Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó.
Theo số liệu điều tra của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK Ngân hàng Công thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o”. IBS được đầu tư 100% vốn từ ngân hàng Công Thương Việt Nam- một ngân hàng có hoạt động tốt nhất hiện nay, với mạng lưới khách hàng rộng khắp trên toàn quốc. IBS ra đời thừa kế được bề dày hoạt động của ngân hàng mẹ, hiện có tới chi nhánh tại các tỉnh, thành phố, quận huyện trong cả nước và có quan hệ đại lý với các ngân hàng, tổ chức tài chính và đang tài trợ cho nhiều dự án lớn trong và ngoài nước. Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng là một trong những đơn vị hoạt động tích cực trong TTCK. Những dịch vụ của ngân hàng mẹ cũng giúp ích rất nhiều cho IBS trong bước đầu hoạt động của mình. Mặt khác, IBS có đội ngũ cán bộ trẻ, tư cách đạo đức tốt, năng động, sáng tạo, được đào tạo bài bản và có giấy phép hành nghề. Đây cũng là điểm thuận lợi cho công ty trong quá trình kinh doanh của mình.
2.4.2 Điểm yếu, thách thức và nguyên nhân.
Với những gì mà công ty đã đạt được trong hơn ba năm qua có thể nhận thấy rằng tiềm năng phát triển của công ty là rất lớn. Sự quan tâm của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chính phủ đã tạo điều kiện cho công ty hoạt động phát triển. Điều này được thể hiện qua sự quyết tâm của toàn thể cán bộ nhân viên trong công ty nhằm từng bước đưa công ty trở thành công ty hàng đầu hoạt động trên TTCK Việt Nam. Tuy nhiên với những hạn chế trước mắt như trên đòi hỏi cần phải có sự đánh giá nghiêm túc và rút ra những bài học để từ đó công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Qua quá trình hoạt động lãnh đạo của công ty cũng đã dám nhìn thẳng vào những vấn đề khó khăn của thị trường cũng như từ bản thân công ty, từ đó đưa ra những đối sách phù hợp với thực tiễn. Về những hạn chế kể trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Hoạt động marketing của công ty còn yếu: Tiềm năng khách hàng của thị trường rất lớn nhưng khách hàng hiện tại còn quá ít. Một phần do các hoạt động Marketing của công ty chưa phát triển, chưa tiếp cận được với khách hàng tiềm năng. nhằm phân loại khách hàng, xây dựng một quy trình cung cấp dịch vụ tương ứng cho mọi loại khách hàng. Chính sách khách hàng được tập trung vào các khâu: Quảng cáo, tiện ích và chế độ ưu đãi về phí. Tuy nhiên cho đến nay, công tác Marketing của công ty vẫn chưa tốt, dẫn đến thông tin chưa đầy đủ ảnh hưởng đến phân tích chứng khoán, ảnh hưởng đến tư vấn đầu tư cho khách hàng. Trên thực tế, công ty vẫn chưa chủ động trong công tác tìm kiếm khách hàng. Hầu hết các khách hàng đã mở tài khoản tại công ty là những khách hàng tự đến với công ty. Mặt khác, việc tuyên truyền về chứng khoán và TTCK chưa được công ty chú trọng phát triển. Cho đến nay công ty vẫn chưa xây dựng được trang Web để công chúng đầu tư tìm hiểu và theo dõi những thông tin cần thiết.
IBS vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất nước ta hiện nay. Với số vốn điều lệ 1700 tỷ đồng ngân hàng công thương có các chi nhánh giao dịch trên toàn quốc, số lượng khách hàng rất lớn trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. IBS có thể dựa vào vị thế, tiềm năng của ngân hàng mẹ để mở rộng thêm các dịch vụ mà các công ty chứng khoán khác không có được. Từ thực trạng của IBS trong thời gian qua, cùng với các kết quả đạt được cũng như các mặt hạn chế, công ty cần có các biện pháp kịp thời để tiếp tục phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu để ngày càng phát triển vững vàng trên TTCK Việt Nam.
Thiếu kinh nghiệm kinh doanh thực tế nên công ty vẫn còn lúng túng khi triển khai các nghiệp vụ kinh doanh. Điều này cũng dễ hiểu khi TTCK Việt Nam vừa mới đi vào hoạt động và là công ty chứng khoán thành lập muộn so với các công ty chứng khoán khác. Các nghiệp vụ của công ty tuy đã triển khai hết nhưng còn hạn chế, chủ yếu chỉ là nghiệp vụ môi giới và tự doanh, lưu ký còn các nghiệp vụ khác thì chưa phát triển. Mặt khác, số công ty niêm yết trên thị trường còn ít, hàng hoá cho thị trường hiếm hoi thì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty khó để được thực hiện được. Bên cạnh đó, công ty vẫn chưa mở rộng tối đa quan hệ đối ngoại của mình để tích luỹ kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, khoa học kỹ thuật hiện đại...
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh: Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh bị hao mòn vô hình rất nhanh. Mặt khác việc buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh, thời gian là tiền bạc, hệ thống công nghệ thông tin phải đủ mạnh để xử lý chính xác và kịp thời. Mặc dù văn phòng làm việc cũng như các trang thiết bị của được đánh giá là khá tốt so với các công ty chứng khoán khác, nhưng muốn thực hiện các nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, nghĩa là khách hàng ký gửi chứng khoán cho công ty, công ty tiến hành kinh doanh hộ khách hàng, thanh toán tiền lãi và cổ tức, trên thực tế, hệ thống tin học chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đồng thời khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ mà công ty chưa thể nhanh chóng nâng cấp được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của mình nên hiện tại vẫn chưa đáp ứng được tốt yêu cầu của kinh doanh chứng khoán.
Tâm lý của nhà đầu tư : Đa số việc mua bán cổ phiếu diễn ra giữa các nhà đầu tư nhỏ với tâm lý đầu tư “ngắn hạn” nhằm mua cổ phiếu theo biến động giá hơn là dựa vào đánh giá tiềm năng phát triển của công ty thông qua việc đánh giá tình trạng tài chính và thị trường một cách toàn diện. Các nhà đầu tư Việt Nam chưa có thói quen phải trả tiền khi sử dụng các dịch vụ họ được cung cấp, thị trường chỉ có rất ít loại chứng khoán nên họ vẫn có thể theo dõi và tự quyết định cho bản thân nên mua, bán chứng khoán nào, vào lúc nào. Chính vì thế, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chưa thực sự được các nhà đầu tư cho là cần thiết. Mặt khác, họ vẫn chưa thấy được lợi ích khi có một danh mục đầu tư hợp lý mà chỉ sợ mất phí, cho nên mặc dù là một dịch vụ tốt và rất có hiệu quả nhưng quản lý danh mục đầu tư cũng không được các nhà đầu tư quan tâm.
2.4.3 Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động kinh doanh của CTCK .
2.4.3.1 Nhân tố chủ quan
2.4.3.1.1 Yếu tố tổ chức quản lý
Ta đã biết hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vây, ứng với các TTCK khác nhau, các CTCK khác nhau sẽ có hệ thống tổ chức quản lý khác nhau. Sở dĩ như vậy, vì việc tổ chức quản lý của một CTCK sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng của công ty. Nếu tổ chức quản lý không khoa học sẽ làm cho việc thực hiện các nghiệp vụ không đồng bộ, ăn khớp dẫn đến sai sót và kết quả là ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động khác của công ty. Do các nghiệp vụ của CTCK có đặc thù là độc lập với nhau nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định với nhau, vì vậy tổ chức quản lý của CTCK phải đáp ứng được yêu cầu này. Các phòng ban phải tổ chức hợp lý sao cho vừa đảm bảo nghiệp vụ được thực hiện nhanh chóng, chính xác, vừa bảo mật thông tin. Có như vậy thì CTCK mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một cách an toàn và ổn đinh.
2.4.3.1.2. Yếu tố con người
Yếu tố con người ở đây chủ yếu là nói đến đội ngũ nhân viên của CTCK. Chứng khoán là một lĩnh vực đòi hỏi người nhân viên phải có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có khả năng phân tích đánh giá cũng như khả năng nhạy bén đối với các thông tin của thị trường. Vì vậy có thể nói nhân viên của CTCK phải là những chuyên gia trong lĩnh vực mình phụ trách. Nếu họ nhận đinh sai một thông tin nào đó sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư mất lòng tin vào công ty. Trong trường hợp sai sót đó còn nhỏ thì khách hàng sẽ từ bỏ công ty này sang công ty khác, nhưng nếu sai sót lớn thì không những hình ảnh của công ty bị ảnh hưởng mà nó còn tác động đến thị trường, bởi khách hàng sẽ gây ra phản ứng dây truyền nhanh chóng và khó có thể dự đoán điều gì xảy ra. Ngoài ra cũng không thể phủ nhận ảnh hưởng của các nhà quản lý các CTCK trong yếu tố về con người. Họ là người quyết định các chính sách, chiến lược của công ty, ngoài việc phải am hiểu tổng thể các nghiệp vụ, họ còn cần có khả năng tổ chức lãnh đạo. Vì vậy đối với CTCK, yêu cầu đối với một người quản lý là rất cao.
2.4.3.1.3. Yếu tố tài chính
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề tài chính cũng là vấn đề rất quan trọng. Tình hình tài chính của công ty tốt tức là công ty làm ăn hiệu quả, có lãi. Nó sẽ quyết định định hướng cũng như quy mô hoạt động kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo của công ty. Nếu tài chính không tốt, không những hoạt động kinh doanh của công ty không thể mở rộng được mà còn làm giảm sút uy tín và lòng tin của khách hàng đối với công ty. Mà đối với CTCK ảnh hưởng của công ty đối với khách hàng là rất quan trọng. Vì trong chức năng hoạt động kinh doanh của công ty thực chất là phải cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các yêu cầu về chứng khoán của khách hàng, nếu không có đủ năng lực tài chính để đưa ra các tiện ích phục vụ khách hàng thì sẽ không còn ai muốn hợp tác với công ty nữa. Riêng đối với Việt Nam thì yếu tố tài chính còn đặc biệt quan trọng bởi số vốn điều lệ của công ty quyết định cả các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động. Hơn nữa, do khách hàng mở tài khoản tại CTCK nên công ty không những phải coi trọng tài chính của mình mà còn phải quan tâm tới các tài khoản của khách hàng. Công ty phải mở và quản lý tài sản của khách hàng tách biệt với nhau.
2.4.3.1.4. Yếu tố công nghệ
Cuộc sống ngày càng phát triển nên công nghệ đối với tất cả các ngành nghề đều rất quan trọng. Nhưng đối với ngành chứng khoán thì thời gian gắn liền với tiền bạc nếu thông tin không nhanh chóng, chính xác thì sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Do CTCK là trung gian nên họ là cầu nối giữa các chủ thể của thị trường, vì vậy thông tin họ cập nhật được cũng như phải công bố lại cho nhiều đối tượng, nhiều địa điểm. Vậy nếu không có công nghệ hiện đại, thông tin không truyền đến được với các nhà đầu tư, hay trung tâm giao dịch không thể chuyển thông tin cho các CTCK thì khách hàng bị thua lỗ, CTCK cũng thua lỗ và thị trường khó có thể hoạt động lành mạnh được. Ngay trong nội bộ một công ty, việc trang bị công nghệ để thông tin giữa các phòng ban, nhân viên cũng là một yếu tố tác động không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công ty. ở những nước có TTCK phát triển, công nghệ của họ vô cùng hiện đại vì vậy họ có thể mở rộng thị trường, rút ngắn mọi khoảng cách giữa các quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới phát triển hơn. Còn đối với một TTCK mới đi vào hoạt động chưa lâu như ở nước ta thì vấn đề công nghệ có ảnh hưởng rất lớn và là yếu tố cần thiết hiện nay cho các CTCK để có thể phát triển các nghiệp vụ của mình.
2.4.3.1.5. Kiểm soát nội bộ
Nguyên tắc bảo mật thông tin của các CTCK là một nguyên tắc sẽ
quyết định yếu tố thắng lợi trong cạnh tranh của công ty. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ là rất cần thiết. Tất nhiên không phải chỉ có thông tin mới cần kiểm soát, ngay từ các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục tiến hành nghiệp vụ của CTCK đều phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo không vi phạm pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động của công ty. Để lộ thông tin hay vi phạm pháp luật đều dẫn đến kết quả là công ty sẽ thất bại trọng hoạt động kinh doanh.
2.4.3.2 Nhân tố khách quan
2.4.3.2.1 Sự phát triển của nền kinh tế
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính của một quốc gia hay nói rộng ra nó là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của TTCK. Và dĩ nhiên CTCK cũng chịu sự tác động rất nhiều của nền kinh tế. Nếu kinh tế phát triển các doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều lợi nhuận, họ mong muốn được mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó họ cần vốn và phương pháp hữu hiệu để có nguồn vốn trung và dài hạn là huy động trên TTCK. Khi đó họ đã trở thành những nhà phát hành. Nếu là cá nhân bạn có thể dùng thu nhập nhiều hơn do kinh tế phát triển để đầu tư chứng khoán thu lợi nhuận. Tất cả những hoạt động đó CTCK đều có thể đứng ra thực hiện cho họ vì đó là chức năng của CTCK. CTCK phát triển sẽ thúc đẩy TTCK phát triển và TTCK lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là ảnh hưởng tích cực. Ngược lại, nếu kinh tế không phát triển mọi điều trên không xảy ra, không có nhà đầu tư thì không có thị trường và cũng không có CTCK.
2.4.3.2.2 Yếu tố pháp lý
Đây là yếu tố không thể thiếu đối với TTCK nói chung và với CTCK nói riêng. Như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, CTCK cần phải tuân thủ pháp luật của mỗi quốc gia mà trong đó nó được thành lập. Có thể coi yếu tố pháp lý ở đây là những luật định của các cơ quan quản lý và giám sát TTCK của mỗi quốc gia. Họ có quyền cao nhất trong việc ra các quyết định đối vơi thị trường và vì vậy những quyết định đó có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường. Nếu họ thay đổi một số quy định, giả sử về thủ tục phát hành,về phiên giao dịch, về hình thức khớp lệnh hay về thuế một cách tiêu cực hay tích cực đều có những tác động tương ứng ngay tới các CTCK. CTCK sẽ hoạt động thuận tiện hơn, có hiệu quả hơn hay sẽ bị bó buộc, làm ăn thua lỗ một phần phụ thuộc vào yếu tỗ pháp lý do các cơ quan quản lý và giám sát thị trường ban hành.
2.4.3.2.3. Sự phát triển của TTCK.
CTCK không thể tồn tại và tách rời khỏi TTCK. Sự phát triển của TTCK ở đây là sự phát triển cả cung và cầu chứng khoán, các thành viên tham gia thị trường cùng sự phát triển của các trung gian tài chính và các hoạt động khác. Một thị trường không có hàng hoá thì không tồn tại vì không có gì để mua và bán. Nếu TTCK không phát triển thì CTCK cũng không phát triển được vì CTCK là một chủ thể chính tham gia trên TTCK. TTCK phát triển cùng với hệ thống công bố thông tin, hệ thống đăng ký, hệ thống công bố công khai của nó đã cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán, tăng độ tin cậy cho thị trường và giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Từ đó, các nhà đầu tư có niềm tin tham gia đầu tư, mà CTCK là cầu nối cho họ.
2.4.3.2.4. Nhân tố con người
Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty chứng khoán. Một CTCK không thể hoạt động tốt nếu các nhà đầu tư có tâm lý không tốt về TTCK nói chung và Công ty chứng khoán nói riêng. Từ đó các Công ty chứng khoán luôn phải tìm cách tạo những hình ảnh tốt trong các nhà đầu tư để từ đó họ tin tưởng vào hoạt động của Công ty.
Trên đây là những vấn đề chung về hoạt động của công ty chứng khoán, Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về thực trạng hoạt động của Công ty chứng khoán Công Thương.
Chương III
HOàN THIệN Và nâng cao CHấT lượng các hoạt động của công ty chứng khoán công thương
3.1. Định hướng hoạt động của UBCKNN và của IBS trong thời gian tới.
3.1.1. Định hướng của UBCKNN.
Do TTCK Việt Nam là thị trường mới ra đời . Do đó cần phải có một chiến lược cụ thể để phát triển TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2003-2010 với chiến lược này thì Uỷ ban chứng khoán đề ra mục tiêu tổng quát là:“Củng cố, ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô thị trường; tăng cường hiệu quả quản lý giám sát thị trường, bảo vệ người đầu tư. Góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Tạo ra môi trường nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá và huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển”.
Mục tiêu giai đoạn 2003-2005 là củng cố TTCK và hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường, từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động TTCK.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động TTCK, tăng cung hàng hóa, hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của thị trường, xây dựng và phát triển các định chế hoạt động trên thị trường.
Một số chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt mức 2-3% GDP. Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán ban đầu cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống giao dịch tự động tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh để thay thế hệ thống giao dịch ban đầu. Phát triển các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, thành lập một số công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán.
Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 là tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của TTCK.
Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ, khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Chính vì thế các chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Tổng giá trị thị trường đạt mức 10-15% GDP. Nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán, hệ thống giám sát thị trường, thông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn. Kết nối mạng giao dịch diện rộng giữa Sở giao dịch với các công ty chứng khoán, đưa giao dịch qua mạng Internet. Cùng với điều đó, sẽ tiến hành nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội trở thành thị trường phi tập trung (OTC). Đồng thời thành lập trung tâm lưu ký độc lập, cung cấp đồng thời các dịch vụ thanh toán, lưu ký, đăng ký chứng khoán tập trung, phục vụ cho hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán; lưu ký chứng khoán chưa niêm yết; tiến tới mở tài khoản lưu ký đến từng nhà đầu tư. Tăng cường số lượng và chất lượng các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán. Thành lập thí điểm một số công ty định mức tín nhiệm.
TTCK Việt Nam với những bước đi cụ thể và có sự quản lý sát sao của UBCKNN sẽ từng bước hội nhập thị trường vốn quốc tế. Mở rộng liên kết thị trường vốn với các nước trong khu vực theo tiêu chuẩn chung. Tham gia quy chế niêm yết chéo trên các sở giao dịch của các nước trong khu vực ASEAN, tạo tiền đề cho việc huy động vốn trên thị trường quốc tế.
3.1.2. Định hướng của IBS
Là một công ty chứng khoán ra đời muộn hơn so với các công ty chứng khoán khác trên thị trường, IBS thừa kế được những kinh nghiệm của các công ty đi trước và đã có những bước đi khá bài bản. Sau đây là định hướng của IBS trong thời gian tới.
- Tiếp tục hoàn thiện và ban hành các quy chế quy trình hoạt động
- Chú trọng công tác nghiên cứu và triển khai trương trình về marketing đặc biệt trong lĩnh vực triển khai sản phẩm mới để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thị trường, thâm nhập được thị trường, khai thác được các nhu cầu tiềm ẩn nhưng cũng đảm bảo được hiệu quả trong hoạt động của từng hoạt động.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ và đẩy mạnh công tác phân tích và tư vấn đầu tư.
- Tổ chức các khoá đào tạo chuyên sâu để nâng cao kiến thức cho các bộ phận nhân viên đặc biệt các nội dung về phân tích cơ bản và kỹ thuật.
- Khảo sát, thăm dò lựa chọn và xúc tiến mua các phần mềm hỗ trợ phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật, định giá công ty và quản lý danh mục đầu tư nhằm nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp trong hoạt động của công ty
- Tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin
Mục tiêu chiến lược xuyên suốt quá trình hoạt động của IBS là: “Phát triển và phát triển bền vững”. Hiện tại, công ty đã qua giai đoạn hình thành (2001-2002) và bước vào giai đoạn kiện toàn công ty (2002-2005), trong giai đoạn này, IBS sẽ tích luỹ kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán, cẩn trọng, bảo toàn vốn, góp phần làm sôi động TTCK và khẳng định uy tín của IBS trên TTCK. Đến giai đoạn 2005-2010 là giai đoạn phát triển công ty.
Cho đến nay, trên thị trường đã có 14 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động. Vì vậy, IBS sẽ đối mặt với tình hình cạnh tranh rất gay gắt. TTCK Việt Nam vẫn chưa hội tụ đủ điều kiện về khung pháp lý, số lượng công ty niêm yết còn ít, do vậy tình hình vẫn chưa được cải thiện căn bản. Hiện nay, giá trị mỗi phiên giao dịch rất thấp, các công ty chứng khoán lại rơi vào tình trạng khó khăn, bởi vì các khoản thu chủ yếu từ nghiệp vụ môi giới, các nghiệp vụ khác lại chưa phát triển. Thêm vào đó sự hiểu biết về chứng khoán và TTCK của các nhà kinh tế và hoạch định chính sách, chủ doanh nghiệp còn rất “khiêm tốn”, các công ty ngại lên sàn giao dịch, vì vậy trong hơn 100 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết thì chỉ có 21 công ty niêm yết. Diễn biến giá trên thị trường rất phức tạp, khó dự đoán. Thời gian đầu giá tăng liên tục nhưng khối lượng bán lại rất ít, ngược lại khi thị trường xuống dốc liên tục giá giảm thì lại bán ra nhiều mà không mua. Điều này làm cho các công ty chứng khoán thực sự khó khăn. Đồng thời, khi thị trường hoạt động tẻ nhạt, kém sôi động cũng tác động không ít đến tâm lý của nhân viên công ty. Cảm giác buồn tẻ trên sàn giao dịch đã phần nào khiến các nhân viên mất đi cảm giác hào hứng và hăng say làm việc. Mặt khác, mặc dù khung pháp lý cho hoạt động của TTCK đã được ban hành nhưng vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, mới chỉ có nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động về chứng khoán và TTCK. Một số điểm liên quan đến phát hành chứng khoán chưa được quy định rõ như: việc phát hành và niêm yết chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần... Bên cạnh đó, các quy định về công khai sản xuất- kinh doanh, cơ cấu sở hữu, bộ máy quản trị của doanh nghiệp chưa được áp dụng một cách rộng rãi, hoạt động kinh doanh của hầu hết các công ty chứng khoán và các chủ thể khác tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường đều bị thua lỗ mà chưa tìm ra biện pháp khắc phục.
Theo đánh giá của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thì IBS là thứ 7 trong 14 công ty chứng khoán. Số cán bộ ít song đạt lợi nhuận cao, trong khi các công ty chứng khoán khác đang bị thua lỗ. Với 55 tỷ vốn điều lệ được cấp ban đầu, công ty vẫn chưa triển khai tất cả các nghiệp vụ được phép do thiếu vốn và thiếu người. Công ty cần vốn để thực hiện các kế hoạch và đề án kinh doanh đã đề ra. Khi tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, nếu không đủ vốn, các công ty chứng khoán phải liên kết để thực hiện hợp đồng bảo lãnh, trong đó, công ty nào có vốn điều lệ lớn sẽ đóng vai trò “cầm chịch”. Thực tế cho thấy, vốn càng lớn thì càng có lợi và sức cạnh tranh càng cao. Do vậy, hiện tại, IBS vẫn còn thiếu vốn, đây cũng là một khó khăn của công ty. Mặt khác, IBS vẫn có hệ thống cán bộ công nhân viên còn quá mỏng. Toàn công ty có 57 cán bộ công nhân viên ở cả trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Khi Nhà nước mở thêm Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội nghĩa là công việc về đại thể sẽ tăng gấp đôi, trong đó có 3 người phải nhập lệnh hàng ngày tại sàn. Cùng với điều đó, khi mạng lưới chi nhánh mở rộng cần cán bộ làm việc tại chi nhánh và quản lý các đại lý nhận lệnh, khi chuyển giai đoạn cần cán bộ để mở rộng các phòng và bổ sung cán bộ cho các bộ phận hiện mới bắt đầu triển khai. Với số lượng cán bộ công nhân viên như hiên nay, thực sự IBS gặp rất nhiều khó khăn.
IBS là công ty chứng khoán trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Nhưng cho đến nay, IBS vẫn chưa được cư xử như đối với chi nhánh cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần là một công ty TNHH một thành viên.
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu những điều kiện thuận lợi, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân dẫn tới điều đó, chúng ta thấy rằng IBS cần phải có những biện pháp để khắc phục khó khăn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
3.2.1 Đa dạng và phát triển đồng bộ các hoạt động
Một đặc trưng của CTCK là các bộ phận hoạt động tương đối độc lập, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Trái lại, giữa các hoạt động của Công ty có mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau rất nhiều. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động, IBS không còn cách nào hơn là phải thực hiện đa dạng hoá, phát triển đồng đều các hoạt động của mình, tạo nên một sức mạnh tổng hợp cho công ty. Chất lượng hoạt động được nâng cao, Công ty sẽ tạo được uy tín trên thị trường, hoạt động kinh doanh có điều kiện phát triển hơn và do đó có thể nâng cao tiềm lực về vốn. Ngược lại, uy tín và tiềm lực vốn của Công ty có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển, thực hiện tốt hơn nữa các hoạt động.
Là một trong những công ty có số vốn điều lệ lớn hiện nay (55tỷ đồng) cộng với sự hỗ trợ của ngân hàng mẹ, IBS có đủ điều kiện và khả năng để thực hiện tất cả các hoạt động.
Đối với tất cả các hoạt động đã triển khai, IBS cần tiếp tục thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động. Đồng thời phải tập chung nghiên cứu thị trường để triển khai mở rộng các hoạt động chưa thực hiện chưa thực hiện.
Về hoạt động tư vấn đầu tư, hiện nhu cầu khách hàng đối với hoạt động này là rất lớn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đa số các nhà đầu tư trên thị trường hiện này là những nhà đầu tư nhỏ, không chuyên, còn đang rất bỡ ngỡ trước lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Vì vậy, họ rất cần có lời khuyên từ những người có kiến thức rộng hơn và nhiều kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK để giúp họ đưa ra được quyết định đầu tư đúng đắn nhất. Bên cạnh những khách hàng đã và đang tham gia TTCK, còn một khối lượng lớn khách hàng tiềm ẩn chuẩn bị tham gia đầu tư vào TTCK thì những kiến thức về chứng khoán và TTCK của họ rât hạn chế do đó IBS cần sớm đưa ra kế hoạch cụ thể để tư vấn cho khách hàng được tốt hơn.
3.2.2 Xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực.
Như đã phân tích, để phát triển hoạt động của CTCK điều quan trọng nhất là vốn và nhân lực. Hiện nay IBS có vốn điều lệ 55 tỷ đồng. Do đó đào tạo và sử dụng nhân lực là một trong những chính sánh hàng đầu mang tính chiến lược trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của công ty. Do tính non trẻ của thị trường nên hầu hết các nhân viên của công ty đều từ ngành ngân hàng chuyển sang, số nhân viên còn lại đa số mới ra trường, số nhân viên đã có kinh nghiệm từ những thị trường tiên tiến rất ít. Trước thực tế này, Công ty phải tìm cách khai thác mọi nguồn nhân lực, kết hợp và tận dụng các mô hình đào tạo và nguồn tài trợ khác nhau để phục vụ cho công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên của Công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau
- Cử cán bộ tham gia các công trình đào tạo và khoá huấn luyện ở trong và ngoài nước về phục vụ cho Công ty.
- Phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tận dụng nguồn tài trợ để tổ chức các khoá học, nâng cao trình độ cho nhân viên tại chính công ty.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các nhân viên tự túc đi học tập và nghiên cứu sau đó về phục vụ Công ty.
- Thực hiện các công trình tự nghiên cứu, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, phổ biến kiến thức trong nội bộ Công ty.
- Có các chính sách hỗ trợ việc thuyên chuyển, điều động để phát huy các thế mạnh của từng cá nhân trong Công ty.
- Chuẩn hoá các tiêu chuẩn về nhân viên của Công ty, về bộ máy nhân lực, từ đó có những hình thức khen thưởng thích đáng
- Hàng năm trích lập quỹ đào tạo để phục vụ cho các mục đích về đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn tiếp theo.
Trong chính sách nhân lực, Công ty nên quan tâm thực hiện chính sách "hoà nhập". Đó là việc kết hợp hài hoà giữa lợi ích khách hàng và lợi ích Công ty thông qua sự tôn trọng và hỗ trợ những sáng tạo, năng động của các đơn vị kinh doanh như phòng giao dịch, các chi nhánh, bộ phận hoạt động. Một lý do của chính sách "hoà nhập" là do những biến động trên TTCK nhiều khi không lường trước được nên các đơn vi kinh doanh cần được trao quyền tự quyết trong phạm vi nhất định và không gây ảnh hưởng xấu đén các hoạt động dài hạn của công ty. Điều này giúp Công ty bắt được những cơ hội đến nhanh chóng và chánh được rủi ro khi có sự thay đổi bất thường của TTCK.
Nếu xây dựng được hệ thống chuyên trách phân tích thị trường, Công ty sẽ tránh được sự trùng lập lãng phí và tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí trong qúa trình nghiên cứu, phân tích và sử dụng lượng thông tin một cách có hiệu quả nhất.
3.2.3 Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý:
Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một công ty chứng khoán. Với phương châm phục vụ: “Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của IBS” thì một giải pháp về khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của IBS trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành thị phần với công ty chứng khoán khác.
Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ với nhau. Một chính sách khách hàng hợp lý bao gồm:
Chính sách giá cả hấp dẫn: Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, các mức phí của công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà công ty theo đuổi. Mức phí đưa ra phải phù hợp từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút thêm khách hàng mới. Để thực hiện điều này, công ty có thể tiến hành phân tổ khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Ví dụ, đối với khách hàng có uy tín, thường xuyên có những giao dịch với giá trị lớn sẽ được hưởng mức phí ưu đãi.
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi IBS cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới, cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà...
Chủ động tìm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước mà còn nhằm vào cả các nhà đầu tư nước ngoài, không những nhằm vào các nhà đầu tư cá nhân mà còn nhằm vào các tổ chức. Thực hiện được chính sách này, tức là tìm được khách hàng mới, công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn, có cơ hội tốt trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho khách hàng mới, từ đó có cơ sở thực hiện các nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư... cho khách hàng để tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao uy tín của mình.
Bảo đảm phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo chính là một nghệ thuật giữ khách hàng hiệu quả nhất. Thái độ của nhân viên có thể tạo nên hình ảnh của công ty trong khách hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách hàng. Ngoài ra, các cán bộ nhân viên còn phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cẩn thận không để mắc sai sót, nhầm lẫn tạo sự an tâm, tin tưởng tuyệt đối từ phía khách hàng.
Tổ chức hội nghị khách hàng: IBS có thể định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng bởi vì đây sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa các nhà đầu tư với công ty. Và hơn thế nữa, hội nghị khách hàng sẽ có lợi cho cả hai bên, khách hàng và công ty.
Về phía khách hàng, trước hết họ sẽ được cung cấp những văn bản pháp lý mới nhất liên quan đến chứng khoán và TTCK, tránh được những sai phạm không đáng có khi tham gia đầu tư trên TTCK. Tiếp đến, họ có thể tham khảo những bài phân tích, đánh giá của các chuyên gia trong công ty về tình hình TTCK, tình hình hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết. Cái lợi mà khách hàng có được chính là ở chổ: dựa trên các thông tin có được, họ tự biết điều gì nên và không nên làm, đầu tư như thế nào trong thời gian tới để có hiệu quả cao nhất.
Về phía công ty, hội nghị khách hàng là một dịp tốt để tăng cường mối quan hệ với các nhà đầu tư, là một dịp để các nhà đầu tư hiểu kỹ hơn về công ty ty thông qua các loại hình dịch vụ mà công ty đang cung cấp cho họ. Hội nghị khách hàng sẽ giúp cho công ty tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía các nhà đầu tư và công chúng. Hơn nữa, thông qua hội nghị khách hàng, công ty còn cho thấy khách hàng là tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh của mình, là mối quan tâm hàng đầu của mình để từ đó khách hàng có niềm tin vững chắc vào công ty.
3.2.4 Hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh.
Cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và công nghệ phần mềm là những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của công ty diễn ra suôn sẻ, đạt hiệu quả cao. Vì vậy, Công ty cần chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này. Sau đây là một số gợi ý đối với Công ty về vấn đề này:
- Thường xuyên nâng cấp trang thiết bị hoạt động kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của Công ty, đảm bảo cho mọi người có đủ điều kiện làm việc theo tác phong công nghiệp, phát huy tối đa khả năng làm việc của mình.
- Để phục vụ khách hàng tốt hơn, Công ty cần có một màn hình tốt, chỗ ngồi cho khách hàng rộng rãi thoải mái. bảng điện tử hiện nay của Công ty phần nào chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Công ty cần trang bị bảng điện tử tốt hơn.
- Thực hiện đặt lệnh trực tiếp qua Internet giúp cho các nhà đầu tư không phải trực tiếp đến Công ty để đặt lệnh, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà đầu tư.
Tóm lại, giải pháp về công nghệ thông tin cần tập chung vào các mặt sau:
- Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin khách hàng bao gồm nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, phân loại thông tin để phục vụ cho các mục đích khác nhau.
- Thiết kế và cài đặt mạng cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn.
- Có chương trình dự phòng kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng vị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp.
Cùng với sự phát triển và sôi động của TTCK, công ty chứng khoán IBS cũng buộc phải có sự phát triển không ngừng và việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện kinh doanh là một tất yếu đang được quan tâm hiện nay. Với tình hình của công ty như hiện nay, công ty nên tập trung các giải pháp về công nghệ thông tin, đó là: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng, bao gồm nhiều dữ liệu khác nhau, hình thành ngân hàng dữ liệu phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng và khai thác khác nhau. Thiết kế và cài đặt cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng, kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. Trước mắt, IBS cần hoàn thiện trang Web, đồng thời triển khai xây dựng một hệ thống tin học mạnh, đảm bảo vi tính hoá toàn bộ các nghiệp vụ chứng khoán, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, xây dựng trước một bước cơ sở vật chất để tạo điệu kiện cho khách hàng kinh doanh qua mạng.
3.2.5 Tăng cường xây dựng các mối quan hệ công ty chứng khoán nước ngoài.
Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của IBS, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các công ty chứng khoán nước ngoài. IBS cần củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có, chọn các công ty chứng khoán, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Đồng thời, IBS cần mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển mối quan hệ chặt chẽ với công ty chứng khoán các nước ASEAN, đặc biệt với các công ty chứng khoán của các nước láng giềng như: Thái Lan, Trung Quốc...
3.3 Một số kiến nghị.
Để CTCK Công thương thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian hoạt động có hiệu quả trên TTCK, phát huy tích cực vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK nói riêng và của nền kinh tế nói chung, chí với sự nỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có thẩm quyền liên quan. Dĩ nhiên, sự quan tâm của chính phủ cũng rất cần thiết. Trên cơ sở những tồn tại và những hạn chế nhữgn nhu cầu chưa được đáp ứng của công ty trong qúa trình hoạt động , bài viết xin được đưa ra một số kiến nghị đối với cổ phiếu, Uỷ ban chứng khoán nn cũng như các bộ ngành liên quan nhằm tạo điều kiện cho công ty phát triển một cách toàn diện.
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ.
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
TTCK là một thể chế đặc biệt bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của một đất nước khi có những biến động. Với cơ chế vận hành phức tạp, nên các quá trình từ phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho đến các giao dịch trên thị trường thứ cấp đòi hỏi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của luật pháp về chứng khoán và TTCK. Ngoài các quy định nêu trên, hoạt động của TTCK còn chịu sự chi phối của các văn bản luật khác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, đầu tư nước ngoài, phá sản...vv. Hoạt động của TTCK nói chung, bên cạnh những đặc tính ưu việt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, còn chứa đựng những hạn chế, khuyết tật có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Vì vậy, sự điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK này nhằm tạo ra những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của nền kinh tế thị trường và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình hoạt động thị trường. Giữa các chủ thể của thị trường hình thành những mối quan hệ kinh tế-xã hội đan xen. Công ty chứng khoán là một chủ thể quan trọng của thị trường, hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả tốt hay không, một mặt phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường.
Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu của nó đã được hình thành, bao gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và TTCK. Tuy nhiên, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và nhiều quan hệ trong TTCK chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức TTCK của nước ngoài mà chưa được hay còn ít được kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh và các văn bản ở các ngành, lĩnh vực liên quan khác nhằm tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của TTCK Việt Nam.
Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện những văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động của TTCK cũng như các công ty chứng khoán để phù hợp với tình hình phát triển thực tế của TTCK Việt Nam. Mặt khác, với tình hình và xu hướng của thị trường hiện nay, Chính phủ cũng cần có các quy định cụ thể về giao dịch điện tử trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Điều này rất quan trọng vì đó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch sẽ rất phổ biến trong tương lai này.
3.3.1.2 Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán
Ưu đãi thuế cho TTCK là chính sách quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các công ty chứng khoán. Hiện nay ngoài việc hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm hoạt động, các công ty chứng khoán còn được giảm 50% số thuế doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, quy định ưu đãi thuế như vậy đối với các công ty chứng khoán vẫn chưa thoả đáng do các công ty này mới đi vào hoạt động, doanh số chưa nhiều, TTCK chưa sôi động, chưa phát triển nên hiệu quả hoạt động còn thấp. Chắc chắn các công ty chứng khoán đều bị lôc trong những năm đầu hoạt động. Do vậy, hết thời hạn được giảm thuế như trên các công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn khi tính đến hiệu quả kinh doanh.
Chính vì thế cần phải có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các công ty chứng khoán mới có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào TTCK. Cụ thể, mức ưu đãi trong thời gian tới nên là miễn thuế cho 5 năm đầu hoạt động và giảm thuế còn 50% trong 3 hoặc 5 năm tiếp theo.
Đối với thuế giá trị gia tăng, mặc dù Bộ tài chính đã cam kết sẽ chính thức đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào diện không chịu thuế VAT được ghi tại điều 4 luật thuế này, nhưng các công ty chứng khoán đã không mấy hứng khởi vì việc đưa vào diện không chịu thuế VAT đồng nghĩa với việc sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cho nên, các công ty chứng khoán nên được áp dụng thuế suất VAT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là 0%. Với thuế suất này, các công ty sẽ được hoàn thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra và đây chính là điều mà không chỉ IBS mà các công ty chứng khoán khác đều mong đợi.
3.3.2. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán.
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán còn phải chấp hành về đạo đức kinh doanh, quy định về hạn mức áp dụng đối với kinh doanh... do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán quy định.
3.3.2.1. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với công ty chứng khoán
NOC
NOCR = x 100 > =100%
Tổng rủi ro
Trong đó:
NOC: chỉ tiêu vốn hoạt động ròng
NOC = Tài sản ròng (Tổng tài sản - Tổng nợ) -Tổng các khoản gia tăng
+ Tổng các khoản giảm trừ.
Tổng rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro cơ bản
+ Rủi ro tập trung tín dụng - Phần bù rủi ro
Quy định về việc trích lập dự phòng vốn điều lệ: Quy định này yêu cầu công ty chứng khoán trong quá trình hoạt động phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của công ty. Việc thực hiện quỹ này được thực hiện theo những quy định hiện hành đối với các loại hình công ty cổ phần và TNHH.
3.3.2.2.Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin
Quy định này được áp dụng ở các TTCK trên thế giới, theo đó các công ty chứng khoán phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và Sở giao dịch chứng khoán nếu công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, công ty chứng khoán phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của công ty chứng khoán phải được công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận.
Mặt khác, thông tin về TTCK là cơ sở hoạt động của TTCK, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành công ty. Các thông tin sai lệch trên TTCK có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Ngay từ đầu xây dựng TTCK tại Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên TTCK. Các quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, bên cạnh tờ tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy.
3.3.2.3. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó.
Theo số liệu điều tra của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất.
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng công Thương Việt Nam.
3.3.3.1 Tăng vốn điều lệ.
Tăng vốn lên 200 tỷ vào năm 2005, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tăng vốn điều lệ cho công ty.
3.3.3.2 Về cơ chế chính sách
Như đã đề cập ở phần trên, hiện tại IBS trong quan hệ với Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn chưa được cư xử như đối với chi nhánh Ngân hàng cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần của điều lệ công ty là một công ty TNHH một thành viên.
Chính vì vậy, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần cho các Ban chuyên môn phối hợp với IBS xây dựng các cơ chế, chính sách về vốn, kế hoạch, tài chính, nhân sự cho đúng với tinh thần của điều lệ và luật định đối với công ty TNHH một thành viên.
3.3.3.3 Đào tạo nước ngoài.
Đề án thuê tư vấn và đào tạo nước ngoài do các đối tác Thái Lan đảm nhiệm là cơ sở cho việc phát triển và cạnh tranh bền vững của IBS về lâu dài. Do vậy, Ngân hàng Công thương cần sớm đưa đề án vào trong chương trình đào tạo của mình.
Hoạt động của IBS được lộ trình hoá cho một khoảng thời gian dài, trong đó năm 2003 là năm bản lề giữa hai giai đoạn. Kết quả đạt được của thời gian vừa qua là rất đáng khích lệ và đã tạo tiền đề cho quá trình phát triển thành công trong những năm tới. Việc sử dụng và nghiên cứu đồng bộ các giải pháp và kiến nghị trên sẽ góp phần giúp công ty ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh cũng như củng cố vị trí của mình trên TTCK Việt Nam.
Kết luận
ở Việt Nam hiện tại các CTCK đang còn trong giai đoạn đầu và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào TTCK cho dù gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình nhưng các công ty cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để có thể phát triển tốt trong tương lai không xa.
Từ những buổi đầu thành lập CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và tạo được lòng tin noi khách hàng như lòng tin ở công chúng đầu tư. Tuy nhiên, chặng đường trước mắt đỗi với công ty là rất khó khăn và đầy thử thách. Do đó, công ty cần phải có những bước đi cụ thể để tự mình vượt qua nhứng khó khăn thử thách hướng tới sự phát triển bền vững.
Qua thời gian nghiên cứu và thực tập tại CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam, em đã hiểu phần nào các hoạt động kinh doanh và mạnh dạn đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến của thầy cô và cán bộ công ty để em có thể hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
tài liệu tham khảo
Giáo trình thị trường chứng khoán
Trường Đại học Kinh tế quốc dân. NXB Tài chính, 2002.
Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
NXB Chính trị quốc gia
Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Tạp chí đầu tư chứng khoán.
Bộ Kế hoạch và đầu tư
Tạp chí Chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Thông tin chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Luận văn tốt nghiệp khoá 41
9. Giáo trình tài chính doanh nghiệp
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29183.doc