẫn việc tìm hiểu hồ sơ mời thầu
- Các điều kện tham gia dự thầu
- Thời gian địa điểm nhận hồ sơ mời thầu
Ngoài các nội dung trên ,hợp đồng xét thầu chỉ chấp nhận những đơn đặt dự thầu có đủ các điều kiện đã quy định. Chủ đầu tư không để lộ dưới bất kỳ hình thức nào có liên quan đến chỉ tiêu xét trúng thầu.
2.4) Nộp hồ sơ dự thầu:
Khi nhận được thông báo mời thầu, các tổ chức xây dựng xét thầu có đủ các điều kiện và muốn tham gia đấu thầu thì phải mua bộ hồ sơ dự thầu và thực hiện đầy đủ các nội dung trong bộ hồ sơ, với nội dung sau:
Các nội dung về hành chính và pháp lí: đơn dự thầu phải hợp lệ ( phải có chữ kí của người có thẩm quyền ), có bản sao giấy đăng kí kinh doanh. Các tài liệu giới thiệu năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu, kể cả nhà phụ thầu (nếu có) và văn bản thoả thuận liên doanh ( trong trường hợp liên doanh dự thầu ), cuối cùng là phải có bảo lãnh dự thầu.
- Các nội dung về kĩ thuật: các biện pháp tổ chức thi công đối với gói thầu, tiến độ thực hiện hợp đồng, đặc tính kĩ thuật, nguồn cung cấp vật tư, vật liệu xây dựng và các biện pháp bảo đảm chất lượng.
- Các nội dung vì thương mại, tài chính bao gồm: giá dự thầu kèm theo bản thuyết minh và biểu giá chi tiết, các điều kiện tài chính ( nếu có) và các điều kiện thanh toán.
* Toàn bộ hồ sơ dự thầu nói trên phải được gửi tới bên mời thầu trong thời hian qui định. Căn cứ qui mô và sự phức tạp của gói thầu, thời gian chuẩn bị hồ sơ đấu thầu tối thiểu là 15 ngày đối với đấu thầu trong nước ( 7 ngày đối với gói thầu qui mô nhỏ ) và 30 ngày đối với đấu thầu quốc tế kể từ ngày phát hành hồ sơ mời thầu.
Bên mời thầu phải có trách nhiệm bảo quản các hồ sơ dự thầu và không được mở hồ sơ dự thầu trước ngày mời thầu. Trong trường hợp đặc biệt, nhà thầu cần sửa đổi một số nội dung trong hồ sơ mời thầu khi chưa đến hạn đóng thầu, bên mời thầu đã tham gia dự thầu trước thời điểm đóng thầu đã qui định, ít nhất là 10 ngày để nhà thầu có đủ thời gian hoàn chỉnh hồ sơ dự thầu.
2.5) Giai đoạn mở thầu và đánh giá đơn dự thầu.
Mở Thầu: Là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu . Việc mở thầu được tiến hành coong khai theo ngày, giờ, vạ địa diieemr ghi trong tháng mời thầu. Thành phần tham dự mở thầu gồm có đại diện cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương , bên mời thầu và các nhà thầu phải có hồ sơ dự tuyển. Toàn bộ diễn biến của cuộc mở thầu phải được ghi biên bản với chữ ký của các thành phần nêu trên. Nội dung biên bản mở thầu phải được ghi rã thoài gian, địa điểm mở thầu , thành phần tham dự , xác nhận các tài liệu các tài liệu có trong hồ sơ dự thầu của từng nhà thầu, giá bỏ thầu và văn bản bổ sung. Tất cả các hồ sơ không hợp lệ theo quy định sẽ bị loại bỏ.
Xét chọn đơn vị trúng thầu: Việc đánh giá thực hiện theo hai bước sau
Bước 1: Đánh giá sơ bộ, đây là bước nhằm loại bỏ các hồ sơ dự thầu không đáp ứng được yêu cầu, bao gồm:
- Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu
- Xem xét sự đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu đối với hồ sơ mời thầu
- Làm rõ hồ sơ dự thầu (nếu cần). Yêu cầu nhà thầu giải thích những nội dung chưa rõ trong hồ sơ dự thầu và một số đơn giá chủ yếu của những khối lượng lớn xét thấy chưa thoả đáng. Các yêu cầu giải thích được ghi trong biên bản.
Bước 2: Đánh giá chi tiết, sau khi đánh giá sơ bộ những nhà thầu nào không đủ tiêu chuẩn sẽ bị loại, những nhà thầu đủ tiêu chuẩn sẽ được đánh giá chi tiết. Việc đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu trước tiên dựa theo các tiêu chuẩn sau:
Sửa lỗi số học và điều chỉnh sai sót: Bên mời thầu sẽ xem xét nếu xét thấy có các lỗi số học trong hồ sơ dự thầu sẽ tiến hành thông báo cho bên dự thầu biết. Nếu sai lệch là giá trị viết bằng chữ và giá trị bằng số thì giá trị bằng chữ là cơ sở pháp lý, còn nếu sai lệch là do đơn giá với khối lượng thì đơn giá lấy làm cơ sở pháp lý. Bên mời thầu điều chỉnh những sai lệch không cơ bản ( <10% tổng giá trị dự thầu) và tiến hành điều chỉnh bổ sung giá trị thầu để so sánh các hồ sơ dự thầu trên cùng một mặt bằng.
Tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật và chất lượng: Bao gồm mức độ đáp ứng đối với các yêu cầu vì mặt kỹ thuật, chất lượng vật tư thiết bị nêu trong hồ sơ thiết kế. Tính hợp lý và khả thi của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ thi công (số lượng chủng loại, chất lượng và tiến độ hoạt động). Đồng thời bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường và các điều kiện khác như phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động… khi đánh giá bên mời thầu xem xét có đạt chất lượng yêu cầu hay không … xem xét trình độ cán bộ công nhân trực tiếp thực hiện công trình, chức vụ và số năm kinh nghiệm trong xây dựng công trình.
+ Tiêu chuẩn về mặt tài chính, thương mại: Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất trong việc quyết định xem nhà thầu có trúng thầu hay không, bao gồm:
- Tiêu chuẩn tài chính: Xem xét khả năng tài chính của nhà thầu 3 năm gần đây về tài sản cố định, tài sản lưu động, tổng số nợ phải trả, nợ phải trả trong kỳ, vốn sở hữu, vốn kinh doanh… khả năng tài chính tín dụng của nhà thầu và các địa chỉ ngân hàng cung cấp tín dụng cho công ty. Ngoài ra, nhà thầu còn phải có doanh mục và tổng giá trị các hợp đồng đang thi công, giá trị công trình thi công dở dang, ngày hoàn thiện và các phần việc còn lại của các công trình đang thi công.
- Tiêu chuẩn về giá cả: Giá dự thầu được xem là phù hợp khi nó phù hợp về cơ cấu giá xây lắp và mua bán các hạng mục hoặc phần việc được duyệt, đơn giá xây lắp và mua bán hàng hoá của các khối lượng công trình phải phù hợp đảm bảo chất lượng công trình và phải có sự hợp lý về mặt hàng giá cả chung. Giá dự thầu phải phù hợp với tổng dự toán được duyệt giá trúng thầu không được vượt quá giá xét thầu. Trong quá trình dự thầu phải tính đầy đủ các chi phí trực tiếp và gián tiếp, các tỷ lệ phân bổ chi phí chung, lợi nhuận, dự phòng rủi ro phải căn cứ vào định mức được nhà nước ban hành và theo tính chất công việc.
- Tiêu chuẩn tiến độ thi công: Quá trình này xem xét mức độ bảo đảm tổng tiến độ quy định trong hồ sơ mời thầu và tính hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa các hạng mục công trình có liên quan.
- Dựa vào các tiêu chuẩn trên, việc đánh giá chi tiết được thực hiện theo hai bước:
Bước một: Đánh giá về mặt kỹ thuật để lựa chọn danh sách ngắn
Bước hai: Đánh giá về mặt tài chính thương mại các nhà thầu thuộc danh sách ngắn.
- ở bước một, các tiêu chuẩn đánh giá được quy định trong hồ sơ mời thầu và các tiêu chuẩn này được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước thời điểm mở thầu. Các nhà thầu đạt số điểm tối thiểu từ 70% tổng số về mặt kỹ thuật trở lên sẽ được đánh giá, bao gồm các nội dung sau: Sửa lỗi, hiệu chỉnh các sai lệch, chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung để đánh giá, đưa về cùng một mặt bằng để so sánh. Cuối cùng là xây dựng giá đánh giá của các hồ sơ dự thầu.
Sau khi thực hiện các bước đánh giá trên, bên mời thầu sẽ xếp hạng hồ sơ dự đấu thầu theo đánh giá va kiến nghị nhà trúng thầu với giá trúng thầu tương ứng.
2.6. Thông báo kết quả trúng thầu và ký kết hợp đồng.
Đây là bước công việc cuối cùng của công tác tổ chức đấu thầu, có giá đánh giá thấp nhất và có giá đề nghị trúng thầu không vượt quá gói thầu hoặc dự toán, tổng dự toán được duyệt (nếu dự toán, tổng dự toán được duyệt thấp hơn gói thầu được duyệt) sẽ được xem xét trúng thầu.
Bên mời thầu chỉ được phép công bố kết quả đấu thầu và tiến hành thương thảo hoàn thiện hợp đồng khi có văn bản phê duyệt nhà thầu trúng thầu của người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư. Sau khi có quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu của cấp có thẩm quyền, bên mời thầu phải gửi thông báo trúng thầu bằng văn bản qua thư đảm bảo hoặc qua điện thoại, điện tín, fax… tới nhà thầu trúng thầu và kèm theo dự thảo hợp đồng có lưu ý những điểm cần bổ sung (nếu có) để đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu. Đồng thời, bên mời thầu phải gửi cho nhà thầu trúng thầu lịch biểu nêu rõ yêu cầu về thời gian thương thảo, nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ký kết hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng giữa bên mời thầu và bên trúng thầu là yêu cầu bắt buộc. Hội đồng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Thể hiện đầy đủ các điều kiện của bên mời thầu về bên trúng thầu. Giá trúng thầu ghi trong hợp đồng là giá được người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt và không được phép thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng là giá được người có thẩm quyền quyết định đâu tư phê duyệt và không được phép thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Tuân thủ các quy định về hợp đồng kinh tế mà nhà nước đã xây dựng.
Nếu hợp đồng không thành công, bên mời thầu sẽ mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo đến thương thảo nhưng phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận.
Trên đây là trình tự tổ chức đấu thầu nói chung và trình tự tổ chức đấu thầu xây lắp và mua bán hàng hoá nói riêng. Các nhà thầu đồng thời phải hiểu rõ các nhiệm vụ và quyền hạn của mình khi tham gia đấu thầu có như vậy thì hoạt động đấu thầu mới có hiệu quả đối với các bên tham gia đấu thầu: chủ đầu tư, nhà thầu, nhà nước.
IV. Trách nhiệm pháp lý của các bên trong hoạt động đâu thầu
Những hành vi vi phạm chế độ đấu thầu.
Mọi hành vi thực hiện sai quy chế đấu thầu, biểu hiện dưới hành vi vi phạm của một tập thể hay cá nhân đều là hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu. Những hành vi vi phạm được biểu hiện dưới nhiều hình thức tiết lộ bí mật hồ sơ, tài liệu và thông tin, thông đồng móc ngoặc hối lộ… trong quá trình đấu thầu đều được coi như là hành động gây thiệt hại về kinh tế và đều bị sử lý. Nếu bên mời thầu thiếu trách nhiệm trong quản lý hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu theo chế độ bảo mật thông tin do nhà nước quy định với lỗi vô ý hay cố ý đều bị coi là vi phạm và đều bị xử lý.
Hình thức áp dụng trách nhiệm pháp lý.
Nếu nhà thầu vi phạm sẽ bị loại khỏi danh sách dự thầu va không được nhận lại bảo lãnh dự thầu. Trường hợp có hiện tượng thông đồng ép giá, thông đồng tiết lộ bí mật, thông đồng xét thầu… ngoài việc tịch thu bảo lãnh dự thầu ( nếu có) nhà thầu vi phạm những quy định trên sẽ không được tham dự thầu bất kỳ gói thầu nào trong 3 năm liên tục. Liên Bộ kế hoạch và đầu tư - Xây dựng – Thương mại sẽ xác định trường hợp nói trên và thông báo cho các bên mời thầu và các cơ quan liên quan biết để quán triệt.
Nếu bên mời thầu vi phạm kết quả đấu thầu sẽ bị huỷ bỏ, cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ chỉ đạo tổ chức đâu thầu lại. Bên mời thầu phải bồi thường những chi phí cho các nhà thầu . Thành viên các tổ chức chuyên môn giúp việc đấu thầu nếu vi phạm sẽ bị loại khỏi danh sách tổ chức chuyên môn này và bị xử lý theo đúng pháp luật.
Trường hợp kết quả đấu thầu bị người có thẩm quyền quyết định đầu tư huỷ bỏ hoặc phải tổ chức đấu thầu lại do lỗi của bên mời thầu vi phạm quy chế đấu thầu, ngoài áp dụng trách nhiệm pháp lý ở trên ra, bên mời thầu phải bồi thường những phí tổn tham dự thầu của nhà thầu. Trường hợp do lỗi của nhà thầu thì mọi tổn phí chuẩn bị hồ sơ dự thầu do nhà thầu gánh chịu.
Cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
Cán bộ, các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng chỉ đạo và theo dõi sát sao việc tổ chức đấu thầu các dự án đầu tư. Tiến hành thanh tra đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm quy chế đâu thầu. Những cơ quan thanh tra các công trình do địa phương thực hiện. Khi phát hiện có vi phạm quy chế đấu thầu các cơ quan trên tuỳ theo sự phân công trách nhiệm mà xử lý các vi phạm đó.
Chương II
Thực tiễn về hoạt động tham gia đấu thầu ở công ty thông tin viễn thông Năng lực của công ty thông tin viễn thông
a) Năng lực nhân sự
Lao động trong ngành xây dựng có bản là những người làm việc tại các công ty, các xí nghiệp và các tổ chứckt thuộc ngành. Có thể nói lao động trong ngành xây dựng cơ bản là nguồn gốc sáng tạo ra và các công trình công nghiệp, dân dụng, văn hoá của xã hội, là những nhân tố cấu thành nên các nguồn lực đầu vào của mọi doanh nghiệp và luôn luôn là nhân tố quyết định nhất, ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khác với các ngành kinh tế khác, thay đổi theo thời vụ thay đổi theo số lượng các công trình và phải làm việc ngoài trời với các địa điểm khác nhau. Có những lúc cần nhiều lao động và có những lúc cần rất ít lao động, khi đó có một số lượng lớn công nhân phải nghỉ việc. Do vậy, việc thực hiện chế độ trả lương thưởng hơi lý cho người lao động là một nhân tố quan trọng nhất quyết định công ty có thắng thầu hay không, phải có một đội ngũ lao động có năng lực, trình độ cao thì công ty có thắng thầu các công trình xây dựng, đặc biệt là những công trình đòi hỏi cao về chất lượng cũng như giá trị công trình lớn. Năng lực nhân sự của công ty được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: năng lực nhân sự của công ty thông tin viễn thông Điện lực ( năm 2000).
STT
Ngành nghề
Nắm công tác
Số lượng
I
Kỹ sư
287
1)
Kỹ sư tin học
5 à25 năm
128
2)
Kỹ sư vật liệu xây dựng
2 à 18 năm
12
3)
Kiến trúc sư
4 à 15 năm
7
4)
Kỹ sư điện
2 à 25 năm
46
5)
Kỹ sư kinh tế lao động
2 à20 năm
17
6)
Cử nhân kinh tế
2 à 14 năm
39
7)
Cử nhân kế toán
2 à22 năm
12
8)
Cao đẳng các loại
2 à10 năm
36
Qua bảng trên ta thấy, năng lực kỹ sư trong toàn thể công ty rất lớn và đa dạng, chiếm tỷ lệ 5 lớn trong công ty, bên cạnh đó , lực lượng công nhân kỹ thuật có năng lực và trình độ bậc 3 trở lên, chiếm phần lớn lực lượng lao động của toàn công ty. Ngoài ra số lao động làm hợp đồng và các lao động ký kết hợp đồng theo thời vụ chiếm khoảng 8% tổng số lao động của toàn công ty. Như vậy với lực lượng lao động hùng hậu và có năng lực trình độ tay nghề cao đã khẳng định công ty có thể mạnh lớn về lực lượng lao động. Công ty có thể sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của chủ đầu tư, có thể tham gia đấu thầu những công trình trong và ngoài nước, đặc biệt là những công trình đòi hỏi cả về chất lượng và mặt thẩm mỹ.
Vì vậy công ty cần phải có những kế hoạch một mặt nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty, đặc biệt là các cán bộ trong phòng tư vấn9nowi trực tiếp tham gia quá trình đấu thầu) mặt khác cần phải bổ sung thêm những cán bộ có trình độ thạc sĩ để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường.
b) chế độ tiền lương, tiền thưởng kích thích phát triển sản xuất.
Công tác tiền lương, tiền thưởng là một yếu tố cực kỳ quan trọng, nó tác động gián tiếp đến công tác đấu thầu của công ty và phản ánh thu nhập của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Mức thu nhập của cán bộ công nhân viên phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nếu thu nhập bình quân của người lao động cao thì chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh cao và ngược lại, thu nhập của người lao động thấp chứng tỏ công ty có rất ít công việc hay hiệu quả kinh doanh của công ty thấp. Hiệu quả kinh doanh cùng với chế độ tiền lương, tiền thưởng là hai mặt khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu công ty có chế độ tiền lương, tiền thưởng thích hợp thì sẽ kích thích người lao động tích cực làm việc, kích thích người lao động tăng năng suất lao động, hiệu quả lao động tích cực làm việc, kích thích người lao động tăng năng suất lao động, hiệu quả lao động cao, chất lượng công việc được hoàn thành tốt hơn. Ngoài ra, người lao động trong công ty sẽ không ngừng học hỏi kinh nghiệm và tay nghề để ngày càng nâng cao trình độ cũng như nâng cao được năng suất lao động, sự sáng tạo và chất lượng công việc, từ đó sẽ có tác động tích cực đến việc tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty nói chung và công tác đấu thầu nói riêng. Ngược lại, nếu chế độ tiền lương, tiền thưởng không hợp lý hay quá thấp sẽ làm cho người lao động chán nản, không nhiệt tình, hăng say trong lao động. Đồng thời tạo ra xu hướng tâm lý dịch chuyển lao động sang các doanh nghiệp khác có điều kiện làm việc và có chế độ tiền lương, tiền thưởng thích hợp nhất là các lao động có trình độ tay nghề cao và lao động có trình độ đại học.
Mức thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm
- Năm 1996, mức thu nhập bình quân đầu người là 698.000 đ/người
- Năm 1997, mức thu nhập bình quân đầu người là 716.000 đ/người
- Năm 1998, mức thu nhập bình quân đầu người là 760.000 đ/người
- Năm 1999, mức thu nhập bình quân đầu người là 765.000 đ/người
- Năm 2000, mức thu nhập bình quân đầu người là 770.000 đ/người
Như vậy, mức thu nhập bình quân đầu người của Tổng công ty qua các năm 1996 – 2000 đều tăng, điều này chứng tỏ Tổng công ty đã làm ăn có hiệu quả. Có được kq như vậy là do: Tổng công ty đã kiện toàn bộ máy quản lý từ Tổng công ty đến các đơn vị thành viên nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới. Đồng thời, không ngừng nâng cao năng lực hoạt động, trình độ quản lý chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ cho các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật, nâng cao chất lượng đào tạo tay nghề của công nhân trong Tổng công ty, phát huy phong trào đoàn thể nhằm kích thích sự năng động sáng tạo của người lao động. Nâng bậc lương trước thời hạn cho những người tích cực lao động và có sáng kiến cải tiến kỹ thuật … Với chế độ tiền lương, tiền thưởng thích hợp, được thực hiện công bằng và linh hoạt. Tổng công ty đã kích thích được lòng nhiệt tình và say mê sáng tạo của cán bộ công nhân viên. Trong nhiều năm qua, Tổng công ty đã có rất nhiều đề tài khoa học và công nghệ, nghiên cứu và triển khai ứng dụng công nghệ vào sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng sức cạnh tranh và đặc biệt, nâng cao năng lực và khả năng tiếp cận khoa học, công nghệ của các cán bộ công nhân viên trong thời đại phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ như hiện nay.
Từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu và làm tổng giá trị sản lượng của Tổng công ty tăng nhanh qua các năm và tỷ lệ thuận với mức tiền lương như sau:
Năm 1997 731,00 tỷ VNĐ
Năm 1998 876,00 tỷ VNĐ
Năm 1999 1012,00 tỷ VNĐ
Năm 2000 1020, 00 tỷ VNĐ
Nếu lấy năm 1996 làm gốc, ta thấy tốc độ tăng giá trị sản lượng năm 1998 là 33,5%, năm 1999 là 38,5%, năm 2000 là 39,5%. Kết quả đạt được như vậy chứng tỏ ETC ngày lớn mạnh, ngày càng ký được nhiều công trình và uy tín càng tăng.
c. Năng lực tài chính của công ty thông tin Viễn thông (ETC)
Năng lực tài chính của công ty được thể hiện ở khả năng tài chính tự có, hiệu quả sử dụng vốn, khả năng huy động các nguồn vốn cho phát triển kinh doanh của công ty. Năng lực tài chính của công ty được thể hiện trong bảng sau:
Bảng: Năng lực tài chính của công ty ETC
Đơn vị: Tr.đồng
TT
Tên đơn vị
ĐV
1998
1999
2000
I
Vốn kinh doanh
Tr.đ
370.000
469.284
518.288
1
Vốn ngân sách
Tr.đ
90.223
180.3359
182.610
2
Vốn tự bổ sung
Tr.đ
116.407
107.417
115.578
3
Vốn vay
Tr.đ
149.330
180.079
4
Vốn huy động các nguồn khác
Tr.đ
14.040
II
Vốn kinh doanh
Tr.đ
1
Tổng doanh thu
Tr.đ
815.841
2
Doanh thu thuần
Tr.đ
737.128
3
Lợi nhuận trước thuế
Tr.đ
38.561
4
Lợi nhuận sau thế
Tr.đ
26.221
III
Tổng nợ phải trả
Tr.đ
488.198
- Nợ ngân sách
Tr.đ
9.239
- Nợ ngân hàng
Tr.đ
231.376
VI
Tổng nợ phải thu
Tr.đ
269.934
- Nợ khó đòi
Tr.đ
2.980
VII
Giá trị TSCĐ
Tr.đ
1
Theo nguyên giá đến 31/12
Tr.đ
393.132
2
Giá trị TSCĐ hao mòn luỹ kế
Tr.đ
205.361
3
Giá trị TSCĐ còn lại
Tr.đ
187.771
212.441
Từ báo cáo tình hình hoạt động của công ty giai đoạn 1998 – 2000 có thể thấy doanh thu của công ty vẫn giữ mức độ ổn định, với tốc độ tăng trung bình hàng năm sơ với 1997 là 3%. Tuy nhiên, thu nhập trước thuế của công ty lại giảm với tốc độ cao, giảm trung bình 32% hàng năm so với 1997. Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ môi trường cạnh tranh càng gay gắt. Một công trình xây dựng có rất nhiều công ty. Công ty trong vá ngoài nước tham gia. Muốn thắng thầu, công ty đã phải tính toán để giảm giá thầu ở mức tối đa có thể chấp nhận được, một mặt là tạo ra lợi nhuận, mặt khác là tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Hơn nữa do sức ép cạnh tranh về giá quá lớn, để đảm bảo hoạt động công ty đã phải chấp nhận đấu thầu một số công trình ở mức tính toán hoà vốn. Tuy nhiên, do tt nguyên vật liệu vật tư, máy móc thiết bị xây dựng luôn ở tình trạng biến động, với sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại vật tư vật liệu, mới từ nhiều nước trên thế giới nênviệc xác định giá cả, mức độ hiện đại của chúng chưa được chính xác dẫn đến chi phí bỏ ra cao hơn so với dự tính, lợi nhuận hoà vốn hoặc có thể âm. Một thực tế có thể thấy rõ là tổng nợ ( nợ ngân sách và nợ ngân hàng) rất lớn, phần vốn vay chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn kinh doanh của công ty (từ 38 – 40%) tính theo số tuyệt đối, vốn vay năm 1998 là 149.330 triệu đồng, năm 1999 là 150.079 triệu đồng, năm 2000 là 217.600 triệu đồng. Hơn nữa, vẫn còn thiếu các khoản phải thu và nợ khó đòi. Tình trạng này đã làm gay gắt thêm tình trạng thiếu vốn đầu tư, chi phí tăng lên do phải trả lãi ngân hàng quá lớn.
Những tháng cuối năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á đã tác động rất tiêu cực đến các hoạt động của các dn Việt Nam nói chung và trong các doanh nghiệp nói riêng. Từ năm 1998, thu nhập thuế của công ty đã giảm dần, năm 1998:38.561, năm 1999: 29.691, năm 2000: 21.660 và dự kiến năm 2001 là 18.300 (triệu đồng) . Riêng năm 1999 nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn do tác động các trận lũ lớn liên tiếp xẩy ra ỏ miền trung đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều dự án đầu tư, gây khó khăn trược hết cho ngành xây dựng nói chung và Tổng công ty riêng. Ngay từ đầu biện pháp cụ thể năm 2000, luân bám sát và chỉ đạo của Bộ xây dựng và tình hình nhiệm vụ thực tế, coi trọng khâu tổ chức triển khai thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Tổng công ty đã tập trung thi công đạt tiến độ và chất lượng nhiều công trình từ nhỏ đến lớn. Năm vừa qua công ty đã thực hiện tốt việc tối đa dạng hoá ngành nghề, về lĩnh vực và địa bàn thi công, đã đẩy nhanh và phát triển có hiệu quả các lĩnh vực nền móng, xây dựng làm đường, giao thông, xây dựng sân bay bến cảng cấp thoát nước, lắp dựng kết cấu thép sx vật liệu xây dựng…
Do hiểu rõ, đánh giá đúng tình hình, công ty đã bền bỉ phấn đấu với tinh thần sáng tạo, tiết kiệm, hiệu qủa để vượt qua khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch đặt ra. Giá trị sản lượng năm 2000 của công ty đạt 1020 tỷ đồng giữa được nhịp độ năm 1999, tuy tố độ tăng không bằng các năm trước nhưng trong tình hình hiện nay thì kết quả trên phần nào đánh giá được sự lỗ lực của các cán bộ trong công ty.
d) Quản lý chất lượng công trình
Trong nền kinh tế thị trường với nhu cầu ngày càng đa dạng phức tạp thì chất lượng công trình chính là điều kiện để tồn tại và là sức mạnh trong cuộc cạnh tranh giữa các đơn vị tham gia đấu thầu. Chất lượng công trình trong ngành xây dựng có những đặc điểm sau:
- Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường, đánh giá được. Do đó, chất lượng sản phẩm phải được đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể.
- Chất lượng sản phẩm biểu hiện ở hai cấp độ và phản ánh mặt khách quan và chủ quan hau còn gọi là hai loại chất lượng.
+ Chất lượng tuân thủ thiết kế thể hiện ở mức độ chất lượng sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm có chất lượng gần đạt tới chất lượng thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao, được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: tỷlệ phế phẩm, sản phẩm hỏng loại bỏ, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế…
Như vậy, để làm tốt chất lượng công trình thì công tác quản lý chất lượng phải càng được hoàn thiện và nâng cao đáp ứng kịp thời đòi hỏi của khách hàng. Chất lượng công trình là một trong 3 yếu tố quan trọng nhất dùng để xét thầu (chất lượng công trình, thời gian thi công công trình, giá dự thầu). Trong xây dựng cơ bản chất lượng công trình phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, trình độ chuyên môn tay nghề, trình độ quản lý… do đó, để làm tốt công tác này thì đòi hỏi sự lỗ lực phấn đấu của toàn bộ công nhân viên trong công ty. Nội dung quản lý chất lượng công trình thường bao gồm:
1. Kế hoạch hoá chất lượng công trình
2. Theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất
3. Hoàn thiện chất lượng công trình
Các quá trình này phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục và tạo thành các mắt xích của quá trình quản lý chất lượng công trình.
Công ty (ETC) với bề dày gần 40 năm hoạt động đã d nhiều công trình có giá trị lớn cho đất nước. Qua quá trình phát triển, công ty đã khẳng định chất lượng sản phẩm do mình làm ra và tạo được uy tín đối với khách hàng. Tuy nhiên, do tiến bộ khoa học ngày càng phát triển, cùng với nó là yêu cầu rất cao về chất lượng của chủ đầu tư. Do đó, công ty cần phải tổ chức chặt chẽ nữa công tác quản lý chất lượng sản phẩm, nếu không sẽ gây hậu quả rất lớn, thiệt hại này công ty phải hoàn toàn gánh chịu. Không những thế, công ty sẽ bị mất uy tín của mình trên thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay.
3) Năng lực của công ty ảnh hưởng đến hoạt động tham gia đấu thầu.
Qua việc trình bày của năng lực ở phần trên ta thấy công ty thông tin viễn thông có một số năng lực rất có kế hoạch. Đó là năng lực nhân sự, tài chính, và khả năng cải tiến kỹ thuật công nghệ nhanh chóng. Tuy nhiên những năng lực này cần phải được phát huy hơn nữa, như thể công ty mới có thể trúng được thầu gói thầu ở nhiều lĩnh vực.
Năng lực TC cho phép công ty có khả năng cung ứng tài chính cho hoạt động đấu thầu và thực hiện dự án một cách đúng hạn nhanh chóng.
Năng lực TC của công ty khiến cho các ngân hàng mà công ty có ngân hàng ở đó sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho công ty trong hoạt động bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng là các loại bảo lãnh khác. Lợi nhuận của công ty hàng năm rất cao khiến cho NLTC của công ty ngày càng vững mạnh và điều đó giúp cho công ty có thể tham gia đấu thầu những công trình đòi hỏi NL – TC cao hơn.
NL về kỹ thuật, thiết bị máy móc, con người là tập hợp các nhà quan trọng giúp cho công ty thực hiện những hợp đồng đã ký kết với các đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo, trình độ và tay nghề khá cao đây chính là nhân tố quyết định đến khả năng của công ty. Hệ thống máy móc thiết bị hiện đại tạo ra ưu thế của công ty trong việc áp dụng phương phá sản xuất hiện đại tiên tiến.
Những NL trên sẽ giúp cho công ty có uy tín hơn, được đánh giá cao hơn trong quá trình sơ tuyển và quá trình xét thầu. Nhìn vào bề dầy công việc và tín độ hàon thành công việc xây lắp những tấm bằng khen bằng chứng nhận của tổng công ty điện lực Việt Nam và Nhà nước đầu tư sẽ yên tâm khi giao vốn vật tư cho công ty thực hiện dự án của họ đầu tư của họ.
II) Phạm vi tham gia đấu thầu ở công ty thông tin viễn thông điện lực.
Để xác định phạm vi tham gia đấu thầu của công ty cần căn cứ vào các văn bản quy định lĩnh vực hoạt động ngành nghề sản xuất kinh doanh là khả năng liên doanh với các đơn vị khác của công ty. Cụ thể:
Mua sắm thiết bị theo các đề án nâng cấp và mở rộng hệ thống viễn thông ngành
2) Mua sắm hàng hoá thiết bị , máy móc của thôngtin viễn thông .
3) Xây lắp công trình viễn thông
Chương III:
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu tại công ty thông tin viễn thông điện lực.
Đất nước ta đang trên đà phát triển, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì trước tiên pahỉ hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng đất nước và hoạt động xây dựng cơ bản đang là hoạt động phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Với mục tiêu chất lượng là hàng đầu của chủ đầu tư thông qua hình thức đấu thầu đã phản ánh đúng thực chất năng lực của các nhà thầu. Nhà thầu nào thắng thầu càng nhiều công trình thì càng chứng tỏ nhà thầu đó tiềm lực mạnh về tài chính, kỹ thuật nhân lực… và đảm bảo được uy tín và sự phát triển của nhà thầu đó trên thị trường – việc giành thắng lợi trong đấu thầu mang ý nghĩa sốngc còn rquyết định sự tồn tại và phát triển của các nhà thầu.
Qua một thời gian nghiên cứu và thực tập ở tổng công ty ETC tôi xin mạnh dạn nêu ra một vài biện pháp nhằm hoàn thiện công tác đấu thầu ở tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng ETC.
1. Đầu tư sắm máy móc thiết bị vào sản xuất.
Trong tình hình hiện nay, công tác đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị là một việc làm hết sức quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công trình, tiến độ thi công, tăng uy tín của công ty, đảm bảo thắng thầu, đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh và phụ vụ định hướng phát triển lâu dài.
Năng lực thi công xây lắp của công ty ngày một nâng cao, do vậy việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới là một việc làm vô cùng quan trọng. Nó góp phần nâng cao chất lượng và tiến độ thi công công trình, là hai chỉ tiêu quan trọng để xét thắng thầu. Hiện nay, tổng công ty còn thiếu một số máy móc thiết bị:
- Máy móc thiết bị vào sản xuất
- Máy móc thiết bị văn phòng
Đầu tư mua sắm máy móc thiết bị vào sản xuất
Công tác đầu tư mua sắm thiết bị đối với công nghệ trong năm 2001 cần được nghiên cứu một cách thận trọng trên cơ sở nhu cầu thực tế thị trường và huy động tối đa các thiết bị đã có cũng như hiệu quả của công tác đầu tư. Năm 2001, về thiết bị thi công kể cả cơ giới và xây lắp đã tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ nên công tác đầu tư thiết bị chỉ là bổ sung một số thiết bị phục vụ công tác hoàn thiện, san, đầm, thiết bị kiểm tra chất lượng thi công. Tổng công ty nên đầu tư mua sắm thêm.
- Hai trạm bê tông nhựa, một dây truyền sản xuất đa cấp phối phục vụ xây dựng đường giao thông.
- Một dây truyền sản xuất ống li tâm loại nhỏ
- Nghiên cứu để đầu tư sản xuất ống gang cầu hoặc ống nhựa PE.
- Mua sắm một số loại máy lu loại vừa và nhỏ để có thể đáp ứng các yêu cầu xây dựng.
Công tác đầu tư cần quan tâm đến việc hoàn chỉnh các dây truyền công nghệ đã đầu tư trong năm qua như dây truyền làm đường, các thiết bị dùng trong công tác xây lắp, dây truyền khuôn đúc tự động. Tấm lớp kim loại , nhà máy nghiền xi măng tạo uy tín và chỗ đứng vững vàng trong ngành giao thông nói riêng cũng như trong ngành xây dựng nói chung.
Đầ tư mua sắm máy móc, thiết bị văn phòng.
Đối với thiết bị văn phòng, công ty phải tiếp tục hiện đại hoá để tạo được phong cách làm việc mới phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của đới sống kinh tế, xã hội. Với đòi hỏi ngày càng cao về tiến độ công việc và các phần mềm sử dụng trong công việc nhất là việc tính toán giá trị dự thầu về phần mềm Autocad và một số phần mềm khác thì công ty tư vấn phải trang bị thêm 3 máy vi tính. Trong đó phòng xây dựng thêm hai máy và phòng tổng hợp thêm một máy còn số máy còn lại phải được nâng cấp để chạy tốt các phần mềm ứng dụng. Hiện nay, phòng xây dựng có 4 máy, phòng tổng hợp có 2 máy. Như vậy là qúa ít đối với một công ty chuyên phụ trách về mảng đấu thầu của công ty ETC. Khi đó hồ sơ mời thầu công ty phải tính toán bóc tách khối lượng và lập hồ sơ dự thầu. Do tổng công ty có tới 10 đơn vị xây lắp nên công việc đấu thầu của công ty tư vấn là rất lớn. Khi tính toán khối lượng và lập hồ sợ dự thầu công việc gấp rút nên số máy vi tính đã trang bị như vậy là không đủ.
2. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng nhằm đảm bảo chất lượng công trình và tăng uy tín với khách hàng.
Có thể nói thành công mà tổng công ty có được là do lỗi lực phấn đấu đạt chất lượng công trình cao đem lại. Những công trình do tổng công ty đảm nhiệm luôn đảm bảo yêu cầu kỹ, mỹ thuật làm hài lòng các chủ đầu tư trong nước và quốc tế. Tổng công ty đã coi chất lượng công trình là thước đo uy tín và sự tồn tại của công ty. Để nâng cao chất lượng công trình cần có nhiề các giải pháp được tiến hành đồng bộ, ở đây ta chỉ đề cập đến giải pháp quan trọng là tăng cường công tác kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng nhằm đảm bảo chất lươưựg công trình.
Trong quá trình quản lý chất lượng công trình, Tổng công ty cần thường xuyên quan tâm tới công tác kiểm tra chất lượng công trình ở tất cả các khâu, bắt đầu từ khâu chuẩn bị thi công. Xây lắp kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, thiết bị lắp đặt trong công trình bán sản phẩm, các thiết bị máy móc phục vụ cho thi công công trình và cuối cùng là khâu nghiệm thu, bàn giao cho chủ đầu tư và dự án được đưa vào sử dụng. Công việc kiểm tra phải được tiến hành một cách sát sao, nghiêm túc, phải phân công trách nhiệm của các bộ phận kiểm tra chất lượng công trình xây dựng một cách rõ ràng và cụ thể, công tác kiểm tra có hai loại: kiểm tra định kỳ, tức là định kỳ kiểm tra các loại máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xem chúng có hoạt động tốt không, có đảm bảo chất lượng không… Kiểm tra định kỳ thường được thực hiện theo năm, quý, tháng, tuần và được xác định trước những công việc cần kiểm tra. Loại thứ hai là kiểm tra thường xuyên là loại kiểm tra hàng ngày, hàng tuần, hình thức này thường áp dụng đối với những công trình có giá trị lớn, tiến độ căng thẳng và những công trình có độ nguy hiểm cao, không những kiểm tra các loại máy móc, thiết bị, nguyên vật lie4euk mà còn kiểm tra công tác an toàn đối với người lao động. Ngoài ra, có loại kiểm tra thứ ba là kiểm tra bất thường được áp dụng khi có số vấn đề không đảm bảo an toàn hoặc đáp ứng kip thời cho công trình. Vì chi phí nguyên vật liệu cho thi công công trình chiếm khoảng 70% giá thành công trình do đó, việc chất lượng công trình có đảm bảo đúng theo thiết kế hay không phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguyên vật liệu và các chi tiế thiết bị được cung ứng. Cho nên, việc kđỉ tra chất lượng các loại nguyên vật liệu và thiết bị máy móc là một việc không thể thiếu trong quá trình thi công công trình. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng các loại nguyên vật liệu thì tổng công ty phải có quan hệ làm ă tin tưởng với những người cung ứng các loại vật liệu tư, thiết bị máy móc và phải có bản hợp đồng mua bán, ngoài các điều khoản thông thường thì trong hợp đồng đó phải ghi rõ ngươi cung ứng chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu đáp ứng yêu cầu của tổng công ty. Bên cạnh đó , tổng công ty phải tăng cường công tác bảo quản các loại vật tư để lâu ngày trong kho dễ bị xuống cấp, hàng tháng phải tiến hành kiểm tra tu bổ, bảo dưỡng các loại máy móc thiết bị thi công, sau khi thi công xong công trình thì cần có bộ phận kiểm tra lại số lượng giá trị còn lại, chất lượng như thế nào, đồng thời lập ra kế hoạch sữa chữa, bảo hành bảo quản hợp lý… trách nhiệm của từng bộ phận kiểm tra như sau:
Cán bộ thu mua: Có trách nhiệm lập ra kế hoạch thu mua các loại vật tư theo yêu cầu khối lượng và chất lượng công việc, đồng thời cán bộ thu mua là người chịu trách nhiệm tìm người cung ứng có uy tín, gía cả hợp lý và đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu như: độ ẩm, núi bảo quản… và phải có những biện pháp khắc phục kịp thời.
Như vậy, việc tăng cường công tác kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng là một công tác hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng công trình, từ đó nâng cao được uy tín của Tổng công ty trên thị trường, tạo ra sự tin tưởng đối với các chủ đầu tư trong và ngoài nước và làm tăng cơ hội trúng thầu. Ngoài ra, kết hợp với việc phân công trách nhiệm của các cán bộ phận kiểm tra thì Tổng công ty nên có các biện pháp thưởng, phạt hợp lý để khuyến khích nỗ lực của các cán bộ kiểm tra, tăng tinh thần trách nhiệm của cán bộ kiểm tra trong công việc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29875.doc