Chuyên đề Khả năng làm việc theo nhóm của sinh viên trường Đại học kinh tế quốc dân hiện nay

Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ, nhu cầu giao lưu mở rộng mối quan hệ ngày càng trở nên cần thiết hơn và công việc ngày càng trở nên phức tạp hơn, không còn thời của những ý tưởng cỏn con rập khuôn nữa, mà là những ý tưởng mang tính táo bạo và có khả năng thực hiện thành công với sự góp ý của nhiều người. Nó đòi hỏi một sự kết hợp thống nhất và tài tình của nhiều người với nhau và chứa đựng trong đó là một sự tổ chức kết cấu hợp lý nhất. Vì thế nhu cầu làm việc theo nhóm là không thể thiếu. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp đòi hỏi ở người lao động về kỹ năng này. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường lao động Việt Nam ngày càng nhiều. Họ đòi hỏi ở người lao động không chỉ ở kiến thức chuyên môn mà còn phải có các kỹ năng mềm khác phục vụ cho công việc của mình, trong đó kỹ năng làm việc theo nhóm quan trọng nhất, thể hiện sự hòa đồng với công việc và với tập thể của mỗi người. Sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước, họ cần phải biết khẳng định bản thân và rèn luyện cho mình tất cả những kỹ năng đáp ứng nhu cầu cần thiết của công việc. Việc không thể thiếu là phải rèn luyện cho mình kỹ năng làm việc theo nhóm đạt hiệu quả cao, biết cách xây dựng nhóm làm việc hiệu quả.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Khả năng làm việc theo nhóm của sinh viên trường Đại học kinh tế quốc dân hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội dung học tập của sinh viên mang tính chuyên ngành, tiên tiến tiếp cận khoa học công nghệ trên thế giới. + Phương pháp học tập mang tính khoa học, thường xuyên được đổi mới. + Môi trường sinh hoạt mở rộng không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà đã mở rộng ra tầm quốc tế. + Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô, bạn bè, các hoạt động xã hội rất phong phú, đa dạng…. 1.2. Những khó khăn sinh viên gặp phải Thứ nhất, thực tế cho thấy: Không phải bất kì sinh viên nào cũng phù hợp với sự thích ứng này, mà nó tuỳ thuộc vào đặc tính tâm lý cá nhân và môi trường sống cụ thể. Có những sinh viên rất dễ dàng hoà nhập với môi trường xã hội nhưng lại khó khăn trong việc tiếp cận phương pháp học ở đại học. Ngược lại, có nhưng sinh viên ít khó khăn trong tiếp thu tri thức, dễ vượt qua được việc “tự học là chính” ở giảng đường đại học nhưng lại lúng túng thiếu tự tin trong cư xử giao tiếp với bạn bè, các nhóm hoạt động trong lớp, trong trường. Một số hoà đồng cởi mở nhưng một vài người lại khép kín, sống thu mình lại… Vậy nguyên nhân là do đâu? Bản thân người sinh viên gặp một loạt các mâu thuẫn cần giải quyết: + Mâu thuẫn giưa ước mơ kỳ vọng của sinh viên với khả năng để thực hiện nó. + Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập, nghiên cứu chuyên sâu ngành học của mình với yêu cầu phải thực hiện toàn bộ chương trình học theo thời gian biểu nhất định. + Mâu thuẫn giữa lượng thông tin rất nhiều trong xã hội với khả năng tiếp thu và thời gian có hạn. Thứ hai, liên hệ với thực tế nước ta hiện nay, đang trong quá trình hội nhập và phát triển những lề thói làm việc cũ, tàn dư của xã hội cũ không dễ xoá bỏ một sớm một chiều. Một loạt các nhân tố khác ví như lợi ích cá nhân, niềm tin sai lệch về việc có được quyền lực và sự thành công khi làm việc nhóm và cả những yếu tố văn hoá tàn cũ đã ăn sâu bám rễ vào nhiều thế hệ. Do đó đối với sinh viên, những khó khăn đó cũng không loại trừ và việc tập hợp mọi người thành một nhóm làm việc hiệu quả không phải là dễ. Thứ ba, sinh viên có thể coi là tầng lớp tiếp thu cái mới một cách nhanh chóng nhất, nhưng lại rất ít có điều kiện làm việc nhóm. Cụ thể theo số liệu mà chúng tôi điều tra được thì trong tổng số 619 sinh viên được hỏi rằng “bạn đã từng làm việc theo nhóm chưa?” thì có 572 sinh viên (chiếm 92.41%) lựa chọn là “đã từng làm việc nhóm”, trong khi đó số chưa bao giờ làm việc nhóm là 47 sinh viên (7.59%). Vậy thực trạng những sinh viên đã từng làm việc nhóm thì có mức độ làm việc như thế nào? Nghiên cứu tiếp trong tổng số 619 sinh viên về vấn đề “mức độ làm việc theo nhóm của bạn như thế nào?”Thì chỉ có 161 sinh viên (26%) trả lời là “thường xuyên”, 342 bạn (55.25%) trả lời “thỉnh thoảng”, 69 bạn (11.16%) trả lời là “đôi khi”, thậm chí có 47 sinh viên (7.59%) trả lời là “ chưa bao giờ”. Con số trên cho thấy một thực tế là làm việc nhóm chưa được áp dụng rộng rãi trong chương trình giảng dạy và học tập của sinh viên, và do vậy, nhận thức của mọi người về làm việc nhóm và hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế là điều không tránh khỏi. Nếu các nhà quản lý có quan tâm đúng mức về vấn đề này, lượng kiến thức từ thực tiễn sẽ có tác dụng bổ sung rất lớn cho những lý thuyết mà sinh viên được truyền đạt. Thứ tư, đối với sinh viên Việt Nam, “Teamwork” đã được nói đến nhiều nhưng hình như nó mới chỉ được nghe nói chứ chưa thực hiện theo đúng nghĩa của nó. Nó mới chỉ là 1 hình thức làm việc mới mẻ và chưa có được hiệu quả thực sự. Cũng trong số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân được hỏi về “kết quả công việc mà bạn đã từng làm việc theo nhóm”, thì chỉ có 215 sinh viên (34.73%) trả lời là ”tốt”, 353 sinh viên (57.03%) trả lời “bình thường”, 51 sinh viên (8.24%) trả lời là “kém hiệu quả”. Tuy nhiên tỷ lệ làm việc theo nhóm hiệu quả cho thấy, càng sinh viên năm cuối thì chất lượng làm việc theo nhóm càng hiệu quả và tốt hơn sinh viên năm đầu. Có thể thấy rõ hơn thực trạng này qua bảng phân tích điều tra: Bảng 3: kết quả công việc làm việc theo nhóm Kết quả Năm Tổng số sinh viên Tốt Bình thường Kém hiệu quả số tuỵêt đối % số tuyệt đối % số tuyệt đối % Năm 1 187 50 26.74 113 60.43 24 12.83 Năm 2 254 95 37.40 142 55.91 17 6.69 Năm 3 143 55 38.46 79 55.24 9 6.3 Năm 4 35 15 42.86 19 54.29 1 2.85 Tổng 619 215 34.73 353 57.03 51 8.24 ( Kết quả điều tra 619 sinh viên Trường ĐH KTQD) Từ bảng kết quả trên cho thấy, kết quả thực hiện công việc theo nhóm đạt loại tốt của sinh viên năm 4 chiếm 42.86%, còn sinh viên năm 1-2 lần lượt chỉ là 26.74% và 37.4%. Như vậy chất lượng của thực hiện công việc theo nhóm của sinh viên năm 4 tốt hơn hẳn các sinh viên năm 1-2. Ngoài ra nếu như kết quả thực hiện công việc theo nhóm của năm 1 kém hiệu quả là 12.83% thì của năm 4 chỉ là 2.85%, đã giảm rất nhiều so với tỉ lệ của năm. Điều này có thể được lý giải như sau: + Sinh viên năm 1-2 học theo chương trình tín chỉ theo học cùng 1 môn ở 1 lớp rất đông (thường là lớp có quy mô trên dưới 100 sinh viên) lại đến từ các lớp khác nhau nên việc quản lý những sinh viên này đối với giáo viên là tương đối phức tạp. Việc chia nhóm làm việc cũng gặp nhiều khó khăn, nhóm làm việc quá đông thành viên làm hiệu quả, chất lượng đạt được của nhóm không cao. Còn sinh viên năm 4 thì thường đã được lập nhóm sẵn, học tất cả các môn cùng 1 lớp (học theo niên chế), các thành viên đã có nền tảng quan hệ, biết kết hợp dễ dàng hơn trong công việc, nên chất lượng của làm việc nhóm tốt hơn hẳn. + Sinh viên năm 1-2 thường chỉ mới học các môn học đại cương chưa đi sâu các môn chuyên ngành nên số các môn học được thảo luận còn ít. Ngược lại, với các sinh viên năm 3-4 thì đã bắt đầu học những môn chuyên ngành, có lượng kiến thức nhất định, đã nhận biết và quen dần với công việc làm việc nhóm, có kinh nghiệm, nên kết quả thực hiện công việc theo nhóm đạt hiệu quả cao hơn. + Sinh viên năm 3-4 đã từng được làm quen với hình thức này từ trước và rèn luyện cho mình được nhiều kỹ năng và kinh nghiệm hơn. Họ được trang bị cho một lượng kiến thức đủ lớn và đủ sâu từ rất nhiều môn học mà sinh viên năm 1-2 chưa biết tới. Từ đó tạo cho những sinh viên năm 3-4 tư duy logic và tổng hợp từ nhiều khía cạnh khác nhau. Thứ năm, sinh viên thường chưa hiểu hết được tầm quan trọng về làm việc theo nhóm. Nếu bạn hỏi một sinh viên bất kì về làm việc theo nhóm, chắc chắn hơn phân nửa sẽ trả lời mơ hồ và không hiểu được tầm quan trọng của làm việc theo nhóm. Các sinh viên khối ngành kĩ thuật lại càng mơ hồ hơn khi họ không được học hay dạy một cách chuyên sâu về làm việc nhóm. Họ chỉ hiểu làm việc nhóm là hợp lại thành 1 nhóm và chia các công việc cụ thể ra để có thể hoàn thành 1 đề án nào đó đúng tiến độ. Trong khi đó họ chưa biết tác dụng và cách làm việc nhóm có hiệu quả. Toàn (sinh viên năm 4 ĐH Bách Khoa) cũng có nhiều đề án môn học được làm theo nhóm, tuy nhiên nhóm chỉ lập ra để đáp ứng yêu cầu của giáo viên, còn khi hoạt động thì hầu như chỉ có 1-2 sinh viên làm, còn lại thì mặc kệ hoặc làm đúng yêu cầu được giao mà không có sự nhiệt tình đóng góp nào ý kiến nào. Đây gần như là thực trạng làm việc theo nhóm của sinh viên các trường kĩ thuật. Thứ sáu, còn đối với khối sinh viên Kinh tế thì sao? Làm việc theo nhóm đã trở thành 1 biện pháp tiên tiến và phổ biến trong các trường đại học hiện nay. Hình thức này cũng tạo một hứng thú không nhỏ trong giới sinh viên, đặc biệt là khối sinh viên kinh tế. Tuy nhiên lại chưa có phương pháp thống nhất cho sinh viên. Phương pháp này vẫn chưa có những chuẩn mực, những quy tắc riêng. Chính vì thế tính hiệu quả chưa cao. Một thực tế thấy rõ ở các giảng đường đại học Việt nam là số sinh viên trong giảng đường quá đông. Thử nghĩ xem, chỉ nhìn vào khoa QTKD của trường đại học kinh tế Thành phố HCM, 1 giảng đường có đến 150 sinh viên. Vậy thì khi làm việc nhóm chia 15-20 người/1nhóm thì làm sao đảm bảo được tính hiệu quả. Đặc biệt là khi sinh viên mới tiếp xúc với hình thức này. Chính tình trạng này đã khiến sinh viên ngồi ỳ, không chịu động não. Không phát biểu ý kiến, mà chỉ số ít 3-5 người là phát biểu và nắm quyền quyết định nhóm. Các bạn còn lại thì tỏ ra sợ phát biểu sai hay coi đó không là việc của mình, vì vậy không mang lại hiệu quả. Thứ bảy, các nhóm thường hợp lại bằng sự thân quen và hiểu nhau, những quan điểm cho rằng họ chỉ làm việc với nhau được khi đã hiểu rõ về nhau và thân với nhau, quan điểm này thiết nghĩ là chưa đúng, mặc dù nó có những thuận lợi nhất định nhưng còn một số bất cập. Đặc biệt, tồn tại ở sinh viên Việt Nam chính vì quá thân quen nể nang mà trong quá trình làm việc nhóm hầu như các thành viên không dám bác bỏ hay phản bác ý kiến của nhau, họ sợ mất lòng nhau. Hoặc trong nhóm người này chơi thân người kia sẽ tạo nhiều nhóm đối lập nhau và sẽ dẫn đến những quyết định chủ quan mà không dựa trên những đánh giá khách quan cho công việc nhóm. II. Thực trạng làm việc nhóm của sinh viên ĐH KTQD Đánh giá về khả năng làm việc nhóm của sinh viên Việt nam nói chung và sinh viên ĐH KTQD nói riêng, nhiều ý kiến cho rằng: “Sự phối hợp trong LVN của họ chưa thật sự thuyết phục vì ý tưởng này mới hình thành trong ý nghĩ của họ. Do đó, họ sẽ gặp một vài khó khăn trong giai đoạn đầu. Năng lực của từng người chưa được “cộng hưởng” để tạo thành sức mạnh của nhóm. Nhưng chắc chắn là sẽ rất khả quan”... “ Nếu nhóm được giao những công việc phù hợp với khả năng thì chắc chắn có thể hoàn thành tốt công việc.” Một điều quan trọng là mong muốn, sở thích của các thành viên trong nhóm về công việc làm việc nhóm. Nếu như các thành viên đều hứng thú, có tâm huyết và có tinh thần trách nhiệm với công việc cao, mong muốn được làm việc nhóm thì làm việc nhóm sẽ nhất định thành công. Qua khảo sát thực tế trong 619 sinh viên thì có 66 sinh viên (10.66%) trả lời “rất thích”, 236 sinh viên(38.13%) trả lời “thích”, 287 sinh viên (46.36%) trả lời “bình thường” tức là làm việc nhóm cũng được mà không cũng chẳng sao, chỉ có 30 sinh viên(4.85%) trả lời “không thích”. Như vậy xu hướng chung của số sinh viên được khảo sát đều mong muốn được làm việc nhóm. Để có thể thấy rõ ràng hơn điều này chúng tôi đưa ra bảng nghiên cứu “sở thích làm việc nhóm” của sinh viên từ năm 1 đến năm 4. Bảng 4: Bạn có thích làm việc nhóm không? Mức độ Năm Tổng số sv Rất thích Thích Bình thường Không thích số tuyệt đối % số tuyệt đối % số tuyệt đối % số tuyệt đối % Năm 1 187 27 14.44 65 34.76 80 42.78 15 8.02 Năm 2 254 25 9.84 104 40.94 117 46.07 8 3.15 Năm 3 143 10 7.00 54 37.76 72 50.35 7 4.89 Năm 4 35 4 11.43 13 37.14 18 51.43 0 0 Tổng 619 66 10.66 236 38.13 287 46.36 30 4.85 ( Số liệu điều tra 619 sinh viên ĐH KTQD) Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng hầu hết các sinh viên (kể cả năm 1 hay năm 4) đều mong muốn được làm việc nhóm. Số sinh viên trả lời thích + rất thích làm việc nhóm của năm 2 là 129 bạn( 50.78%) trong khi đó số không thích chỉ là 8 bạn (3.15%), hay số sinh viên năm 4 trả lời thích + rất thích làm việc nhóm là 17 bạn (48.57%) và số sinh viên trả lời không thích là 0%. Lí giải hiện tượng trên chúng ta có thể hiểu: Lứa tuổi sinh viên là một lứa tuổi mà tâm lí của họ có thể nói là đang dần ổn định, họ là lớp người tràn đầy nhựa sống và sức sáng tạo, là lớp người của ước mơ và hoài bão. Họ luôn muốn tìm kiếm cơ hội tự khẳng định bản thân và giao lưu rộng rãi với mọi người. Hơn nữa làm việc nhóm là một phương pháp tiên tiến được các nước phát triển có trình độ trên thế giới áp dụng nhiều. Chính vì thế chúng tôi cho rằng làm việc nhóm sẽ là cơ hội sinh viên chúng ta đang tìm kiếm, mong muốn tạo bước đột phá mới, thành công. Ngoài yếu tố sở thích chúng ta còn xem xét yếu tố giới tính có thực sự ảnh hưởng đến làm việc nhóm hay không? Qua khảo sát về sự ảnh hưởng của giới tính đến làm việc nhóm của sinh viên. Bảng 5: ảnh hưởng về giới đến khả năng làm việc nhóm của sinh viên Giới tính Tổng số sv Nam Nữ Như nhau Số tuyệt đối % Số tuỵêt đối % Số tuyệt đối % Nam 180 50 27.78 40 22.23 90 50 Nữ 439 74 16.85 29 6.61 336 76.54 Tổng 619 124 20.03 69 12.12 426 67.85 (Số liệu điều tra 619 sinh viên ĐH KTQD) Ta có thể rút ra một nhận xét : giới tính ít có ảnh hưởng tới khả năng làm việc nhóm của sinh viên. Nhưng không phải không có ảnh hưởng. Có 74 sinh viên (16.85%) trong tổng số 439 sinh viên nữ cho rằng nam có khả năng làm việc nhóm tốt hơn, trong khi đó đánh giá về nữ sinh viên chỉ là 35 sinh viên (6.61%). Vì ít nhiều tâm sinh lý của nam và nữ cũng khác nhau, và thông thường mọi người cho rằng nếu giới tính có ảnh hưởng thì nam có khả năng làm việc nhóm tốt hơn nữ, điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu vì khả năng hoà nhập và tiếp thu thông tin của nam bao giờ cũng nhanh nhạy hơn nữ, các ý tưởng đưa ra mang tính táo bạo hơn và thường thẳng thắn trong công việc, ít bị tình cảm chi phối hơn so với nữ giới. Trước bất kì 1 vấn đề được đưa ra thì nữ giới thường có xu hướng thận trọng trong suy nghĩ và ra quyết định nên không phù hợp với những công việc đòi hỏi tính sáng tạo, cập nhật, thời sự. Và trên thực tế mức độ làm việc theo nhóm của sinh viên: Bảng 6: Mức độ làm việc theo nhóm của bạn như thế nào Mức độ Năm Tổng số sinh viên Thường xuyên Thỉnh thoảng Đôi khi Chưa bao giờ Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % Năm 1 187 40 21.40 119 63.64 8 4.28 20 10.68 Năm 2 254 60 23.62 163 64.17 11 4.33 20 7.88 Năm 3 143 47 32.87 41 28.67 48 35.57 7 2.89 Năm 4 35 14 40.00 19 54.29 2 5.71 0 0 Tổng 619 161 26 342 55.25 69 11.16 47 7.59 (Số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH KTQD) Mức độ làm việc theo nhóm của sinh viên trường đại học KTQD có sự tăng dần lên rõ rệt giữa sinh viên năm 1, năm 2, với năm 3 và năm 4. Nếu như năm 1 số sinh viên chưa khi nào làm việc theo nhóm là 10.68% thì các năm sau đã có sự giảm dần và đến năm 4 là 0%. Mức độ làm việc theo nhóm thường xuyên liên tục cũng được tăng lên vào năm 3 và 4 là điều phù hợp với khách quan bởi đây là thời kì các sinh viên bước vào môn học chuyên ngành, sinh viên được thầy cô giao cho nhiều đề tài thảo luận nhóm liên quan đến kiến thức chuyên môn hơn và yêu cầu về độ hoàn thiện của bài thảo luận cũng cao hơn, đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều người để đưa ra hướng giải quyết tốt nhất. Làm việc nhóm sẽ kết hợp được cả lý thuyết và thực tế, sẽ kết hợp được nhiều ý tưởng sáng tạo của nhiều người. Chúng ta đã nghe nhiều về làm việc nhóm tại những nơi làm việc, trong các lớp học ở thời đại ngày nay. Trong khi cố gắng tìm kiếm những cách thức có thể cạnh tranh tốt hơn, đa số họ đều nhận ra rằng: mọi việc đều có thể giải quyết tốt hơn nhiều khi làm việc theo nhóm chứ không phải làm việc một cách đơn lẻ trong tập hợp những cá nhân. Tạo ra môi trường làm việc nhóm thực sự đòi hỏi nhà quản lý phải thay đổi tất cả những gì họ làm trước đây. Làm việc nhóm đang là một hình thức phổ biến và kích thích sự hăng say trong học tập tiếp thu bài hiệu quả đối vớí Sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong việc làm việc nhóm của SV đặc biệt là tính hiệu quả và chuyên nghiệp. Cái quan trọng là nhà trường cần có những phương pháp, những chuẩn mực và quy tắc cụ thể trong việc hướng dẫn tạo điều kiện thuân lợi cho SV phát triển và hoàn thiện kỹ năng làm việc nhóm của mình hơn. PHẦN 3: NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ KHẢ NĂNG LÀM VIỆC THEO NHÓM VÀ CÁC GIẢI PHÁP I. Nguyên nhân hạn chế khả năng làm việc theo nhóm Khả năng làm việc theo nhóm của sinh viên còn nhiều hạn chế là do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể xuất phát từ phía bản thân sinh viên tạo nên và hoặc cũng có thể là từ những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố khách quan tác động tới. Vậy những hạn chế này là bởi nguyên nhân nào. 1. Các nguyên nhân chủ quan Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp đều đòi hỏi kỹ năng làm việc theo nhóm, nhưng kỹ năng ấy thì đa số người Việt Nam còn yếu. Và những sinh viên Việt Nam thì họ có kỹ năng đấy chưa, thưa đó là mặt mà các doanh nghiệp chưa hài lòng về họ. Họ rất thông minh nhưng khả năng làm việc theo nhóm của họ thường không đạt kết quả cao. Vậy nguyên nhân là do đâu, chúng tôi xin đưa ra một số nguyên nhân từ phía sinh viên như sau: Nhận thức chưa đúng và chưa biết cách làm: Trong khi kỹ năng làm việc theo nhóm đòi hỏi phải có nhận thức một cách rõ ràng, đúng đắn và phải tuân theo những quy tắc cụ thể, chặt chẽ thì hầu như ý thức của sinh viên về làm việc theo nhóm còn chưa chính xác. Mọi người thường quan niệm rằng làm theo nhóm chỉ để hoàn thanh kế hoạch được giao viên giao cho và phần lớn chỉ mang tính hình thức, không chú trọng vào việc rèn luyện kỹ năng phục vụ cho công việc sau này. Sinh viên thường làm việc nhóm khi được thầy cô yêu cầu và việc thành lập nhóm cũng thực hiện theo sự bất kỳ, không có sự lựa chọn các thành viên theo khả năng và đòi hỏi của công việc, bố trí công việc chưa xét đến sự phù hợp của các cá nhân với công việc đảm nhận. Đặc biệt, các thành viên trong nhóm không ổn định mà thường thay đổi theo các đề tài. Có khi cứ mỗi đề tài được đặt ra thì lại thành lập một nhóm riêng, và vì vậy có người cùng một lúc sẽ là thành viên của nhiều nhóm khác nhau và có vai trò khác nhau trong các nhóm đó. Kiểu lập nhóm này khiến cho mỗi người sẽ không có đủ thời gian để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, công việc trở nên chồng chéo và kém hiệu quả. Năng lực của người trưởng nhóm không cao hoặc là chưa phù hợp. Trưởng nhóm thiếu các kĩ năng về lãnh đạo, sắp xếp các công việc cụ thể và sát với khả năng và trình độ của các thành viên trong nhóm của mình. Và các nhóm trưởng thường thiếu kinh nghiệm trong việc phân định rõ ràng nhiệm vụ cho các thành viên cũng như phối hợp các thành viên lại với nhau khi làm việc. Hoặc có thể người trưởng nhóm quá ôm đồm trong công việc, thiếu khả năng lãnh đạo nên để cho các thành viên không có ý thức làm việc mà chỉ để cho người nhóm trưởng phải tự mình làm còn mọi người ngồi không. Thích làm thầy chứ không thích làm thợ. Đó là tâm lý chung của người Việt Nam, thích dạy bảo người khác chứ không thích ai lên mặt với mình. Nể nang các mối quan hệ. Người phương Tây có cái tôi rất cao nhưng lại sẵn sàng cùng nhau hoàn thành công việc cần thực hiện. Họ thường rất ít để việc riêng ảnh hưởng đến công việc chung của cả nhóm, đặc biệtcác mối quan hệ trong công việc được tách bạch một cách rõ ràng. Khi tranh luận, họ luôn hướng thẳng vào vấn đề cần phải giải quyết và tranh cãi một cách nhiệt tình, đúng mực để đi đến kết quả cuối cùng đó là sự thống nhất của các thành viên và giải quyết công việc có hiệu quả. Còn người Việt trẻ chỉ chăm chăm xây dựng mối quan hệ tốt giữa các thành viên trong đội, tỏ ra rất coi trọng bạn bè nên những cuộc tranh luận thường được đè nén cho có vẻ nhẹ nhàng. Đôi khi có cãi nhau vặt theo kiểu công tư lẫn lộn. Còn đối với sếp, tranh luận với sếp được coi như một biểu hiện của không tôn trọng, không biết trên dưới, được đánh giá sang lĩnh vực đạo đức, thái độ làm việc. “Dĩ hoà vi quý” mà, việc xây dựng mối quan hệ với các thanh viên khác trong nhóm quan trọng hơn là tiến độ công việc hoàn thành chậm lại. Sự nể nang các mối quan hệ này của người Việt Nam có từ khi đang còn học tập trên ghế nhà trường. Đa phần các nhóm làm việc của sinh viên được lập nên bởi sự lựa chọn theo tính cách chơi với nhau ở trên lớp, lợi ích làm việc nhóm không bộc lộ ra trước mắt và không ai muốn mất lòng ai nên khi tranh luận về đề tài thì mặc dù mỗi người đều có chính kiến riêng nhưng lại không đưa ra để bàn luận và phản bác lại khi ý kiến vừa đưa ra được cho là không hợp lý. Thái độ thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý: Đây là một thái độ khá phổ biến mà hầu như tất cả các nhóm đều có thành viên mắc phải. Thành viên trong nhóm không có sự nhiệt tình trong công vệc lại thêm ý nghĩ muốn làm vừa lòng người khác bằng cách luôn luôn tỏ ra đồng ý khi người khác đưa ra ý kến trong khi thực sự là không đồng ý hoặc là không hiểu gì về vấn đề mà người kia đưa ra cả. Chính vì vậy, trong nhóm thường có sự hiểu lầm nhau, chia bè phái ngay trong nhóm, dẫn đến nhóm mất đoàn kết và thiếu thống nhất ý kiến, mọi người không cùng hướng đến mục tiêu của cả nhóm. Mỗi khi không thống nhất được mục tiêu thì các thành viên sẽ phó mặc cho ai làm thì làm. Khi ai đó đưa ra ý tưởng thì đồng ý ngay để rồi công việc hoàn thành không có kết quả tốt. Đùn đẩy trách nhiệm cho người khác: Việc thảo luận không dứt điểm, không thống nhất được ý kiến và phân chia công việc không phân minh đã khiến cho ai cũng nghĩ rằng đó là việc của người khác không phải của mình. Mặc dù trong đầu mỗi thành viên thường tạo ra cho mình một ý kiến khác đúng đắn hơn, sáng suốt hơn trong khi đang đóng vai trò im lặng và đồng ý với người khác nhưng không nói ra vì sợ khi nói ra họ sẽ phải thực hiện nhiệm vụ đó. Nếu nhóm gặp thất bại, tất nhiên không phải tại mình mà đó là ý kiến của người khác, bởi vì ý tưởng của mình còn nằm trong đầu kia mà nhiều sinh viên thích hành động kiểu nay và họ nhận lấy phần nhiệm vụ của mình một cách thụ động và giao tận tay, như vậy sẽ dễ dàng trốn tránh trách nhiệm khi công việc của nhóm không suôn sẻ. Ai cũng cho là mình không có và cũng không phải chịu trách nhiệm về công việc cả nên nhóm trở nên rời rạc, thiếu đoàn kết và mất đi áp lực và động lực để thúc đẩy mọi người cố gắng thực hiện tốt từng công việc được giao. Giờ cao su: Số liệu điều tra về thái độ giờ giấc của các sinh viên khi làm việc nhóm cho kết quả Bảng 7: Giờ giấc của các thành viên Kết quả Năm Thường xuyên đúng giờ Ít khi đúng giờ Chưa bao giờ đúng giờ Tổng Tuyệt đối % Tuyệt đối % Tuyệt đối % Năm 1 140 74.9 35 18.7 12 6.4 187 Năm 2 187 73.6 49 19.3 18 7.1 254 Năm 3 78 54.5 61 42.7 4 2.8 143 Năm 4 27 77.2 8 22.8 0 0 35 Tổng 432 69.8 153 24.7 34 5.5 619 (Số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH KTQD) Tuy kết quả điều tra trên cho thấy rằng phần lớn các đối tượng được điều tra đều cho rằng các thành viên trong nhóm làm việc của họ thường xuyên đúng giờ. Nhưng thực tế không phải như vậy mà hầu như thường xuyên có sự chậm trễ trong giờ giấc làm việc nhóm. Đây có thể là do đối tượng được điều tra không muốn thừa nhận thực tế khi họ làm việc nhóm và luôn có xu hướng tạo nên một nhóm thật đẹp mà mình đã từng tham gia trong tưởng tượng. Hoặc có thể là do tất cả các thành viên trong nhóm đều không đúng giờ so với kế hoạch giờ giấc đã đặt ra. Mọi người chưa có ý thức làm việc nhóm, thiếu sự nhiệt tình và sôi động trong các hoạt động và cả công việc của nhóm. Đặc biệt là hiện tượng giờ cao su. Giờ giấc của sinh viên thường lung tung, ít người có sự sắp xếp cụ thể và khoa học. Họ tự cho mình được phép chậm trễ mà không quan tâm tới thái độ của những người xung quanh như thế nào cả. Thói quen xấu này có ảnh hưởng và tác động mạnh tới thời gian và quá trình làm việc nhóm của mọi người. Trong một cuộc họp nhóm, các thành viên gần như đã có mặt đông đủ nhưng lại có một vài thành viên có giờ cao su nên bắt cả nhóm phải chờ mình. Chưa kể có những lúc nhóm phải trình bày rồi mà vẫn chưa đầy đủ các thành viên trong nhóm, như vậy hậu quả sẽ là rất lớn. Đây là một thực trạng thường thấy ở các nhóm làm việc của sinh viên Việt Nam chúng ta hiện nay. Nó khiến cho sự chán nản của các thành viên khác trong nhóm tăng thêm, làm giảm sự nhiệt tình trong công việc và quan trọng hơn là nó dẫn tới hoàn thành công việc nhóm không đúng thời gian, chậm tiến trình thực hiện và hiệu quả thấp. Không chú ý đến công việc của nhóm: Có một xu hướng xảy ra nữa là có những người chỉ cho rằng ý kiến của mình là tốt đẹp và không chịu chấp nhận ý kiến của người khác. Hoặc cũng có người lại sợ ý kiến của mình không hay nên không dám đưa ra thảo luận với người khác. Hay có trường hợp chỉ lấy ý kiến của những người giỏi hơn trong nhóm mà không đưa ra thảo luận với các thành viên còn lại. Vì thế có nhiều người không chú ý tới công việc của nhóm đến đâu mà chỉ dựa dẫm vào người khác, khi hỏi tới không biết thế nào cả. Còn một đặc điểm nữa là hay dấu dốt, không biết nhưng không dám hỏi. Khả năng tổng hợp của sinh viên còn yếu và không lập được kế hoạch dài hạn : thấy cây mà không thấy rừng. Thiếu khả năng tổng hợp nên sinh viên Việt Nam ngại làm việc theo nhóm vì họ không biết cách tổng hợp ý kiến của tất cả các thành viên trong nhóm. Ngoài ra còn có những nguyên nhân chủ quan khác từ phía bản thân sinh viên như thiếu sự tự tin vào bản thân mình, thu thập thông tin kém hiệu quả, khả năng hòa đồng và tranh luận trước đám đông kém, cũng như khả năng thuyết trình thấp… Các nguyên nhân này làm giảm sự hiệu quả công việc nhóm thực hiện. 2. Các nguyên nhân khách quan Bên cạnh những yếu tố xuất phát từ bản thân từng cá nhân sinh viên và từ trong nhóm làm việc ở trên, nhóm nhận thấy các yếu tố thuộc về môi trường khách quan cũng tác động lớn tới khả năng làm việc của sinh viên như sau: Cơ hội làm việc theo nhóm ít: Theo điều tra về việc làm việc nhóm trong kỳ học tập của sinh viên trên giảng đường ta được Bảng 8: Số môn bình quân làm việc nhóm trong kỳ Số môn Năm 1 2 3 Nhiều hơn Tổng Tuyệt đối (%) Tuyệt đối (%) Tuyệt đối (%) Tuyệt đối (%) Năm 1 30 16 87 46.5 45 24.1 25 13.4 187 Năm 2 49 19.3 115 45.3 43 16.9 47 18.5 254 Năm 3 3 2.1 40 28 77 53.8 23 16.1 143 Năm 4 2 5.7 9 25.7 7 20 17 48.6 35 Tổng 84 13.6 251 40.5 172 27.8 112 18.1 619 (Số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH KTQD) Chương trình học tập còn nặng về lý thuyết, sinh viên ít có cơ hội để được làm việc theo nhóm cùng nhau. Theo bảng số liệu điều tra ở trên ta thấy một thực trạng rằng thường thì các sinh viên học những môn chuyên nghành mới thực sự có đề tài để cùng nhau thảo luận và đến lúc đó mới bắt đầu tập làm việc theo nhóm, tỉ lệ làm việc theo nhóm của sinh viên năm cuối nhiều hơn so với các năm khác và chủ yếu với các môn chuyên ngành. Chính vì vậy, sinh viên thường hay luống cuống trong việc làm bài chung, không quen với việc thảo luận cùng người khác, không biết cách đưa ra ý tưởng của mình và không biết cách trong việc tổ chức nhóm làm việc một cách hiệu quả. Do đó kết quả thu được không cao. Phương pháp giảng dạy chưa kích thích được khả năng sáng tạo cũng như chưa khuyến khích sinh viên suy nghĩ độc lập. Sinh viên còn thiếu sự quan tâm và chỉ đạo để lập nên nhóm làm việc hiệu quả. Có những đề tài được đưa ra với mục đích rèn luyên kỹ năng cho sinh viên nhưng không quan tâm xem việc thực hiện có tốt hay không mà chỉ quan tâm tới kết quả của công việc. Có những đề tài do sự chỉ đạo không chặt chẽ làm cho sinh viên nhàm chán và vì thế không kích thích được sở thích làm việc nhóm. Không được cung cấp các nguồn thông tin, tư liệu đầy đủ để thực hiện tốt đề tài. Đặc biệt, sinh viên còn không có cơ hội để tự xây dựng nên nhóm hiệu quả. Bởi vì, các đề tài được giáo viên đưa ra không thống nhất về cách sắp xếp nhóm nên sinh viên phải tham gia nhiều nhóm trong cùng lúc. Hơn nữa, sinh viên không được hướng dẫn cụ thể và không được ai dạy cho các kỹ năng làm việc theo nhóm một cách bài bản. Do tâm lý truyền thống của người dân Việt Nam. Họ luôn được dạy và được nghe nói về cái tôi dân tộc từ đó ảnh hưởng đến cái tôi cá nhân. Tính bảo thủ, ngoan cố và tự phụ. Đó là do ảnh hưởng của lề lối xưa : “ bế quan toả cảng”, không chấp nhận ý kiến của người khác. Khi làm việc thường ai cũng bảo vệ ý kiến của mình đến cùng mà không xem xét thấu đáo ý kiến của người khác. Chỉ thấy cái sai trong ý kiến của người khác mà không thấy cái sai trong ý kiến của mình, dẫn đến bất đồng ý kiến với nhau. II. Các giải pháp để làm việc theo nhóm hiệu quả Xuất phát từ những lợi ích mà làm việc nhóm mang lại, cũng từ thực trạng làm việc nhóm của sinh viên hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục nguyên nhân hạn chế khả năng làm việc theo nhóm của sinh viên và giúp xây dựng nhóm hiệu quả cho sinh viên như sau 1.Nhóm giải pháp chủ quan Kết quả làm việc theo nhóm phụ thuộc rất lớn vào bản thân của các thành viên trong nhóm, ở đây chúng tôi đưa ra một số giải pháp chủ quan tức là giải pháp để điều chỉnh thái độ tư tưởng cũng như đưa ra cách ứng xử khi làm việc theo nhóm hiệu quả hơn. 1.1.Giải pháp xây dựng nhóm hiệu quả Nhóm chỉ làm việc hiệu quả khi trong nhóm hội đủ những thành viên với những kỹ năng phù hợp và một tinh thần làm việc tích cực, sáng tạo. Chỉ khi mà các thành viên đều cảm nhận được nhưng lợi ích nhóm mang lại, những trách nhiệm đối với công việc của nhóm và nhu cầu cần thiết của họ thực sự được nhóm đáp ứng một cách tương xứng, thì hoạt động của nhóm mới đạt kết quả cao. Đầu tiên phải kể đến nhận thức của sinh viên về làm việc theo nhóm. Việc nhận thức như thế nào sẽ chi phối hành động của chúng ta thế ấy. Vì vậy khi làm việc theo nhóm chúng ta cần có suy nghĩ tích cực, không bao giờ có ý nghĩ dựa dẫm, ỷ lại vào người khác. Cần nghĩ rằng, việc làm việc theo nhóm là cần thiết và mang lại cho chúng ta nhiều điều bổ ích, chẳng hạn như học hỏi kinh nghiệm của nhau, có nhiều ý tưởng mới… Cũng cần nghĩ rằng bạn có trách nhiệm với nhóm, là một phần không thể thiếu của nhóm bởi lẻ chỉ khi ấy bạn mới thật sự để tâm vào công việc và có thể đạt được kết quả cao được. Khi đã tìm được cho mình những nhận thức tích cực về làm việc nhóm thì bạn cũng cần có những kỹ năng, kỹ xảo phục vụ cho làm việc nhóm hiệu quả và đáp ứng được những yêu cầu nhất định khi làm việc theo nhóm. Để có nhóm làm hiệu quả thì nhóm đưa ra giải pháp cần thiết phải xây dựng nhóm theo mô hình như sau: Thứ nhất, lựa chọn thành viên cho nhóm. Nhóm thế nào được gọi là nhóm hiệu quả và việc lựa chọn thành viên đòi hỏi những kỹ năng như thế nào, số lượng và cơ cấu ra sao? Theo số liệu điều tra thu được các ý kiến về cơ cấu nhóm như sau Bảng 9: Cơ cấu nhóm Năm Yếu tố Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Tổng Tất cả là nữ Tuyệt đối 3 4 3 0 10 (%) 1.6 1.6 2.1 0 1.6 Tất cả là nam Tuyệt đối 3 4 1 0 8 % 1.6 1.6 0.7 0 1.3 Nam nhiều hơn nữ Tuyệt đối 21 34 17 2 74 % 11.2 13.4 11.9 5.7 11.9 Nữ nhiều hơn nam Tuyệt đối 5 21 14 5 45 % 2.7 8.2 9.8 14.3 7.3 Nam và nữ bằng nhau Tuyệt đối 97 133 66 22 318 % 51.9 52.4 46.1 62.9 51.4 Ý kiến khác Tuyệt đối 58 58 42 6 164 % 31 22.8 29.4 17.1 26.5 Tổng 187 254 143 35 619 (Số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH KTQD) Hầu hết các bạn sinh viên được điều tra cho rằng nhóm nên có cơ cấu với số lượng các thành viên nam và nữ là bằng nhau. Theo chúng tôi thì cơ cấu của nhóm phụ thuộc vào tính phức tạp của đề tài, mà đặc biệt là các kỹ năng mà đề tài đòi hỏi để có thể hoàn thành một cách nhanh chóng và cho hiệu quả cao nhất. Nếu như đề tài đòi hỏi nhiều ở sự khéo léo và kiên nhẫn thì bạn nên sắp xếp nhóm với cơ cấu nữ nhiều hơn, còn đề tài đòi hỏi nhiều hơn về sức khỏe và sự nhạy bén thì bạn hãy tổ chức nhóm với nam nhiều hơn nữ… Vì vậy tùy vào đề tài mà tổ chức nhóm có cơ cấu hợp lý. Về số lượng thành viên của nhóm, kết quả điều tra cho thấy Bảng10: Số lượng thành viên trong nhóm Số người Năm 2-3 3-5 5-8 Nhiếu hơn Tổng Tuyệt đối % Tuyệt đối % Tuyệt đối % Tuyệt đối % Năm 1 24 12.8 99 52.9 43 23.1 21 11.2 187 Năm 2 25 9.8 158 62.2 48 18.9 23 9.1 254 Năm 3 9 6.2 56 39.2 34 23.8 44 30.8 143 Năm 4 3 8.6 21 60 10 28.6 1 2.8 35 Tổng 61 9.8 334 54 135 21.8 89 14.4 619 (Số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH KTQD) Có tới 54% số sinh viên được điều tra cho rằng số lượng thành viên trong nhóm nên từ 3 đến 5 người. Thiết nghĩ điều này là do sinh viên mới chỉ làm quen với các đề tài không lớn và mục tiêu không lâu dài. Chúng tôi cho rằng số lượng thành viên trong nhóm phụ thuộc vào mục tiêu và nhiệm vụ của nhóm. Nhìn chung nhóm nhỏ sẽ hiệu quả nhất khi nhiệm vụ phức tạp và đòi hỏi các kỹ năng đặc biệt. Những nhóm lớn hơn có thể hiệu quả nếu nhiệm vụ tương đối đơn giản và các thành viên trong nhóm đồng ý giao nhiệm vụ cho những nhóm nhỏ hơn khi cần thiết. Nên có số thành viên lẻ để thuận lợi cho việc ra quyết định khi cần biểu quyết theo nguyên tắc số đông. Số lượng thành viên trong nhóm chỉ nên vừa đủ để thực hiện công việc. Nếu quá ít người, tiến trình công việc sẽ bị chậm lại và nhóm có thể sẽ thiếu các kỹ năng cần thiết. Ngược lại khi có quá nhiều người, tiến trình công việc cũng sẽ chậm lại vì mọi người phải bỏ thời gian và công sức và điều hành. Vậy số lượng các thành viên trong nhóm phụ thuộc vào từng đề tài, căn cứ vào đề tài để có sự lựa chọn phù hợp. Thứ hai, nhóm làm việc phải có mục tiêu rõ ràng, hợp lý và được mọi thành viên chấp nhận. Mục tiêu càng cụ thể hóa và có thể đánh giá được bao nhiêu thì nhiệm vụ của nhóm càng được hoàn thành có kết quả cao bấy nhiêu. Thường thì nhóm sẽ đặt ra nhiều mục tiêu khác nhau kể cả trong ngắn hạn và dài hạn, nhưng có một mục tiêu không thể thiếu và được xem là mục tiêu hàng đầu đó chính là hợp tác để đi đến thành công. Bởi nhẽ chỉ với tinh thần hợp tác các thành viên của nhóm mới thống nhất ý kiến và hướng đến mục tiêu cuối cùng nhóm đặt ra. Để các thành viên cùng hợp tác với nhau thì nhóm phải chọn được đề tài hấp dẫn và có sự thống nhất của tất cả các thành viên trong nhóm. Nếu đó là đề tài đã được giao sẵn thì hãy cố gắng để yêu đề tài, chắc chắn đó là những đề tài bổ ích. Còn nếu được chọn thì hãy chọn sao cho được sự đồng ý của các thành viên, lập ra mục tiêu, kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho cả nhóm làm việc. Chỉ có thế mới đảm bảo được sự hứng thú với công việc cho tất cả mọi người và tổng hợp được sức mạnh của cả nhóm. Thứ ba, nhóm hoạt động theo những quy tắc, chuẩn mực rõ ràng. Đó là những chuẩn mực về giờ giấc, sự phân chia nhiệm vụ và trách nhiệm cho các thành viên…. Việc phân chia rõ ràng giúp nhóm tránh được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và thờ ơ với công việc chung của các thành viên, từ đó đưa nhóm hoạt động một cách suôn sẻ hơn, mang lại hiệu quả cao. Cần phân chia dựa trên các tiêu chí sau: + Phân công nhiệm vụ cho các cá nhân có khả năng thực hiện công việc tốt nhất + Xác định mỗi nhiệm vụ dược giao sẽ phù hợp ở mức độ nào với các mục tiêu cao nhất của nhóm. + Khi phân công nhiệm vụ, hãy kèm theo cả quyền hạn và nguồn lực cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ đó Về giờ giấc, theo điều tra cho thấy, có tới 59,29% sinh viên cho biết các thành viên của nhóm thường làm việc không đúng giờ. Mỗi thành viên đều nên thực hiện giờ giấc nghiêm chỉnh, không để hiện tượng giờ cao su xảy ra và không nên để tình trạng chờ đợi nhau, nó sẽ gây ra cảm giác chán nản, mệt mỏi và ảnh hưởng đến thái độ tích cực làm việc của các thành viên. Rõ ràng đây là điều không tốt khi làm việc theo nhóm. Đồng thời các thành viên trong nhóm cũng phải hoàn thành công việc đúng thời hạn, có thái độ nhiệt tình trong công việc nhóm. Thứ tư, nhóm phải có sự hỗ trợ và giúp đỡ từ ban tư vấn, cần được sự quan tâm của những người có khả năng và kinh nghiệm trong việc làm việc nhóm để nhóm có hướng làm việc đúng đắn. Trong quá trình thực hiện công việc, nhóm sẽ không tránh khỏi gặp phải nhiều khúc mắc khó giải quyết. Bởi vậy nhóm cần phải nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài để công việc được đảm bảo hơn. Người tư vấn ở đây có thể là thầy cô giáo hoặc đại diện của các tổ chức phong trào sinh viên… Cần theo dõi thường xuyên và có phản ứng kịp thời về các khúc mắc khi nhóm làm việc cần giúp đỡ. Thứ năm, nhóm phải có một nhóm trưởng thực sự có năng lực. Bảng 11: Tập hợp nhóm hiệu quả Yếu tố Năm Năng lực của các thành viên đều cao Trưởng nhóm phải giỏi Nhóm có nhiều trình độ khác nhau Nhóm có một thành viên nổi trội Tổng Tuyệt đối) (%) Tuyệt đối (%) Tuyệt đối) (%) Tuyệt đối (%) Năm 1 30 16 117 62.6 20 10.7 20 10.7 187 Năm 2 47 18.5 164 64.6 28 11 15 5.9 254 Năm 3 21 14.7 76 53.1 32 22.4 14 9.8 143 Năm 4 4 11.4 26 74.3 4 11.4 1 2.9 35 Tổng 102 16.5 383 61.8 84 13.6 50 8.1 619 (Số liệu điều tra 619 sinh viên trường ĐH KTQD) Có tới 61.8% sinh viên được điều tra thừa nhận vai trò của nhóm trưởng đối với hiệu quả làm việc của nhóm. Trưởng nhóm là cầu nối các thành viên trong nhóm với nhau và nối nhóm với bên ngoài. Vì vậy người trưởng nhóm phải được bầu chọn dựa trên sự nhất trí của những thành viên trong nhóm và phải có khả năng, được sự ủng hộ của cả nhóm và bản thân họ phải thích trách nhiệm này. Người có khả năng làm trưởng nhóm là người như thế nào? Là người biết điều hành các cuộc họp nhóm, biết cách dừng các cuộc tranh luộn gay gắt, biết ghi nhận ý kiến hợp lý, biết đặt ra mục tiêu rõ ràng cho cả nhóm và từng thành viên, biết khuyến khích các thành viên bày tỏ quan điểm của họ và trao đổi quan điểm của bạn với tất cả thành viên… Người trưởng nhóm không nhất thiết phải là một sinh viên giỏi nhưng phải là người nhiệt tình, có tính hài hước và luôn luôn công bằng. Ngoài ra, chúng ta cần quan tâm đến cung cách mọi người trong nhóm giao tiếp với nhau, cần biết lắng nghe, không ngắt lời khi người khác đang nói thể hiện sự tôn trọng của mình với người khác, đưa ra lý lẽ thuyết phục cho ý kiến của mình, tranh luận trên cơ sở vừa lắng nghe vừa xem xét lại ý kiến của mình và đặc biệt là tôn trọng nhau. Bởi vì chỉ khi tôn trọng nhau mọi người mới cống hiến hết mình, nhiệt tình tham gia ý kiến. Không tôn trọng nhau chúng ta không bao giờ làm việc được với nhau. Cởi mở trước ý tưởng mới và những cách làm việc khác nhau: Trong một nhóm thì các thành viên luôn có những cách suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề khác nhau. Cho nên trước một ý tưởng mới các thành viên nên cùng suy nghĩ và thảo luận để đưa ra những kết luận cuối cùng với sự nhất trí của mọi người. 1.2. Giải pháp cho trưởng nhóm Để nhóm làm việc hiệu quả thì nhóm phải hội đủ những kỹ năng mà công việc cần và điều không thể thiếu được của mỗi nhóm là phải chọn ra được một trưởng nhóm thực sự có năng lực và biết cách tổ chức, điều hành nhóm hiệu quả. Tuy không phải là cấp trên, nhưng người trưởng nhóm lại giữ bốn vai trò quan trọng quyết định sự thành công của nhóm, đó là: Người khởi xướng, người làm gương, người thương thảo và người huấn luyện.Với những vai trò này đòi hỏi một trưởng nhóm phải biết thu hút, định hướng hành động cho các thành viên, là người biết bằng hành vi của mình thiết lập tiêu chuẩn để những người khác phấn đấu, là người giải quyết nhưng mâu thuẫn nảy sinh trong khi làm việc giữa các thành viên và còn là người có khả năng huấn luyện một số kỹ năng cần thiết cho những người khác. Vậy một trưởng nhóm cần phải có những giải pháp trợ giúp như sau: Thứ nhất, Người trưởng nhóm phải có khả năng đảm nhận các chức năng đó là: + Kích thích tinh thần làm việc của cả nhóm, tạo sự hưng phấn cho các hoạt động của nhóm, tạo ra sự phối hợp và hòa đồng trong toàn nhóm, yêu cầu các thành viên khác phải thực hiện và tuân theo các nguyên tắc điều phối và hoạt động của nhóm. + Theo dõi thường xuyên hoạt động của cả nhóm, quản lý nhóm, thông báo đầy đủ các thông tin liên quan đến công việc của nhóm, phân công nhiệm vụ và trách nhiệm cho những người khác phù hợp với khả năng mỗi người và tiến trình thực hiện công việc. + Hướng dẫn các thành viên trong nhóm thực hiện nhiệm vụ theo chương trình và kế hoạch cụ thể của nhóm, đặc biệt là hoàn thành đúng thời gian và đảm bảo chất lượng. + Tham dự các buổi học rèn luyện kỹ năng dành cho trưởng nhóm, tìm kiếm lời khuyên và sự hỗ trợ từ bên ngoài khi cần thiết, làm cầu nối giữa các thành viên trong nhóm và giữa nhóm với bên ngoài. Thứ hai, Trưởng nhóm đóng vai trò xây dựng nhóm và điều hành hoạt động của cả nhóm, thể hiện qua các nhiệm vụ cụ thể: + Tập hợp những cá nhân xuất sắc. Khả năng làm việc của những nhân viên hàng đầu và phù hợp với công việc có thể mang lại kết quả mỹ mãn nên đừng ngần ngại để tìm kiếm cho nhóm các thành viên “có sạn trong đầu” và phù hợp. Một người giỏi bang 3 người trung bình, đừng quá quan tâm đén số lượng và phải tìm hiểu rõ tính cách, động cơ làm việc của những người được lựa chọn cũng như năng lực chuyên môn của họ. + Phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng và động cơ. Đây là một sự đảm bảo chắc chắn cho các nhiệm vụ được hoàn thành hiệu quả nhất. Bạn có thể giúp các nhân viên khám phá ra động cơ làm việc và khả năng của họ qua giao tiếp giao việc và thử việc… + Đảm bảo sự cân bằng trong tính cách giữa các cá nhân, điều này sẽ thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp trong nhóm. Luôn đề cao tinh thần tập thể, lựa chọn thành viên có chuyên môn cao đồng thời với khả năng thích ứng và linh hoạt với công việc cũng như với những người khác. + Kiểm soát và điều chỉnh kịp thời. Bạn phải luôn sâu sát mọi hoạt động của nhóm để phát hiện và có điều chỉnh kịp thời, hợp lý kể cả trong công việc cũng như các mối quan hệ của các thành viên trong nhóm. Cần tổ chức các buổi thảo luận công khai, có quy mô để các thành viên có cơ hội đóng ghóp ý kiến và trình bày quan điểm của mình. + Gây dựng lòng tin đối với những người khác. Không nên vạch lá tìm sâu và khiển trách tùy tiện, phải biết biểu dương và đánh giá cao sự đóng ghóp của người khác. Biết chấp nhận sai sót của mọi người, coi đó như một cách để học hỏi. + Chặt chẽ trong công việc và thân mật với mọi người. Tạo cơ hội cho các thành viên phát huy tối đa khả năng của mình. Động viên các thành viên trong nhóm khi họ gặp thất bại và cho phép họ sửa sai. Đặt con người lên hàng đầu, cư xử chân thành với các nhóm viên. + Nhắc nhở thường xuyên và kiểm tra sự thực hiện của các thành viên trong nhóm. Thứ ba, Sắp xếp chương trình làm việc cho nhóm theo các bước cụ thể và thực hiện một cách hiệu quả. Tổ chức các cuộc họp nhóm định kỳ theo kế hoạch và để đảm bảo cho các cuộc họp diễn ra thành công, người trưởng nhóm cần thực hiện một số việc sau: + Nên có những dự kiến chương trình buổi họp trước về nội dung, cách thức và thời gian cụ thể. Cần dự kiến cả quỹ thời gian thực hiện và kết thúc chương trình cũng như hoàn thành công việc của nhóm. + Cần tóm tắt được những điểm chính cần phải làm trong cuộc họp xem mình cần phải làm gì, trách nhiệm ra sao. Phải giữ sao cho cuộc họp đi đúng hướng cần giải quyết, tránh việc các thành viên đi chệch hướng khi thảo luận vấn đề và chứng tỏ sự quan tâm đến tiến trình hoạt động của nhóm và những vấn đề cần tiếp tục giải quyết. + Biết lắng nghe và chọn lọc ý kiến của các thành viên đưa ra, cởi mở đầu óc và đánh giá một cách khách quan những thông tin mà người khác cung cấp để có thể tổng hợp và thống nhất ý kiến của các nhóm viên, đề ra phương hướng giải quyết vấn đề tốt nhất. Tránh tình trạng đánh giá sai lầm hoặc thiên vị giữa các thành viên, có thể góp ý một cách khó léo để các thành viên cảm thấy sự công bằng trong nhóm. + Khởi xướng vấn đề ngắn gọn, súc tích nhưng đảm bảo đầy đủ và mọi người thấu hiểu hết. Đặt vấn đề theo nguyên tắc điểu khiển và nếu có thể thì nên sử dụng các bảng, các biểu dễ thấy giúp giảm thiểu thời gian trong việc trình bày vấn đề, giảm thời gian trống trong khi họp. Ngoài ra, nhóm trưởng cần học cách trình bày vấn đề rõ ràng, nhanh gọn mà đặc biệt là phải có kỹ năng trình bày, giao tiếp và nhanh nhạy trong các tình huống, có thể xoa nhẹ không khí căng thẳng của nhóm khi tranh luận. Trên đây là những giải pháp cụ thể để khắc phục các nguyên nhân chủ quan hạn chế khả năng làm việc theo nhóm của sinh viên hiện nay. Nhưng có lẽ giải pháp tốt nhất đối với sinh viên hiện nay là rèn luyện kỹ năng này ngay từ trên giảng đường. Học nhóm trên giảng đường, tại sao không? Việc học kiểu này sẽ giúp mỗi người hiểu sâu vấn đề hơn, học hỏi được nhiều kinh ngiệm phục vụ cho kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả. 2. Nhóm giải pháp khách quan Để thúc đẩy hơn nữa việc làm việc theo nhóm và để giúp kết quả làm việc theo nhóm của sinh viên đạt hiệu quả cao, theo chúng tôi những giải pháp khách quan được đưa ra là: Nhà trường và thầy cô giáo cần quan tâm hơn nữa đến việc làm việc theo nhóm của sinh viên. Nên dạy cho sinh viên các kỹ năng cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Ví dụ như đặt ra nhiều bài tập nhóm hơn, nhận xét về kết quả làm việc của nhóm, cung cách thuyết trình của nhóm thật tỉ mỉ và chính xác. Thầy cô giáo cần thật sự quan tâm và nhận thức được tầm quan trọng của làm việc theo nhóm và có sự hướng dẫn cụ thể cho sinh viên khi làm việc theo nhóm. Ngoài ra nhà trường có thể giúp liên kết giữa sinh viên với doanh nghiệp. Điều đó giúp sinh viên có cái nhìn thực tế hơn và làm được nhiều đề tài hấp dẫn. Đề tài về các doanh nghiệp thường thì bao giờ cũng hấp dẫn hơn, kích thích trí tò mò muốn tìm hiểu của sinh viên hơn. Nhà trường nên tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo việc làm để doanh nghiệp và sinh viên có cơ hội tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Bên cạnh đó cần kể đến các điều kiện vật chất mà nhà trường cung cấp cho sinh viên như: Trang bị phòng học có máy chiếu để việc thuyết trình của nhóm đạt hiệu quả cao hơn, đảm bảo địa điểm và thời gian học ổn định cho sinh viên. Cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết để sinh viên có thể tiến hành công việc được tốt hơn. Có thể tổ chức các trung tâm tư vấn, giúp đỡ sinh viên hoàn thiên kỹ năng hoặc các hội thi để sinh viên có nhiều cơ hội rèn luyện kỹ năng này khi họ thực hiện kỹ năng này và được sự đánh giá, nhận xét của ban giám khảo… Trên đây là một số các giải pháp mà chúng tôi đưa ra để hoàn thiện them khả năng làm việc theo nhóm của sinh viên hiện nay. Việc này đòi hỏi phải có sự nổ lực của mỗi cá nhân sinh viên và cả sự hỗ trợ từ phía nhà trường, thầy cô và các tổ chức liên quan khác. Trong đó yếu tố quyết định vẫn là quá trình tự rèn luyện và học tập của mỗi người nhằm từng bước hoàn thiện kỹ năng này cho mình, đáp ứng nhu cầu công việc hiện tại và cả tương lai của bản thân. C. KẾT BÀI Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ, nhu cầu giao lưu mở rộng mối quan hệ ngày càng trở nên cần thiết hơn và công việc ngày càng trở nên phức tạp hơn, không còn thời của những ý tưởng cỏn con rập khuôn nữa, mà là những ý tưởng mang tính táo bạo và có khả năng thực hiện thành công với sự góp ý của nhiều người. Nó đòi hỏi một sự kết hợp thống nhất và tài tình của nhiều người với nhau và chứa đựng trong đó là một sự tổ chức kết cấu hợp lý nhất. Vì thế nhu cầu làm việc theo nhóm là không thể thiếu. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp đòi hỏi ở người lao động về kỹ năng này. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường lao động Việt Nam ngày càng nhiều. Họ đòi hỏi ở người lao động không chỉ ở kiến thức chuyên môn mà còn phải có các kỹ năng mềm khác phục vụ cho công việc của mình, trong đó kỹ năng làm việc theo nhóm quan trọng nhất, thể hiện sự hòa đồng với công việc và với tập thể của mỗi người. Sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước, họ cần phải biết khẳng định bản thân và rèn luyện cho mình tất cả những kỹ năng đáp ứng nhu cầu cần thiết của công việc. Việc không thể thiếu là phải rèn luyện cho mình kỹ năng làm việc theo nhóm đạt hiệu quả cao, biết cách xây dựng nhóm làm việc hiệu quả. Vậy kỹ năng làm việc nhóm là kỹ năng cần thiết và quan trọng đối với việc thực hiện công việc trong thời đại ngày nay. Do còn nhiều hạn chế về khả năng, kinh nghiệm, thời gian và tư liệu nghiên cứu, cũng như sự hiểu biết về vấn đề này nên đề tài của nhóm mới chỉ đề cập được một phần nhỏ của thực trạng sinh viên trường KTQD. Các giải pháp đưa ra còn nhiều thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong được sự đóng ghóp ý kiến của quý thầy cô để đề tài thêm hoàn thiện. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn! Phiếu Điều Tra Họ và tên:…………………………….(không bắt buộc) Giới tính:………………….. Lớp:……………………….. Khóa:…………………….. (Bạn hãy khoanh tròn vào ô bạn chọn) 1. Bạn đã từng làm việc theo nhóm chưa? A. Rồi B. Chưa 2. Bạn có thích làm việc theo nhóm không? A. Rất thích B. Bình thường C. Thích D. Không thích 3. Mức độ làm việc theo nhóm của bạn? A. Thường xuyên B. Thỉnh thoảng C. Đôi khi D. Không khi nào 4. Kết quả công việc mà bạn đã từng làm việc theo nhóm A. Tốt B. Bình thường C. Kém hiệu quả 5. Bình quân mỗi kỳ có bao nhiêu môn bạn làm việc theo nhóm? A. 1 B. 2 C. 3 D. 4 6. Trong số đó trung bình mỗi môn có bao nhiêu lần LVN? A. 1 B. 2 C. 3 D. Nhiều hơn 7. Nhóm làm việc của bạn có bao nhiêu thành viên? A. 2-3 B. 3-5 C. 5-8 D. Nhiều hơn 8. Theo bạn nhóm nên bao nhiêu người thì hiệu quả? 2-3 B. 3-5 C. 5-8 D. Ý kiến khác 9. Theo bạn khả năng LVN của nam hay nữ tốt hơn? A. Nam B. Nữ C. Như nhau 10. Theo bạn cơ cấu nhóm nên như thế nào? A. Tất cả là nữ B. Tất cả là nam C. Nam nhiều hơn nữ D. Nữ nhiều hơn nam E. Nam và nữ bằng nhau F. Ý kiến khác 11. Theo bạn làm việc nhóm điều gì quan trọng nhất? A. tính đồng đội B. Sự hứng thú với công việc C. Sự nổ lực của mỗi cá nhân D. điều hành của nhóm trưởng 12. Mục đích làm việc theo nhóm?(thứ tự ưu tiên từ 1-4) A. Hoàn thành bài tập chung B. Tạo mối quan hệ với mọi người C. Khẳng định cái tôi cá nhân D. Học hỏi kinh nghiệm 13. Trong việc trnh luận làm việc nhóm bạn thường? A. Giữ nguyên ý.kiến của mình bất kể người khác nói gì B. Đưa ra ý kiến dựa trên những luận điểm thuyết phục chắc chắn C. Nghiên cứu vấn đề để có thể đưa ra những luận điểm chắc chắn D. Không theo ý kiến nào 14. Nếu trong nhóm có ý kiến trái ngược bạn sẽ A. Ủng hộ ý kiến số đông B. Giữ nguyên ý kiến C. Thế nào cũng được D. Ý kiến khác 15. Khả năng làm việc với các thành viên trong nhóm? A. Có thể làm với tất cả các thành viên có trình độ, năng lực khác nhau B. Chỉ làm với những người có trình độ, năng lực cao hơn C. Chỉ làm với những người có năng lực, trình độ như tôi D. Chỉ làm với những người có năng lực, trình độ thấp hơn tôi 16. Các thành viên thành viên khi họp nhóm A. Đúng giờ B. giờ cao su Ý kiến khác b,Còn bạn sẽ: A. Thường xuyên đúng giờ B. Ít khi đúng giờ C . Chưa bao giờ đúng giờ 17. Bạn nghĩ mình có thể làm một trưởng nhóm? A. Tôi có thể B. Không chắc vì chưa bao giờ làm C. Quen thực hiện kế hoạch do người khác đặt ra D. Tôi nghĩ mình không có khả năng 18. Để tập hợp nhóm hiệu quả thì? A. Mọi người trong nhóm phải đạt năng lực, trình độ cao B. Trưởng nhóm phải giỏi, có khả năng điều hành C. Nhóm có nhiều trình độ khác nhau D. Nhóm phải có một thành viên nổi trội (không nhất thiết phải là trưởng nhóm) Danh Mục tài liệu tham khảo Lý thuyết xây dựng kỹ năng làm việc theo nhóm Mạng giáo dục và đào tạo Tạp chí khoa học Cẩm nang và chiến lược dành cho học tập Google.com.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11801.doc