Chuyên đề Huy động vốn ở công ty cổ phần phát triển thương mại và du lịch ngôi sao

Trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp như hiện nay, thì công ty cổ phần phần phát triển thương và du lich quốc tế Ngôi Sao không nằm ngoài sự cạnh tranh đó. Làm thế nào để khẳng định được mình và có chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế hiện nay quả là một bài toán khó đối với công ty. Do đó, tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mà đầu tiên là tăng cường khả năng huy động vốn - một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt nam - là việc làm cần thiết. Nhận thức được điều đó, cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế thị trường, Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lịch quốc tế Ngôi Sao đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, không những đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động Công ty trong những tình huống phức tạp của thị trường mà còn tận dụng được những nguồn có chi phí thấp, linh hoạt. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển, tích luỹ chưa nhiều, việc đảm bảo nguồn vốn đáp ứng được cả yếu tố về chất và lượng còn là một vấn đề nan giải không chỉ đối với Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao mà cả các chủ thể kinh tế khác. Với mong muốn góp phần giải quyết vấn đề đó,em đã quyết định chon đề tài này để nghiên cứu và viết chuyên đề tốt nghiệp. Trong bài viết này em còn nhiều hạn chế cả về mặt chuyên môn cũng như do kiến thức của em còn nông cạn nên em chưa thể chuyển tải hết đến với thầy cô. Vì vậy, em mong được sự chỉ bảo thêm của thầy cô để em hoàn thành tốt bài viết nay. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Quang Trung đã giúp đỡ em hoàn thành tốt đề án tốt nghiệp này.

doc73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Huy động vốn ở công ty cổ phần phát triển thương mại và du lịch ngôi sao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
869.038.059 1.159.949.357 68.94% 74.92% tx = (1)+(2)-(3) (Nguồn: Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi sao) Nhìn vào bảng 5 ta thấy, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty trong những năm vừa qua đều âm. Điều đó chứng tỏ Công ty huy động vốn từ bên ngoài tốt, đảm bảo tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, con số này giảm dần qua các năm. Năm 2002, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty là 559.094.178 triệu đồng nhưng đến năm 2003 nhu cầu vốn lưu động thường xuyên chỉ còn đã ẵng lên và tăng lên một cách đáng kể 868.038.059 triệu đồng, tương ứng tăng lên308.943.881 triệu đồng và năm 2004 thì con số này đã tăng vọt lên 1.159.949.357 tỷ đồng, tương ứng tăng so với năm 2003 là74.92%. Nguyên nhân chủ yếu là do các khoản phải thu của Công ty trong những năm gần đây tăng, đặc biệt là năm 2004 do công ty cần nhiều bạn hàng mới nên việc công ty cho khách hàng nợ là rất nhiều so với năm 2002,2003. Năm 2003 vay nợ ngân hàng của Công ty tăng so với năm 2002, đó là do lúc này công ty đã thực sự đi vào hoạt động với lĩnh vực dịch vụ mới, đó là dịch vụ chuyển phát nhanh(NDN) nên công ty cần nhiều vốn để hoạt động kinh doanh. Hiện nay công ty đã được rất nhiều người biết đến loại hình dịch vụ này. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên giảm cho biết khả năng huy động vốn từ bên ngoài của Công ty ngày một giảm dần và công ty cần phải lưu tâm xem xét để điều chỉnh trong những năm tới đây. Trong một doanh nghiệp, nguồn vốn được huy động để hình thành nên các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ và sử dụng trong quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Trong đó, thông thường, nguồn ngắn hạn được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động còn nguồn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, bên cạnh chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, Công ty còn phải xác định lượng vốn lưu động thường xuyên mà mình có để xem nguồn vốn dài hạn có đủ để đầu tư cho tài sản cố định hay không. Nếu không, tức là vốn lưu động thường xuyên âm, thì doanh nghiệp phải sử dụng một phần vốn ngắn hạn để đầu tư cho tài sản cố định; ngược lại, nghĩa là khi vốn lưu động thường xuyên dương thì nguồn vốn dài hạn thừa để đầu tư vào tài sản cố định và chuyển một phần sang đầu tư vào tài sản lưu động. Bảng 5. Vốn lưu động ròng của công ty Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 So sánh 02/03 03/04 1. Nợ dài hạn 7.450.650.000 8.504.420.000 11.093.630.000 87.61% 76.66% 2.Vốn chủ sở hữu 111.354.253.000 12.145.500.000 15.997.892.000 93.49% 75.92% 3.Tài sản cố định 9.287.540.000 11.253.262.000 13.322.158.000 82.53% 84.47% 4. VLĐ TX 9.517.363 9.396.658 13.769.364 101.28% 68.24% LN=(1)+(2)-(3) (Nguồn: Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao) Bảng 5 cho ta thấy vốn lưu động thường xuyên của Công ty cả ba năm 2002,2003,2004 đều dương. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì là một doanh nghiệp thương mại với tỷ trọng tài sản cố định thấp, Công ty có thể sử dụng nguồn dài hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong quá trình kinh doanh sau khi đã tài trợ đủ cho những tài sản cố định cần thiết. Việc dùng nguồn dài hạn để tài trợ cho tài sản lưu động là khá an toàn song đổi lại công ty lại phải chịu chi phí vốn cao hơn so với việc dùng nguồn ngắn hạn. Qua bảng trên ta thấy, do nợ dài hạn của công ty tăng lên nên việc sử dụng vốn lưu động thường xuyên đã giảm đi đáng kể, từ 6.163.110.000 tỷ đồng năm 2002 xuống 4.928.402 tỷ đồng năm 2004, điều này là do công ty chưa thực sự nỗ lực trong việc kinh doanh của mình, vì để cho tỷ lệ nợ dài hạn lớn,mặc dù vậy công ty cũng đã ty tăng được uy tín đối với các bạn hàng, được các bạn hàng tin cậy và ngân hàng tạo điều kiện để đạt được kết quả cao trong kinh doanh. Đây là một điều thuận lợi cho công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. 2.4.1.2. Huy động được những nguồn vốn có chi phí thấp và linh hoạt Bên cạnh việc đảm bảo đủ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, kế hoạch tài trợ của Công ty còn tìm được những nguồn có chi phí thấp, có khả năng thay đổi quy mô một cách linh hoạt tuỳ theo những phức điều kiện phức tạp của thị trường. Nhìn chung, việc sử dụng các nguồn vốn có chi phí thấp đã phần nào giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất kinh doanh, giảm giá vốn hàng bán và nhờ đó tăng được sức cạnh tranh trên thị trường. Bằng chứng là công ty đã được các bạn hàng lựa chọn và tin tưởng trả tiền trước ngày càng nhiều như đã phân tích ở trên. Bên cạnh đó, việc dùng các nguồn vốn này còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp linh động hơn trong việc mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh bằng cách đơn giản là giảm vay vốn ngân hàng hoặc chỉ nhận tiền ứng trước để cung cấp hàng hoá cho những bạn hàng truyền thống. Hoạt động kinh doanh của Công ty cũng an toàn hơn do không phải đối mặt với nguy cơ khách hàng không thanh toán tiền hàng đã mua. Vốn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung trong qqua trình hội nhập và phát triển. Do khoa học công nghệ trên thế giới biến đổi từng giờ, từng phút cho nên các doanh nghiệp cũng phải tự đổi mới mình để phát triển cho phù hợp với quy luật của sự phát triển đó.Khonng nằm ngoài quy luật của sự biến đổi đó, các công ty cũng cũng có nhu cầu lớn về vốn trong quá trình tồn tại và phát triển mình. Thực tế đã chứng minh rằng, với số vốn tự có của mình, công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc kinh doanh của mình. Sự biến đổi mang tính tích cực này đã giúp Công ty thu hồi vốn nhanh, tránh được tình trạng nợ đọng dây dưa và nhờ đó mà công ty tăng nhanh được vòng quay vốn lưu động, giúp công ty hoàn thành một cánh nhanh chóng trong việc huy động vốn của mình. Bảng 6: Vòng quay vốn lưu động của công ty Đơn vị: Nghìn VNĐ Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 1. Doanh thu thuần 11.520.340 15.240.260 18.630.450 2. Vốn lưu động 6.550.400 8.400.000 9.644.000 3.Vòng quay vốn lưu động=(1)/(2) 1.76 1.81 1.93 (Nguồn: Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lịch quốc tế Ngôi Sao) Theo bảng 6 ở trên, ta thấy vòng quay vốn lưu động tăng dần trong ba năm. Năm 2002 vốn của Công ty quay được 1.76 vòng, đến năm 2003 tăng lên là 1.81 tức là tăng so với năm 2002 là 0.05 vòng và năm 2004, số vòng quay của vốn đã tăng lên so với năm 2003 là 1.93 vòng tức là tăng 0.12 vòng so với năm 2003 . Đây là một dấu hiệu rất khả quan về tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty, thể hiện khả năng thu hồi vốn kinh doanh và đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ trên cơ sở mở rộng được ngành nghề kinh doanh và nắm bắt được cơ hội thị trường. Công ty đạt được những kết quả này là do một số nguyên nhân sau: Trong thời gian qua, thị trường có nhiều biến động phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông-Nam á làm đồng tiền mất giá, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của những công ty nói riêng và các công ty trong nước nói chung, đặc biệt là những doanh nghiệp thương mại như Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao. Song do Nhà nước đã tiến hành các giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng, nên tỷ giá hối đoái của Việt Nam dao động không đáng kể, có tác động tích cực đến hoạt động du lịch. Thêm vào đó việc Việt Nam tham gia vào APEC và trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã tạo điều kiện cho Công ty mở rộng thị trường của mình sang nhiều nước trong khu vực, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, có thêm nhiều bạn hàng nước ngoài hợp tác kinh doanh. Về phía Công ty, trong những năm qua, nhờ sự năng động trong quản lý và sự nhạy bén trong kinh doanh,công ty đã cho ra đời nhiều loại hình dịch vụ có chất lượng và được nhiều người biết đến, bên cạnh đó công ty ccho ra đời nhiều loại hình dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu của thị trường, mở rộng quan hệ với những bạn hàng mới, có tình hình kinh doanh khá ổn định và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, Công ty vẫn gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến khả năng huy động vốn có nhiều hạn chế. 2.5. Hạn chế và nguyên nhân 2.5.1. Công ty chưa đa dạng hoá các hình thức huy động Hiện nay nguồn vốn của Công ty hình thành từ bốn nguồn chính là vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước, trong đó nguồn vốn vay ngân hàng có tỷ trọng ngày càng giảm còn các khoản phải trả người bán và người mua ứng trước có xu hướng ngày càng tăng. Một cơ cấu vốn như vậy có ưu điểm là chi phí sử dụng tương đối thấp, trên cơ sở đó tiết kiệm được chi phí kinh doanh, góp phần nâng cao lợi nhuận của Công ty.Tuy nhiên, ngoài những nguồn này, Công ty có thể sử dụng thêm những hình thức huy động khác như phát hành trái phiếu, sử dụng các hình thức tín dụng thuê mua, liên doanh liên kết để làm dồi dào hơn nguồn vốn của mình. Việc sử dụng cơ cấu vốn như hiện nay tuy tiết kiệm được chi phí kinh doanh song lại đẩy Công ty vào tình trạng bị động, phụ thuộc nhiều vào các đối tác kinh doanh. Trong trường hợp họ làm ăn tốt, tin tưởng hợp tác với Công ty thì không có vấn đề gì xảy ra và Công ty vẫn đủ vốn để hoạt động. Song nếu họ gặp rủi ro trong kinh doanh, hoặc được mời chào bởi những mối làm ăn béo bở hơn và rút vốn thì kế hoạch tài trợ của Công ty sẽ bị khủng hoảng. Do đó, việc đa dạng hoá các hình thức huy động là một trong những giải pháp tối ưu đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty trong mọi tình huống phức tạp của thị trường, giúp Công ty chủ động hơn và không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư. Công ty có thể đa dạng hoá nguồn tài trợ của mình bằng cách tăng nguồn vốn kinh doanh thông qua việc liên doanh liên kết, hợp tác kinh doanh hoặc sử dụng các hình thức tín dụng thuê mua. Hiện nay ở nước ta đã có một số doanh nghiệp quốc doanh triển khai hình thức tín dụng thuê mua và coi đây là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất hiệu quả. Thực hiện liên doanh liên kết cũng là một phương thức tốt để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Khi sử dụng hình thức này Công ty có thể tận dụng được lợi thế của bên liên doanh trong một số lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như Công ty có thể liên doanh với một doanh nghiệp nước ngoài trong đó phía nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm khai thác và tiêu thụ hàng hoá tại lãnh thổ nước đó hoặc khu vực đó. Như vậy, Công ty không những tăng thêm vốn mà còn tận dụng được lợi thế về mặt thị trường lãnh thổ. Ngoài ra, Công ty có thể tìm kiếm nguồn vốn vay nước ngoài khi cần những nguồn tài trợ cho những thương vụ cực lớn mà hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp khác sử dụng như vốn ODA – nguồn vốn tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. 2.5.2. Do mất cân đối về cơ cấu vốn Khi xây dựng các kế hoạch tài trợ cho hoạt động kinh doanh, mỗi một doanh nghiệp đều muốn đạt được một cơ cấu vốn tối ưu - tức là một tỷ lệ hợp lý giữa nợ và vốn chủ sở hữu nhằm hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất, và nhờ đó tối đa hoá giá trị chủ sở hữu. Thông thường khi doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ, rủi ro kinh doanh cao hơn song tỷ lệ lợi tức mong đợi cũng cao hơn. Ngược lại, việc sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu đem lại lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn nhưng đổi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại an toàn hơn. Tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau: như rủi ro kinh doanh của Công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp, khả năng linh hoạt tài chính và ý kiến chủ quan của các nhà quản lý mà mỗi doanh nghiệp sẽ lựa chọn một cơ cấu vốn khác nhau. Nói chung các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích một tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận tăng nhanh và không phải chia sẻ quyền kiểm soát Công ty mà vẫn đảm bảo được nguồn vốn cho nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng với tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, việc phá sản có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Rõ ràng là với một tỷ lệ nợ khá cao như hiện nay, hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng nhiều rủi ro hơn, Công ty dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi có những biến động bất lợi của thị trường hay vì một lý do nào đó mà các chủ nợ đồng thời muốn rút vốn kinh doanh. Thêm vào đó, với một tỷ lệ nợ quá cao, Công ty khó có thể huy động tiền vay để tiến hành sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. Đây là một vấn đề mà Công ty cần phải xem xét và tìm biện pháp điều chỉnh để đảm bảo giữ vững khả năng thanh toán và củng cố uy tín của mình. 2.5.3. Do môi trường kinh tế Nền kinh tế là một môi trường hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của công ty. Vì vậy, sự ổn định hay bất ổn, sự tăng trưởng hay chậm phát triển của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của công ty.Môi trường kinh tế lành mạnh sẽ giúp cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển cảu công ty cũng như việc mở rộng thị trường của các doanh nghiệp. Ngược lại, nếu môi trường bất ổn, có những biến động khó lường thì các chủ thể kinh tế cụ thể là các doanh nghiệp sẽ có xu hướng chậm phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình, và có thể sẽ lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, về đối tác kinh doanh…những điều này sẽ làm cho việc kinh doanh của công ty bị hạn chế không chỉ về chất lượng mà còn về uy tín của công ty. 2.5.4. Môi trường xã hội Môi trường xã hội bao gồm các nhân tố xã hội như: tình hình trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ dân trí, học thức, phẩm chất, lòng tin con người… Những nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới các nhân tố chính tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thật vậy, nếu một nơi có trật tự an ninh tốt sẽ giúp các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh, còn nếu một nơi trật tự an ninh không đảm bảo, có nhiều tệ nạn xã hội, trình độ dân trí thấp… sẽ gây ra tâm lý không yên tâm và không hấp dẫn cho việc hoạt động kinh doanh của công ty. Chính vì vậy, công ty rất cần sự quan tâm hơn nữa của các cấp uỷ đang và nhà nước để tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh phục vụ nhu cầu ngày càng cao của toàn thể xã hội. 2.5.5. Môi trường pháp lý Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuân khổ pháp luật cho phép. Nếu những quy định của pháp luật không cho phép thì các doanh nghiệp sẽ không được phép tự ý kinh doanh, vì nó sẽ thiếu sự ràng buộc giữa pháp luật và các doanh nghiệp. Nhưng những văn bản của pháp luật đưa ra không có sức thuyết phục, không rõ ràng thì sẽ gây cản trở cho các doanh nghiệp, ngược lại, những văn bản pháp luật, những quy định của nhà nước đưa ra một cách rõ ràng, đầy đủ và đồng bộ sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc, một môi trường kinh doanh ổn định cho các doanh nghiệp, góp phần tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữu các doanh nghiệp. Và đó cũng là cơ sở pháp lý để các công ty có thể khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xẩy trong hoạt động kinh doanh giữa các công ty với nhau. Tóm lại, việc mở rộng và nâng cao chất kinh daonh chịu tác động của rất nhiều nhân tố. Điều này đòi hỏi các công ty phải hiểu rõ và nắm vững các nhân tố ảnh hưởng để từ đó tìm ra các biện pháp khắc phục những hạn chế, phát huy thế mạnh thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế để đưa các doanh nghiệp tiến lên phía trước. Chương III kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn của công ty 3.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty Căn cứ vào mục tiêu, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta và cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996 –2010 của Việt Nam là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi chấp nhận hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây vừa là thời cơ vừa là thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực du lịch phải tìm kiếm các giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện, tăng cường hoạt động kinh doanh của mình. Nhận thức được điều đó, để hội nhập với xu hướng phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao khả năng cạnh tranh và không ngừng phát triển, Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao đã xây dựng cho mình một số phương hướng hoạt động như sau: 3.1.1. Phương hướng hoạt động của Công ty - Về lĩnh vực linh doanh du lịch: tiếp tục đa dạng hoá các loại hình kinh doanh du lich doanh, tích cực tìm kiếm, khai thác các loại hình dịch vụ mơi phù hợp với nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. - Về thị trường: tiếp tục duy trì thị trường cũ, mở thêm nhiều thị trường mới, đặc biệt tăng cường mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực, cố gắng duy trì mối quan hệ làm ăn với khách hàng truyền thống song song với việc tìm kiếm thu hút các khách hàng mới. - Không ngừng củng cố và hoàn thiện cơ sử vật chất kỹ thuật đặc biệt là việc xây dựng và hiện đại hoá hệ thống dịch vụ du lịch cho khách hàng. - Đầu tư ngân quỹ dành cho việc đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ công nhân viên có đủ nghiệp vụ, đáp ứng được đòi hỏi công việc ngày càng cao, nhất là trong hoạt động tiêu thụ hàng hoá. 3.1.2. Nhiệm vụ cụ thể năm 2005 Trong năm 2005 này, ban lãnh đạo công ty đã ra nhiệm vụ cho toàn thể nhân viên trong công ty cũng như các cổ đông, cụ thể là: * Về hoạt động kinh doanh Công ty phấn đấu đạt những chỉ tiêu sau: - Tổng doanh thu: 20.450.240.000 tỷ đồng tăng khoảng 20% so với năm 2004. - Tổng lợi nhuận: 12.154.600.000 tỷ đồng. - Nộp ngân sách: 420.450.000 triệu đồng. * Về công tác tài chính - kế toán: - Công ty cần tăng cường khai thác các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh ngày càng cao của công ty. Bên cạnh đó công ty cần phải tích cực tìm kiếm, sử dụng những nguồn vốn nhằm đảm bảo cả yêu cầu về chất và lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạy động kinh doanh của Công ty. - Tăng cường công tác quản lý tài chính, tập trung đối chiếu công nợ tồn đọng, khó đòi, giảm số dư nợ từ 15% - 20% so với năm 2004. - Xây dựng một đôi ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, chuyên môn từ đại học trở lên để đảm đương tránh nhiệm là người quản lý công ty và những công việc đòi hỏi phải có trình độ cao,khảng từ 20-30 người. * Về tổ chức hành chính: - Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao , đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của xã hội. - chăm lo hơn nữa đến đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty, đặc biệt là các chế độ ưu đãi cho nhân viên trong các ngày lễ tết… 3.2. Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại Công ty của công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi sao 3.2.1. Tăng vay vốn ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng Trong một vài năm trở lại đây, thực hiện chủ trương của Đảng, đó là đẩy mạnh hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng mở rộng các các hình thức tài trợ cho những công ty hoạt động trên lĩnh vực du lịch nhằm cung cấp vốn và kỹ thuật giúp cho các doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, giảm bớt rủi ro trong giao dịch với các đối tác nước ngoài. Đây là một trong những phương thức huy động vốn rất hữu hiệu, đảm bảo nhu cầu vốn của Công ty một cách nhanh chóng, đặc biệt là trong những thương vụ lớn. Do đặc điểm hoạt động của lĩnh vực du lịch rất cần đến vốn cũng như thị truờng tốt để công ty có thể mở rộng địa bàn hoạt động du lịch, do đó mà Đảng và Nhà nước đã giúp đỡ cho công ty rất nhiều trong lĩnh vực này. Trong trường hợp vốn lưu động của doanh nghiệp thường không đủ để thanh toán tiền cho khách hàng, thì tín dụng ngân hàng là giải pháp giúp Công ty thực hiện được những hợp đồng dạng này một cách kịp thời nhất. Bên cạnh đó, việc sử dụng hình thức tín dụng này còn giúp Công ty tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, thương lượng ký kết hợp đồng ngoại thương bởi vì khi được ngân hàng chấp nhận phục vụ mình nghĩa là Công ty đã xác định được năng lực thực hiện hợp đồng của mình đối với các nhà cung cấp tín dụng cho công ty mình. Điều này có ý nghĩa giúp cho doanh nghiệp tiến hành các thương vụ một cách trôi chảy, quan hệ được với khách hàng tầm cỡ thế giới, từ đó nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường quốc tế. Theo như số liệu đã phân tích trong phần trước, hiện nay Công ty đang sử dụng hình thức tín dụng thuê mua. Để tăng cường vốn cho nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của mình, Công ty có thể tăng nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng khác như chiết khấu chứng từ hoặc vay thanh toán bộ chứng từ cho ngân hàng. Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, không phải giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ mà chỉ căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên càng tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, do phải trả chi phí khi sử dụng nguồn vốn này nên Công ty cần phải tính toán, lập các phương án kinh doanh một cách cụ thể sao cho có thể đảm bảo được chi phí kinh doanh cộng thêm lãi suất ngân hàng mà vẫn có lãi. 3.2.2. Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu là các giấy tờ vay nợ dài hạnvà trung hạn, bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Thời hạn phổ biến nhất của trái phiếu là các loại 1 năm ,3 năm, 5 năm và 10 năm, rất ít công ty phát hành trái phiếu có kỳ hạn 20 năm.Trái phiếu còn được gọi là chứng khoán. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp là quan trọng nhất với điều kiệ cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu.Trên thị trường nước ta hiện nay lưu hành rất nhiều loại trái phiếu khác nhau như: trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi. Vay vốn ngân hàng có ưu điểm là giúp doanh nghiệp đảm bảo nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh một cách linh động nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Để khắc phục nhược điểm này, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Phương thức này giúp Công ty chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ cho nhu cầu vốn kinh doanh trong thời gian dài. Tuy nhiên, việc huy động vốn theo cách này còn khá mới mẻ nên vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm như: phương thức huy động thế nào? thời hạn huy động bao lâu? lãi suất, giới hạn huy động bao nhiêu? đều chưa được quy định chi tiết dẫn đến mỗi doanh nghiệp tiến hành theo một cách khác nhau. Hơn nữa, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và mức lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Để có thể huy động vốn bằng phương thức này, trước hết Công ty phải đảm bảo các điều kiện, quy định của luật phát hành và lưu thông chứng khoán và được sự chấp nhận của cơ quan quản lý cao nhất về thị trường chứng khoán (thường là Uỷ ban chứng khoán quốc gia). Muốn vậy, Công ty phải công khai với Uỷ ban chứng khoán quốc gia các số liệu về khả năng tài chính (vốn, lợi nhuận) mà công ty hiên nắm giữ, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi của Công ty, cũng như luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt của Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Với tính hình tài chính khá lành mạnh và uy tín sẵn có trong những năm qua, Công ty có khả năng sử dụng hình thức này. Tuy nhiên, Công ty cần phải xem xét kỹ lưỡng các điều kiện hiện có, xác định những mặt lợi và cả những mặt hạn chế sẽ phải gánh chịu để lựa chọn loại trái phiếu, số lượng và thời điểm phát hành cho phù hợp. 3.2.3.Nhà nước thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp ểnTong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay,để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới một cơ cấu vốn tối ưu có sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất hay nói một cách khác là có sự cân đối giữa nợ và nguồn vốn chủ sở hữu. Do đó, mặc dù Công ty có thể huy động vốn một cách tiện lợi và linh hoạt thông qua việc phát hành trái phiếu và vay vốn ngân hàng song cũng không nên quá lạm dụng vì đây là các hình thức vay nợ. Việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh phần lớn được hình thành từ nợ sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng nhiều rủi ro, bấp bênh và do đó hiệu quả kinh doanh không cao. Trong trường hợp này, để đảm bảo nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng mà vẫn đạt được một cơ cấu vốn tối ưu, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Hiện nay Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp nhà nước được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu và bỏ mức khống chế vốn huy động tại điều 11 của Nghị số 59/CP. Đây là một bước tiến không chỉ trong việc giải quyết nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với Công ty, việc cổ phần hoá sẽ khắc phục được tình trạng cơ cấu vốn bất hợp lý hiện nay. Thêm vào đó, khi chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần, người lao động khi có cổ phần trở thành những người chủ đích thực, có quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích cụ thể, từ đó họ gắn bó với Công ty hơn. Chính điều này sẽ tạo điều kiện cho Công ty khắc phục được khó khăn về vốn, về cải tiến kỹ thuật, việc làm, năng suất chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Để tiến trình cổ phần hoá tiến hành được thuận lợi, Công ty cần phải nghiên cứu các quy định cụ thể có liên quan đến cổ phần hoá, từ đócác công ty có thể tụe mình đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động, chế độ xử lý các khoản nợ hiện nay vẫn còn là những cản trở đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. 3.2.4. Sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu qủa Bên cạnh mục tiêu huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh, Công ty cũng cần phải sử dụng nguồn vốn hiện có sao cho tiết kiệm và có hiệu quả. Trong đó, quan trọng nhất là sử dụng vốn lưu động một cách triệt để và có hiệu quả. Trong những năm vừa qua, mặc dù Công ty đã đạt được tốc độ lưu chuyển vốn lưu động, song để tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, làm lượng vốn tăng lên, Công ty cần tiếp tục thực hiện các biện pháp như: tổ chức tốt công tác vận chuyển và tiêu thụ để giảm số lượng hàng tồn kho, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu khách hàng, tránh để tình trạng nợ đọng dây dưa, tình trạng nợ quá hạn và khó đòi. Ngoài ra, Công ty cần quan tâm đến việc tiết kiệm đến mức có thể các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh như chi phí mua hàng, chi phí dự trữ, chi phí bán hàng. Chẳng hạn như khi mua hàng, Công ty nên tham khảo toàn diện giá cũng như điều kiện mua hàng từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để chọn được nhà cung cấp có nhiều ưu đãi nhất. Công ty cũng nên chịu khó tìm kiếm những nguồn hàng mới, rẻ, mua tận gốc bán tận ngon để kiết kiệm được chi phí trung gian, nhờ đó giảm được chi phí kinh doanh. Nói chung, vấn đề cốt lõi để quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động kinh doanh của Công ty phải thực sự hiệu quả, có lợi nhuận, có tích luỹ. Muốn vậy, Công ty cần phải tự đánh giá mình về khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp, từ đó xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp với năng lực của mình, tự khẳng định mình trong nền kinh tế thị trường đầy biến động như hiện nay. Song song với việc thực hiện các kế hoạch đề ra một cách chính xác, hiệu quả, Công ty cũng nên nhanh chóng hình thành ban thanh tra, kiểm toán nội bộ để giúp doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong qua trình hoạt động, dặc biệt là đối với nhân viên lái xe Taxi . Đồng thời quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tập thể trong việc đi vay, sử dụng vốn vay và trả nợ để đảm bảo uy tín cho người đi vay cũng như đối với người cho vay, để làm được điều đó cần phải có một sự am hiểu về các nghiệp vụ tín dụng của ban lãnh đạo công ty. 3.2.5. Các ngân hàng tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ Tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một con đường tốt vì nó giúp các công ty có thể phát huy nội lực của chính mình,giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài.Có rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của doanh nghiệp mình.Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận có liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm.Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần. Như vây, trị giá ghi sổ của các cổ phiếu tăng lên cùng với việc tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích các cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của các cổ phiểutong thời kỳ trước mắt, do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ. Khi nói tới nguồn vốn tái đầu tư của các công ty cổ phần, không thể không lưu ý tầm quan trọng cảu chính sách phân phối cổ tức. - Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ. - mức chia lãi trên mộtcổ phiếu của các năm trước. - Hiệu quả của việc tái đàu tư từ nguồn lợi nhuận để lại. 3.2.6. Giải pháp về tổ chức cán bộ, công tác điều hành Thực hiện việc bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp sở trường, năng lực của từng người.Hạn chế tối đa việc chuyển cán bộ từ nghiệp vụ này sang nghiệp vụ khác. Công ty phải tập trung lực lượng cán bộ cho các bộ phận trực tiếp kinh doanh. Bên cạnh đó công ty thường xuyên tổ chức đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, dặc biệt là một số nghiệp vụ mũi nhọn để tăng sức cạnh tranh. Chuẩn bị tốt về con người, cơ sở vật chất cho một số hoạt động nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Trong công tác điều hành, phải bám sát chiến lược kinh doanh của công ty, gắn hoạt động của công ty với sự chỉ đạo của ban lãnh đạo công ty, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Nhà nước, thực hện tốt các cơ chế mà Đảng và Nhà nước đề ra. Thắt chặt việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn và tác nghiệp theo đúng quy chế, quy trình trong hoạt động kinh doanh. Nâng cao kỷ cương, kỷ luật trong điều hành kế hoạch, thực hiện việc kiểm tra định kỳ với các cán bộ nhân viên trong công ty nhằm đưa công ty phát triển tốt hơn nữa trong những năm sắp tới. 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc huy động vốn và sử dụng vốn ở công ty 3.3.1. Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn thông qua tín dụng ngân hàng Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng du lịch là tương đối lớn. Các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực du lịch với khả năng tài chính có hạn, vì thế không phải lúc nào cũng có đủ tài chính để thanh toán cho các hợp đồng đó. Thêm vào đó, quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi nhất thiết phải có sự tham gia của ngân hàng. Sự trợ giúp của ngân hàng lúc này không chỉ đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết về kỹ thuật mà còn là chỗ dựa tài chính trong hoạt động kinh doanh. Thông thường Nhà nước có thể giúp đỡ các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực du lịch dưới hai hình thức: - Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó để ký kết các hợp đồng và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ này của các doanh nghiệp nước mình. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước và kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi. - Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực du lịch trong nước cũng như quốc tế, hoạt động của các doanh nghiệp liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Việc tăng cường giám sát để nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty là một biệ pháp hữu hiệu được các doanh nghiệp quan tâm và đánh giá rất cao. Trong hoàn cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, ít có sức cạnh tranh, thì đây là hình thức tài trợ vốn hữu hiệu cho các công ty kinh doanh du lịch thực hiện được những thương vụ lớn, tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, giao dịch với các bạn hàng nước ngoài và nhờ đó tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Nhà nước thường hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch bằng cách cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước hoặc sau khi giao nhận hàng hoặc thực hiện các hình thức bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh để các doanh nghiệp này vay vốn của các tổ chức, các ngân hàng nước ngoài. Nói chung nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn được các doanh nghiệp rất quan tâm, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại có nhu cầu vốn trong thời gian ngắn và khá linh động như Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao. Do đó, Nhà nước phải tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi để các ngân hàng thực hiện nhiệm vụ là cầu nối - cung tiền tệ cho các doanh nghiệp. Để làm được điều này, cần phải tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của ngân hàng, vừa hạn chế thủ tục phiền hà, chồng chéo tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn được nhanh chóng, kịp thời kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn khi cho vay. Ngân hàng cũng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi suất cho vay sao cho phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động của công ty để từ đó nâng tỷ lệ khoản vay vốn trung và dài hạn, nhất là đối với một số lĩnh vực hoạt động du lịch khác nhau, các ngân hàng có làm được những điều đó thì các công ty mới mong phát triển được tốt hơn. 3.3.2. Nhà nước đảm bảo các khoản tín dung cho công ty Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu như Công ty cổ phần phát tiển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao thực hiện việc kinh doanh du lịch dưới nhiều hình thức tín dụng khác nhau như trả chậm dưới hình thức tín dụng, thế chấp tài sản khi chưa có tiền mặt…đảm bảo cho khách hàng yên tâm khi sử dụng dịch vụ của công ty. Việc bán hàng như vậy thường chứa đựng những rủi ro có thể do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn kinh doanh bằng cách cho sử dụng dịch vụ chịu (không phải trả tiền ngay) quỹ bảo hiểm của Nhà nước sẽ đứng ra bảo hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Một đặc điểm của các công ty cổ phần là quy mô nhỏ và hoạt động kinh doanh không ổn định, do dó, tín dụng ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các công ty. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ hôi kinh doanh cho các công ty cùng nhau phát triển mà không để lại hậu quả xấu sau này cho các daonh nghiệp. Nhà nước nên thực hiện công việc này vì nếu Nhà nước đứng ra đảm bảo tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao được giá bán hàng đồng thời yên tâm hơn trong việc mở rộng quan hệ kinh doanh với nhiều bạn hàng mới, chiếm lĩnh nhiều thị trường mới. 3.3.3. Nhà nước thực hiện cấp vốn bổ sung cho các công ty Chúng ta biết rằng, các doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước thành lập, Nhà nước bỏ vốn kinh doanh để thực hiện mục đích kinh tế chiến lược của mình. Như vậy không vì một lý do gì mà Nhà nước không cấp đủ vốn lưu động cần thiết cho các doanh nghiệp này. Đây là nguồn vốn chính không ai có thể thay thế được, là trách nhiệm của cơ quan tài chính Nhà nước, còn vốn tín dụng chỉ là vốn bổ sung. Nhưng trên thực tế, hiện nay vốn vay chiếm tỷ lệ 80 - 85% là điều không hợp lý. Rõ ràng, doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn ngay từ lúc đầu ngân sách đã cấp không đủ vốn kinh doanh, làm cho doanh nghiệp không có điểm tựa. Do đó, trong quá trình hoạt động, Nhà nước cần thực hiện cấp bổ sung vốn cho các doanh nghiệp để tạo tiền đề cho các doanh nghiệp cân bằng nguồn vốn của công ty và nguồn vốn mà ngân sách nhà nước cấp để hoạt động kinh doanh. Nhà nước cần lưu tâm hơn nữa trong việc cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn nữa trong cơ chế thị trường đầy biến động như hiện nay. 3.3.4. Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá Đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh rõ ràng là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Tuy nhiên, khi nền tài chính quốc gia còn hạn hẹp, ngân sách nhà nước còn bội chi thì việc bổ sung đủ tỷ lệ vốn lưu động cần thiết cho các doanh nghiệp nhà nước là điều không phải dễ dàng. Chúng ta đã thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhiều năm nay, một số cơ chế chính sách về cổ phần hoá, vì thế không còn phù hợp với thực tiễn nhưng vẫn chưa được sửa đổi kịp thời như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động, cơ chế xử lý các khoản nợ dây dưa và tài sản được loại trừ ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, chế độ phân cấp trong việc lựa chọn phê duyệt đề án cổ phần hoá nên đã hạn chế và cản trở phần nào đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Do đó, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi, Nhà nước nên sửa đổi và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp; nâng cao năng lực pháp lý của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt động chuyển đổi sở hữu DNNN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này thông qua việc xây dựng và trình quốc hội cho phép ban hành luật chuyển đổi sở hữu DNNN. Đồng thời hoàn thiện và xây dựng các định chế thích hợp để thực hiện Luật phá sản. Song song với việc sửa đổi hoàn thiện hệ thống chính sách cũ, Nhà nước cần sớm ban hành văn bản liên quan đến cổ phần hoá DNNN như: - Xây dựng cơ chế ưu đãi hợp lý và cơ chế xử lý nợ để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu và niêm yết trên thị trường chứng khoán bao gồm cả các biện pháp khoanh nợ, xoá nợ và chuyển nợ thành cổ phần ở những doanh nghiệp cổ phần hoá. - Quy chế quản lý tài chính và hoạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Quy chế quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Hướng dẫn xử lý dứt điểm đối với những tài sản loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước nên xây dựng đề án và tổ chức thí điểm Công ty quản lý tài sản và mua bán nợ để hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính khi thực hiện các đề án chuyển đổi sở hữu; Công ty đầu tư tài chính để từng bước tách rời quyền sở hữu với quyền quản lý tài sản thông qua việc chuyển phương thức quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp từ hành chính sang phương thức đầu tư. 3.3.5. Cần nhanh chóng phát triển thị trường tài chính Trong nền kinh tế thị trường, quá trình điều hoà các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, từ nơi thừa đến nơi thiếu được diễn ra chủ yếu tại các thị trường tài chính, vì ở đây các hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động nhất và nó đem lại hiệu quả kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp. Do đó, việc tạo lập và phát triển một thị trường tài chính hoàn thiện là quá trình mang tính khách quan nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh tìm kiếm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Sau đây là sơ đồ của sự vận động cảu vốn trên thị trường tài chính, từ sơ đồ này để chúng ta thấy được rằng công ty muốn hoạt động tốt thì cần đến một bộ máy tài chính vững chắc và phải có sự kết hợp hài hoà khi giữa các công ty và phòng tài chính, đó là sự vận động logic khi các công ty tham gia vào môi trường kinh doanh, đặc biệt là với những công ty có vốn ít, không đủ để chi trả cho quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Mỗi một doanh nghiệp khi bước vào lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ phải thông qua thị trường tài chính để có được kế hoạch đúng đắn cho việc kinh doanh của mình. Sơ đồ 2: Sự vận động của vốn trên thị trường tài chính. Trung gian tài chính ( Ngân hàng, công ty bảo hiểm…) Người đi vay - Dân cư -Các doanh nghiệp - Chính phủ - Người nước ngoài Người cho vay - Dân cư -Các doanh nghiệp - Chính phủ - Người nước ngoài Thị trường tài chính (Thị trường tiền tệ, thị trường vốn) Nhìn lên sơ đồ của sự vận động các dòng vốn trên thị trường tài chính, ta thấy sự vận động của các dòng vốn trên thị trường tài chính rõ ràng là với một thị trường tài chính hoàn thiện. Những người cần vốn và những người có vốn sẽ thoả mãn được nhu cầu cho vay và đi vay của mình một cách tiện lợi nhất mà không phải thông qua một tổ chức trung gian nào. ở nước ta hiện nay, vốn lưu chuyển chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng. Thị trường chứng khoán đã hình thành và đi vào hoạt động nhưng do những hạn chế về thông tin và sự nhạy bén của thị trường chứng khoán đối với dân chúng nên chưa đảm nhận được chức năng tạo ra đầy đủ nhất các hình thức đầu tư, thúc đẩy và mở rộng những chu chuyển vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế; do đó chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các tụ diểm vốn là một bộ phận mà các nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Trong hoạt động kinh tế thì thi trường tài chính có mối quan hệ mật thiết với với các doanh nghiệp. Đây là điều Chính phủ cần quan tâm và tìm những giải pháp để thúc đẩy quá trình hoàn thiện thị trường tài chính trong thời gian gần nhất. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt nam mới có thể giải quyết được tình trạng thiếu vốn, mất cân đối nguồn vốn để phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 3.3.6. Nhà nước có các biện pháp nghiên cứu thị trường để tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp Nghiên cứu thị trường là môi truờng hoạt động của các doanh nghiệp, có tính chất quyết định đến thành công của các công ty. Hoạt động này nhằm xác định nhu cầu của thị trường và thay đổi phương hướng hoạt động của các doanh nghiệp sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nghiên cứu thị trường của Nhà nước là xác định đặc điểm thị trường nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp những dịch vụ tối ưu. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập, phân tích thông tin về thị trường. Những thông tin này giúp các nhà quản lý đưa ra các kết luận đúng đắn và lập kế hoạch cho danh nghiệp mình. Công tác dự đoán thị trường sẽ góp phần chính trong việc thực hiện phương châm đáp ứng đầy đủ những gì mà thị trường đang cần. Để làm được điều đó, Nhà nước đi nghiên cứu cầu thi trường, nhu cầu của khách hàng. Trên cơ sở đó nhà nước sẽ nâng cao khả năng thích ứng của dịch vụ trên thị trường nhăm tăng cường khả năng thu hút khách hàng.Nghiên cứu nhu cầu thị trường có vai trò hết sức quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp. Đây là công việc hết sức phức tạp nhưng lại cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh đó nhà nước cũng đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến thị trường như: môi trường dân cư, môi trường kỹ thuật-công nghệ, môi trường chính trị, môi trường văn hoá… Nghiên cứu khả năng thích ứng cầu của khách hàng, đây là việc nghiên cứu khả năng cung ứng các loại dịch vụ của các doanh nghiệp và khả năng cung ứng của các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như nước ngoài. Vì vậy, để mở rộng thị phần của mình và đứng vững trên thi trưòng, các doanh nghiệp không chỉ cần hiểu thấu đáo khách hàng của mình, mà cần thiết phải nghiên cứu các đối tác cạnh tranh để đưa ra các giải pháp cho thích hợp đối với doanh nghiệp mình. Để hiểu được sự vận động của thị trường, nắm được các yếu tố biến đổi của thị trường cũng như khả năng tham gia thị trường của doanh nghiệp mình, nhà nước đã thực hiện các bước sau nhằm giúp các doanh nghiệp thành công trong kinh doanh: Xác định thông tin cần thu thập: qua các tài liệu, tư liệu được cung cấp với nghiên cứu hiện trường thực tế. Triển khai thông tin: qua các tài liệu, tư liệu được cung cấp ở trên, nhà nước có thể có được thông tin cần thiết để triển khai cho các doanh nghiệp. Xử lý thông tin: Nhà nước tiến hành phân tích để xác định thái độ của khách hàng đối với những sản phẩm mà các doanh nghiệp có được. Dự báo thi trường: Để xem xét khả năng hấp thụ sản phẩm cảu thị trường, hay phản ứng của khách hàng trên thị trường …Nhà nước đưa sản phẩm mới vào thi trường để các doanh nghiệp đua nhau làm và từ đó khách hàng sẽ biết đến sản phẩm của từng doanh nghiệp với chất lượng như thế nào. Nhà nước đưa ra quyết định cuối cùng có liên quan đến sản phẩm khi các thông tin đã được xử lý và chính thức công khai trên thị trường. Phương pháp nghiên cứu thi trường sẽ giúp các doanh nghiệp thoả mãn được nhu cầu của thị trường, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp cũng như cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp. Song song với việc tìm hiểu thị trường thì chiến lược Marketing cũng rất qua trọng đối với các doanh nghiệp, nó là chiến lược bộ phận trong chiến lược của công ty, nó được xây dựng vào các thời diểm như: Doanh nghiệp cung cấp sản phẩm mới hay tham gia vào thị trường mới, công ty lập kế hoạch cho hoạt động cho những năm sắp tới, … Chiến lược Marketing của Nhà nước, nhằm giúp các doanh nghiệp tăng khả năng sinh lời của sản phẩm cũng như mặt tích cực của sản phẩm mà các doanh nghiệp cho ra trên thị trường. đồng thời tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường để tạo ưu thế và uy tín cho doanh nghiệp mình. Các hình thức liên quan đến Marketing đó là: Chính sách thông tin. Chính sách về sản phẩm, giá cả. Chính sách về phân phối. Chính sách về giao tiếp, khuyếch trương sản phẩm. Trên đây là những nội dung liên quan đến các chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển đi lên, hội nhập quốc tế, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp để từ đó các doanh nghiệp có thể tự mình khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Nhà nước với quyền lực của mình đã giúp các doanh nghiệp bằng cách cổ phần hoá các doanh nghiệp, cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để họ có thế có đủ điều kiện hoạt động, phát triển mình trong cơ chế thị trường ngày càng khốc liệt như hiện nay. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cân bằng nguồn vốn của mình, giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường, giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các nước trong khu vực để có được những kinh nghiệm tốt phục vụ cho việc hoạt động kinh doanh của mình. Để các công ty của chúng ta ngày càng lớn mạnh sánh vai với các bạn bè trong khu vực thì điều quan trọng hàng đầu vẫn là sự quan tâm đúng mức của Đảng và Chính phủ, vì đây là những lực lượng đi tiên phong trong tất cả các hoạt động của đất nước, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp. Để làm được điều này không phải là điều đơn giản ngày một, ngày hai mà nó là cả một quá trình lâu dài cho chiến lược kinh doanh của các công ty, làm thế nào để đưa các doanh nghiệp của mình ngày càng lớn mạnh không chỉ về quy mô mà phải để cho bạn bè khắp thế giới biết đến một đất nước nhỏ bé của chúng ta. Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chính sách nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, tuy nhiên những chính sách đó chưa phải là triệt để, song nó góp phần tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tự khẳng định mình và có tiếng nói riêng trên trong nền kinh tế đầy biến động như hiện nay. Kết luận Trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp như hiện nay, thì công ty cổ phần phần phát triển thương và du lich quốc tế Ngôi Sao không nằm ngoài sự cạnh tranh đó. Làm thế nào để khẳng định được mình và có chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế hiện nay quả là một bài toán khó đối với công ty. Do đó, tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mà đầu tiên là tăng cường khả năng huy động vốn - một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt nam - là việc làm cần thiết. Nhận thức được điều đó, cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế thị trường, Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lịch quốc tế Ngôi Sao đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, không những đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động Công ty trong những tình huống phức tạp của thị trường mà còn tận dụng được những nguồn có chi phí thấp, linh hoạt. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển, tích luỹ chưa nhiều, việc đảm bảo nguồn vốn đáp ứng được cả yếu tố về chất và lượng còn là một vấn đề nan giải không chỉ đối với Công ty cổ phần phát triển thương mại và du lich quốc tế Ngôi Sao mà cả các chủ thể kinh tế khác. Với mong muốn góp phần giải quyết vấn đề đó,em đã quyết định chon đề tài này để nghiên cứu và viết chuyên đề tốt nghiệp. Trong bài viết này em còn nhiều hạn chế cả về mặt chuyên môn cũng như do kiến thức của em còn nông cạn nên em chưa thể chuyển tải hết đến với thầy cô. Vì vậy, em mong được sự chỉ bảo thêm của thầy cô để em hoàn thành tốt bài viết nay. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Quang Trung đã giúp đỡ em hoàn thành tốt đề án tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính Frederic S.Mýhkin – NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà nội 1995 Giáo trình Ngân hàng thương mại TS.Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo – NXB Thống Kê Hà nội 2002 Giáo trình Thị trường chứng khoán PGS.TS. Nguyễn Văn Nam; PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa – NXB Tài chính Hà nội 2002 Giáo trình Kinh tế Ngoại thương Bùi Xuân Lưu – NXB Giáo dục 1997 Giáo trình Tài chính doanh nghiệp TS. Lưu Thị Hương - Trường ĐH kinh tế Quốc dân – NXB Giáo dục Hà nội 1998 Giáo trình Quản trị Tài chính doanh nghiệp TS. Vũ Duy Hào, Đàm Viết Huệ – Trường ĐH Kinh tế Quốc dân – NXB Thống Kê Hà nội 1998 Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ TS. Nguyễn Ngọc Hùng – Trường ĐH kinh tế Quốc gia TP Hồ Chí Minh – NXB Thống Kê 1998 8. Tạp chí và thời báo liên quan Mục lục Mục các bảng trong chuyên đề Bảng 1. Phân loại nguồn vốn trang 5 Bảng 2. Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty trang 30 Bang 3. Kết quả sản xuất kinh doanh trang 34 Bảng 4. Doanh thu từ việc kinh doanh trang 37 Bảng 5. Tỷ lệ hoàn vốn của công ty trang 38 Bảng 6. Nhu cầu vốn lưu động của công ty trang 42 Bảng 7. Vòng quay vốn lưu động của công ty trang 46

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36781.doc
Tài liệu liên quan