1. Doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện xuất khẩu khoáng sản và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số liệu, thông tin báo cáo.
2. Nội dung báo cáo về xuất khẩu khoáng sản bao gồm
a) Kết quả thực hiện về chủng loại, khối lượng, kim ngạch xuất khẩu khoáng sản.
b) Nguồn gốc khoáng sản xuất khẩu; tình hình chấp hành các quy định về xuất khẩu khoáng sản.
3. Chế độ báo cáo về xuất khẩu khoáng sản thực hiện như sau:
a) Báo cáo về tình hình thực hiện xuất khẩu khoáng sản được lập định kỳ sáu tháng và một năm. Định kỳ sáu tháng đầu năm được tính từ ngày 01 tháng 01 đến 30 tháng 6 của năm báo cáo. Định kỳ một năm được tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
b) Ngoài việc thực hiện chế độ báo cáo theo quy định tại điểm a của khoản này, khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước liên quan để phục vụ công tác quản lý, doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản phải thực hiện báo cáo đột xuất về tình hình xuất khẩu khoáng sản.
4. Thời hạn gửi báo cáo về xuất khẩu khoáng sản được quy định như sau:
a) Báo cáo do doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản lập theo quy định tại khoản 2 Mục này phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thực hiện việc xuất khẩu khoáng sản chậm nhất sau 5 (năm) ngày của kỳ hạn báo cáo quy định tại điểm a khoản 3 Mục này.
b) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng lập báo cáo tổng hợp về tình hình xuất khẩu khoáng sản trong phạm vi quản lý và gửi về Bộ Công Thương chậm nhất sau 15 (mười lăm) ngày của kỳ hạn báo cáo quy định tại điểm a khoản 3 Mục này.
105 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoạt động xuất khẩu khoáng sản của Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m tỷ trọng xuất khẩu nhiều nhất, chiếm 63,4%. Tuy nhiên tỷ trọng này đã giảm đi so với năm 2008 (67%). Điều này rất dễ hiểu bởi thị trường Nhật Bản và các thị trường Đông Âu là các thị trường có nhu cầu rất lớn về mặt hàng thiếc thỏi. Mặt khác, để có thể phát triển thành một Công ty hàng đầu trong lĩnh vực khai khoáng, thì mục tiêu của Công ty là mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong năm tới thị trường Malayxia vẫn sẽ là thị trường chiếm tỷ trọng xuất khẩu chủ yếu của Công ty, nhưng tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường này sẽ dần giảm đi do chiến lược của Công ty cũng như sự tăng trưởng của các thị trường tiềm năng khác.
b) Phương hướng thực hiện các mục tiêu
Năm 2009 tình hình nền kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức khó khăn do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế trong nước vốn yếu kém và có nhiều hạn chế về tốc độ tăng trưởng. Nhiệm vụ chính mà Chính phủ đã đề ra cho 2009 là tiếp tục vượt qua khó khăn thách thức trong sản xuất, xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng và đầu tư. Mục tiêu đề Chính phủ đề ra là xuất khẩu tăng 13% bên cạnh đó, vẫn phải đảm bảo cung cầu thị trường trong nước, tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ chế chính sách về tài chính, tiền tệ, thuế, xúc tiến thương mại đẩy mạnh đầu tư, tiết giảm chi phí trong sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, khai thác tốt thị trường trong nước tạo điều kiện để gia tăng sản xuất, nâng cao thu nhập.
Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể song vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động kinh doanh. Đến nay ngoài việc duy trì thị trường truyền thống, Công ty còn mở rộng và phát triẻn ra nhiêu thị trường tiêu thụ khác, tích cực tìm kiếm thị trường mới, đáp ứng được yếu tố thị trường đầu ra. Việt Nam ra nhập AFTA là một cơ hội lớn cho Công ty nói riêng và các Công ty khác nói chung, đó là việc có thêm thị trường trên thế giới, là một dấu hiệu tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu nhưng cũng đồng thời tăng sức ép về cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh về giá cả và chất lượng vì họ có lợi thế về nhiều mặt, dễ dàng xâm nhập chi phối ngay cả trên thị trường khu vực và trên thị trường nội địa của ta. Nhận biết được tình hình này, ngay từ đầu Công ty đã đưa ra phương hướng hoạt động phát triển cùng với sự nỗ lực của toàn thể Công ty. Cùng với sự thay đổi của thời kì phát triển, Công ty đã từng bước sửa đổi, hoàn thiện phương hướng hoạt động sao cho phù hợp với tình hình hiện có.
Bước sang năm 2009 được đánh giá là năm có nhiều biến động bất ổn. Đây là điều rất khó khăn để công ty xác định giá cả hàng hoá của mình trên thị trường sao cho khả năng chiếm lĩnh thị trường vẫn chiếm ưu thế, đó là điều mà hiện nay không những Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB mà còn nhiều công ty doanh nghiệp khác phấn đấu giữ vững thị phần của mình. Đứng trước tình hình này, Công ty đã đưa ra một số phương hướng hoạt động trong năm 2009 và các năm tiếp theo như sau.
* Về xuất khẩu.
Công ty đề ra phương hướng hoạt động như sau:
- Chủ động tăng cường các mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các cở sản xuất, các Công ty có mỏ để chủ động tham gia quản lý chất lượng, giá cả hàng xuất khẩu sang thị trường nước ngoài nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
- Trên cơ sở liên doanh liên kết, Công ty sẽ đề xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, phù hợp với tình hình chung.
- Tăng cường xuất khẩu sản phẩm đã qua sơ chế để từ đó nâng cao mức doanh thu cho doanh nghiệp, chú trọng, duy trì xuất khẩu sản phẩm chiến lược mũi nhọn như thiếc thỏi, Antimony…đồng thời xuất khẩu với số lượng nhiều hơn những năm trước đây.
- Sử dụng tổng hợp và đa dạng các hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu như xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu uỷ thác, tái xuất khẩu, chuyển khẩu…để làm đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu, tránh rủi ro cao, tạo ra mức tổng doanh thu cao hơn.
- Nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách qui định, chế độ hiện hành của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu, đặc biệt phải chú ý đến một số luật như luật thương mại, thuế trên cả thị trường nội địa và thị trường thế giới.
- Chủ động đề xuất với Nhà nước, Chính phủ cho phép các Công ty kinh doanh thương mại tham gia hoạt động xuất khẩu khoáng sản nhiều hơn nữa cùng với các Công ty, cơ sở sản xuất có mỏ.
* Về thị trường.
- Tiếp tục tìm mọi biện pháp đi mở rộng thị trường nước ngoài, duy trì và củng cố các thị trường cũ ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mở rộng và phát triển thị trường sang các nước EU, Đông Âu để được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan.
- Tiếp tục đầu tư sức lực và chi phí hợp lý để củng cố và mở rộng thị trường, tranh thủ chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Bộ thương mại để tìm thêm thị trường và bạn hàng.
- Tăng cường bám thị trường nội địa, phát huy thế mạnh về vốn. Tìm cách nghiên cứu và thâm nhập thị trường, thu hút khách hàng kết hợp linh hoạt các hình thức kinh doanh, coi trọng hiệu quả và an toàn.
- Tổ chức tốt các công tác nghiên cứu, tìm hiểu thông tin thị trường để đánh giá được nhu cầu thị trường, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của mình cũng như của các đối thủ cạnh tranh nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu nâng cao khả năng về sản phẩm của công ty mình.
- Tăng cường dự hội trợ triển lãm để giới thiệu hàng hoá và tìm kiếm thị trường nước ngoài.
* Về công tác quản lý
- Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng khó khăn phức tạp trong khi quá trình cải cách kinh tế và xây dựng các quy chế luật pháp cho các doanh nghiệp chưa thể đồng bộ và kịp thời. Để duy trì và phát triển hoạt động, Công ty ban hành và tiếp tục hoàn chỉnh đồng bộ các quy chế sau:
- Quy chế về khoán trong kinh doanh: mặc dù đã áp dụng nguyên tắc tự hạch toán trong kinh doanh nhưng sắp tới Công ty dự định sẽ thực hiên qui ché khoán đối với các phòng nghiệp vụ để tăng hiệu quả trong kinh doanh.
- Lựa chọn và tinh giản bộ máy cán bộ làm công tác quản lý, tăng cường phát huy tính chủ động sáng tạo của tập thể cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp với sự đổi mới kinh doanh trong cơ chế thị trường .
- Thực hiện linh hoạt các chính sách về lương, thưởng, kỷ luật trong sản xuất kinh doanh của công ty.
3.2. Cơ hội và thách thức đối với Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB
3.2.1. Cơ hội
Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra sâu rộng và mạnh mẽ, kéo theo đó là sự tự do hóa thương mại – đầu tư, sự bình đẳng đối với tất cả các quốc gia. Chính vì vậy doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường các nước trên thế giới mà không bị phân biệt đối xử, được hưởng các ưu đãi theo các cam kết đa phương, song phương. Điều đó giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tiếp cận sâu rộng vào thị trường thế giới, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư ở các quốc gia phát triển cao để nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng của mình trên thị trường thế giới.
Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO đã là một bước tiến quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam giúp họ được hưởng các ưu đãi theo cam kết của WTO. Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB là một doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa và cũng được hưởng nhiều ưu đãi thuận lợi cho hoạt động của Công ty.
Tham gia vào hoạt động xuất khẩu sẽ giúp Công ty có được nguồn vốn để tích lũy phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, trang thiết bị phục vụ cho sản xuất, giải quyết được vấn đề việc làm, nâng cao đời sống của công nhân viên...
Xuất khẩu khoáng sản giúp Công ty phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của toàn nền kinh tế đất nước do đó sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Công ty sẽ được giao lưu, liên kết với nước ngoài, nâng cao vị thế của mình thông qua giao dịch, buôn bán với các bạn hàng trên thế giới. Ngoài ra còn học tập được từ các bạn hàng của mình kinh nghiệm quản lý…
Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội mở có rất nhiều những thách thức mà Công ty phải đối mặt.
3.2.2 Thách thức
Theo xu hướng toàn cầu hóa và việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là việc tham gia lộ trình gia nhập WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho Công ty song sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt. Công ty sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức như:
- Khi tham gia vào thị trường thế giới, Công ty cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản lớn như Trung Quốc, Ấn Độ…
- Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc phải ký kết nhiều văn bản liên quan đến hoạt động kinh doanh nói chung và nhất là kinh doanh xuất khẩu. Do đó vấn đề phải tuân thủ rất nhiều cam kết sẽ có những ưu đãi nhưng ngoài ra bất cập cũng không phải là ít.
- Tham gia vào vòng quay của thời kỳ hội nhập, Công ty sẽ gặp nhiều áp lực khiến Công ty phải luôn đổi mới về công tác quản lý, về chất lượng nguồn nhân lực, về công nghệ sản xuất…sao cho có thể thích nghi được với thời cuộc. Đây không chỉ là bài toán khó đối với Công ty mà còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
3.3. Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động xuất khẩu khoáng sản của Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB
3.3.1. Giải pháp từ phía Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB
- Thứ nhất, nhóm giải pháp về nguyên liệu
Thu mua nguyên liệu trong nước là một bước khởi đầu rất quan trọng, nó quyết định và ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu khoáng sản cũng như tới hiệu quả kinh doanh của Công ty. Vì vậy, Công ty cần thực hiện một số biện pháp để giải quyết vấn đề về nguyên liệu như:
+ Chú trọng việc tổ chức sản xuất, liên kết sản xuất với các nhà khoa học, nhà quản lý, tạo ra sản lượng hàng hoá lớn và kiểm soát được chất lượng, đảm bảo các tiêu chuẩn cần thiết. nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm khai thác đưa vào chế biến xuất khẩu;
+ Xây dựng và thực hiện tốt các chương trình phát triển các sản phẩm chủ lực và các sản phẩm mới có tiềm năng về thị trường.
- Thứ hai, giải pháp mở rộng thị trường
Thị trường là vấn đề quan tâm bậc nhất của các nhà doanh nghiệp, chỉ cần nhìn vào số lượng hàng hoá xuất xưởng hàng ngày, hàng tháng của doanh nghiệp, người ta có thể đánh giá đúng mức tầm cỡ, sức phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề chiếm lĩnh thị trường để làm chủ, chi phối thị trường là điều kiện bắt buộc trong ý chí và hàng động của mọi doanh nghiệp. Do đó mở rộng thị trường là một giải pháp cần được thực hiện về một số mặt sau:
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh
Xu thế tất yếu của khu vực hoá, toàn cầu hoá buộc các quốc gia phải cắt giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan khác để hội nhập kinh tế. Trong bối cảnh đó chỉ có các sản phẩm mà Công ty có năng lực cạnh tranh mới có thể thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu, những sản phẩm kém năng lực cạnh tranh không thể tiêu thụ được. Do đó Công ty cần xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh xuất khẩu của Công ty trên thị trường quốc tế như kinh doanh mặt hàng gì, trên thị trường nào, phải được thanh toán trong chiến lược, kế hoạch kinh doanh xuất khẩu như thế nào cho phù hợp điều kiện của Công ty.
+ Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường có thể biết được chính sách ngoại thương của quốc gia về mức ổn định, sự can thiệp của Chính phủ với một số vấn đề về chính sách thị trường, chính sách hỗ trọ, chính sách mặt hàng…ngoài ra còn xác định và dự báo được biến động nhu cầu của hàng hóa trên thị trường để Công ty có những thay đổi linh hoạt cho phù hợp. Do đó cần phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường.
Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, Công ty cần phải tổ chức củng cố lại điều tra nghiên cứu thị trường, tổng hợp tin tức và xử lý thông tin để đưa ra định hướng và quyết định kinh doanh đúng đắn, kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao. Mặt khác, Công ty cần nghiên cứu tiềm năng bán hàng của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước, phân tích các kênh bán hàng, giá cả, mẫu mã, quảng cáo…của họ để tìm ra điểm mạnh và điểm yếu của họ cũng như của công ty để từ đó đưa ra những chiến lược cho phù hợp.
+ Nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường
Xây dựng cho mình một kế hoạch chiếm lĩnh thị trường là yếu tố cần thiết và sẽ quyết định sự thành bại của Công ty. Công ty cần thực hiện các biện pháp: Nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường, nâng cao uy tín và chất lượng sản phẩm trên thị trường, xây dựng cơ sở an toàn, đưa ra chiến lược về giá sao cho Công ty vừa phát triển được hoạt động kinh doanh, vừa chiếm lĩnh được thị trường.
+ Đối với thị trường tiêu thụ truyền thống
Trong điều kiện khủng hoảng tài chính mọi quốc gia đang đê cao thị trường nội địa và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Do đó dể tiêu thụ sản phẩm của Công ty bên cạnh việc duy trì để mở rộng thị trường trong thời gian tới, trước mắt phải coi trọng thị trường nội địa.
Công ty luôn giữ vững quan điểm “củng cố giữ vững vị trí ở thị trường truyền thống đồng thời tìm mọi biện pháp thâm nhập thị trường mới”. Do đó thị trường truyền thống luôn được công ty quan tâm hàng đầu.
Thị trường Châu Á - Thái Bình Dương: Tuy khu vực thị trường này rất rộng lớn và có nhiều tiềm năng phát triển nhưng cũng có nhiều đối thủ cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản…Vì vậy, khi Việt Nam đã là thành viên của khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Công ty cần thâm nhập vào thị trường các nước ASEAN để tranh thủ sự ưu đãi về thuế, nâng cao khả năng cạnh tranh.
+ Giữ vững và củng cố thêm bạn hàng: thời gian vừa qua, kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang một số nước thuộc khu vực này giảm đáng kể, vì vậy Công ty sẽ phải áp dụng kết hợp tất cả các biện pháp xúc tiến hỗn hợp để duy trì và củng cố các bạn hàng ở khu vực này.
+ Phát triển sản phẩm mới: Để cạnh tranh với các đối thủ khác, chiến lược tốt nhất với Công ty hiện nay là khác biệt hoá sản phẩm, vì vậy việc nghiên cứu, tìm tòi phát triển sản phẩm mới là rất quan trọng nhất là trong trường hợp Công ty chủ yếu xuất khẩu mặt hàng Thiếc (chiếm hơn 90% mặt hàng xuất khẩu).
+ Liên doanh với các bạn hàng: là một biện pháp nhằm từng bước nâng cao vai trò và vị thế của Công ty.
+ Nghiên cứu để thâm nhập vào những thị trường mới và tiềm năng
Trong kinh doanh hiện đại, một doanh nghiệp “dậm chân tại chỗ’’ có nghĩa là doanh nghiệp đó đang thụt lùi. Vì vậy nếu chỉ duy trì ở thị trường có sẵn của Công ty thì chưa đủ mà đòi hỏi phải có biện pháp xâm nhập vào những thị trường mới.
Việc thâm nhập vào thị trường mới là cả một quá trình đầy khó khăn mà Công ty cần phải thực hiện. Để phát triển thị ttrường mới, trước hết Công ty cần phải điều tra nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, sau đó đùng các biện pháp thu hút khách hàng như nâng cao chất lượng sản phẩm, sử dụng giá thâm nhập, giá giới thiệu, luôn phải giữ vững chữ tín trong thương mại… Công ty cần xác định tiềm năng của thị trường về mặt hàng mà mình cần bán thông qua những số liệu thống kê, bán hàng thử,…Xác định yêu cầu cụ thể về mặt hàng của mình, tiêu chuẩn kỹ thuật, những qui định về nhập khẩu, phương thức bán hàng…Ngoài ra, Công ty cũng cần nghiên cứu tiềm năng bán hàng của những đơn vị khác, những kênh tiêu thụ của họ, giá cả bao bì, bao gói, quảng cáo phân tích điểm mạnh điểm yếu của họ để đưa ra những kết luận có ích cho việc thâm nhập thị trường sau này.
- Thứ ba, giải pháp nhằm tăng cường liên doanh liên kết với các cơ sở khai thác
Liên doanh liên kết với các cơ sở khai thác khoáng sản sẽ tạo điều kiện tốt cho Công ty luôn bảo đảm được nguồn hàng kịp thời phục vụ cho việc xuất khẩu, đồng thời khai thác được thế mạnh mỗi bên như các cơ sở khai thác có nhà xưởng, có thiết bị công nghệ cao, có nguồn hàng khai thác còn Công ty có thị trường xuất khẩu, có kinh nghiệm giao dịch, có kỹ thuật về ngoại thương và quản lý xuất khẩu, nhập khẩu để tạo ra lợi nhuận cao nhất, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu từ đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho cả hai bên. Có như vậy mới tiến tới thực hiện tốt hiệu quả chiến lược giảm xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế sang các sản phẩm chế biến; và do đó nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu, hiệu quả của hoạt động xuất khẩu cũng được nâng cao.
- Thứ tư, hoàn thiện công tác lựa chọn sản phẩm xuất khẩu.
Sản phẩm xuất khẩu cần được lựa chọn theo các tiêu chí: là sản phẩm có lợi thế của công ty, xu hướng chung là phải đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu nhưng vẫn phải chú trọng đối với các sản phẩm có lợi thế. Lựa chọn sản phẩm xuất khẩu tức là phải tăng cường thu mua hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế việc thu mua sản phẩm thô, có như vậy mới tạo ra giá trị hàng hoá cao, nâng cao uy tín của công ty trên thị trường nước ngoài, giảm bớt rủi ro, gia tăng các mục tiêu đạt được.
- Thứ năm, tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển.
Thông qua việc nghiên cứu thị hiếu của khách hàng, Công ty nên đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển để tìm ra phương pháp sản xuất hiện đại hơn thích hợp với điều kiện sản xuất trong nước và yêu cầu của thị trường.
- Thứ sáu, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên tác nghiệp trong hoạt động xuất khẩu
Con người là một nhân tố quyết định đến sự thành công của bất cứ hoạt động nào. Vì vậy nhân lực là một điều kiện quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để nâng cao số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cần có những biện pháp đổi mới trong công tác nhân sự bên cạnh việc đào tạo tại chỗ, đào tạo trong nước, nước ngoài.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, việc đào tạo nguồn nhân lực là rất cần thiết vì nó sẽ bổ sung cung cách kinh doanh mới, tiếp thu công nghệ mới dẫn đến làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới.Chính vì vậy, Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB cần khẩn trương chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đào tạo đội ngũ cán bộ hiện có bằng cách tự tổ chức đào tạo trong Công ty hoặc cử đi học tại các lớp nghiệp vụ trong và ngoài nước, đồng thời tuyển dụng những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức xã hội và ngoại ngữ thay thế những cán bộ không đủ năng lực. Công ty cần đào tạo được cán bộ quản lý giỏi về nghiệp vụ để kiểm tra chất lượng sản phẩm, tránh tình trạng hàng hoá kém chất lượng bị khách hàng khiếu lại dẫn đến mất bạn hàng sau này. Vấn đề này Công ty nên đề cập tới trong phương hướng hoạt động của những năm tiếp theo vì mục tiêu đặt ra cho Công ty là phải đào tạo được cán bộ đạt tiêu chuẩn: Am hiểu sâu sắc tình hình thị trường trong và ngoài nước về mặt hàng khoáng sản, có kiến thức về luật pháp, tập quán kinh doanh quốc tế, giỏi về ngoại ngữ, biết cách đàm phán, thương thuyết, có tinh thần hợp tác, biết tính toán đến lợi ích của doanh nghiệp và cả lợi ích chung của nền kinh tế. Công ty có thể cử cán bộ đi học nâng cao nghiệp vụ ở các trường đại học trong nước hay nước ngoài, hoặc tổ chức khoá học ngoài giờ đẻ có thể nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ kinh doanh. Ngoài ra, Công ty cần kiện toàn phương thức tổ chức quản lý kinh doanh, cần thu xếp các phòng ban, phòng nghiệp vụ cho phù hợp với sự phát triển chung, tránh sự chồng chéo công việc của phòng này với phòng khác.
3.3.2. Một số kiến nghị với Nhà nước
Nhà nước cần tạo điều kiện giúp đỡ các Doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thông qua việc:
- Một là, mở rộng hoạt động của thị trường vốn
Mở rộng hoạt động của thị trường vốn để làm phong phú và nâng cao tiềm lực tham gia thị trường vốn. Trong đó hoàn thiện các văn bản pháp quy và cơ chế hoạt động của thị truờng chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp huy động vốn. Tạo môi trường thuận lợi khuyến khích doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư thông qua kênh tín dụng ưu đãi của Nhà nước đồng thời Nhà nước gián tiếp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với dụ án đầu tư có hiệu quả. Tuy nhiên những ưu đãi này cần phải tuân thủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế mà trước hết là với WTO.
- Hai là, hệ thống văn bản pháp lý phải được đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán
Một trong các vấn đề gây khó khăn cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng hiện nay là việc các quyết định, quy định của các cơ quan chức năng liên quan được ban hành và sửa đổi quá nhiều, lại thiếu nhất quán. Vì vậy các ban ngành chức năng, cơ quan chuyên ngành nên cân nhắc một cách kỹ lương các chính sách quyết định của mình trước khi dự thảo ban hành và thực hiện nhằm hạn chế tối đa việc thay đổi hay tạo nhiều kẽ hở, không những gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính mà còn tạo điều kiện cho những kẻ xấu luồn lách lợi dung, gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia. Xem phụ lục 01: văn bản mới nhất của Bộ Công Thương về hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản(6/2008).
- Ba là, hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu
Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của nước ta còn có một số vần đề bất cập, không phù hợp với những diễn biến của hoạt động xuất khẩu, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động xuất khẩu và đòi hỏi phải giải quyết. Về lâu dài các quy định về xuất khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa chữa, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu diễn ra thuận lợi. Hiện nay ở nước ta, thủ tục xuất nhập khẩu vẫn còn rườm rà, gây phức tạp, lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu khi tiến hành các thủ tục xuất khẩu. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng đến cải cách công tác quản lý các hoạt động xuất khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục không cần thiết để tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức cho các doanh nghiệp.
- Bốn là, tạo lập môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi hơn
Các cơ quan chức năng cũng nên tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi bằng cách tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương nhằm tranh thủ những ưu đãi về thuế, thị trường bằng các nỗ lực ngoại giao, chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho các doanh nghiệp. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta vừa mới gia nhập WTO thì vấn đề hỗ trợ của Nhà nước với các Doanh nghiệp về thông tin và kinh nghiệm hội nhập là hết sức quan trọng.
Nhà nước giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu bằng cách cung cấp các thông tin về thị trường, về giá cả, về sự biến động của thị trường, về cung cầu, marketing...thường xuyên tuyên truyền về luật kinh doanh, luật thương mại và những quyết định thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế để các doanh nghiệp tránh được rủi ro đáng tiếc xảy ra. Thực hiện quy trình cải cách thuế, công khai lịch trình cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan tạo động lực mới cho các doanh nghiệp phát triển, có khuyến khích các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu.
- Năm là, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp
Chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp thông qua các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ bảo hiểm xuất khẩu theo hiệp hội ngành hàng, quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ…Đồng thời thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý có thời hạn hàng sản xuất trong nước phù hợp với các hoạt động và tiêu chuẩn quốc tế.
Nhà nước nên thành lập mới các tổ chức dịch vụ tài chính hỗ trợ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính này đối với các doanh nghiệp thực hiện lành mạnh hoá tài chính của mình và tạo điều kiện cho họ phát triển như củng cố và đổi mới hệ thống tín dụng, tăng cường các dịch vụ kiểm toán, thông tin tư vấn tài chính, thành lập các công ty mua bán nợ và tài sản thanh lý của doanh nghiệp, công ty môi giới chứng khoán, công ty đầu tư tài chính Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, về giao thông, thông tin…cùng sự phát triển đồng bộ của cá ngành văn hoá, du lịch…và đổi mới đồng bộ chính sách quan trọng khác như đất đai chính sách về giáo dục đào tạo.
- Sáu là, một số chính sách khác
Nhà nước nên có chính sách tỷ giá thích hợp: tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là hai nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu.
Nhà nước cần tạo điều kiện thêm cho các công ty kinh doanh thương mại tham gia xuất khẩu, không chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp, cơ sở có mỏ mới được tham gia xuất khẩu khoáng sản, thậm chí nên cho phép Công ty tham gia vào khai thác, sản xuất khoáng sản để làm nền tảng tồn tại từ đó phát huy thế mạnh của Công ty. Cần để cho các doanh nghiệp thực sự hoạt động trong môi trường công bằng, bình đẳng, Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ và đảm bảo công bằng trong kinh doanh.
Ngoài các vấn đề trên, Nhà nước cần phải tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, tận dụng hết khả năng chất xám của những cá nhân vào mọi lĩnh vực. Cần có những chính sách thích hợp đào tạo những tài năng trẻ để giúp họ vượt qua khó khăn trước mắt để tạo nguồn tri thức trẻ trong tương lai.
3.4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình xuất khẩu khoáng sản của Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB
3.4.1. Sự cần thiết phải thực hiện quy trình xuất khẩu khoáng sản
Khi hợp đồng đã được kí kết, quyền lợi của các bên đã được xác lập một cách hợp pháp, Công ty phải thực hiện tốt các nghĩa vụ đã ghi trong hợp đồng, đồng thời đôn đốc phía đối tác thực hiện các yêu cầu có ghi trong hợp đồng. Phải nói rằng thực hiện hoạt động xuất khẩu là một quá trình quyết định tới sự thành hay bại trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, nó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu, hiệu quả hoạt động kinh doanh, tới chi phí hoạt động. Bất kỳ một sai sót nào trong quá trình này đều có thể tạo ra một hậu quả khôn lường dẫn tới việc bãi bỏ hợp đồng. Thực hiện tốt các nghĩa vụ hợp đồng không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn nâng cao uy tín của Tổng công ty đối với khách hàng, với đơn vị đặt hàng tiếp sau. Chính vì vậy công việc tổ chức cần được tiến hành chu đáo, có kế hoạch chi tiết trên cơ sở tiết kiệm tối đa chi phí, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động xuất khẩu.
3.4.2. Giải pháp trong khâu chuẩn bị giao dịch đàm phán
Để thực hiện thành công quá trình giao dịch đàm phán, tiến tới ký kết hợp đồng Công ty cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và điều tra đối tác, do đó Công ty cần phải xây dựng một phương pháp nghiên cứu hợp lý hiệu quả. Hiện nay Công ty chỉ có khả năng áp dụng phương pháp nghiên cứu, điều tra tại văn phòng. Tuy nhiên do có những hạn chế của phương pháp này nên nguồn thông tin thu được của Công ty thường thiếu tính cập nhật và độ tin cậy không cao. Vì vậy để khắc phục tình trạng này bằng các biện pháp như: nâng cao năng lực, trình độ phân tích thông tin của nhân viên đàm phán, hoặc chủ động liên kết với chính phủ hay các đơn vị bạn tiến hành các hoạt động nghiên cứu tại thị trường thực tế,…
Sau bước lựa chọn phương pháp nghiên cứu Công ty nên chú ý đến việc đẩy mạnh công tác thu thập và xử lý thông tin. Công ty cần có những sự đầu tư thích đáng cả về tài chính lẫn nguồn nhân lực.
Trong giao dịch đàm phán Công ty cần chú ý đặc biệt đến việc lập phương án kinh doanh hàng hoá xuất khẩu. Nội dung của nó phải được xây dựng trên cơ sở nguồn thông tin thực tế về nguồn hàng, khả năng thu gom hàng hoá, giá của mặt hàng trên thị trường thế giới và khu vực…
3.4.3. Giải pháp trong khâu chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu
Trong quy trình chuẩn bị hàng xuất khẩu, khó khăn mà Công ty thường gặp phải là đôi khi nhà cung cấp không muốn giao hàng hoặc trì hoãn thời gian giao hàng. Nguyên nhân của hiện tượng này được cho là do sự biến động thất thường của giá thiếc, sau khi Công ty và nhà cung cấp ký hợp đồng giá thiếc lại biến động theo hướng bất lợi với nhà cung cấp do vậy mới xảy ra hiện tượng trên. Để khắc phục khó khăn này trong những trường hợp cấp thiết cần hàng gấp Công ty có thể áp dụng một số biện pháp để đối phó như sau:
Công ty sẽ đồng ý tăng giá cao hơn trong hợp đồng đã ký kết một lượng hợp lý với sự biến động của giá và trong biên độ mà cả hai bên có thể chấp nhận được. Công ty phải chủ động gặp gỡ thương thảo với nhà cung cấp trong trường hợp này để mong có một phương án giải quyết nhanh chóng nhằm giải phóng hàng và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên
Giảm số lượng hàng giao thực tế so với hợp đồng một lượng tương ứng phù hợp
Chấp nhận trả trước tiền hàng, coi như là một phương thức cung cấp tín dụng ngắn hạn cho nhà cung cấp.
Thêm vào đó, nhà quản trị nên xây dựng mối quan hệ cá nhân với nhà quản trị của các công ty cung cấp nguồn hàng. Nếu được như vậy, việc giải quyết các vướng mắc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều vì hai bên đều có thể tin cậy lẫn nhau.
3.4.4. Giải pháp trong khâu kiểm tra hàng hóa
Hàng hoá giao phải đúng với qui định của hợp đồng, nếu không thì có thể dẫn tới khiếu nại hoặc không chấp nhận hàng, chấm dứt hợp đồng dẫn đến chúng ta có thể bị thua lỗ. Do đó Công ty nên thiết lập một ban kiểm tra hàng hoá trước khi hàng được cơ quan kiểm định. Ban kiểm tra sẽ tiến hành kiểm tra ngay tại các chân hàng và đến khi hàng được vận chuyển đến baĩ tập trung thì công việc kiểm tra cũng phải được tiếp tục tiến hành và do đặc điểm mặt hàng nông sản dễ bị hư hỏng cho nên khi hàng được đưa đến cảng thì lại phải được tiến hành kiểm tra, công việc kiểm tra hàng có thể phức tạp hơn nhưng đảm bảo được chất lượng và số lượng hàng trước khi cơ quan kiểm định hàng tiến hành kiểm tra hàng. Hàng hoá qua kiểm định hợp qui cách, tức là được cơ quan kiểm tra cấp giấy chứng nhận kiểm nghiệm, khi đó hàng được bốc xếp lên tàuvà được xuất khẩu sang cho đối tác.
3.4.5. Giải pháp trong khâu thuê phương tiện vận tải
Chọn lựa thuê tàu chợ hay tàu chuyến cần phải tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá. Nếu hàng hoá có giá trị không lớn, không cao Công ty có thể thuê tàu chợ. Còn nếu hàng hóa có khối lượng lớn thì có thể thuê tàu chuyến giúp hạn chế được thời gian vận chuyển hàng. Công ty nên tiến hành thu gom hàng để thuê tàu chuyến mặc dù giá có hơi cao nhưng thời gian vận chuyển sẽ thu ngắn lại do tàu không phải chuyển tải giao hàng từng phần. Công ty phải lấy được vận đơn sạch đã xếp hàng lên tàu vì đây là bằng chứng cho thấy Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao hàng, hàng hoá không mất mát, đủ về số lượng, đúng về chất lượng, đúng với hợp đồng bởi nếu vận đơn không sạch thì ngân hàng sẽ từ chối thanh toán.
3.4.6. Giải pháp trong khâu Làm thủ tục hải quan
Không riêng gì ở Việt Nam mà ở các nước khác, hải quan hiện là khâu phức tạp nhất đối với những nhà xuất khẩu trong thương vụ của mình . Điều này là bởi vì thủ tục hải quan gồm nhiều bước, nếu gặp bất kỳ sai sót nào về hàng hoá và giấy tờ đều có thể trả giá bằng thời gian hay tiền bạc mà điều quan trọng là làm chậm trễ quá trình tổ chức thực hiên hợp đồng xuất khẩu, giảm uy tín của Công ty đối với bạn hàng.
để làm thủ tục hải quan một cách chọn vẹn Công ty phải thực hiện hai bước:
-Bước 1: Công ty phải lập bộ chứng từ hải quan đầy đủ, các giấy tờ này phải khớp với hợp đồng hoặc L/C được chuẩn bị từ trước.
-Bước 2: Kiểm hoá.
Trong giai đoạn này hàng hoá sẽ được đối chứng với chứng từ. Bất kỳ sự không phù hợp nào trong bộ chứng từ hoặc giữa hàng hoá với bộ chứng từ, Tổng công ty sẽ gặp khó khăn, tốn kém thời gian và chi phí. Do đó Công ty cần phải lập hồ sơ đúng với quy định của hải quan về số lượng, số loại chứng từ cần thiết, kê khai nội dung vào tờ khai hải quan đúng như bộ chứng từ.
3.4.7. Giải pháp trong khâu giao hàng xuất khẩu
Công ty cần kiểm nghiệm hàng hoá một cách nhanh chóng rồi tiến hành làm thủ tục hải quan để giao hàng đúng thời hạn quy định đồng thời giảm được chi phí, giữ được uy tín với khách hàng. Công ty phải thường xuyên trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày, giờ phương tiện vận chuyển đến và ngày giờ làm hàng, để vận chuyển hàng đến cảng hay tới địa điểm giao hàng. Để lập được kế hoạch này Công ty căn cứ vào đặc điểm hàng xuất khẩu, thời gian giao hàng ghi trong hợp đồng.
Trong quá trình giao hàng, việc giao hàng phải được cán bộ của Công ty thường xuyên giám sát, cập nhật số liệu từng ngày, từng giờ xem có đúng tốc độ bốc hàng hay không, kịp thời phát hiện sai sót để có biện pháp sử lý thích hợp. Khi giao hàng xong Công ty nên yêu cầu đối tác hoặc người vận chuyển ký vào biên bản tổng kết giao nhận hàng hoá, nhanh chóng Công ty lấy vận đơn thuyền phó để đổi lấy vận đơn đường biển và chuyển gấp về phòng kế toán để lập chứng từ thanh toán.
Khi giao hàng lên tàu, để tránh những sự việc không hay xảy ra, Công ty cần phải:
Thông báo cho đại lý vận tải của Công ty
Chuẩn bị tốt cho việc bốc xếp hàng hóa
Giám sát chặt chẽ trong quá trình giao hàng
Lập các chứng từ cần thiết sau khi giao hàng
Ngoài ra Công ty còn chú ý tới việc tiết kiệm các chi phí trong quản lý kinh doanh để bù vào chi phí vận chuyển tăng cao nhằm đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Phương án này với Công ty hiện nay là khá khó khăn thực hiện vì trên thực tế Công ty đã luôn cố gắng tiết kiệm chi phí có thể được trong hoạt động kinh doanh cũng như chi phí quản lý khác.
Công ty có thể tận dụng sự phong phú và theo xu hướng cung lớn hơn cầu hiện nay của thị trường vận tải để đưa ra một giải pháp có lợi cho cả hai bên. Đó là trong số các công ty vận tải hiện nay mà Công ty đang có mối quan hệ hợp tác, nên chọn ra một công ty đáp ứng tốt nhất nhu cầu của Công ty về tuyến phục vụ, lịch trình, chất lượng dịch vụ… Công ty sẽ tiến hành đàm phán và ký kết các hợp đồng nguyên tắc theo từng năm hoặc có thể lâu hơn với họ, tất nhiên là với một mức giá phù hợp và nhất thiết khi đàm phán để ký hợp đồng chi tiết khi có nhu cầu chuyên chở giá đó phải thấp hơn giá thị trường thực tế trong phạmvi quy định của hợp đồng nguyên tắc. Điều này đảm bảo Công ty sẽ tiết kiệm được phần nào giá cước vận tải tăng cao và ngược lại hãng vận tải cũng sẽ có một khách hàng thường xuyên trong một thị trường cạnh tranh khốc liệt.
Vấn đề lịch bốc hàng có thể bị thay đổi bất ngờ khiến cho Công ty có thể gặp lúng túng nếu thời gian giao hàng là quá gấp. Do vậy để giải quyết được vấn đề này Công ty nên chủ động rút ngắn thời gian có thể được và lên kế hoạch giao hàng bao giờ cũng nên để một độ dư nhất định cho những trường hợp trên. Không nên xếp lịch giao hàng qua sát với ngày đến hạn. Như thế nếu có sự thay đổi bất ngờ Công ty cũng không quá khó khăn vì vẫn còn thời gian dư cho việc giao hàng và bốc hàng.
Ngoài các biện pháp chủ động sắp xếp lịch giao hàng sao cho có thể tránh được các rủi ro có thể xảy ra, tuy nhiên do đặc điểm thị trường của sản phẩm thiếc khó có thể đảm bảo việc Công ty luôn chủ động được thời gian giao hàng trong từng đơn hàng. Do vậy khi có những sự kiện xảy ra có thể làm chậm quá trình giao hàng, Công ty nên cử cán bộ trực tiếp xuống làm việc với cơ quan điều độ cảng, hay các cơ quan và các đơn vị khác có liên quan để nhanh chóng giải quyết các vướng mắc về phía Công ty mà họ yêu cầu.
Trong trường hợp việc giao hàng chậm là do các nhân tố bất khả kháng thì Công ty phải chủ động thông báo cho các đối tác và chuẩn bị đầy đủ các hồ sơ và chứng từ để xuất trình đúng theo quy định giải quyết trường hợp bất khả kháng như đã quy định trong hợp đồng.
3.4.8. Giải pháp trong khâu thanh toán
Khi Công ty thực hiện hợp đồng xuất khẩu thì phải thông báo cho bên mua là đã sẵn sàng giao để bên mua mở L/C ngân hàng phát hành L/C thông qua ngân hàng thông báo sẽ chuyển L/C gốc cho Công ty, Công ty cần kiểm tra kỹ L/C vì hầu hết các khiếu nại sau này xảy ra từ phía Công ty do việc không nhận được tiền hàng xuất khẩu hay thanh toán chậm đều xuất phát từ công việc kiểm tra L/C đã không kịp thời phát hiện những sai sót khác với hợp đồng hoặc các chứng từ có trong bộ chứng từ thanh toán, vì vậy khi phát hiện sai sót cần nên yêu cầu bên mua sửa đổi ngay.Cần lưu ý rằng sửa đổi L/C có xác nhận của ngân hàng phát hành(ngân hàng mở L/C) thì mới có hiệu lực. Đến hạn thanh toán Công ty nên chuẩn bị đầy đủ bộ chứng từ thanh toán, bộ chứng từ này phải theo đúng quy định trong L/C tại ngân hàng thanh toán.
Trên thực tế hiện nay việc thanh toán tại Công ty nói chung là an toàn. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng các trường hợp phát sinh gây khó khăn trong quy trình thanh toán. Ngoài việc đưa ra một điều khoản thanh toán chặt chẽ trong hợp đồng hay việc thực hiện lập bộ chứng từ đầy đủ chính xác. Công ty phải tìm hiểu các quy định thanh toán quốc tế của các ngân hàng ở các nước đối tác chọn làm nơi thanh toán.
3.4.9. Giải pháp về giám sát và điều hành việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Hiện nay quy trình giám sát và điều hành hợp đồng xuất khẩu của Công ty diễn ra tương đối thuận lợi. Tuy nhiên do đây là một quy trình rất phức tạp và đòi hỏi phải có nghiệp vụ chuyên môn để có thể đề xuất giải quyết các tình huống phát sinh.
Đưa ra một quy chế phối hợp giữa các nhân viên Công ty trong việc phối hợp cung cấp thông tin cần thiết trong việc giám sát và điều hành hợp đồng chung, từ đó quy định rõ và phân cấp trách nhiệm cụ thể cho từng người để mọi nhân viên đều nêu cao trách nhiệm của mình trong việc phối hợp thực hiện giám sát và điều hành hợp đồng xuất khẩu.
3.4.10. Giải pháp về bối dưỡng nguồn nhân lực
Công ty cần phải thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu kinh doanh xuất nhập khẩu. Đây là một vấn đề mang tính cấp bách vì con người là thành tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, dù có được sự hỗ trợ từ máy móc công nghệ cao đến đâu thì trình độ chuyên môn của nhân viên phải theo sát yêu cầu mới có thể hoàn thành công việc. Đi đôi với đào tạo, Công ty nên đưa ra các chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài, cùng với đó Công ty cũng phải luôn có những điều chỉnh về tiền lương và các yếu tố khác để có thể giữ chân những cán bộ giỏi, có năng lực. Bởi vì chính sách lương thưởng hợp lý sẽ tạo điều kiện và là nhân tố khuyến khích sự phấn đấu và tinh thần làm việc của các nhân viên trong Công ty. Điều này sẽ dẫn tới hiệu quả lao động kinh doanh của nhân viên sẽ cao hơn theo đó Công ty sẽ thu được lợi nhiều hơn.
3.4.11. Một số giải pháp khác
Thực hiện nghiêm túc chính sách giảm chi phí sử dụng tối đa hiệu quả của các trang thiết bị hiện có để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Công ty nên sắp xếp nguồn vốn kinh doanh sao cho hạn chế tối đa nguồn vốn kinh doanh bị chiếm dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thực hiện tốt các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong các hợp đồng xuất khẩu để tạo uy tín với bạn hàng nhằm nâng cao hình ảnh của Công ty.
Ngoài các khó khăn tồn tại trên đây khi thực hiện hợp đồng còn có rất nhiều các yếu tố khác tác động. Muốn tăng cường hiệu lực quản trị quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, Công ty còn phải quan tâm tới yếu tố con người và các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho quá trình tác nghiệp của nhân viên. Không dừng lại ở đó biện pháp tốt nhất có lẽ không chỉ cho việc tổ chức thực hiện hợp đồng mà cho cả các quy trình có liên quan đến các đối tác khác là Công ty phải luôn ý thức thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Từ đó mới có cơ sở buộc đối tác thực hiện nghĩa vụ của họ. Nếu cả hai bên tự nguyện thực hiện đúng các cam kết sẽ tạo sự tin tưởng lẫn nhau. Khi đã tin tưởng nhau hơn mọi vấn đề sẽ được giải quyết trên tinh thần cởi mở và thuận lợi hơn cho cả hai phía.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, sẽ tạo ra cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và Công ty VQB nói riêng những cơ hội và thách thức mới. Cùng theo đó các doanh nghiệp phải tự nắm bắt cơ hội vượt qua thách thức, tự hoàn thiện từng bước hoạt động kinh doanh của mình. Ý thức được điều này, Công ty Cổ phần Tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB luôn thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng đã ký kết để từ đó có cơ sở để nhắc nhở các đối tác về nghĩa vụ của họ đối với Công ty. Hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty vẫn tuân thủ theo một quy trình nhất định, tuy nhiên để công tác tổ chức hợp đồng xuất khẩu ngày càng được hoàn thiện hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo được sự thuận lợi cho khách hàng hơn nữa thì đòi hỏi Công ty phải luôn luôn nỗ lực nhiều hơn nữa. Đối với Công ty hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được ban lãnh đạo và tập thể nhân viên Công ty quan tâm hàng đầu. Do vậy việc đổi mới phát triển và hoàn thiện hoạt động XNK cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được coi là việc làm thường xuyên lâu dài và liên tục. Những kết quả thu được trong những năm vừa qua mới chỉ là kết quả ban đầu của quá trình đổi mới trong hoạt động của Công ty. Với những thế mạnh hiện có, những thành công đã đạt được cho phép khẳng định Công ty sẽ đứng vững và phát triển mạnh mẽ hơn hoàn thành nhiệm vụ được giao góp phần nâng cao lợi ích chung của toàn Công ty và góp phần vào sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, ThS. ĐỖ THỊ HƯƠNG đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề của mình. Bên cạnh đó em cũng xin cảm ơn Công ty cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB cụ thể phòng kinh doanh của Công ty đã chỉ dẫn cho em những nghiệp vụ cần thiết trong khi thực tập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chủ biên : Đỗ Đức Bình – Nguyễn Thường Lạng : Giáo trình kinh tế quốc tế - NXB Lao động xã hội 2005
PGS Vũ Hữu Tửu : Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Đại học kinh tế quốc dân 2006.
Công ty Cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB: Báo cáo tài chính qua các năm 2006, 2007, 2008, Bản giới thiệu lịch sử quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần tập đoàn khoáng sản và thương mại VQB(XB 10/2007)
Kinh doanh thương mại quốc tế trong cơ chế thị trường- NXB Thống kê Trường đại học Kinh tế quốc dân- 2000
Giáo trình thương mại quốc tế – NXB Thống kê - Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Marketing quốc tế của PTS Nguyễn Cao Văn – NXB Giáo dục - Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Niên giám thống kê 2007, 2008 – NXB Thống kê.
Thị trường và doanh nghiệp của Đặng Xuân Xuyến – NXB Thống kê- 2005
Tìm hiểu thị trường trong sản xuất kinh doanh – NXB Thành phố HCM – 2006
Tổng cục thống kê
Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 3/ 2008
Tạp chí Thông tin tài chính số 4/ 2008
Tạp chí Thị trường giá cả số 4/ 2008
Tạp chí Kinh tế và phát triển số 34/ 2008
Thông tư hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản - Bộ công thương(18/6/2008)
PHỤ LỤC 01
BỘ CÔNG THƯƠNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Số: 08 /2008/TT- BCT Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2008
THÔNG TƯ
Hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản
Căn cứ Nghị định số 189/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương; Căn cứ Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài. Căn cứ Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản; Bộ Công Thương hướng dẫn việc xuất khẩu khoáng sản như sau:
I. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
Khoáng sản quy định tại Thông tư này là các loại khoáng sản rắn, bao gồm khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại, khoáng chất công nghiệp. Dầu mỏ, khí đốt thiên nhiên, băng cháy, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng, khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng
không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư này.
II. QUY ĐỊNH VỀ VIỆC XUẤT KHẨU KHOÁNG SẢN
1. Khoáng sản khai thác trong nước chỉ được phép xuất khẩu khi đáp ứng đồng thời các yêu cầu sau
a) Được khai thác từ các mỏ, điểm mỏ không nằm trong quy hoạch cân đối phục vụ hoạt động chế biến sâu trong nước quy định tại Phụ lục 01 kèm theo Thông tư này.
b) Đã qua chế biến đạt tiêu chuẩn chất lượng và điều kiện quy định tại Phụ lục 02 kèm theo Thông tư này. Tiêu chuẩn chất lượng của các loại khoáng sản có yêu cầu hàm lượng (%) kim loại phải được các phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn VILAS xác nhận.
2. Chỉ có doanh nghiệp mới được phép xuất khẩu khoáng sản. Doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đủ điều kiện theo quy định của Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài và phải đáp ứng được một trong các điều kiện sau
a) Có Giấy phép khai thác khoáng sản hoặc Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản còn hiệu lực do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
b) Có Giấy phép chế biến khoáng sản còn hiệu lực và Hợp đồng mua khoáng sản để chế biến ký với tổ chức, cá nhân có Giấy phép theo quy định tại điểm a của khoản này.
c) Có Hợp đồng mua khoáng sản để xuất khẩu kèm theo bản sao y hoá đơn giá trị gia tăng hoặc Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu khoáng sản ký với tổ chức, cá nhân có Giấy phép theo quy định tại điểm a và b của khoản này.
d) Có đủ chứng từ hợp lệ mua (hoặc đấu giá) khoáng sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tịch thu và phát mại.
3. Trường hợp nhập khẩu khoáng sản để chế biến và xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu phải có đủ chứng từ hợp lệ chứng minh khoáng sản xuất khẩu có nguồn gốc từ việc nhập khẩu.
4. Việc xuất khẩu khoáng sản theo phương thức kinh doanh tạm nhập tái xuất hoặc nhận gia công chế biến cho thương nhân nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài.
5. Việc xuất khẩu than mỏ được thực hiện theo Thông tư 05/2007/TT-BCT ngày 22 tháng 10 năm 2007 của Bộ Công Thương hướng dẫn xuất khẩu than.III. BÁO CÁO VỀ XUẤT KHẨU KHOÁNG SẢN
1. Doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện xuất khẩu khoáng sản và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số liệu, thông tin báo cáo.
2. Nội dung báo cáo về xuất khẩu khoáng sản bao gồm
a) Kết quả thực hiện về chủng loại, khối lượng, kim ngạch xuất khẩu khoáng sản.
b) Nguồn gốc khoáng sản xuất khẩu; tình hình chấp hành các quy định về xuất khẩu khoáng sản.
3. Chế độ báo cáo về xuất khẩu khoáng sản thực hiện như sau:
a) Báo cáo về tình hình thực hiện xuất khẩu khoáng sản được lập định kỳ sáu tháng và một năm. Định kỳ sáu tháng đầu năm được tính từ ngày 01 tháng 01 đến 30 tháng 6 của năm báo cáo. Định kỳ một năm được tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
b) Ngoài việc thực hiện chế độ báo cáo theo quy định tại điểm a của khoản này, khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước liên quan để phục vụ công tác quản lý, doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản phải thực hiện báo cáo đột xuất về tình hình xuất khẩu khoáng sản.
4. Thời hạn gửi báo cáo về xuất khẩu khoáng sản được quy định như sau: a) Báo cáo do doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản lập theo quy định tại khoản 2 Mục này phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thực hiện việc xuất khẩu khoáng sản chậm nhất sau 5 (năm) ngày của kỳ hạn báo cáo quy định tại điểm a khoản 3 Mục này.
b) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng lập báo cáo tổng hợp về tình hình xuất khẩu khoáng sản trong phạm vi quản lý và gửi về Bộ Công Thương chậm nhất sau 15 (mười lăm) ngày của kỳ hạn báo cáo quy định tại điểm a khoản 3 Mục này.
IV. XỬ LÝ VI PHẠM
1. Mọi hành vi vi phạm các quy định về xuất khẩu khoáng sản quy định tại Thông tư này, tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt theo quy định của Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản không có nguồn gốc hợp pháp bị xử phạt theo quy định tại mục 3, Khoản 4, Điều 1 Nghị định số 77/2007/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 150/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực khoáng sản.
2. Cán bộ, công chức nhà nước lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của Thông tư này, tuỳ theo mức độ và hành vi vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo và thay thế các Thông tư số 02/2006/TT- BCN ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản, số 09/2006/TT-BCN ngày 28 tháng 11 năm 2006 của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) sửa đổi, bổ sung Danh mục, tiêu chuẩn chất lượng và điều kiện khoáng sản xuất khẩu ban hành kèm theo Thông tư số 02/2006/TT- BCN ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Bộ Công nghiệp hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản.
2. Việc xuất khẩu khoáng sản làm vật liệu xây dựng và khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng thực hiện theo Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng. Trong khi Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng chưa ban hành, việc xuất khẩu khoáng sản làm vật liệu xây dựng và khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng tạm thời tiếp tục thực hiện theo Thông tư số 02/2006/TT- BCN ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản.
3. Trường hợp khoáng sản đã qua chế biến nhưng không thể đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định tại Phụ lục 02 kèm theo Thông tư này do nguyên nhân khách quan hoặc khoáng sản xuất khẩu chưa được quy định tại Phụ lục 02 nói trên, doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản báo cáo UBND cấp tỉnh kiểm tra, xác nhận và đề nghị Bộ Công Thương hướng dẫn thực hiện.
4. Căn cứ tình hình thực tế của hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản và nhu cầu sử dụng khoáng sản trong nước, Bộ Công Thương sẽ xem xét điều chỉnh và/hoặc bổ sung các Phụ lục 01, Phụ lục 02 khi cần thiết.
5. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm các quy định về xuất khẩu khoáng sản, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi thực hiện việc xuất khẩu khoáng sản có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan chức năng kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý kịp thời.
6. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan định kỳ tổ chức kiểm tra việc chấp hành các quy định xuất khẩu khoáng sản theo Thông tư này và quy định của pháp luật có liên quan.
7. Hợp đồng xuất khẩu khoáng sản hợp lệ đã ký trước ngày Thông tư này có hiệu lực được tiếp tục thực hiện đến hết ngày 30 tháng 9 năm 2008.
8. Trong quá trình thực hiện Thông tư này nếu có vướng mắc, doanh nghiệp xuất khẩu hoặc tổ chức, cá nhân liên quan phản ánh kịp thời bằng văn bản về Bộ Công Thương để Bộ Công Thương xem xét, xử lý.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21973.doc