Điều kiện thực hiện:
Công ty cần có sự nhất trí của các cấp trong nội bộ, cũng quyết tâm phấn đấu đạt được những mục đích đã đề ra.
Công ty cần trích một khoản chi phí nhất định cho công tác này, đồng thời có những kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn của công ty.
Khi đề ra những biện pháp về mặt kinh tế, hành chính, giáo dục cần có sự đan xen hài hòa, phù hợp với thực tế của công ty.
Hiệu quả thực hiện:
Qua quá trình đào tạo và bồi dưỡng, trình độ của nhân viên đã tăng lên đáng kể, đồng thời ý thức của nhân viên trong quá trình làm việc cũng cải thiện nhiều.
Nhờ vào các biện pháp khuyến khích và động viên tinh thần đúng lúc, tinh thần trách nhiệm của mọi người cũng được nâng cao, những ý kiến sáng tạo ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong quá trình sản xuất, mọi người có ý thức gắn bó với công ty lâu dài hơn. Đó là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một công ty.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động cung ứng nguyên vật liệu tại công ty TNHH một thành viên Dệt Kim Đông Xuân- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu hợp đồng.
Ngoài ra còn liên quan tới kho nguyên liệu, kho vật tư phụ liệu, tổ bốc xếp, cán bộ kiểm tra chất lượng cũng như đơn vị giao hàng.
Kiểm tra chất lượng hàng hóa.
Với nguyên vật liệu, việc kiểm tra dựa vào nội dung dựa vào nội dung hợp đồng mua bán giữa công ty và nhà cung cấp, phải có mẫu vải kèm theo biên bản mô tả mẫu đã được lãnh đạo phê duyệt.
Nguyên tắc kiểm tra là kiểm tra đại diện, kết quả kiểm tra mẫu đại diện là kết quả đánh giá toàn bộ lô hàng kiểm tra và để thanh toán tiền cho lô hàng. Hàng nhập kho phải có phiếu xác nhận nguyên, phụ liệu đạt tiêu chuẩn chất lượng. Quy trình kiểm tra được thực hiện theo sơ đồ sau:
Với vật tư phụ liệu, căn cứ kiểm tra là hợp đồng mua bán, đơn đặt hàng hoặc giấy đề nghị mua hàng; hóa đơn bán hàng của nhà cung cấp (nếu có); phiếu xác nhận chất lượng của nhà sản xuất và biên bản xác định chất lượng hàng. Công ty tiến hành kiểm tra chất lượng các lô hàng theo nguyên tắc lấy mẫu. Kết quả kiểm tra mẫu là kết quả toàn bộ lô hàng. Nếu vật tư phụ liệu đạt yêu cầu chất lượng thì tiến hành lập phiếu nhập kho, còn nếu có nghi ngờ về chất lượng thì yêu cầu lấy mẫu kiểm tra gấp đôi. Nếu nhà cung cấp không đồng ý với kết quả kiểm tra thì hai bên thống nhất chọn cơ quan giám định, kết quả của cơ quan giám định là kết quả cuối cùng.
Nguyên vật liệu nhập về sẽ được kiểm tra và ghi chép lại đầy đủ thông tin như bảng trên. Sau khi nguyên phụ liệu nhập kho sẽ được bố trí theo các vị trí quy định, đảm bảo dễ tìm, dễ lấy, dễ kiểm tra và tuân thủ các quy tắc xuất nhập hàng của công ty.
Nói chung công tác tiếp nhận nguyên vật liệu tại công ty khá đơn giản, thuận tiện và dễ thực hiện. Mọi thủ tục trước khi nhập kho đều được phân công cho từng bộ phận phụ trách rất rõ ràng và cụ thể, việc tiếp nhân và kiểm tra chính xác số lượng hàng, làm đúng theo hợp đồng nên không xảy ra trường hợp thất thoát nguyên vật liệu và tiếp nhận những nguyên vật liệu không đúng quy cách, chất lượng.
Hình 2: Mẫu phiếu nhập kho nguyên vật liệu
Công ty TNHH MTV Dệt kim Đông Xuân Mẫu số: BM05/KT
Hà Nội, ngày…tháng… năm
Phiếu kiểm tra nguyên phụ liệu nhập kho
STT
Tên nguyên phụ liệu
Đơn vị tính
Số lượng
Thiếu hụt (%)
Số lượng
Tỷ lệ hỏng
Ghi chú
Theo đơn hàng
Thực tế
Đạt
Hỏng
1
2
Giám đốc Chủ hàng Phòng Nghiệp Vụ Thủ kho Người nhận
(Nguồn: phòng Nghiệp Vụ)
Công tác cấp phát nguyên vật liệu
Công ty Dệt Kim Đông Xuân là công ty sản xuất sản phẩm hàng loạt theo dây chuyền nên công ty sử dụng hình thức cấp phát theo định mức. Theo hình thức này, căn cứ vào kế hoạch sản xuất và hệ thống định mức tiêu dùng trong kỳ kế hoạch, cán bộ định mức của phòng vật tư gửi định mức và sản lượng xuống các phân xưởng, theo đó các phân xưởng cử cán bộ xuống kho lĩnh vật tư. Hàng ngày tùy theo nhu cầu sản xuất và yêu cầu dự trữ mà cán bộ các phân xưởng trực tiếp lên phòng Nghiệp vụ viết hóa đơn, dùng hóa đơn đó xuống kho để lĩnh nguyên vật liệu, vật tư. Thủ kho có trách nhiệm cấp phát nguyên vật liệu theo đúng số lượng, chủng loại, chất lượng đã ghi theo hóa đơn xuất kho. Đồng thời, cán bộ quản lý kho lập sổ sách theo dõi tình hình xuất kho cho các phân xưởng. Đến cuối tháng sẽ được tập hợp lại để tính toán định mức thực tế sử dụng và các chỉ tiêu khác.
Trong trường hợp đã sử dụng hết nguyên vật liệu mà chưa hoàn thành nhiệm vụ sản xuất thì cán bộ phân xưởng làm báo hạn mức nguyên vật liệu bổ sung, yêu cầu cấp thêm nguyên vật liệu. Và trừ khi phải có lệnh của Giám đốc thì kho mới cấp bổ sung để bộ phận sản xuất hoàn thành nhiệm vụ sản xuất của mình, còn trong trường hợp ngược lại, thừa nguyên vật liệu mà không ảnh hưởng gì đến sản phẩm thì coi như đã có thành tích tiết kiệm vật tư và được thưởng theo % tiết kiệm vật tư ấy. Thông thường trong mỗi kỳ sản xuất, ngoài kế hoạch sản xuất chính, công ty còn có rất nhiều kế hoạch sản xuất bổ sung, dựa vào các hợp đồng phát sinh của khách hàng. Khi đó phòng Nghiệp vụ lên kế hoạch vật tư dựa trên kế hoạch sản xuất, rồi sau đó chuyển xuống cho các phân xưởng, rồi quản lý phân xưởng. Các phân xưởng thực hiện các thủ tục lĩnh vật tư tại kho như đúng quy định rồi tiến hành sản xuất đúng theo tiến độ sản xuất đề ra.
Như vậy, công tác cấp phát nguyên vật liệu, vật tư phục vụ cho quá tình sản xuất tại công ty luôn diễn ra một cách chính xác và kịp thời, tạo điều kiện cho các bộ phận sản xuất hoạt động theo đúng tiến độ, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Công ty TNHH MTV Dệt kim Đông Xuân Mẫu số: 01/PL
Hà Nội, ngày…tháng…năm…
PHIẾU LĨNH NGUYÊN VẬT LIỆU
Đơn vị lĩnh:……………………………………………………………….
Lý do:……………………………………………………………………..
Xuất tại kho:………………………………………………………………
STT
Tên nguyen phụ liệu
Mã số
Đơn vị tính
Lượng xuất
Ghi chú
1
2
3
Phòng Nghiệp vụ Thủ kho Người lĩnh
Hình 3: Mẫu phiếu cấp phát nguyên vật liệu
(Nguồn: Phòng Nghiệp Vụ)
Công tác quản lý nguyên vật liệu
Kế hoạch bảo quản, dự trữ nguyên vật liệu.
Kho là nơi tập trung dự trữ nguyên, nhiên, vật liệu, thiết bị , máy móc trước khi đưa vào sản xuất, đồng thời cũng là nơi tập trung thành phẩm của Xí nghiệp trước khi tiêu thụ. Bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng có rất nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau. Do đó, để tập trung chúng cũng cần phải có nhiều loại kho khác nhau để phù hợp với từng loại đối tượng dự trữ. Việc sắp xếp hợp lý vật tư trong kho có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi để quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả diện tích kho. Việc sắp xếp hợp lý diện tích trong kho phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Sử dụng hợp lý diện tích , không gian và vị trí các khu vực trong kho.
+ Sắp xếp hợp lý vật tư theo phương châm “4 dễ”: dễ tìm , dễ thấy , dễ lấy , dễ kiểm tra. Để tạo điều kiện thuận lợi thực hiện công việc chăm sóc, bảo quản và xuất nhập vật tư.
Nguyên vật liệu sau khi mua và tiếp nhận sẽ được chuyển về các kho của công ty, các kho này do phòng vật tư trực tiếp bảo quản và quản lý. Do đặc điểm nguyên vật liệu của công ty chủ yếu là vải sợi, vải thành phẩm,…dễ hút ẩm và dễ mục, gẫy vải nên được bảo quản bằng cách bọc trong giấy. So với cách bọc trong tải truyền thống thì cách bọc trong giấy bay hơi chậm hơn bọc trong tải, giúp bảo quản hàng hóa được lâu hơn.
Bảng 6: Tỷ lệ tiêu hao nguyên vật liệu qua các công đoạn
STT
Diễn giải
Phần trăm hao hụt
1
Công đoạn đảo sợi
0,4%
2
Công đoạn dệt
Với sợi chải kỹ: 0,4%
Với sợi chải thường: 0,6%
3
Công đoạn xử lý hoàn tất
Màu trắng: 6,5%
Màu nhạt: 7%
Màu trung bình (qua tẩy): 4,5%
Màu đen: 1%
Màu đậm khác: 2%
4
Cắt may
KATA: 3,5%
Xuất khẩu khác:5%
Nội địa: 4%
( Nguồn: phòng Kỹ thuật)
Ngoài ra công ty còn có những quy định về kệ xếp vải và quy định thời gian đảo hàng, vệ sinh kho hàng. Đối với những loại kệ được thiết kế cách đây khoảng 40 năm về trước thì có chân đế cao 40cm so với mặt đất, nhưng trong quá trình làm việc công ty đã có những cải tiến mới về kệ xếp vải, thay vì là 40cm trước đây, công ty đã cho bổ sung thêm một số kệ với chân đế cao 80cm so với mặt đất, nhằm tránh trường hợp rủi ro về thời tiết (ngập lụt, cháy nổ…). Dựa vào tình hình mối mọt mà công ty có biện pháp khử trùng phù hợp. Công tác vệ sinh kho cũng được thực hiện thường xuyên, phân công tới từng bộ phận. Việc đảo hàng được thực hiện tùy thuộc vào tính chất từng nguyên vật liệu.
Như vậy công ty đã xây dựng và thực hiện được hệ thống nội quy, quy chế về quản lý nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu sau kho nhập kho được sắp xếp và bảo quản đúng theo quy định, chia thành từng lô theo từng chủng loại. Cán bộ kho có hệ thống sổ sách theo dõi rõ ràng chi tiết theo từng lô nguyên vật liệu đúng như quy định đề ra.
Quản lý kho
Công tác thống kê, kiểm kê, theo dõi NVL được diễn ra thường xuyên và liên tục trong công ty. Phòng vật tư là phòng chịu trách nhiệm quản lý nguyên vật liệu, không chỉ lo mua nguyên vật liệu và cấp phát đủ số lượng cho các phân xưởng mà còn phải có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra việc tiêu dùng nguyên vật liệu trong toàn công ty. Cán bộ phòng vật tư sẽ kiểm tra tình hình sử dụng nguyên vật liệu dựa trên cơ sở các tài liệu hạn mức cấp phát, số liệu hạch toán xuất kho của công ty cho các phân xưởng sử dụng và báo cáo của phân xưởng về tình hình sử dụng.
Hàng tháng, các thủ kho tiến hành thống kê lượng nguyên vật liệu nhập kho, xuất kho và tồn kho cuối kỳ để phòng vật tư làm căn cứ xác định lượng mua các loại nguyên vật liệu cho kỳ tiếp theo.
Việc kiểm kê định kì tháng được tiến hành 1 tháng/lần, còn kiểm kê định kì năm được tiến hành 6 tháng/lần. Khi đó, phòng vật tư sẽ ra thông báo để các đơn vị tiến hành công tác kiểm kê tài sản, nguyên vật liệu chính, phụ, vật tư, thành phẩm cuối năm. Việc kiểm kê được thực hiện cho tới ngày 31/6 và 31/12 hàng năm.
Ban kiểm kê bao gồm Giám đốc là Chủ tịch Hội đồng kiểm kê và các Ủy viên là Trưởng phòng các phòng Nghiệp vụ, Tài chính kế toán và Quản lý chất lượng. Đối với nguyên vật liệu, công ty tiến hành kiểm kê dưới sự tham gia của nhân viên các phòng để xác định lượng nguyên vật liệu tồn kho mỗi năm, lượng nguyên liệu thừa thiếu để có các phương pháp bù trừ phù hợp. Phòng Quản lý chất lượng chịu trách nhiệm xác định chất lượng nguyên vật liệu lưu kho, độ ẩm nguyên vật liệu, phòng tài chính kế toán và vật tư chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm soát và thực hiện kiểm tra số lượng.
Bảng 7: Nguyên vật liệu tồn kho các năm 2006-2009
Đơn vị tính: VNĐ
Vật tư
2006
2007
2008
Tháng 9/2009
1, Sợi các loại
7.055.418.874
6.798.669.288
14.214.792.029
9.169.537.751
2, Vải các loại
2.485.900.186
1.093.615.531
771.844.397
1.070.944.091
3, Chỉ các loại
235.231.752
301.747.934
236.691.537
280.500.478
4, Hóa chất – thuốc nhuộm
4.069.115.708
2.989.709.943
5.495.972.080
4.166.312.388
5, Phụ tùng máy
597.439.669
774.989.115
647.985.329
652.325.897
6, Xăng dầu, nhiên liệu khác
303.711.192
589.280.688
863.312.662
707.395.470
7, Phụ liệu, bao bì
453.885.341
496.056.324
367.329.096
524.176.107
8, Tạp phẩm
27.714.082
25.668.220
29.326.521
30.526.458
9, Vật tư xây dựng cơ bản
896.750
746.750
835.265.498
934.125.236
10, Vật tư khác
1.811.032
687.667
1.568.769
1.056.897
11, Muối
8.818.909
2.790.000
9.325.648
8.986.564
13, Vật tư thường xuyên
2.784.344.824
4.717.890.631
4.596.369.254
2.365.468
Tổng
18.024.288.319
17.791.852.091
28.069.782.820
17.547.195.910
( Nguồn: Phòng tài chính kế toán)
Nguyên vật liệu của công ty chủ yếu là vải, sợi, với đặc thù từng loại vải, sợi có khả năng thấm hút, màu sắc khác nhau,…cũng chính vì sự đa dạng về chủng loại đó nên yêu cầu phải có hàng tồn kho là một trong những yêu cầu cấp thiết để sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường trong điều kiện khó khăn về thu mua.
Qua số liệu bảng 7 ta thấy rằng, giá trị nguyên vật liệu tồn kho tăng dần qua các năm, tuy nhiên do sự khủng hoảng kinh tế vào cuối năm 2007, đầu năm 2008 nên có ảnh hưởng đến lượng hàng tồn kho. Cụ thể là lượng hàng tồn kho năm 2007 giảm tương đối nhiều so với các năm lân cận. Do số đơn đặt hàng trong năm 2008 có giảm đi nên công ty đã không dự trữ nguyên phụ liệu nhiều, phòng trừ trường hợp nguyên phụ liệu để lâu trong kho bị ẩm mốc và hao hụt, giảm phẩm chất. Dư âm của cuộc khủng hoảng kinh tế, mà đặc biệt ảnh hưởng mạnh nhất vào hai ngành da giầy và may mặc đã tạo cho công ty có sự đề phòng hơn, do đó lượng hàng tồn kho vào năm 2008 đã tăng mạnh, đề phòng sự biến động giá cả thất thường.
Thu hồi phế liệu, phế phẩm
Bất cứ một hoạt động sản xuất nào cũng có phế liệu, phế phẩm cho dù hoạt động đó có chặt chẽ và khoa học hay một quy trình công nghệ hiện đại thì cũng không thể tránh khỏi những sai sót. Đối với công ty, do mặt hàng sản xuất cũng như hình thức sản xuất không cho phép tỷ lệ phế phẩm lớn, tức là càng hạn chế càng tốt cho công ty. Việc tận dụng phế liệu, phế phẩm này ảnh hưởng lớn đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Vì vậy ban lãnh đạo công ty rất quan tâm đến việc thu hồi và sử dụng lại phế liệu, phế phẩm.
Phế liệu thu hồi của công ty chủ yếu là những sản phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình tiêu dùng hoặc sản xuất song giá trị sử dụng cũng không ít. Những phế liệu của công ty có thể là vải vụn, chỉ sợi, bao tải, giấy,...sẽ được thu hồi để sử dụng vào những việc hữu ích khác và cũng có thể được bán ra ngoài để tái sử dụng. Với đơn đặt hàng hàng năm rất lớn nên số phế liệu được thu hồi này chiếm một phần chi phí rất lớn, qua đó công ty cũng đã biết cách tận dụng những phế liệu này, chính vì vậy đã tiết kiệm được một phần chi phí cho công ty.
Đánh giá hoạt động cung ứng nguyên vật liệu của công ty
Ưu điểm
Công ty TNHH một thành viên Dệt Kim Đông Xuân là một công ty lớn trong ngành dệt may của nước nhà, với thị phần chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Mỹ, EU…Để đạt được những kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của công tác quản trị nguyên vật liệu. Trong thời gian thực tập tại công ty, em nhận thấy công tác quản lý nguyên vật liệu nói chung được thực hiện khá nề nếp, tuân thủ đúng quy định và các nguyên tắc chung đã được đề ra. Các phòng ban của công ty cũng phối hợp với nhau khá chặt chẽ, đảm bảo việc hạch toán, quản lý nguyên vật liệu được diễn ra một cách đều đặn, kịp thời phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của công ty, đáp ứng yêu cầu quản lý của cấp trên.
Về công tác xác định nhu cầu nguyên vật liệu:
Công ty đã xây dựng được kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu cụ thể cho từng đơn vị, phân xưởng sản xuất, đảm bảo cho quá trình diễn ra liên tục và hiệu quả. Mặc dù sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm với nhiều kieur dáng phong phú nhưng Công ty cũng đã xây dựng được định mức tương đối hoàn chỉnh cho các sản phẩm. Công ty còn luôn chú trọng tới công tác nghiên cứu, cải tiến công nghệ, giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu, gia tăng lợi nhuận cho Công ty.
Về công tác mua sắm nguyên vật liệu
Công ty đã xây dựng kế hoạch về mua sắm nguyên vật liệu cho các phân xưởng kịp thời, đầy đủ về số lượng, chủng loại và bảo đảm về chất lượng. Để làm được như vậy, trong quá trình tìm kiếm và lựa chọn nhà cung ứng, Công ty luôn chú trọng xây dựng và củng cố mối quan hệ với các nhà cung ứng cũ, đảm bảo cho quá trình thực hiện hợp đồng được liên tục và đạt hiệu quả cao.
Về hệ thống kho tàng
Hệ thống kho tàng của công ty được tổ chức và bố trí một cách hợp lý, khoa học nhằm hạn chế tối đa hao hụt , hỏng, mất mát nguyên vật liệu. Công ty chú trọng tới công tác xây dựng và củng cố hệ thống kho tàng, nhà xưởng. Các kho được bố trí một cách thoáng mát, rộng rãi thuận tiện cho việc nhập xuất và kiểm kê nguyên vật liệu. Quá trình tiếp nhận và cấp phát nguyên vật liệu được diễn ra theo đúng quy định, đảm bảo chất lượng và số lượng nguyên vật liệu nhập kho.
Về công tác vận chuyển
Công ty luôn cố gắng chủ động trong mọi hoạt động vận chuyển cả trong và ngoài, đồng thời áp dụng các hình thức vận chuyển linh hoạt, đa dạng đảm bảo cung ứng kịp thời với chi phí nhỏ nhất.
Về công tác cấp phát nguyên vật liệu
Được thực hiện theo hạn mức tiêu dùng, luôn kịp thời, nhanh chóng và phù hợp với tình hình sản xuất. Việc áp dụng phương pháp cấp phát theo hạn mức tiêu dùng nguyên vật liệu giúp cho cán bộ quản lý kho nắm rõ hơn tình hình sử dụng nguyên vật liệu tại các phân xưởng. Đảm bảo nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, theo dõi sát sao quá trình biến động nguyên vật liệu tại các kho đồng thời tạo sự chủ động cho bộ phận cấp phát cung như các bộ phận sử dụng nguyên vật liệu. Công ty còn ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống định mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho tất cả các sản phẩm, hệ thống này giúp cho việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu.
Nhược điểm
Đi đôi với các thành tựu đạt được, hoạt động cung ứng nguyên vật liệu còn gặp phải những hạn chế nhất định cần được hoàn thiện hơn nữa. Dệt kim Đông Xuân cũng không nằm ngoài số đó.
Về công tác xác định nhu cầu nguyên vật liệu
Việc xác định nhu cầu nguyên vật liệu và lượng dự trữ chưa thực sự hiệu quả, công tác xác định nhu cầu chủ yếu dựa trên các đơn hàng, còn thiếu sự nghiên cứu cụ thể về tình hình thị trường, do đó còn gặp một số hạn chế trong quá trình xác định nhu cầu nguyên vật liệu. đồng thời, do sản phẩm của công ty đa dạng về sản phẩm, mỗi loại sản phẩm lại bao gồm nhiều nguyên phụ liệu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình xây dựng định mức đồng bộ.
Về hoạt động nghiên cứu thị trường
Hoạt động nghiên cứu thị trường trong công ty còn chưa được phát huy, chưa đảm bảo được cho hoạt động mua sắm nguyên vật liệu. việc nghiên cứu thị trường mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu tại chỗ và nghiên cứu trong nước nên lượng thông tin thu được còn ít và hạn chế, còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và ý kiến chủ quan của cán bộ nghiên cứu, trong khi đó thị trường nguyên vật liệu còn yếu và phải nhập khẩu nhiều. Công ty cũng chưa có một chính sách cụ thể và kinh phí phù hợp cho hoạt động này.
Về nhà cung ứng
Việc tìm kiếm và lựa chọn nhà cung ứng còn khá đơn giản, chủ yếu vẫn dựa trên các mối quan hệ có sẵn, hoặc bạn hàng lâu năm. Do đó để lỡ nhiều cơ hội giao dịch với các nhà cung ứng mới có khả năng cung ứng tốt hơn với giá cả cạnh tranh hơn. Các phương pháp đánh giá và lựa chọn nàh cung ứng cũng chưa thật hợp lý và khoa học.
Về công tác kho tàng
Hệ thống kho tàng tuy đã được sửa chữa nhiều lần nhưng vẫn chưa được trang bị những thiết bị hiện đại, cần thiết đảm bảo cho công tác bảo quản được vận hành một cách tối ưu nhất. Việc sử dụng hệ thống thông tin trong kho tàng chưa được thực hiện. Cán bộ kho vận còn thiếu các thiết bị chuyên dùng, chủ yếu vẫn xử lý bằng các giấy tờ và sổ sách sơ sài.
Về hệ thống nhân sự
Trình độ cán bộ chưa được nâng cao thường xuyên, đòi hỏi công ty phải có các biện pháp tạo động lực phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả làm việc cho nhân viên.
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ CUNG ỨNG NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI DOANH NGHIỆP
Định hướng phát triển của công ty
Định hướng chung
Với truyền thống suốt 50 năm duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh, Dệt Kim Đông Xuân vẫn giữ cho mình những phương hướng phát triển chính:
“Khẳng định uy tín, giữ trọn niềm tin “ là thông điệp mà Công ty TNHH một thành viên Dệt kim Đông Xuân muốn gửi tới khách hàng.
Liên tục đổi mới công nghệ. nâng cao chất lượng nguồn nhân lực : Tăng cường đào tạo con người để thực hiện quản lý và sản xuất tốt, giảm thiểu lãng phí trong sản xuất tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh.
Khẳng định thương hiệu trên thị trường nội địa bằng chất lượng, mẫu mã đa dạng cho tương xứng với thương hiệu Đông Xuân đã có 50 năm trên thị trường.
Duy trì khách hàng truyền thống để ổn định sản xuất, tăng cường phát triển thị trường mới, sản phẩm mới ở cả trong nước và xuất khẩu.
Mở rộng hệ thống cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm ở các tỉnh trong cả nước để tăng cường quảng cáo sản phẩm của Công ty để khẳng định thương hiệu.
Hàng năm công ty luôn có chiến lược phát triển rõ ràng, tập trung mở rộng thị trường xuất khẩu, tìm kiếm các nguồn cung ứng đảm bảo về uy tín, kịp thời về số lượng, qua đó dần dần biến các đơn đặt hàng gia công thành sản xuất và cung ứng trực tiếp.
Dựa trên các kết quả khảo sát thị trường và khả năng sản xuất hiện có của mình, công ty đã đưa ra các mục tiêu phát triển nhất định trong năm 2009:
Hiện nay có nhiều hạn chế về quy mô nên doanh nghiệp chưa thể khai thác hết tiềm năng của thị trường nội địa. Vì thế, công ty xác định sẽ tập trung vào thu hút các đơn hàng trực tiếp từ nước ngoài.
Tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu một cách khoa học, hiệu quả đảm bảo tiến độ sản xuất và giao hàng đúng thời gian, địa điểm, đáp ứng đủ nhu cầu các đơn hàng về cả số lượng và chất lượng.
Chú trọng việc hoàn thiện bộ máy cơ cấu quản lý và đẩy mạnh quá trình sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, đảm bảo các chỉ tiêu, kế hoạch sản xuất.
Phấn đấu mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống lao động.
Đảm bảo tuân thủ các quy định của nhà nước và pháp luật trong các hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của công ty. Công ty không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm, cam kết mang lại cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất.
Xúc tiến các hoạt động nghiên cứu, quảng cáo, marketing, đẩy mạnh tiêu thụ, mở rộng thị trường, nâng cao sự thỏa mãn của khách hàng bằng cách thu thập ý kiến đóng góp của khách hàng về sản phẩm của Công ty.
Chú trọng đầu tư đổi mới hệ thống trang thiết bị, cải tiến áp dụng công nghệ tiên tiến trong quá trình sản xuất .
Về công tác cung ứng nguyên vật liệu
Công ty cần hoàn thiện và đồng bộ dây chuyền sản xuất, hệ thống máy may, máy dệt, máy cắt…để tăng năng suất lao động, giảm tỷ lệ sai hỏng, hao hụt nguyên vật liệu trong sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín của công ty trên thị trường quốc tế.
Tập trung nghiên cứu và sáng tạo những phương thức xác định định mức nguyên vật liệu cho mỗi sản phẩm nhằm làm giảm giá thành sản phẩm.
Tích cực nghiên cứu thị trường sản phẩm để từ đó tìm được các nhà cung cấp đảm bảo, đồng thời giảm chi phí sản xuất.
Tổ chức việc sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, đảm bảo cho việc vận hành máy móc được diễn ra liên tục, tránh những hao phí nguyên vật liệu đáng tiếc xảy ra.
Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện công tác cung ứng nguyên vật liệu tại công ty TNHH một thành viên Dệt Kim Đông Xuân
2.1. Hoàn thiện công tác dự báo nhu cầu nguyên vật liệu
Cơ sở lý luận:
Trong quá trình hoạt động của công ty, để đưa ra các quyết định về việc xuất nhập nguyên vật liệu cũng như sản phẩm đã hoàn thành là công việc hết sức quan trọng. Đối với các công việc yêu cầu phải dự đoán một cách tương đối chính xác như vậy ảnh hưởng lớn tới tài chính và khả năng sản xuất của công ty. Các nhà lãnh đạo phải cân nhắc rất nhiều trước khi đưa ra quyết định, như vậy có thể nói việc dự báo nhu cầu nguyên vật liệu là một phần thiết yếu trong quản trị sản xuất và dịch vụ. Việc dự báo nhằm một mục đích là đảm bảo thế chủ động của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Cơ sở thực tiễn:
Đối với các doanh nghiệp dệt may trong nước nói chung, và đối với Dệt Kim Đông Xuân nói riêng, việc dự báo về nhu cầu nguyên vật liệu chưa được chú trọng đúng mức, công việc này mới chỉ dừng ở mức độ sử dụng các số liệu thống kê từ những lần sản xuất trước rồi dựa vào kinh nghiệm của cán bộ vật tư mà từ đó đưa ra kế hoạch mua sắm vật tư. Chính vì vậy công ty cần xây dựng một hệ thống dự báo nhu cầu vật tư đúng đắn để hỗ trợ chính xác quá trình sản xuất.
Điều kiện thực hiện:
Khi xây dựng hệ thống dự báo, công ty sẽ phải chi trả một khoản chi phí cho việc thu thập số liệu và chi phí cho việc đào tạo công nhân viên chuyên trách trong lĩnh vực này.
Các bộ phận trong công ty như cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau để đưa ra được những quyết định đúng đắn nhất, tránh tình trạng hao phí nguyên vật liệu và thời gian.
Công ty cần cử ra bộ phận quản lý và kiểm soát dự báo, để giám sát quá trình này cần có cán bộ có chuyên môn, tránh những sai sót về sai số cũng như tìm ra các phương thức dự báo phù hợp nhất với công ty.
Nội dung thực hiện:
Có hai phương pháp dự báo chính:
Dự báo định tính: sử dụng nhiều hình thức để thu thập số liệu cần dự báo như
Lấy ý kiến của ban quản lý điều hành ( giám đốc, phó giám đốc kỹ thuật…)
Lấy ý kiến hỗn hợp của lực lượng bán hàng: bằng hình thức này, mỗi nhân viên bán hàng tại các cơ sở của công ty sẽ ước đoán số lượng hàng bán ra trong tương lai khu vực mà mình phụ trách, kết quả này sẽ được thẩm định lại để xác định ước đoán đó là sự thực. sau đó tổng hợp của các cơ sở để đưa ra những dự báo chung về sản phẩm, từ đó tổng hợp với định mức mà phòng kỹ thuật đề ra để xác định nhu cầu nguyên vật liệu cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu nhu cầu người tiêu dùng: phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, gửi phiếu điều tra…
Phương pháp Delphi: điều kiện để thực hiện phương pháp này là cần có đội ngũ các chuyên gia, các điều phối viên và nhóm ra quyết định. các câu hỏi điều tra sẽ được xây dựng sau đó gửi tới các chuyên gia, các chuyên gia sẽ phân tích, tổng hợp lại bảng câu hỏi. các bước trên sẽ được lặp đi lặp lại cho tới khi kết quả dự báo thỏa mãn được yêu cầu đề ra.
Dự báo định lượng: chủ yếu sử dụng các phương pháp như bình quân di động có trọng số, phương pháp hoạch định theo xu hướng…
Công ty cũng nên thiết lập các bộ phận để thực hiện các nghiên cứu này, đồng thời cũng nên thực hiện giám sát một cách chặt chẽ quá trình nghiên cứu, để có thể đạt được kết quả chính xác nhất.
Hiệu quả thực hiện:
Dựa vào phương thức dự báo nhu cầu nguyên vật liệu, công ty đã xây dựng được hệ thống dữ liệu về cách thức dự báo nhu cầu nguyên vật liệu, qua đó cũng rút ra những kinh nghiệm về các phương thức dự báo nhằm tìm được phương thức phù hợp nhất với khả năng sản xuất của công ty.
Việc dự báo chính xác nhu cầu nguyên vật liệu đã mang lại sự linh hoạt trong sản xuất, không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà còn dựa vào những số liệu thực tế, từ đó giúp cho cấp trên ra những quyết định sản xuất kinh doanh đúng đắn và có lợi nhất cho công ty.
2.2. Tăng cường nghiên cứu thị trường và nhà cung ứng
Cơ sở lý luận:
Ngày nay việc nghiên cứu thị trường trở thành một trong những công cụ không thể thiếu trong việc nắm bắt thị trường, được sử dụng một cách rất phổ biến, phục vụ cho những mục đích rất đa dạng, mục tiêu là tìm các nguồn cung cấp nguyên vật liệu và vật tư cho sản xuất sản phẩm. Thực tế cho thấy rằng những doanh nghiệp tồn tại và phát triển ngày một vững mạnh đề là những doanh nghiệp có sự đầu tư lớn cho việc nghiên cứu thu thập thông tin và dự báo môi trường bên ngoài.
Sự biến động của thị trường nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động quản trị cung ứng của công ty. Do dó, việc tìm hiểu, đánh giá, phân tích, dự đoán những thay đổi, xu hưởng của thị trường nguyên vật liệu là rất cần thiết. những thông tin thu thập được từ việc nghiên cứu thị trường tạo ra cơ sở để công ty xây dựng kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu và tìm được đối tác thích hợp và còn làm cơ sở cho quá trình giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng sau này có hiệu quả. Việc nghiên cứu, đánh giá và phân tích thông tin cần thực hiện bao gồm cả các nhà cung cấp truyền thống và các nhà cung cấp tiềm năng của công ty.
Cơ sở thực tiễn:
Tại Dệt kim Đông Xuân nhiều năm qua, việc thu thập thông tin còn rất hạn chế. Các thị trường trong nước chỉ được thu thập qua các chuyến đi công tác, qua các hội thảo, hội chợ…còn thị trường ngoài nước thì hầu như không được chú ý đến. Việc thu thập thông tin còn chưa chủ động, chủ yếu là thu thập qua các bảng báo giá, phiếu điều tra của các nhà cung ứng gửi tới. Do đó, số lượng thông tin còn hạn hẹp cả về quy mô và chất lượng, hơn nữa, mọi thông tin được đưa ra từ các nhà cung cấp còn hạn chế, do vậy gây khó khăn trong việc đánh giá thông tin. Chính vì vậy hoạt động này cần được chú trọng hơn nữa, công ty cần tích cực và chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn hàng cung cấp ổn định và phù hợp với năng lực tài chính và năng lực sản xuất của mình.
Nội dung thực hiện:
Xây dựng hệ thống thông tin liên tục với: hệ thống rộng rãi, thông tin mới, chính xác và mang tính chủ động, thời gian số liệu thu thập phải phản ánh được cả thời kì nghiên cứu, để từ đó đánh giá và dự đoán được xu hướng của thị trường.
Đối với thị trường đầu ra: công ty cần xem xét mẫu mã, chất lượng giá cả, sản phẩm…của đối thủ cạnh tranh để từ đó so sánh với các sản phẩm của công ty nhằm đưa ra các chiến lược cạnh tranh hiệu quả.
Đối với thị trường đầu vào: công ty cần chú trọng tới thị trường nguyên vật liệu, như thông tin về các thị trường cung cấp, số lượng, chất lượng, giá cả nguyên vật liệu và những điều khoản liên quan, đồng thời đánh giá khả năng phát triển, mở rộng thị trường của công ty trong năm tới, kết hợp những điều đó từ phía công ty và nhà cung ứng để công ty chủ động hơn trong việc mua sắm nguyên vật liệu, đảm bảo quá trình sản xuất.
Cách thức tiến hành thu thập thông tin:
Thu thập trực tiếp số liệu ban đầu bằng hình thức thăm dò khác nhau nư phỏng vấn trực tiếp, phát phiếu điều tra…
Thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng và truyền thông như internet, báo, đài…
Thành lập các đơn vị cũng như các đại diện ở nước ngoài tại những thị trường chuyên làm nhiệm vụ thu thập và báo cáo thường xuyên tình hình biến đổi của thị trường. Các bộ phận này chuyên làm nhiệm vụ thu thập thông tin tiến hành phân tích số liệu thu thập và kết hợp với sự chỉ đạo của cấp trên, đưa ra các kết luận từ đó làm cơ sở cho các quyết định kinh doanh. Các thông tin này nên được lưu trữ và cập nhập thường xuyên để sử dụng cho những lần tiếp sau. Còn đối với các nhà cung ứng, công ty nên có các kế hoạch xây dựng hệ thống thu thập thông tin, tổng hợp tình hình thị trường, đưa ra chính xác và kịp thời những thông tin về nhà cung ứng mà có dự định hoặc đã thực hiện giao dịch: độ tin cậy, khả năng sản xuất, chất lượng, phương thức vận chuyển, khả năng tài chính…
Điều kiện thực hiện:
Công ty phải đầu tư thời gian cũng như chi phí cho việc xây dựng hệ thống thu thập thông tin liên tục này, đồng thời cũng cần có các cán bộ có trình độ hiểu biết về lĩnh vực nghiên cứu thị trường này.
Công ty cũng cần có các đại diện ở các thị trường, đặc biệt là các thị trường nước ngoài vì những đơn đặt hàng gia công thường có giá trị lớn.
Cần sự đầu tư về máy móc, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động nghiên cứu như máy tính, các phần mềm xử lý thông tin như SPSS…
Hiệu quả của biện pháp:
Công ty có thể xây dựng cho mình một ngân hàng dữ liệu làm cơ sở cho việc phân tích thị trường cũng như làm căn cứ cho việc ra các quyết định mua sắm hay giao dịch với các đối tác chiến lược.
Xét về lâu dài thì việc xây dựng hệ thống thông tin liên tục sẽ giúp công ty tiết kiệm được chi phí. Đây là một trong những yếu tố góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của công ty trên thị trường. Đồng thời công ty sẽ lựa chọn được các đối tác thích hợp, đáng tin cậy và tăng cường mối quan hệ kinh doanh.
2.3. Tìm kiếm và duy trì mối quan hệ với nhà cung ứng
Cơ sở lý luận:
Đối với bất kì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, thì đối tác cung ứng nguyên vật liệu luôn là những người chiếm vị trí quan trọng, không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc tìm kiếm và lựa chọn được một nhà cung ứng đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp được coi như là thành công bước đầu của quá trình tạo nên một sản phẩm hoàn hảo.
Cơ sở thực tiễn:
Việc công ty sử dụng hầu hết các nhà cung ứng cũ trong những lần thực hiện đơn hàng đã làm giảm đi tính linh động trong quá trình sản xuất, công ty chưa có sự đầu tư rõ ràng trong việc tìm kiếm các nhà cung ứng tốt hơn, giá cả hợp lý hơn và khả năng cung ứng tốt hơn, chủ yếu vẫn là dựa trên kinh nghiệm qua các lần thực hiện đơn hàng.
Trong xu thế phát triển hiện nay, mặc dù thị trường nội địa còn gặp nhiều khó khăn, nhưng không phải là thiếu những nhà cung ứng mang lại chất lượng hàng hóa kém hơn so với các nhà cung ứng nước ngoài.
Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, công ty cần xem xét kỹ lưỡng hơn, dựa trên những tiêu chí đánh giá cụ thể và phải thực hiện quá trình nghiên cứu thị trường và nhà cung ứng rõ ràng nhằm làm giảm nguy cơ rủi ro, tránh bị ép giá, đồng thời chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh…
Nội dung biện pháp:
Cán bộ phòng Nghiệp vụ phải thực hiện thu thập, phân tích và nghiên cứu các số liệu về thị trường nguyên vật liệu, qua đó cũng đưa ra những đánh giá phù hợp về các nhà cung ứng sẵn có (về số lượng nhà cung ứng, tính chất cạnh tranh,…) để từ đó thiết lập các mối quan hệ bạn hàng giữa hai bên.
Công ty cần chú ý hơn nữa tới các điều khoản trong hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề về thời gian cung ứng, khả năng đáp ứng đơn hàng khi thiếu…để tránh những rủi ro xấu nhất có thể xảy ra. Việc thỏa thuận với nhà cung ứng cũng cần được chú trọng, trường hợp hai bên không đạt được thỏa thuận cuối cùng thì công ty nên tìm kiếm những nhà cung ứng phù hợp hơn.
Với một số nhà cung ứng cũ, công ty cần thiết lập mối quan hệ và tạo ấn tượng tốt cho phía đối tác, đây sẽ là cơ sở cho những hợp đồng sau này và có thể đạt được những hợp đồng với giá cả được chiết khấu có lợi nhất cho công ty.
Điều kiện thực hiện:
Công ty cần có sự đầu tư về chi phí cho các hoạt động tìm kiếm thị trường và duy trì mối quan hệ với đối tác.
Người tham gia đàm phán về các hoạt động mua bán nguyên vật liệu cần là những người có chuyên môn cao, am hiểu rõ về thị trường nguyên vật liệu, đồng thời phải có khả năng giao tiếp và đàm phán nhằm gây ấn tượng tốt đối các nhà cung ứng.
Hiệu quả thực hiện:
Việc tìm được các nhà cung ứng tốt sẽ giúp cho công ty đảm bảo quá trình sản xuất liên tục, chất lượng nguyên vật liệu đảm bảo với giá cả phải chăng tạo điều kiện vừa nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty trên thị trường.
2.4. Nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất quản lý và kho tàng
Cơ sở lý luận:
Hầu hết các loại nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất đều phải trải qua quá trình lưu kho. Kho là nơi có nhiệm vụ lưu trữ, bảo quản các loại hàng hóa, công cụ dụng cụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc bảo quản nguyên vật liệu trong kho phụ thuộc nhiều vào trang thiết bị lưu kho cũng như việc sắp xếp, bố trí từng chủng loại nguyên vật liệu lưu kho cụ thể. Do đó, việc bố trí kho, các trang thiết bị phương tiện hợp lý sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả hoạt động. đồng thời cũng đảm bảo an toàn cho con người và thiết bị, tận dụng được diện tích kho, nguyên vật liệu sẽ được đảm bảo về chất lượng, các công tác tiếp nhận và cấp phát, kiểm tra, kiểm kê thuận lợi và nhanh chóng.
Cơ sở thực tiễn:
Sau rất nhiều năm sử dụng, hệ thống kho của công ty nhìn chung khá cũ kỹ và lạc hậu, có dấu hiệu xuống cấp. Các thiết bị lạc hậu, các kho như kho thành phẩm, kho sợi, kho vải đã qua xử lý…hầu hết chứa những nguyên vật liệu dễ ẩm mốc và dễ xảy ra tình trạng vải gẫy…nhưng vẫn chưa được trang bị các thiết bị chuyên dùng để bảo quản như máy đo nhiệt độ trong kho, điều hòa, máy làm mát…chủ yếu vẫn dùng hệ thống quạt công nghiệp thông gió. Các kho đã được trang bị các dụng cụ văn phòng nhưng còn hạn chế, công cụ còn thiếu thốn, các kho chưa được cung cấp các thiết bị hiện đại như máy in, máy vi tính mà chủ yếu vẫn sử dụng hình thức ghi chép và lưu giữ bằng sổ sách, giấy tờ.
Nội dung thực hiện:
Công ty cần mua và lắp đặt thêm hệ thống điều hòa, hút ẩm nhất là cho các kho sợi, vải đã qua xử lý và kho thành phẩm, vì chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng nhiều tới sản phẩm, đặc biệt là kho thành phẩm vì ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của công ty.
Sửa chữa và trang bị thêm hệ thống xe đẩy, xe nâng hàng, mua thêm các thiết bị hiện đại để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của công ty.
Cải thiện hệ thống chiếu sáng và quạt thông gió.
Tu sửa và nâng cấp hệ thống tường bao quanh, trần nhà và nền kho, những chỗ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thời tiết.
Trang bị các thiết bị hiện đại phục vụ cho cán bộ quản lý kho.
Bố trí và sắp xếp lại hệ thống kho tàng sao cho thuận tiện cho việc tiếp nhận và cấp phát, đồng thời đảm bảo cho hàng hóa được bảo quản một cách an toàn nhất.
Bố trí lại hệ thống kho tàng :
KỆ HÀNG
KỆ HÀNG
KỆ HÀNG
KỆ HÀNG
KỆ HÀNG
KỆ HÀNG
Lối
đi
Lối vận chuyển ra
BÀN KIỂM KÊ
Lối vào của NVL
Hình 4: Bố trí hệ thống kho tàng
Điều kiện thực hiện:
Để cải tạo, nâng cấp và bảo dưỡng cho kho tàng cần có sự đầu tư đồng bộ, tránh sửa chữa tạm bợ và thay thế các phương tiện không đảm bảo chất lượng và độ an toàn. Do đó cũng yêu cầu một nguồn vốn lớn vì có nhiều chi phí phát sinh từ việc nâng cấp này như sửa chữa, thay thế, chi phí đào tạo bồi dưỡng nhân viên quản lý kho…Các chi phí này có thể trích từ các quỹ như quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển…
Một điều quan trọng nữa là cán bộ quản lý kho cần có thái độ đúng đắn và tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng những phương tiện mới.
Hiệu quả thực hiện:
Số lượng, chất lượng nguyên vật liệu được đảm bảo, các tỉ lệ về hao hụt, giảm phẩm chất do ẩm mốc, nhiệt độ, giảm xuống đáng kể.
Các phương tiện quản lý và bảo quản được cung cấp đầy đủ sẽ giúp cho cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình, giảm đáng kể thời gian trong việc kiểm tra, kiểm kê và theo dõi.
Nguyên vật liệu được bảo quản tốt sẽ góp phần đảm bảo chất lượn sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
Nhờ việc bố trí khoa học lại vị trí của từng nguyên vật liệu nên việc điều hành tiếp nhận, cấp phát cũng thuận tiện hơn, quãng đường di chuyển từ các vị trí được giảm thiểu. đồng thời cũng chức đựng được nhiều nguyên vật liệu hơn mà không phải xây dựng thêm kho hay mở rộng diện tích, do đó tiết kiệm được chi phí trong quá trình sản xuất.
2.5. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề cho cán bộ công nhân viên trong Công ty
Cơ sở lý luận:
Con người là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng quyết định tới sự thành bại của một doanh nghiệp. Con người là tác nhân chính tạo ra vốn và đề xuất những ý tưởng mới, đồng thời cũng đảm nhận vai trò chọn lựa và ứng dụng các công nghệ tiên tiến và thực thi các chỉ tiêu nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty, trong đó có hoạt động cung ứng nguyên vật liệu.
Thực tế ngày nay cho thấy, vốn và công nghệ có thể thay đổi, huy động được, nhưng để xây dựng được một đội ngũ nhân sự nhiệt tình, tận tâm, có khả năng thích hợp và làm việc mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp thì phức tạp và khó khăn hơn nhiều.
Việc tính toán và lựa chọn nhân sự phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh luôn là điều kiện không thể thiếu để tổ chức một bộ máy lao động khoa học và có hiệu quả, vừa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp là tăng năng suất lao động vừa tăng thu nhập cho người lao động. Chính vì vậy trong quá trình lao động, Công ty cần thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ cho lao động, đồng thời tuyển chọn những người có năng lực. Một hệ thống nhân sự khoa học và hiệu quả sẽ mang lại những kết quả bất ngờ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ sở thực tiến:
Trong những năm qua, công ty không ngừng quan tâm đến công tác đào tạo, nâng cao trình đọ cho tập thể cán bộ công nhân viên toàn công ty nhưng với nguồn kinh phí còn eo hẹp, quy mô đào tạo chưa được mở rộng, nên chất lượng vẫn chưa được nâng cao. Hình thức đào tạo chủ yếu của công ty là mở các lớp kỹ thuật nhỏ (tử 5-10 người) do người có kinh nghiệm truyền đạt cho người mới vào nghề, ngoài ra vẫn chủ yếu là kèm cặp trong quá trình làm việc. Các hình thức mới như cử cán bộ đi đào tạo những khóa chuyên sâu chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục. Công ty cần có những hình thức đào tạo mới, tạo hứng thú cho nhân viên có tinh thần làm việc, đồng thời cũng nên có các biện pháp quản trị nhằm tạo ra các động lực vật chất, tinh thần cho người lao động gắn với lợi ích của người lao động.
Công ty nên xây dựng các quy định, quy chế rõ ràng và cụ thể về việc sử dụng nguyên vật liệu cũng như quá trình làm việc trong công ty, từ đó đề ra các biện pháp kỷ luật phù hợp với việc làm trái quy định. Bên cạnh đó cần tạo ra môi trường làm việc, các chế độ đãi ngộ và những hình thưc tạo động lực hợp lý cho công nhân.
Nội dung thực hiện:
Trước tiên, công ty cần xác định việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động trong công ty cũng là một chiến lược kinh doanh, và công ty cần phải làm tốt ngay từ khâu đầu vào, tuyển chọn cán bộ có đủ trình độ, năng lực, phù hợp với công việc được giao.
Việc tuyển dụng, đào tạo, nâng cao trình độ của người lao động cần được xây dựng thành những kế hoạch cụ thể theo hình thức là đào tạo tại chỗ và đào tạo chuyên sâu. Đi đôi với việc đào tạo đó cần có sự kiểm soát chặt chẽ làm cơ sở cho những xét duyệt sau này, ví dụ như nâng bậc, thăng chức…và quan trọng là để đánh giá hiệu quả đào tạo.
Việc đào tạo tại chỗ được tiến hành bằng cách những nhân viên lâu năm, có kinh nghiệm hoặc những cán bộ cấp trên có trình độ cao về lĩnh vực đó sẽ cố vấn về chuyên môn cho cán bộ cấp dưới, nhờ việc cố vấn này mà công việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn và được giải quyết một cách nhanh chóng, tránh tình trạng gặp rắc rối mà không thể giải quyết, vừa tốn thời gian lại vừa ảnh hưởng tới tài chính công ty.
Ngoài ra, hàng năm nên tổ chức đều đặn những cuộc thi tay nghề giỏi giữa các phân xưởng và trao thưởng cho những ai có thành tích xuất sắc để thúc đẩy tinh thần sáng tạo trong nhân viên và nâng cao năng suất lao động.
Công ty cũng có sự khuyến khích tinh thần của nhân viên thông qua khen ngợi, tuyên dương trên bảng tin, trước các cuộc họp…đi kèm đó là những phần thưởng vật chất nho nhỏ để tăng sự nhiệt tình, tự nguyện tham gia vào các hoạt động, các khóa đào tạo của công ty.
Ngoài việc khuyến khích nhân viên bằng các hình thức đó, công ty cần phải đề ra những nội quy, quy định trong từng lĩnh vực cụ thể buộc mọi thành viên trong công ty tuân thủ và chấp hành. Tùy theo mức độ vi phạm mà nhân viên chịu mức kỷ luật từ nhắc nhở cảnh cáo cho đến đuổi việc. Công ty cũng nên gắn lợi ích mà người lao động đạt được với kết quả lao động mà họ tạo ra. Điều này khuyến khích họ, muốn có nhiều lợi ích thì không có cách nào ngoài cách phải tự vận động, ý thức được mình làm những gì. Chẳng hạn trong lĩnh việc quản trị nguyên vật liệu, muốn được thưởng thì nhân viên phải ý thức được việc mình sử dụng nguyên vật liệu sao cho tiết kiệm mà vẫn hiệu quả.
Cần đào tạo thường xuyên hơn nữa cho lực lượng cán bộ phòng vật tư để nắm bắt kịp thời những mô hình, những biện pháp trong quản trị và cung ứng nguyên vật liệu sao cho phù hợp với khả năng của công ty và theo kịp xu hướng hiện đại ngày nay.
Điều kiện thực hiện:
Công ty cần có sự nhất trí của các cấp trong nội bộ, cũng quyết tâm phấn đấu đạt được những mục đích đã đề ra.
Công ty cần trích một khoản chi phí nhất định cho công tác này, đồng thời có những kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn của công ty.
Khi đề ra những biện pháp về mặt kinh tế, hành chính, giáo dục cần có sự đan xen hài hòa, phù hợp với thực tế của công ty.
Hiệu quả thực hiện:
Qua quá trình đào tạo và bồi dưỡng, trình độ của nhân viên đã tăng lên đáng kể, đồng thời ý thức của nhân viên trong quá trình làm việc cũng cải thiện nhiều.
Nhờ vào các biện pháp khuyến khích và động viên tinh thần đúng lúc, tinh thần trách nhiệm của mọi người cũng được nâng cao, những ý kiến sáng tạo ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong quá trình sản xuất, mọi người có ý thức gắn bó với công ty lâu dài hơn. Đó là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một công ty.
Một số kiến nghị với Nhà nước
Trong thời đại cạnh tranh gay gắt như ngày nay, để có thể tạo được thế bình đẳng trong cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo được thế chủ động của mình, đồng thời về phía Nhà nước cũng cần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia vào quá trình vận động kinh tế của đất nước. Một vấn đề quan trọng và không thể thiếu được đó là các yếu tố pháp luật và quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Vì vậy, để có thể thực hiện được những mục tiêu đề ra trong thời gian tới thì ngoài nỗ lực của công ty, công ty cũng cần hỗ trợ từ phía Nhà nước ở một số lĩnh vực sau:
Về thể chế, chính sách:
Dệt may là một trong ba ngành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam. Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích phát triển ngành dệt may: ưu tiên các dự án đầu tư vào ngành dệt may, sử dụng các cộng cụ thuế hợp lý hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập máy móc để đảm bảo tính cạnh tranh về giá cho các sản phẩm trong nước, trang thiết bị, tập trung đầu tư hơn nữa cho ngành dệt may và sản xuất nguyên vật liệu may mặc…
Nhà nước cũng cần có một hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ. Các bộ luật phải thông thoáng, việc làm các thủ tục nhập khẩu phải nhanh gọn, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Điều này sẽ tạo cho các doanh nghiệp trong nước làm ăn được với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Nhà nước cũng cần nghiên cứu để tạo ra “sân chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn nước ngoài , tạo điều kiện phát triển cho ngành dệt may.
Là một thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO, để tạo cơ hội cho sự phát triển công bằng, Việt Nam cũng cần tham gia các vòng đàm phán liên quan tới dệt may nước nhà, đặc biệt cần chú trọng tới đầu tư cho ngành dệt và phụ liệu ngành may mặc.
Về đầu tư:
Từ khi gia nhập vào hiệp hội may mặc quốc tế, Việt Nam tuy có sự gia tăng đáng kể về giá trị gia tăng, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là gia công và chế biến sản phẩm cho các quốc gia phát triển chứ chưa tự lực sản xuất từ khâu đầu tới cuối. nguyên nhân sâu sa là Việt Nam chưa chủ động trong việc tự cung nguồn nguyên vật liệu, chiếm đến 70% là phải nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài.
Để phát triển và đưa ngành dệt may sang một trang mới, Nhà nước cần có những biện pháp phát triển nguyền nguyên phụ liệu tại chỗ cho ngành như đầu tư và phát triển cây bông, các nhà máy xơ nhân tạo nhằm cung cấp nguyên vật liệu cho dệt may, cần sớm quy hoạch lại tổng thể vùng bông, đưa bông vào cơ cấu cây trồng nông nghiệp, khuyến khích người dân làm giàu với cây bông.
Trên thực tế, từ năm 2005 Nhà nước đã phê duyệt dự án xây dựng trung tâm nguyên phụ liệu da giầy - dệt may Liên Anh ( Bình Dương) với vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ VNĐ. Đây là một trong những doanh nghiệp tư nhân có những bước bứt phá lớn trong quá trình tìm ra nguồn nguyên liệu đầu vào, với mục đích chính là nâng cao vị thế cạnh tranh cho hai ngành may mặc và da giầy Việt Nam. Tuy nhiên sau khi đi vào hoạt động đầu năm 2009, trung tâm đã không phát huy được thế mạnh của mình, trong giai đoạn đó Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ kịp thời để giúp đỡ trung tâm vượt qua khó khăn. Hiện nay đã có kế hoạch huy động và hỗ trợ các đơn vị thành viên như Tập đoàn dệt may Việt Nam (VINATEX) mua 20% cổ phần của Trung tâm nguyên vật liệu da giầy - may mặc Liên Anh, bước đầu phối hợp hỗ trợ bước qua giai đoạn khủng hoảng này. Bên cạnh đó Nhà nước cũng có những hỗ trợ ưu đãi về vốn để các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất.
Ngoài ra giao thông vận tải cũng chiếm một vị trí không nhỏ trong quá trình kinh doanh của một quốc gia. Nhưng hiện nay hệ thống giao thông của nước ta còn nhiều hạn chế như hệ thống đường giao thông xuống cấp, các trạm kiểm soát chưa được kiểm soát chặt chẽ, gây ra tình trạng nhũng nhiễu… Vì vậy, một vấn đề cấp thiết hiện nay là Nhà nước cần đầu tư một hệ thống giao thông vận tải hoàn chỉnh, thuận tiện cho quá trình lưu chuyển hàng hóa., đồng thời cũng cần đề ra các biện pháp để giảm thiểu các tình trạng bất cập nêu trên.
Về vấn đề nâng cao nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực tốt là một sự đảm bảo cho sự phát triển vững mạnh của ngành, chính vì vậy việc phát triển đội ngũ nhân viên với chuyên môn cao, tay nghề giỏi đang là nhu cầu cấp thiết của ngành dệt may nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Hiện nay, nhu cầu lao động trong ngành dệt may rất lớn nhưng lao động chủ yếu là những người có trình độ thấp, công nhân chiếm đa số là những người mới chỉ tốt nghiệp cấp 2, 3. Vì vậy, Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ việc đào tạo phù hợp cho lực lượng lao động ở các vùng nông thôn như đào tạo miễn phí hay đào tạo tập trung nâng cao trình đọ văn hóa và tay nghề…
Một thực tế đáng buồn là hiện nay ở Việt Nam số lượng trường đào tạo về thời trang, công nghệ may, các hoạt động nghiên cứu và triển khai trong ngành dệt may còn rất hạn chế. Điều này yêu cầu Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển đội ngũ các nhà tạo mẫu, các chuyên gia trong ngành có trình độ chuyên môn cao nhằm tạo ra những sản phẩm mới, độc đáo và phù hợp với xu hướng thị trường ngày ngày biến đổi.
KẾT LUẬN
Có một điều cần khẳng định rằng, công tác quản trị nguyên vật liệu có vai trò cốt yếu đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Thông qua công tác quản trị nguyên vật liệu giúp cho công ty an toàn hơn trong việc quản lý sự mất mát, hao hụt, lãng phí nguyên vật liệu, tăng tốc độ chu chuyển vốn, qua đó tăng cường tích lũy vốn.
Nghệ thuật quản lý như một công cụ sắc bén giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và hiệu quả hơn, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường gặp nhiều biến động như ngày nay.
Qua quá trình thực tập tại công ty TNHH MTV Dệt kim Đông Xuân, em đã nắm bắt được những điểm cơ bản trong quá trình quản trị nguyên vật liệu, từ đó rút ra được những ưu điểm cần phát huy, đồng thời phát hiện những mặt tồn tại cần khắc phục nhằm góp phần hoàn thiện hơn công tác quản lý. Thời gian thực tập tuy không nhiều nhưng đã giúp em rất nhiều trong việc củng cố và áp dụng những kiến thức học trên ghế nhà trường vào thực tế.
Để đạt được kết quả như ngày hôm nay, em đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ nhân viên công ty đồng thời nhờ sự chỉ bảo tận tình của cô giáo Ngô Thị Việt Nga.
Tuy nhiên, chuyên đề còn có những khó khăn khách quan không tránh khỏi những thiếu sót, do vậy em rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo bộ môn, cùng các cán bộ công nhân viên công ty để em có thể hoàn thiện chuyên đề thực tập của mình hơn nữa.
Em xin chân thành cám ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Ngọc Huyền(chủ biên) - Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp – NXB ĐH Kinh tế quốc dân – 2007.
Nguyễn Ngọc Huyền(chủ biên) – Giáo trình Tính chi phí kinh doanh – NXB ĐH Kinh tế quốc dân – 2009.
PGS.TS Lưu Thị Hương - PGS.TS Vũ Duy Hào – NXB ĐH Kinh tế quốc dân - Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – 2007.
PGS.TS Ngô Kim Thanh - PGS.TS Lê Văn Tâm – Giáo trình Quản trị chiến lược - NXB ĐH Kinh tế quốc dân- 2009.
PGS.TS Đặng Đình Đào - Giáo trình Thương mại doanh nghiệp - NXB Thống Kê - 2002.
TS. Nguyễn Văn Phúc - Giáo trình Quản lý đổi mới công nghệ - NXB Thống kê - 2002.
Website : www.thietbimaymac.com - 70% nguyên liệu ngành dệt may phải nhập khẩu.
Website : www.vietnamspinning.org.vn - ngành dệt may: tại sao phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu?
Website : www.lienanhvietnam.com - Kết luận của thứ trưởng Bộ Công Thương Bùi Xuân Khu với TTNPL Liên Anh.
Website: www.doximex.com.vn
Tài liệu ISO 9000 của công ty TNHH một thành viên Dệt Kim Đông Xuân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26475.doc