Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bả vệ che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách chế độ BHXH, cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng được đổi mới căn bản. Nội dung quan trọng nhất của việc đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH là việc hình thành quỹ BHXH tập trung thống nhất, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của các bên tham gia BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH theo Luật định. Chủ sử dụng lao động và người lao động phải tham gia đóng BHXH thì người lao động mới được hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, không đóng không hưởng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được đầu tư tăng trưởng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nội dung đổi mới về cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng đã bộc lộ ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần hơn nữa vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội bên cạnh những đổi mới chung về chính sách BHXH thì quỹ BHXH cũng phải không ngừng được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Đề tài “Hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam” đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện đổi mới hơn nữa cơ chế quản lý quỹ BHXH.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu của đề tài. Hoàn thành được đề tài này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự đóng góp , giúp đỡ tích cực của thầy giáo và các cán bộ Vụ BHXH. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
109 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tham gia BHXH
Để duy trì sự tồn tại và phát triển, con người phát sinh nhiều loại nhu cầu khác nhau. Khi thu nhập thấp, mức sống chưa cao thì thì nhu cầu cấp thiết là thoả mãn điều kiện ăn, ở, mặc. Tất nhiên người ta cũng không thể không dành dụm một phần thu nhập để đảm bảo cuộc sống khi ốm đau và tuổi già. Khi sản xuất hàng hoá phát triển, thu nhập được nâng lên, mức sống được nâng lên, lúc đó con người phát sinh nhiều nhu cầu mới, đa dạng và phong phú hơn. Mức độ dành dụm đảm bảo cuộc sống khi ốm đau, tai nạn và về già cũng tăng càng nhiều hơn, thường xuyên hơn. Đó là nhu cầu về BHXH. Như vậy, nhu cầu về BHXH của người lao động luôn luôn phát sinh gắn liền với quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Kinh tế, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về BHXH cũng ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
Do đặc điểm nhu cầu BHXH rất phong phú, đa dạng và đan xen lẫn nhau nên việc dự báo nhu cầu BHXH rất khó khăn phức tạp. Theo kinh nghiệm để dự báo được nhu cầu BHXH cần phải dựa trên các cơ sở sau đây:
Căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu câu của bản thân người lao động và gia đình. Nếu người lao động không đủ thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình họ thì không thể nói đến nhu cầu BHXH. Vì vậy các chỉ tiêu để tính toán nhu cầu BHXH bao gồm:
+ Thu nhập bình quân của người lao động hoặc của một hộ gia đình.
+ Cơ cấu thu nhập theo ngành nghề, khu vực và tính ổn định của nó.
+ Chỉ tiêu bình quân của một người hoặc của một hộ gia đình.
+ Cơ cấu chi tiêu của từng ngành , khu vực và tính ổn định của nó.
+ Mức độ tích luỹ.
Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trên là căn cứ để dự báo nhu cầu BHXH. Nếu thu nhập của một hộ gia đình bằng hoặc thấp hơn chi tiêu thì đương nhiên chưa có nhu cầu về BHXH vì chưa có điều kiện tiết kiệm để tham gia BHXH. Đây là một vấn đề vừa mạng tính lý luận vừa mang ý nghĩa thực tiễn đối với khu vực nông nghiệp nước ta khi mà mức sống của người dân ở khu vực này còn thấp. Đây là căn cứ có ý nghĩa quyết định để dự báo nhu cầu BHXH, làm cơ sở để mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong các thành phần kinh tế.
Căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu cầu BHXH của xã hội, bao gồm:
+ Thu nhập quốc dân hoặc tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc các chỉ tiêu mạng tính bình quân đầu người.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
+ Thu nhập ròng của các cơ sở kinh tế hằng năm.
+ Các chỉ tiêu liên quan khác.
Các chỉ tiêu này nhằm xác định mức độ tích lũy hằng năm của nền kinh tế quốc dân và các cơ sở kinh tế. Nếu có tích lũy thì Nhà nước và các cơ sở kinh tế (Chủ sử dụng lao động) mới có điều kiện đóng và trợ giúp cho quỹ BHXH. Từ đó mới thực hiện mối quan hệ 3 bên: Nhà nước, Chủ sử dụng lao động và người lao động tham gia BHXH, nhằm bảo đảm tính an toàn, ổn định của quỹ BHXH.
Dự báo số người tham gia BHXH: Đây là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc bảo đảm an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến các giải pháp để tăng số lượng người đóng BHXH. ở Mã lai có 8,8 triệu lao động thì có 8 triệu người tham gia đóng bảo hiểm xã hội, chiếm 90%; Mỹ có 95% số lao động tham gia đóng BHXH ... Đối với nước ta, một nước có tốc độ phát triển dân số khá nhanh, mặc dù Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp hạn chế nhưng vẫn ở mức cao (năm 2000 là 2,1%). Theo tính toán của các nhà nhân khẩu học, để tăng dân số từ 17 triệu người lên 34 triệu người phải mất 34 năm nhưng để tăng dân số từ 30 triệu lên 60 triệu người thì thời gian rút ngắn còn 25 năm... Đây vừa là hậu quả nặng nề đối với việc phát triển kinh tế xã hội, nhưng lại là điều kiện tiềm năng rất lớn về nhu cầu BHXH. Hiện nay, ở nước ta có khoảng hơn 45 triệu người lao động nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà không phải tất cả những người làm việc trong nền kinh tế quốc dân đều tham gia BHXH. Ngoài số người là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc với mục tiêu hỗ trợ cho toàn dân trước những rủi ro, đảm bảo cuộc sống bình thường cho mọi người dân và thực hiện công bằng xã hội cần phải tạo điều kiện thuận lợi và thu hút ngày càng nhiều người lao động tham gia BHXH.
Trước mắt, do tính chất của việc làm, thu nhập và khả năng nắm bắt được thông tin về những người làm việc trong các cơ sở kinh tế xã hội nên chỉ có thể thu hút họ vào hình thức BHXH tự nguyện. Bên cạnh đó do tầm quan trọng và ý nghĩa xã hội, BHXH sẽ phải cân nhắc khả năng và cần phải thu hút người lao động tham gia BHXH tự nguyện ở mức cao nhất có thể đạt được. Trên quan điểm đó, dự báo số người có thể tham gia BHXH trong giai đoạn đến năm 2010 như sau:
Bảng 17: Dự báo số người tham gia BHXH
(2001 - 2010)
(Đơn vị tính: 1000 người)
Năm
Chỉ tiêu
2001
2005
2010
1. Dân số
82000
87000
2. Số người trong độ tuổi lao động
50650
55575
3. Số người tham gia BHXH bắt buộc
6500
9000
4. Số người tham gia BHXH tự nguyện
4400
8000
(Nguồn: Vụ BHXH)
ở nước ta, lực lượng lao động rất đông năm 2000 khoảng 45 triệu người nhưng số người tham gia BHXH đến hết năm 2000 mới có 3558 nghìn người tham gia BHXH, chủ yếu là khu vực Nhà nước, số lao động ngoài quốc doanh mới chỉ có 513 nghìn người. Như vậy số người chưa tham gia BHXH ở nước ta còn rất lớn khoảng hơn 40 triệu người. Vì vậy, đối tượng tham gia BHXH cần phải được mở rộng thì phần đóng góp của người lao động sẽ gồm:
+ Sự đóng góp của công chức Nhà nước.
+ Sự đóng góp của lực lượng vũ trang.
+ Sự đóng góp của người lao động trong các doanh nghiệp.
+ Sự đóng góp của nông dân và lao động nông thôn.
+ Sự đóng góp của lao động nước ngoài tại Việt Nam (nếu có).
Để dự báo được số lượng người tham gia BHXH trong một thời kỳ nào đó, theo kinh nghiệm thường căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau:
+ Tốc độ phát triển dân số hàng năm, tỷ lệ chết hàng năm.
+ Tổng số lao động trong độ tuổi lao động, trong đó phân loại theo giới tính, theo độ tuổi.
+ Tổng số lao động theo ngành, theo khu vực, theo thành phần kinh tế...
+ Tuổi thọ bình quân.
+ Thu nhập bình quân đầu người theo từng khu vực, ngành.
+ Tỷ lệ thất nghiệp hàng năm.
...
Trên cơ sở dự báo được số người tham gia BHXH mới dự báo được nguồn thu của quỹ BHXH, từ đó mới cân đối được thu chi quỹ BHXH.
2. Dự báo quỹ BHXH giai đoạn 2001 - 2010.
Trong giai đoạn này quỹ được sử dụng vào các mục đích sau đây:
* Chi cho các chế độ BHXH.
* Chi cho quản lý.
* Chi cho đầu tư.
* Chi khác.
Trong phần chi cho các chế độ BHXH, dự kiến mở rộng thêm chế độ thất nghiệp. Dự báo đến 2010 BHXH Việt Nam dự kiến mức thu phí và chế độ hưởng như sau: Người lao động đóng 6% (hiện hành 5%, thêm 1% cho chế độ thất nghiệp và chi quản lý), chế độ hưởng là 70% mức lương đóng BHXH thất nghiệp trong thời gian tối đa là 6 tháng.
2.1. Dự báo thu BHXH
- Căn cứ dự báo:
+ Số người dự báo tham gia BHXH giai đoạn 2001 đến 2010.
+ Mức lương làm căn cứ đóng BHXH bình quân 1 người của năm 1998, từ năm 2000 trở đi tính bù giá voà lương (tính bình quân tỷ lệ trượt giá 5%/năm).
+ Tỷ lệ đóng BHXH: Chủ sử dụng lao động đóng 20%, người lao động đóng 6%.
Bảng 18: Dự báo thu BHXH
(2001 - 2010)
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm
Chỉ tiêu
2001
2005
2010
Thu BHXH bắt buộc
6.657.954
11.939.739
21.099.420
Thu BHXH tự nguyện (Cả đối tượng phường, xã)
857.396
1.528.348
3.502.220
Tổng cộng
7.515.350
13.468.087
24.601.640
(Nguồn: Vụ BHXH )
2.2. Dự báo chi quỹ BHXH.
- Căn cứ dự báo:
+ Tổng số người dự kiến nghỉ hưu giai đoạn 2000-2010 do quỹ BHXH đảm bảo.
+ Dự kiến mỗi năm số người về hưu khoảng 9 vạn người.
+ Lương hưu bình quân 1 người có cộng thêm tỷ lệ trượt giá (bình quân 5%/ năm).
+ Tỷ lệ chết bình quân/năm là 0,0032.
+ Chi cho ốm đau, thai sản là 4% tên tổng số lương làm căn cứ đóng BHXH.
+ Bảo hiểm y tế của số người nghỉ hưu tính 3% lương hưu có tính thêm trượt giá.
+ Tiền mai táng phí, tuất 1 lần, tuất định suất tính thêm tỷ lệ trượt giá.
Bảng19: Dự báo chi quỹ BHXH
(2001-2010)
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2001
2005
2010
1. Số người hưởng lương hưu từ quỹ BHXH.
Người
640.000
1.090.000
2. Tổng số tiền dự kiến chi từ quỹ BHXH , trong đó:
- Chi lương hưu
- Chi bảo hiểm y tế
- Chi ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN.
- Chi tiền tuất.
- Chi quản lý bộ máy.
Triệu đồng
-
-
-
-
-
1.748.070
981.267
28.344
406.427
46.983
285.049
6.112.434
3.391.172
101.735
1.836.882
243.922
538.723
12.320.648
7.371.279
221.138
3.246.064
498.102
984.065
(Nguồn: Vụ BHXH)
2.3. Cân đối thu- chi quỹ BHXH
Bảng 20: Cân đối thu- chi quỹ BHXH
( 2002- 2010).
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm
Tổng thu BHXH
Tổng chi BHXH
Số dư
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
7.257.668
8.623.973
10.108.765
11.720.476
13.468.087
15.361.161
17.409.874
19.625.052
22.018.219
24.601.640
2.703.150
3.448.827
4.262.231
5.148.354
6.112.434
7.161.690
8.300.592
9.353.478
10.873.101
12.320.648
4.554.518
5.175.146
5.846.534
6.572.122
7.355.653
8.199.471
9.109.282
10.089.574
11.145.118
12.280.992
(Nguồn: Vụ BHXH )
Nếu tính cả tồn tại quỹ qua các năm, thì đến năm 2010 quỹ BHXH sẽ có số dư là 94.293.606 triệu đồng.
Trên cơ sở dự báo trên giúp BHXH Việt nam phối hợp cùng với các cơ quan chức năng nghiên cứu hoàn thiện các chính sách BHXH, làm cho ngành BHXH Việt nam ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và là nhu cầu của mọi người lao động Việt nam, từ đó đạt kết quả cao hơn trong tương lai.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới quản lý quỹ BHXH Việt nam.
1. Một số quan điểm về cơ chế quản lý quỹ BHXH.
*) Trên giác độ vĩ mô, cần xây dựng hệ thống BHXH thống nhất do Nhà nước tổ chức.
Trong hệ thống này có:
+ Hệ thống BHXH bắt buộc đối với công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang, người lao động làm công ăn lương ở những nơi có quan hệ lao động.
+ Hệ thống BHXH tự nguyện áp dụng cho lực lượng lao động trong các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp, lao động tự do, buôn bán ở thành thị...
Đối tượng áp dụng loại hình BHXH bắt buộc thực hiện chế độ BHXH theo quy định hiện hành và “từng bước hình thành quỹ hỗ trợ thất nghiệp ở thành thị”. Đối tượng áp dụng loại hình BHXH tự nguyện thì thực hiện một hoặc hai chế độ có cân nhắc, lựa chọn trong từng giai đoạn cho từng thành phần kinh tế tránh khuynh hướng rập khuôn, máy móc hoặc nôn nóng. Như vậy, mỗi người lao động trong các thành phần kinh tế đều được quyền tham gia và được hưởng thụ BHXH.
Quan điểm này phù hợp với các quy định trong hiến pháp của nước ta góp phần làm lành mạnh hoá thị trường lao động và thực hiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
*) Từng bước mở rộng dần các chế độ BHXH:
Trong xu thế hoà nhập BHXH với an sinh xã hội, từng bước mở rộng các chế độ BHXH (theo công ước số 102 ILO hiện nay có 9 chế độ). Tuy nhiên, việc mở rộng các chế độ này cần phải thực hiện từng bước, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, từng đối tượng ở các thành phần kinh tế khác nhau.
*) Quỹ BHXH phải được quản lý tập trung, thống nhất:
Từ năm 1995 đến nay, quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởg theo quy định của Chính phủ. Việc quản lý quỹ thống nhất để chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH là một bước ngoặt trong hoạt động BHXH ở Việt nam mà ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực chưa thực hiện được. Một số nước trong khu vực cũng đang nghiên cứu thực hiện mô hình quản lý tập trung thống nhất như Việt nam.
Qua hơn 5 năm thực hiện mô hình quản lý tập trung thống nhất quỹ BHXH có thể thấy được những ưu điểm nổi bật sau:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Vì trước đây Chính phủ điều hành thực hiện thông qua 3 cơ quan (Bộ Tài chính, Bộ LĐTBXH, Tổng LĐLĐ Việt nam) nay chỉ có 1 cơ quan quản lý quỹ là BHXH Việt nam.
+ Việc thu BHXH được quản lý thống nhất không phân tán nên hiệu quả cao. Việc đầu tư tăng trưởng quỹ có tiềm lực lớn góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Quản lý chi tiêu chặt chẽ: Do tập trung vào một đầu mối, BHXH Việt nam có điều kiện cải cách quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ, quy trình chi trả cho đối tượng, khắc phục đượchiện tượng giả mạo hồ sơ, đồng thời chi trả kịp thời, quản lý tài chính chặt chẽ, giảm lãng phí thất thoát đến mức thấp nhất.
+ Do cải tiến được quy chế thanh toán các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN từ quy chế khoán chi của Tổng Liên đoàn lao động sang quy chế thực chi, thực thanh toán nên đã tiết kiệm được cho quỹ. Chi quản lý bộ máy năm 1997 Chính phủ định mức trần là 6% trên tổng thu BHXH, nhưng thực tế BHXH Việt nam đã tiết kiệm, chi hết 3,8% tổng số thu của năm 1998, đã giảm chi được so với mức trần cho phép là 2,2%. Sở dĩ giảm chi được dưới mức trần là do BHXH Việt nam thực hiện một số khoản chi tiêu theo quy định của Nhà nước. Còn các khoản chi đặc thù đều được Hội đồng quản lý xem xét chặt chẽ.
Từ những thực tế nêu trên, khẳng định quỹ BHXH Việt nam được quản lý theo mô hình tập trung thống nhất vào một đầu mối là hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta và là xu hướng mà các nước trên thế giới đang thực hiện. Vì vậy, từ nay đến năm 2010 quỹ BHXH cần phải được tập trung thống nhất, không chia nhỏ quỹ cho nhiều cơ quan quản lý.
*) Phải thực sự đổi mới cơ chế quỹ BHXH theo hướng tách quản lý Nhà nước ra khỏi hoạt động quản lý kinh tế và nghiệp vụ chuyên môn của BHXH.
Phải xây dựng chính sách quốc gia về BHXH và đảm bảo tính thống nhất và nhất quán trong thực hiện để giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHXH nói chung và trong quỹ BHXH nói riêng. Đồng thời quyết định các mức thu, chi và chi trợ cấp trong từng chế độ BHXH, quyết định hệ thống tổ chức BHXH.
Quản lý Nhà nước phải thông qua các công cụ kiểm tra, kiểm soát về BHXH, đặc biệt phải là chỗ dựa, nơi gửi gắm niềm tin của tất cả người lao động thuộc các thành phần kinh tế tham gia BHXH.
*) Quan điểm về bảo toàn và phát triển quỹ BHXH:
Nhằm từng bước giảm dần sự bao cấp của Nhà nước trong hoạt động BHXH. Quỹ BHXH cần phải được bảo toàn giá trị và phải được đầu tư để tăng trưởng quỹ. Các lĩnh vực đầu tư phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế, xã hội.
*) Hệ thống BHXH của Việt nam là hệ thống chuyển đổi chứ không phải xây dựng mới hoàn toàn:
Hoàn thiện hệ thống BHXH cần phải tính đến việc kế thừa đội ngủ làm công tác BHXH có năng lực và những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện các chính sách BHXH ở giai đoạn trước. Đồng thời phải tính toán kỹ càng quỹ BHXH sao cho phù hợp với hiện tại và trong tương lai.
*) Quan điểm về tuổi nghỉ hưu:
Tuổi nghỉ hưu không phải là bất biến mà cần phải điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu phải trên cơ sở tổng hợp các nhân tố sinh học, dân số, tài chính và các nhân tố kinh tế, xã hội khác không nên áp đặt ý chí chủ quan.
Quy định tuổi nghỉ hưu cần được cân nhắc giữa các nhóm lao động khác nhau, có tính đến yếu tố giới tính.
Trong bối cảnh lao động vừa thiếu, vừa thừa như nước ta hiện nay, nên xem xét các vấn đề quy định tuổi nghỉ hưu theo khoảng tuổi nghỉ hưu để vừa phù hợp với hoàn cảnh của từng cá nhân người lao động vừa có lợi cho việc sử dụng lao động.
Vấn đề tuổi nghỉ hưu cần phải được tính toán một cách nghiêm túc, có khoa học vì đây là đối tượng hưởng trợ cấp BHXH chiếm số lượng lớn.
2. Về mặt quản lý Nhà nước.
2.1. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đến sự nghiệp BHXH.
Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế, xã hội đều cần đến sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Hoạt động BHXH luôn luôn cần có sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Vì mục tiêu của ngành BHXH là mục tiêu phục vụ con người, vì lợi ích vật chất của người lao động. Mục tiêu đó suy cho cùng chính là mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và góp phần giữ vững thể chế chính trị của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt BHXH Việt nam là một ngành mới được thành lập các chế độ, chính sách về BHXH chưa được hoàn chỉnh, cơ chế quản lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, đội ngũ cán bộ còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước để cho ngành BHXH phát triển đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đề ra. Tất cả những vấn đề đó BHXH Việt nam cần phải có sự chỉ đạo thường xuyên của Đảng và Nhà nước.
2.2. Xây dựng hệ thống pháp luật BHXH.
Xã hội ngày càng phát triển thì các hoạt động kinh tế, xã hội càng cần có sự đảm bảo pháp lý trong đó mọi công dân đều sống và làm việc theo pháp Luật, BHXH cũng không là một ngoại lệ. Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động BHXH nói chung và lĩnh vực quản lý quỹ BHXH nói riêng. Cho đến nay, Nhà nước đã hình thành được hệ thống pháp lý cơ bản và tương đối đầy đủ để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực hoạt động BHXH, bao gồm: Các điều Luật trong Bộ Luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994, trong pháp lệnh cán bộ công chức, trong Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt nam và trong các Nghị định, Quyết định, Điều lệ, các Thông tư và các văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện sự nghiệp BHXH.
Tuy nhiên, do tình hình thực tiễn đã thay đổi, hoạt động BHXH có liên quan nhiều đối tượng lao động và hoạt động phức tạp, một số văn bản pháp quy đã ban hành không còn phù hợp nữa, đã trở nên lỗi thời hoặc gây khó khăn trở ngại cho hoạt động BHXH. Vì vậy trong thời gian tới, cần giải quyết các vấn đề sau:
- Để có thể có được một hệ thống pháp luật về BHXH đầy đủ và đồng bộ thì trước hết phải sắp xếp, rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy đã ban hành trong lĩnh vực BHXH để sửa đổi , bổ sung và hoàn thiện. Ví dụ sửa đổi điều 17 Quyết định 20/1998/QĐ - TTg ngày 21/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ, sửa đổi và bổ sung một số điều không còn phù hợp trong Nghị định19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH và Quyết định số 606/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/09/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt nam.
- Ban hành các văn bản pháp quy mới để thực hiện loại hình BHXH tự nguyện cho mọi người lao động nói riêng và mọi người dân sống trên nước Việt nam nói chung, trong đó có quy định rõ mức đóng, mức hưởng, đối tượng tham gia. Đồng thời nâng cao khả năng thực thi của văn bản pháp lý trong lĩnh vực BHXH. Muốn thực hiện được những điều này thì ngoài việc đóng góp xây dựng và hoàn thiện của các chuyên gia, những cán bộ có kinh nghiệm trong và ngoài ngành thì việc học tập kinh nghiệm xây dựng khung pháp lý trong các văn bản quy định về BHXH của những nước khác cũng cần thiết.
- Khẩn trương xây dựng Luật BHXH tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động thu, chi và quản lý quỹ BHXH. Nội dung chính sách BHXH phải phù hợp với cơ chế đổi mới của Đảng và Nhà nước, phải thực sự tạo mọi điều kiện cho mọi người lao động ở các thành phần kinh tế đều có quyền tham gia, Luật BHXH phải xác định rõ hệ thống tổ chức hoạt động BHXH, phải có cơ chế kiểm tra, kiển sát và có chế định đủ mạnh để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Hiện nay, Quốc hội và Chính phủ đã giao cho Bộ LĐTBXH chủ trì cùng các Bộ ngành liên quan khác xây dựng Luật BHXH để trình Quốc hội xem xét và phê chuẩn vào cuối năm 2001. Nhưng công việc này còn tiến hành còn chậm.
- Kiện toàn các chính sách, pháp Luật khác có liên quan đến công tác quản lý thu, chi và đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
2.3. Cũng cố hoàn thiện về mặt tổ chức của BHXH Việt nam.
Hiện tại theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt nam và Quyết định số 606/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/09/1995 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt nam, hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Việt nam được thành lập từ Trung ương đến địa phương theo mô hình 3 cấp: Trung ương, tỉnh và huyện đã đi vào hoạt động đồng bộ từ ngày 01/10/1995.
Đến nay sau 5 năm hoạt động, bộ máy này đã làm tốt chức năng nhiệm vụ do Chính phủ và Thủ tướng giao cho, góp phần phát triển sự nghiệp BHXH nước nhà được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Điều đó khẳng định mô hình quản lý tập trung thống nhất vào một đầu mối là BHXH Việt nam là hợp lý. Trong thời gian tới cần khẳng định rõ mô hình quản lý quỹ tập trung thống nhất, không chia lẻ quỹ cho các Bộ ngành quản lý.
- Kiện toàn Hội đồng quản lý - cơ quan cao nhất của BHXH Việt nam trên cơ sở mở rộng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và số lượng thành viên của Hội đồng quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và thực hiện thu, chi, quản lý quỹ BHXH, bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản lý trong công tác đầu tư tăng trưởng quỹ, được quyền xem xét và lựa chọn thêm các phương án đầu tư thích hợp.
- Thành lập thêm đơn vị trực thuộc BHXH Việt nam để chuyên trách giúp Tổng giám đốc trong công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
2.4. Nhà nước tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế.
Với cơ chế kinh tế mới, Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất kinh doanh như tạo hành lang pháp lý cho việc sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thêm về vốn, công nghệ... giúp các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động vào làm việc. Đây là điều kiện thuận lợi để BHXH Việt nam tăng số người tham gia BHXH đồng thời tăng thu BHXH. Song vấn đề là Nhà nước phải duy trì được sự phát triển ổn định, các doanh nghiệp ăn nên làm ra và thu nhập của người lao động được đảm bảo.
Đối với quỹ BHXH, Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo hỗ trợ đầy đủ, kịp thời vào quỹ BHXH để quỹ chi trả cho các chế độ BHXH như lương hưu và các trợ cấp khác cho người nghỉ hưu và các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH trước năm 1995. Có như vậy mới đảm bảo cho quỹ BHXH tồn tại và phát triển, đồng thời nhằm ổn định đời sống cho các đối tượng và ổn định xã hội.
3. Về mặt quản lý sự nghiệp BHXH.
3.1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
Hiện nay, dân số nước ta khoảng 76 triệu người, trong đó có khoảng 45 triệu lao động, nhưng mới chỉ có khoảng hơn 3,5 triệu lao động tham gia BHXH. Do đó, số lao động chưa tham gia BHXH là rất lớn, những người này bao gồm các lao động trong các doanh nghiệp dưới 10 lao động, lao động ở nông thôn, lâm nghiệp. Như vậy, để thực hiện bình đẳng xã hội cần đa dạng hoá các loại hình BHXH để đảm bảo mọi người lao động trong tất cả các thành phần kinh tế có thể tham gia BHXH.
Hiện nay đối tượng tham gia BHXH bao gồm:
Các đối tượng đang thực hiện theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt nam.
- Người làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân bầu, dân cử và những người làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Các đối tượng trên đều hưởng 5 chế độ BHXH hiện hành.
Các đối tượng thực hiện theo Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 của Thủ tướng Chính phủ.
- Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng cả 5 chế độ.
- Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí (bản thân không phải đóng BHXH) được hưởng 2 chế độ: trợ cấp TNLĐ- BNN và chế độ tử tuất.
Các đối tượng quy định tại Nghị định 09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ.
- Bí thư đảng uỷ xã.
- Phó bí thư đảng uỷ xã, Chủ tịch HĐND xã, Chủ tịchUBND.
- Phó chủ tịch HĐND xã, Phó chủ tịch UBND xã, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Trưởng các đòan thể (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn TNCS), xã đội trưởng, trưởng công an xã.
- Uỷ viên UBND xã.
- Bốn chức danh chuyên môn: địa chính, tư pháp, tài chính kế toán, văn phòng UBND.
Mở rộng thêm các đối tượng:
- Người làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động.
- Người làm việc trong các hợp tác xã phi nông nghiệp.
- Người làm việc trong thuộc các đơn vị, cơ sở ngoài quốc doanh, các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh có thuê mướn lao động.
- Các tổ chức bán công, dân lập có thuê mướn lao động thuộc các ngành: giáo dục, văn hoá, du lịch...
- Người nước ngoài làm việc tại Việt nam.
Để tạo nguồn thu cho quỹ BHXH bằng cách mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến mọi người lao động thì phải quy định các loại hình BHXH thích hợp. Bộ Luật lao động cũng đã quy định 2 hình thức BHXH bắt buộc và tự nguyện.
Loại hình BHXH bắt buộc mới chỉ thực hiện đối với các đối tượng đã nêu trên. Cho nên trong thời gian tới loại hình BHXH bắt buộc phải cần phải được pháp luật quy định áp dụng đối với tất cả người lao động làm việc trong các đơn vị có quan hệ lao động tức là có quan hệ thuê mướn. Cụ thể có thể mở rộng BHXH bắt buộc đến người lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng 5 lao động trở lên. Xu hướng trong những năm tới lực lượng lao động ngoài quốc doanh sẽ tăng lên ngày càng nhanh do việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế và sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ và thương mại. Do vậy bảo vệ quyền lợi cho họ, thực hiện bình đẳng xã hội nên áp dụng loại hình BHXH bắt buộc.
Loại hình BHXH tự nguyện việc thực hiện rất khó khăn vì lực lượng lao động đa dạng, phức tạp, vừa mang tính chất thương mại, vừa mang tính chất xã hội tuỳ thuộc rất nhiều vào nhu cầu thị trường, mùa vụ và khả năng nắm bắt thông tin về các đối tượng này rất phức tạp. Do đó, loại hình BHXH tự nguyện cần phải nhanh chóng cụ thể hoá bằng văn bản pháp Luật. Loại hình này thực hiện cho các đối tượng sau:
+ Xã viên hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
+ Người lao động tự do.
+ Nhữmg người lao động tham gia BHXH thuộc diện bắt buộc muốn tham gia thêm BHXH tự nguyện.
Trong trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện không có khả năng đóng BHXH do các nguyên nhân khách quan thì cung nên được hưởng trợ cấp 1 lần, hoặc được bảo lưu tiền đóng BHXH đến khi người tham gia có điều kiện tiếp tục đóng BHXH. Số tiền đóng và số năm tham gia đóng BHXH được cộng dồn. Quỹ BHXH tự nguyện phải hoàn toàn hạch toán độc lập, cân đối thu chi. Nghĩa là có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít.
Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo hình thức trên đây một mặt bảo đảm sự bình đẳng xã hội, một mặt tạo nên sự lớn mạnh của quỹ BHXH, gắn chặt quyền lợi của người lao động với quỹ BHXH đưa quỹ trở thành một công cụ xã hội quan trọng.
3.2. Bổ sung hoàn thiện mức thu BHXH.
Hệ thống BHXH của Việt nam là hệ thống chuyển đổi, hiện tại số người thụ hưởng BHXH chủ yếu từ trước năm 1995. Vì vậy, số tiền từ Ngân sách Nhà nước chuyển sang cho quỹ BHXH rất lớn (bình quân khoảng 5000 tỷ đ/năm) để chi trả cho các đối tuợng này. Tuy vậy phần tiền này sẽ giảm dần đi vì số người hưởng sẽ giảm. Ngược lại phần đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động sẽ ngày càng tăng vì số người tham gia ngày càng đông. Tuy nhiên, do hệ thống chuyển đổi nên có một bộ phận khá đông người lao động hiện đang tham gia BHXH, đã có thời gian làm việc khá dài trong các cơ quan Nhà nước (bình quân 15 năm/người) trong thời gian đó họ không phải đóng BHXH. Số người này trong tương lai sẽ về hưu rất nhiều. Do vậy, hiện nay số dư của quỹ BHXH khá lớn nhưng phải chi trả cho số người đã có thời gian làm việc từ trước năm 1995 nhiều nên quỹ sẽ có sự thâm hụt.
Cần tiếp tục lấy nguyên tắc hạch toán cân đối thu - chi quỹ làm căn bản trong chính sách BHXH. Trên cơ sở nguyên tắc này, cần xác định mức đóng và mức trợ cấp cần hợp lý theo từng thời kỳ, phù hợp với sự biến động của giá cả và khả năng tăng trưởng quỹ BHXH. Tính toán nâng mức đóng BHXH là một nội dung hết sức quan trọng, tuy rằng nâng cao mức đóng BHXH là hết sức khó khăn, liên quan đến thu nhập của người lao động và chi phí đầu vào của sản xuất ở các doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta như hiện nay thì mức thu BHXH 20% trên lương, trong đó người lao động 5%, chủ sử dụng lao động 15% là phù hợp. Tỷ lệ này ở một số nước trong khu vực là từ 20% đến 40%. Nếu nâng mức đóng của người lao động lên nữa sẽ ảnh hưởng đến đời sông của người lao động. Vì mức thu nhập bình quân hiện nay chỉ từ 300.000đ đến 400.000đ/người. Sau khi đóng BHXH và các khoản đóng góp khác, người lao động chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu. Còn đối với chủ sử dụng lao động, tuy khoản đóng góp 15% được hạch toán vào giá thành sản phẩm, nhưng trong điều kiện sức mua của thị trường có hạn thì khó có thể tăng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động. Vì tăng mức đóng BHXH lên sẽ làm tăng giá thành, người tiêu dùng không chấp nhận, dẫn đến doanh nghiệp thua lỗ nên không có khả năng đóng BHXH.
Đương nhiên, nếu mở rộng ra các chế độ trợ cấp BHXH thì cũng phải tính đến nguồn bù đắp. Và lúc đó phải tính đến việc tăng phí đóng góp BHXH cho tương xứng với mức hưởng thêm các chế độ mới. Ví dụ: nếu Nhà nước cho áp dụng chế độ thất nghiệp thì ít nhất cũng phải thu thêm 5% trong đó người lao động phải đóng thêm 1%, chủ sử dụng lao động đóng thêm 4%, mức đóng này so với các nước còn thấp. Ví dụ: Thái lan đóng 15% lương cho chế độ thất nghiệp, trong đó người lao động đóng 5%, chủ sử dụng lao động đóng 5% và Nhà nước đóng 5%.
3.3. Chống thất thu nợ đọng BHXH.
Thực tế là đang có quá nhiều đơn vị sản xuất nhỏ và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thậm chí ngay cả doanh nghiệp Nhà nước cũng trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động. Theo thống kê, hiện nay số nợ đọng BHXH lên đến 500 tỷ đồng, tức khoảng 12% số thu BHXH. Việc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động bởi BHXH Việt nam sẽ đứng trước khả năng thiếu hụt nguồn chi trả.
Theo thống kê của BHXH Việt nam, hiện 80% doanh nghiệp với 73% lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc nhưng vẫn chưa tham gia BHXH. Hình thức man trá trong thu, chi BHXH chủ yếu vẫn là giả mạo hồ sơ hoặc khai không đúng tuổi đời, năm công tác để hưởng chế độ BHXH, chậm cắt giảm đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động khi hết thời hạn được hưởng. ở mốt số địa phương, tình trạng cắt chậm từ 1 đến 6 tháng là phổ biến. Việc cắt giảm định suất tuất cũng xảy ra tương tự. Bên cạnh đó là việc lập chứng từ giả, khai không đúng thời gian để hưởng chế độ ốm đau, thai sản, vừa hưởng tiền quỹ BHXH, vừa hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai giảm số lao động và quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Từ những thực trạng trên có thể thấy nhiều điểm trong Điều lệ BHXH qua thời gian đã bộc lộ kẻ hở. Ví dụ: Điều lệ quy định doanh nghiệp có 10 lao động hợp đồng từ 3 tháng trở lên mới có nghĩa vụ đóng BHXH. Các doanh nghiệp khai thác triệt để điều này để luồn lách. Họ chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng, sử dụng lao động theo mùa vụ (nhưng thực chất là làm việc liên tục), kê khai lao động chính thức dưới xuống 10 người để không bị bắt đóng BHXH. Cũng phải thấy rằng một số chế độ BHXH đối với người lao động còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội và sự dịch chuyển nhanh chóng cơ cấu trong lao động. Thậm chí hệ thống chính sách BHXH chưa đồng bộ và tính pháp lý chưa cao, quyền lợi của người lao động chưa được quan tâm thoả đáng, trong thực hiện còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan BHXH với các cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức công đoàn. Cùng với đó là cơ chế quản lý BHXH chưa hoàn thiện, hoạt động còn mang tính hành chính và chưa thực sự trở thành một cơ quan dịch vụ vì lợi ích của người lao động. Phải coi việc triển khai công tác BHXH ở các khu vực kinh tế là nhằm đạt tới sự công bằng cho mọi người lao động có quyền tham gia BHXH. Cần phải xử lý nghiêm minh và kiên quyết những vi phạm trong việc thực hiện chính sách BHXH, mức xử phạt cần cao hơn, nếu cần thiết phải đưa ra truy tố trước pháp Luật. Giao thêm quyền xử lý cho BHXH Việt nam để tăng thêm tính cưỡng chế trong việc chấp hành chế độ và chính sách BHXH.
3.4. Công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trước yêu cầu phải tăng cường khả năng duy trì và phát triển nguồn quỹ BHXH để có thể ngày càng giảm sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước thì nhiệm vụ của BHXH Việt nam trong thời gian tới phải nghiên cứu tìm ra được hình thức đầu tư vừa an toàn, vừa có hiệu quả cao. BHXH có liên quan, ảnh hưởng đến nhiều đối tượng trong xã hội, đặc biệt là người lao động và gia đình họ. Chính vì vậy, để có được hình thức đầu tư vừa đảm bảo an toàn, vừa có hiệu quả cao thực sự là bài toán khó đặt ra đối với BHXH Việt nam.
Tại mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ- TTg ngày 26/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ có quy định:
BHXH Việt nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ như:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại Nhà nước.
+ Cho vay đối với ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại Nhà nước.
+ Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Như vậy, trong 3 nội dung phân cấp đầu tư thì chỉ có nội dung thứ 3 là phải có sự chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và được Chính phủ bảo lảnh còn 2 nội dung trên Nhà nước phân cấp cho BHXH Việt nam được quyền quyết định đầu tư, Chính phủ không phải chỉ định và không được Chính phủ bảo trợ.
Nhiều ý kiến cho rằng, sự phân cấp đó chưa thật phù hợp, chưa đảm bảo cho việc bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển quỹ BHXH, trong thời gian tới Chính phủ cần có những chính sách hợp lý cho hoạt động đầu tư, tránh tình trạng số tiền đầu tư lại nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lạm phát hàng năm. Vấn đề đầu tư của quỹ BHXH cần phải thực hiện các biện pháp sau:
- Cần phải chia ra 2 loại đầu tư:
+ Nếu cho ngân sách Nhà nước vay theo chỉ định của Chính phủ thì có thể thực hiện với mức lãi suất thấp, ưu đãi, dưới mức lãi suất cho vay trên thị trường. Vì ngân sách Nhà nước vay là không phải để kinh doanh, mà để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế quốc dân, hoặc chi theo mục đích của Chính phủ.
+ Nếu cho các ngân hàng thương mại vay thì phải theo mức lãi suất của thị trường. Vì các ngân hàng thương mại vay là để kinh doanh lấy lãi. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại theo thị trường, trong khi đó lãi suất đi vay của quỹ BHXH lại theo lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất đi vay trên thị trường. Khoản lợi nhuận đó các ngân hàng thương mại được hưởng, gây thiệt hại đến quỹ BHXH của người lao động.
- Bổ sung nội dung phân cấp như sau:
+ Thêm mua công trái xây dựng tổ quốc vào nội dung nhất.
+ Thêm đoạn cuối: Được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ ở nội dung thứ 2.
+ Phải nói rõ các dự án và doanh nghiệp lớn được phép đầu tư ở nội dung thứ 3.
Có như vậy mới làm rõ được trách nhiệm, quyền hạn của BHXH Việt nam đến đâu, còn lại phải có sự chỉ định của Chính phủ. Nhưng nói chung, dù có phân cấp quyền hạn và trách nhiệm trong việc đầu tư quỹ BHXH thì BHXH Việt nam và Chính phủ đều phải bảo đảm nguyên tắc trong đầu tư tăng trưởng quỹ thì mới đảm bảo quỹ BHXH được bảo tồn và tăng trưởng.
- Về hình thức đầu tư:
Ngoài các hình thức đầu tư như hiện nay, Chính phủ nên cho phép quỹ BHXH được đầu tư dưới hình thức liên doanh, góp vốn cổ phần vào các ngành sản xuất kinh doanh đang có lãi cao và thu hồi vốn nhanh như: Điện tử viễn thông, các khu công nghiệp kỹ thuật cao, chế biến dầu khí, sự nghiệp xã hội (xây dựng cơ sở hạ tầng). Tuy vậy, đối với mỗi dự án cần có sự thẩm định kỹ lưỡng về mọi phương diện để đảm bảo đầu tư an toàn và có hiệu quả.
3.5. Hoàn thiện quy chế quản lý chi BHXH.
* Về tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH:
Nhìn tổng quát trên mặt bằng quy định tại công ước 102 của ILO và kinh nghiệm của các nước thì tỷ lệ hưởng BHXH ở nước ta là cao, trong khi mức đóng BHXH của nước ta lại thấp hơn của các nước và công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH lại chưa phát triển, còn bị hạn chế nhiều. Từ thực tế đó có thể cảnh báo quỹ BHXH của nước ta trong tương lai không xa sẽ bị mất cân đối, lúc đó ngân sách Nhà nước tất yếu sẽ phải trợ giúp mới đảm bảo chi trả đủ cho các đối tượng. Để hạn chế sự mất cân đối của quỹ BHXH cùng với các biện pháp nghiên cứu tăng thu, tăng trưởng quỹ, ngay từ bây giờ phải xem xét mức hưởng và điều kiện hưởng của một số chế độ.
Ví dụ: Trợ cấp hưu trí, điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí ở nước ta Điều 145 Bộ Luật lao động quy định: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, có thời gian đóng BHXH 20 năm. Quy định điều kiện nghỉ hưu như vậy là phù hợp tình hình thực tế nước ta và cũng phù hợp với đa số các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong một số ngành nghề đặc thù, tuổi về hưu lại quá thấp, như quân đội có trường hợp 38 đến 40 tuổi đã về hưu, hoặc phổ biến đối với các ngành nghề độc hại, nặng nhọc được Nhà nước cho phép nghỉ hưu trước 5 tuổi so với quy định. Việc giảm tuổi về hưu có ý nghĩa cân đối cung cầu về lao động trong giai đoạn hiện nay. Nhưng giảm tuổi về hưu lại có ảnh hưởng rất lớn đến cân đối quỹ BHXH vì các lý do sau:
+ Giảm 5 năm đóng BHXH.
+ Tăng chi lương hưu cho người lao động thêm 5 năm (tính theo tuổi thọ bình quân).
+ Tăng chi phí mua bảo hiểm y tế cho người về hưu thêm 5 năm nữa.
+ Tăng thêm một số chi phí khác.
Như vậy, nếu giảm tuổi về hưu cũng có nghĩa là quỹ BHXH sẽ phải giảm năm đóng BHXH của một người lao động và quỹ BHXH sẽ phải chi thêm hàng nghìn tỷ đồng. Đây là vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến quỹ BHXH. Tổ chức ILO đã khuyến cáo các nước thành viên vấn đề này. Hiện nay, xu hướng của các nước trên thế giới là tăng tuổi về hưu. Vì vậy, đối với nước ta cũng phải tính đến việc tăng tuổi về hưu để đảm bảo cân đối quỹ BHXH.
*Tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí:
Điều 67 công ước 102 của ILO quy định người về hưu được hưởng 40% lương đóng BHXH. ở nước ta, tỷ lệ này tối đa là 75% mức lương đóng BHXH. Trước mắt nước ta chưa thể kéo tỷ lệ trợ cấp xuống như mức quy định của ILO. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, thu nhập người lao động nâng cao, lúc đó sẽ phải nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ trợ cấp hưu trí xuống để tạo cân đối quỹ BHXH.
Ngoài ra ở một số nơi có một số trường hợp lơi dụng BHXH để trục lơi cá nhân và đã gây không ít thiệt hại cho quỹ BHXH. Để có thể ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất cơ quan BHXH cần có biện pháp sau:
+ Rà soát lại các văn bản quy định điều kiện hưởng BHXH.
+ Thường xuyên kiểm tra các doanh nghiệp và cơ quan khi có những biến động bất thường về tình trạng ốm đau, thai sản để hạn chế tiêu cực.
+ Trong việc cấp phát sổ hưu cũng cần có sự quản lý chặt chẽ giữa các địa phương nhằm tránh tình trạng một người về hưu có nhiều sổ hưu ở nhiều địa phương khác nhau.
+ Nên có hình thức xử phạt thích đáng đối với cá nhân và tổ chức lợi dụng BHXH để trục lợi.
3.6. Công tác thanh tra, kiểm soát tài chính đối với quỹ BHXH.
Do nguồn quỹ BHXH nước ta còn nhỏ và yêu cầu phát triển quỹ nhằm đảm bảo thu đủ chi nên trong thời gian tới cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát công tác thu chi BHXH. Phải quản lý chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng, kể cả đối tượng đang tham gia, đang hưởng và đối tượng đã cắt chế độ BHXH nhằm tránh các hiện tượng tiêu cực tham ô, móc ngoặc gây thất thoát kinh phí. Thực hiện chi trả đúng đối tượng, đúng định mức và đúng chế độ. Quỹ BHXH phải được kiểm toán trong quá trình quản lý và sử dụng nhằm đảm bảo trật tự kỹ cương quản lý tài chính Nhà nước đối với hoạt động của quỹ BHXH. Việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các Bộ và các cơ quan chức năng.
3.7. Công tác đào tạo cán bộ.
Để tăng cường công tác quản lý thu, chi BHXH và thực hiện khoán chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam cần phải có một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt.
BHXH là một ngành có chuyên môn sâu nhưng hầu hết số cán bộ làm công tác BHXH hiện nay loại chủ yếu có chuyên môn về kinh tế, tài chính, xã hội, họ chưa được đào tạo chuyên về BHXH. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong thời gian tới công tác cán bộ ngành BHXH tập trung thực hiện các mặt sau:
- Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức của ngành sao cho phù hợp với năng lực chuyên môn và nhiệm vụ được giao.
- Tuyển lựa thêm một số cán bộ, công chức đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt là các chuyên gia giỏi, trẻ để thực thi nhiệm vụ thay thế trong tương lai.
- Nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại bán bộ công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong các năm tới. Đội ngũ cán bộ, công chức của ngành phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, yư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp BHXH. Với những người cán bộ, công chức như vậy việc quản lý BHXH nói chung và quản lý quỹ BHXH nói riêng sẽ có hiệu quả hơn.
3.8. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH.
Nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của mọi người lao động và chủ sử dụng lao động về chính sách, chế độ BHXH, cần phải coi thông tin tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng trong thời gian hiện tại cũng như lâu dài, cần phải chủ động và có biện pháp phối hợp chặt chẽ thường xuyên, với nội dung, hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng thu hút được sự quan tâm của mọi người. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH đòi hỏi phải có sự tham gia, phối hợp giữa cá cơ quan, các tổ chức chính trị xã hội đặc biệt là tổ chức công đoàn và các cơ quan thông tin đại chúng. để thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền cần phải làm tốt các vấn đề sau:
+ Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động thông tin tuyên truyền.
+ Đầu tư cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác thông tin tuyên truyền từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố.
+ Đầu tư phương tiện, trang thiết bị làm việc để đảm bảo cho hoạt động thông tin tuyên truyền.
Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền về BHXH sẽ giúp người lao động hiểu rõ hơn ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của việc tham gia BHXH, từ đó thúc đẩy họ tham gia BHXH nhằm tăng thu cho quỹ BHXH.
3.9. ứng dụng tin học vào công tác quản lý BHXH.
Hiện nay, công tác quản lý BHXH như quản lý thu, chi BHXH, quản lý đối tượng hưởng BHXH, công tác hạch toán kế toán, công tác quản lý cán bộ trong ngành hầu hết còn là thủ công. Khoa học công nghệ, tốc độ thông tin phát triển như vủ bão. Vì vây, hiện đại hoá biện pháp quản lý bằng công nghệ tin học là một đồi hỏi cấp thiết. Song song với việc xây dựng trụ sở làm việc, xây dựng cơ sở hạ tầng mạng lưới thông tin cần phải trang bị kịp thời các máy móc, thiết bị kỹ thuật nhằm đảm bảo đầy đủ các điều kiện làm việc tối thiểu cho cán bộ, công chức của ngành thực hiện tốt và hiệu quả sự nghiệp BHXH. Bên cạnh trang bị máy móc, thiết bị kỹ thuật cần phải quan tâm đến việc bồi dưỡng kiến thức khoa học, công nghệ và ứng dụng các phần mềm vào quản lý BHXH thống nhất.
3.10. Công tác cấp sổ BHXH.
Công tác này không chỉ có vai trò quan trọng đối với người lao động mà còn đối với cơ quan BHXH. Đối với người lao động, nó ghi nhận sự đóng góp vào quỹ BHXH của từng người, trong từng giai đoạn theo lương tháng. Trên cơ sở đó tính mức lương hưởng BHXH theo chế độ. Giúp người lao động giám sát kết quả đóng BHXH của người sử dụng lao động, việc thực hiện các chế độ của cơ quan BHXH. với việc quản lý sổ giúp cơ quan BHXH tận thu được tiền đóng BHXH tránh bỏ sót, tạo ra cách quản lý thống nhất để giải quyết các chế độ BHXH một cách chính xác, đúng đối tượng.Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc trong công tác cấp sổ BHXH là hồ sơ để được cấp sổ như do gián đoạn công tác, thất lạc hồ sơ gây khó khăn cấp sổ cho người lao động. Cơ quan BHXH cần có phương thức tháo gỡ những vướng mắc trên để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có được sổ BHXH.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng quỹ BHXH thì công tác cấp sổ BHXH là một trong những vấn đề đáng được quan tâm, cần phải có các văn bản quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải có trách nhiệm kê khai, giúp người lao động có được sổ BHXH.
3.11. Hợp tác trong nước và quốc tế.
Sự hợp tác trong nước về công tác BHXH tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác BHXH tốt hơn trên toàn quốc đó là việc giám sát chặt chẽ đối tượng tham gia, giải quyết chi trả chế độ BHXH chính xác đúng đối tượng. Bên cạnh đó các cơ quan BHXH ở địa phương có thể học hỏi được các phương cách làm việc có hiệu quả, có sự hợp tác trong việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Để hoàn thiện hơn nữa chính sách BHXH ở Việt nam thì việc hợp tác với các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế cũng rất cần thiết. Bên cạnh học hỏi được kinh nghiệm, những vấn đề mới trong công tác BHXH còn có thể có được sự hỗ trợ về phương tiện kỹ thuật và tài chính thông qua các chương trình viện trợ, cho vay, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trên thế giới. Do vậy, Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc đặt quan hệ hợp tác của cơ quan BHXH Việt nam với các nước, các tổ chức quốc tế.
Trên đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt nam. Các giải pháp đưa ra yêu cầu phải có sự phối hợp đồng bộ thì mới đạt được hiệu quả hơn.
Kết luận
Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bả vệ che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách chế độ BHXH, cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng được đổi mới căn bản. Nội dung quan trọng nhất của việc đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH là việc hình thành quỹ BHXH tập trung thống nhất, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của các bên tham gia BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH theo Luật định. Chủ sử dụng lao động và người lao động phải tham gia đóng BHXH thì người lao động mới được hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, không đóng không hưởng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được đầu tư tăng trưởng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nội dung đổi mới về cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng đã bộc lộ ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần hơn nữa vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội bên cạnh những đổi mới chung về chính sách BHXH thì quỹ BHXH cũng phải không ngừng được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Đề tài “Hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam” đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện đổi mới hơn nữa cơ chế quản lý quỹ BHXH.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu của đề tài. Hoàn thành được đề tài này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự đóng góp , giúp đỡ tích cực của thầy giáo và các cán bộ Vụ BHXH. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế bảo hiểm - trường ĐHKTQD Hà nội
2. Một số vấn đề về chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay -1996
3. Tạp chí lao động và xã hội năm 1998, 1999, 2000, 2001
4. Bộ Luật lao động
5. Nghiên cứu đào tạo tài chính bảo hiểm xã hội.
6. Quy hoạch tổng thể bảo hiểm xã hội của bảo hiểm xã hội Việt Nam
7. Đề tài khoa học: Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội.
8. Hội thảo về bảo hiểm xã hội năm 2000
9. Chính sách xã hội một số vấn đề lý luận và thực tiễn
10. Hệ thống các văn bản hiện hành về bảo hiểm xã hội XB 1995
11. Đề tài khoa học “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính BHXH Việt nam”
12. Tạp chí BHXH các số năm 2000, 2001.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I
Lý Luận Chung Về Bảo Hiểm Xã Hội
Một số vấn đề tổng quan về BHXH
Khái niệm BHXH ...........................................................................3
Bản chất BHXH .............................................................................5
Sự cần thiết và tác dụng của BHXH................................................7
Nội dung cơ bản của BHXH...........................................................10
Khái niệm chung về Quỹ BHXH
Khái niệm Quỹ BHXH...................................................................15
Sự cần thiết Quỹ BHXH..................................................................16
Nguồn hình thành Quỹ BHXH......................................................17
Phân loại quỹ BHXH......................................................................18
Quản lý Quỹ BHXH........................................................................19
Tình hình thực hiện BHXH ở một số quốc gia trên thế giới
Mỹ....................................................................................................20
Pháp..................................................................................................20
ở một số nước Đông á.................................................................. 21
Chương II
Thực Trạng Quản lý quỹ BHXH
Vài nét về BHXH ở Việt Nam
Chính sách BHXH giai đoạn trước 1995 ................................... 24
Chính sách giai đoạn 1995 dến nay ........................................... 25
Thực trạng quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam
Giai Đoạn trước 1995 .................................................................. 27
Giai đoạn từ 1995 đến nay ......................................................... 42
Chương III
Hoàn Thiện Và Đổi Mới Quản Lý Quỹ BHXH
Việt Nam
Đánh giá những khó khăn và thuận lợi
Khó khăn ....................................................................................... 78
Thuận lợi .......................................................................................81
Dự báo về nhu cầu BHXH ở Việt Nam
Dự báo về nhu cầu tham gia BHXH ...........................................82
Dự báo quỹ BHXH ........................................................................86
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới quản lý Quỹ BHXH Việt Nam
Một số quan điểm về cơ chế quản lý Quỹ BHXH ......................89
Về mặt quản lý nhà nước ..............................................................92
Về mặt quản lý sự nghiệp ..............................................................95
Kết Luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0050.doc