Đồng thời với sự ra đời khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng có chất lượng nhằm phục vụ tốt cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Việc quy hoạch khu công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển hạ tầng là một trong những nội dung quan trọng nhất bao gồm xác định diện tích khu công nghiệp, cơ sở hạ tâng kỹ thuật, hệ thống giáo thông nội bộ, các công trình kiến trúc, hệ thống truyền tài cấp điện nước, xử lý rác thải, thông tin, huy động vốn
Về hạ tầng cơ sở Việt Mam chúng ta còn yếu và thiếu trong khi nguồn lực chúng ta còn rất hạn chế vì thế chúng ta cần đa dạng hoá nguồn vốn: Nhà nước, tín dụng, vốn của các tổ chức quốc tế, nguồn đầu tư các chủ đầu tư. Cần khuyến khích các loại hình doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp.
Song song với việc đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp chúng ta cần quan tâm đến vấn đề triển khai các công trình tiết tấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp bên cạnh đó chúng ta cần quan tâm đến điện, nước, nhà ở cho công nhân. Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng nên được quy hoạch đồng bộ ngay từ đầu khi bắt đầu thành lập khu công nghiệp.
80 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế Trung Quốc và vận dụng đối với phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài và ngân hàng liên doanh tại các đặc khu giúp cho thị trường tiền tệ hoạt động lành mạnh và hiệu quả.
Trong công tác kiểm tra và hải quan biên giới, việc ra vào đặc khu kinh tế đối với người nước ngoài được tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng, thủ tục nhanh gọn, với việc đơn giản hoá tốt đa các thủ tục hành chính đối với việc ra vào đặc khu.
Việc quản lý hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu vào đặc khu được chia làm hai tuyến. Tuyến một quản lý hàng hoá xuất và nhập khẩu từ nước ngoài. Đối với hàng hóa nhập khẩu công nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu và nếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, xi nghiệp sẽ được miễn thuế nhập khẩu và thuế công thương nghiệp. Hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài được miễn thuế xuất khẩu. Tuyến hai quản lý hàng hoá xuất và nhập từ nội địa. Tuyến này quản lý bằng giấy phép và thuế quan (có đánh thuế nhập khẩu)
Đối với công tác xây dựng cơ sở hạ tầng Chính phủ Trung Quốc đã kết hợp nhiều hình thức huy động kể cả Nhà nước và tư nhân, người nước ngoài thực hiện với các dạng như BOT, BTO, BT. Trung Quốc đang thử nghiệm và tỏ ra thành công phương thức mới đó là: Cho ta chia các khu đất lớn cho công ty nước ngoài sử dụng và bản thân các công ty này tạo ra các kết cấu hạ tầng cần thiết và sử dụng đất đai cùng các công trình xây dựng được tiến hành theo ý mình.
Để tạo điều kiện tuyển dụng lao động, tại mỗi điều kiện chính quyền đặc khu đều có các văn phòng Nhà nước chuyên trách về bố trí công ăn việc làm và các hoạt động dịch vụ lao động. Các hợp đồng lao động thường thể hiện các quy định rõ ràng, các điều kiện chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ các bên, các điều khoản sa thải.
II- Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp - khu chế xuất ở việt nam
1. Sự cần thiết phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta: năm 1998 gia nhập APEC, việc thực hiện tự do hoá thị trường trong khuôn khổ AFTA, giãm mức thuế nhập khẩu đối với các nước ASEAN xuống còn 5% vào năm 2006. Việc ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ và tiến trình hội nhập WTO đòi hỏi phải tạo những tiền đề hội nhập vào hiệp định và tiến trình đó. Những sản phẩm do doanh nghiệp việt nam sản xuất ra phải có hàm lượng công nghệ cao, mẩu mã đẹp, đạt các tiêu chuẩn quốc tế mới đảm bảo điều kiện cho hàng hoá Việt nam hội nhập và hoà nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.Khu công nghiệp là nơi sẽ tận dụng cơ sở hạ tầng thuận lợi để thu hút công nghệ hiện đại, vốn là tiền đề cho việc hội nhập một cách có hiệu quả.
Mặt khác, hiện nay trên thế giới xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá về kinh tế ngày càng gia tăng và trở thành xu thế tất yếu của tất cả quốc gia trên thế giới. Các quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn ở Châu Âu, Châu Mỹ, các công ty xuyên quốc gia có nhu cầu chuyển dịch vốn, công nghệ, kỹ thuật đang lựa chọn địa điểm đầu tư có lợi hơn. Để phát triển nhanh và có chất lượng cao hơn, các nước trong khu vực đòi hỏi có sự giao lưu quốc tế và phân công lao động theo lợi thế so sánh của từng nước. Xét trên giác độ này, với vị trí địa lí kinh tế thuận lợi cho giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều lợi thế vì đây là thị trường hấp dẩn cho đầu tư, kinh doanh. Trước tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam á và khu vực Châu á vừa qua, các nước công nghiệp phát triển càng thận trọng hơn khi xem xét để quyết định đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Việt Nam với chế độ chính trị ổn định, với những giải pháp tích cực ngăn chặn và hạn chế những tác động ảnh hưởng xấu của cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, tạo được dư luận quốc tế thuận lợi để các nhà đầu tư Mỹ, Châu âu và Châu á vẩn tiếp tục quan tâm, và coi Việt Nam vẩn là một thị trường đầu tư tốt và thuận lợi. Ta cần tranh thủ lợi thế này để thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng thị trường. Khu công nghiệp nơi có hạ tầng hoàn chỉnh, nơi áp dụng và tổ chức các xí nghiệp công nghiệp với vốn, công nghệ. Phương pháp quản lí tiên tiến của nước ngoài, nơi tạo ra những sản phẩm của Việt nam đạt tiêu chuẩn quốc tế là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng của Việt Nam để sẵn sàng mở của và hội nhập với khu vực và quốc tế.
Chính sự phát triển chưa đồng đều về môi trường đầu tư, chính yêu cầu trong việc vừa phải tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý nhưng lại phải bảo đảm sự kiểm soát cần thiết của Nhà nước về mặt kinh tế xã hội, chính những mục tiêu riêng có được đặt ra nên đã đưa đến tính tất yếu của việc thiết kế và xây dựng các khu công nghiệpp - khu chế xuất tại Việt Nam là cần thiết vì:
* Khu công nghiệp - Khu chế xuất cho phép khắc phục những yếu kém về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội trên vùng rộng lớn của đất nước. Mặc dù chúng ta đang có chương trình triển khai trên quy mô lớn việc xây dựng kết cấu hạ tầng này nhưng việc triển khai nó trên thực tế cần nguồn vốn hết sức lớn, cần thời gian dài và một quá trình tổ chức phức tạp. Khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để nâng cấp cơ sở hạ tầng của nó nhanh chóng đạt tới trình độ mà các doanh nghiệp đòi hỏi.
* Khu công nghiệp, Khu chế xuất tạo khả năng áp dụng một hệ thống luật pháp nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư trên địa bàn giới hạn. Thông thường những quy định pháp lý của khu chế xuất tương đối đơn giản, thông thoáng để thực hiện nên hấp dẫn các nhà đầu tư.
* Khu công nghiệp, Khu chế xuất xây dựng thành công sẽ trở thành mô hình kinh tế năng động có hiệu quả cao, tới đây sẽ đào tạo các cán bộ từ công nhân lành nghề và cán bộ có trình độ cao, đủ sức vươn xa hơn ra thị trường thế giới. Một địa bàn nhỏ nhưng mật độ công nghiệp cao, cơ cấu kinh tế năng động, nhanh chóng áp dụng các thành tựu công nghệ mới, rút ngắn khoảng cách giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới, khu chế xuất sẽ tác dụng như một phá chấm về cách làm ăn mới, một tấm gương cho nhiều doanh nghiệp rút kinh nghiệm tạo nên sức hút với cả bên ngoài và bên trong, góp phần tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế
Xét về Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi để thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất như:
Địa hình tự nhiên nước ta nằm ở vị trí địa lý thuận lợi trong khu vực Đông Nam á, có nhiều đường giao thông quốc tế về hàng không và hàng hải chạy qua, đồng thời có các nguồn khoáng sản phong phú đa dạng với cơ cấu đa ngành có khả năng tham gia ngaỳ càng sâu rộng vào phân công lao động quốc tế
* Lợi thế so sánh: dân công ở mức 1/5 -1/10 so với giá nhân công nhiều nước trong khu vực
* Nằm trong khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới
* Tài nguyên vô hình và hữu hình
Tài nguyên khí hậu đa dạng cho phép trồng các loại cây công nghiệp và các loại rau, cây ăn quả mang tính chất nhiệt đới và ôn đới với chất lượng cao. Các loại động vật và thực vật hoang sơ với nhiều chủng loại quý hiếm là nguồn gen vô tận cho công nghệ sinh học, di truyền. Cảnh quan thiên nhiên tuỳ thú với những bãi biển đầy ánh nắng mặt trời, các vùng núi cao mát mẻ, các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử truyền thống văn hoá, lễ hội...dẫn đến du lịch quốc tế.
2. Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp trong thời gian qua.
KCN, KCX ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 đã nêu "Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung"((1))Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -1994
).Tiếp theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII năm 1996 cũng đã xác định rõ "Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả KCX, KCNC), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư"((2)Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -1994
). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII cũng chỉ rõ phương hướng phát triển KCN trong thời gian tới là "Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp”((3) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -1998
).
Để thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển và phân bố công nghiệp, Nhà nước Việt Nam quyết định chủ trương phát triển công nghiệp tập trung vào các KCN, KCX theo quy hoạch xác định. Phát triển KCN, KCX nhằm đáp ứng các mục tiêu tạo đà tăng trưởng công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Đồng thời phát triển KCN, KCX cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các vùng công nghiệp, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Việc phân bố và hình thành các KCN, KCX phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường và xã hội nhân văn để đạt được hiệu quả cao, phát triển bền vững, cụ thể là:
- Có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, có vị trí, quy mô diện tích phù hợp.
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu, thuận lợi cho việc vận tải.
- Có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Có khả năng cung ứng lao động đủ, đễ dàng và có chất lượng.
- Có điều kiện đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật -xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển KCN, KCX với quy hoạch đô thị và phân bố dân cư.
Đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia.
Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta coi khu công nghiệp- khu chế xuất như là các công cụ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cũng là công cụ thực hiện cơ chế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Vì thế xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng như dựa vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, nơi nào đủ điều kiện và có khả năng thành lập khu công nghiệp thì nhà nước khuyến khích thành lập.
Kể từ khi khu chế xuất Tân Thuận TP Hồ Chí Minh được thành lập cuối năm 1991, đến nay Việt Nam đã thành lập mạng lưới 68 khu công nghiệp(gồm 68 KCN, 3 khu chế xuất và một khu công nghệ cao) phân bổ rộng và phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế và lợi thế trên các vùng của đất nước.
Bảng 5: Tình hình các khu công nghiệp trên cả nước.
(Tính đến hết năm 2001)
STT
Tên KCN
Số KCN
Diện tích
Diện tích có thể cho thuê (ha)
Diện tích
Đã cho thuê (ha)
Tỉ lệ cho thuê (%)
1
TP. Hồ Chí Minh
12
2353
1488.82
585
50.23
2
Đồng Nai
10
2720
1938.2
1034.87
50.67
3
Bình Dương
7
1280.92
890
56
4
Hà Nội
5
555
415
468.1
30.50
5
Bà rịa–Vũng Tàu
5
1773.4
1194.3
89.89
27.77
6
Hải Phòng
3
467
363
412.82
9.5
7
Đà Nẵng
3
595.5
393
23
62.35
8
Long An
2
120
85.25
298.6
25.92
9
Quảng Ngãi
2
96.6
70
23.9
27.8
10
Phú Thọ
1
70
48
20.85
18.75
11
Quảng Ninh
1
78
57.5
9
1.7
12
Cần Thơ
1
300
225
1
34.7
13
Bắc Ninh
1
135
101.25
78
37.53
14
Khánh Hoà
1
78
47
38
56.81
15
Quảng Nam
1
145
110
26.7
30
16
Tiền Giang
1
79
54.25
33
63.24
17
Vĩnh Phúc
1
50
38
34.31
0
18
Đồng Tháp
1
77.61
58
0
11.43
19
Bình Thuận
1
68
42
6.63
19.64
20
Phú Yên
1
101.5
61.6
8.25
45.45
21
Thanh Hoá
1
62.6
42.5
28
50.39
22
Hà Tây
1
200
150
21.50
0
23
Vĩnh Long
1
73
50
6.2
12.40
24
Nghệ An
1
60
42.16
17.5
41.51
25
Bình Định
1
188
129
81
62.79
26
Thừa thiên Huế
1
53
31
22.41
72.29
27
Tây Ninh
1
56.85
38
14
36.84
28
Thái Nguyên
1
69
47
17
36.17
Tổng cộng
68
1180.98
8135.01
3399.53
41.79
Nguồn: Vụ Quản lí khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trong số các địa phương trên cả nước thì Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số lượng khu công nghiệp – khu chế xuất nhiều nhất vì Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương nằm ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi về giao thông, bến cảng, hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, bên cạnh đó đây là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động và sớm hình thành tư duy phát triển kinh tế theo hướng thị trường.
Xét về hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp thì Bình Dương được đánh giá là tỉnh có các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, tỷ lệ các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp rất cao, các doanh nghiệp khi đầu tư vào đây họ rất tin tưởng vào hoạt động của ban quản lí khu công nghiệp, và họ rất hài lòng về thái độ và những chính sách ưu tiên mà tỉnh đem lại. Sở dĩ đạt được điều trên thì ban lãnh đạo tỉnh đã thống nhất quan điểm là tìm đủ mọi cách thu hút các nhà đầu tư và với phương châm: “ Trãi chiếu hoa mời các nhà đầu tư đến” bên cạnh đó khi đi đến làm việc xúc tiến đầu tư tại tỉnh, tỉnh rất tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, địa chỉ duy nhất các nhà đầu đến là ban quản lí khu công nghiệp, các nhà đầu tư sẽ được ban quản lí lo mọi thủ tục, các nhà đầu tư không tốn chi phí đi lại nhiều và không chịu nhiều sự hạch sách quan liêu.
Về phân bố khu công nghiệp, trong 68 khu công nghiệp thì miền bắc có 15 khu công nghiệp, miền trung có 12 khu và miền nam có 41khu công nghiệp. Tính đến nay đã có 27 tỉnh thành phố có khu công nghiệp. Nhìn chung các khu công nghiệp đều được xây dựng tại các tỉnh thành phố thuộc ba vùng kinh tế trọng điểm có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển. Ngoài ra trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ chính phủ đã ký quyết định thành lập Khu công nghiệp Dung Quất(Thực tế là khu kinh tế tổng hợp với diện tích là 14000ha) và nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở Chu Lai. Bảy tỉnh thành phố công nghiệp phát triển như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu tổng cộng có 40 khu công nghiệp chiếm 63,49% khu công nghiệp của cả nước đã được cấp giấy phép thành lập. Việc phân bố khu công nghiệp hiện nay là tương đối hợp lí, rãi đều Bắc- Trung –Nam, sự tập trung các khu công nghiệp tạo thành các trung tâm Khu công nghiệp có tác động tích cực là một hạt nhân thúc đẩy kinh tế vùng phát triển.
Đối với việc thu hút đầu tư, với phương thức kinh doanh vừa đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng, vừa tranh thủ kêu gọi thu hút đầu tư, đến hết năm 2001 các khu công nghiệp đã cho thuê 3399,53 ha, chiếm gần 41,79 % tổng diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Con số này phản ánh phần nào tích cực của Chính phủ Việt Nam cũng như đối tác trong thu hút đầu tư (so với năm 1998 là 23%) trong đó 24 khu đã cho thuê được trên 50% diện tích đất công nghiệp (trong đó một số khu dã cho thuê được nhiều đất như Biên Hòa I, II, Tân Thuận, Linh Trung).
Bảng 6: Tình hình thu thu hút đầu tư vào khu công nghiệp tại Việt Nam.
(Tính đến hết năm 2001)
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
Trong nước
724
33611.04(Tỷ đồng)
13304.77
Nước ngoài
878
7995.107(triệu USD)
2562.324
Nguồn: Vụ quản lí các KCN, KCX.
Đến hết 12/ 2001 số dự án đầu tư đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp Việt Nam là 878 dự án với tổng số vốn đăng ký là7995.107 Triệu USD (không kể nhà máy lọc dầu Dung Quất với số vốn đầu tư là 1.3 tỷ USD) vốn thực hiện là 2562.124 triệu USD đạt 32.04% tỷ lệ này cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở bên ngoài khu công nghiệp.
Về thu hút vốn đầu tư thì chủ đầu tư nước ngoài từ các nước châu á chiếm 70%, chủ yếu là các nước ASEAN, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapor. Các nhà đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển Tây Âu và Mỹ với tiềm năng về tài chính và công nghệ lại có ít các dự án vào khu công nghiệp.
Bảng 7: Vốn FDI vào các khu công nghiệp ở Việt Nam
của một số nước dẩn đầu.
(Năm 2001)
STT
Tên Quốc Gia
Số vốn (Triệu USD)
1
Đài Loan
375.3
2
Nhật Bản
190
3
Mỹ
102
4
Đức
51.9
5
Hàn Quốc
51.2
Nguồn: vụ quản lí KCN, KCX.
3. Những kết quả đạt được của khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình phát triển kinh tế.
Sau hơn mười năm hoạt động, khu công nghiệp- khu chế xuất đã mang lại những thành quả đáng khích lệ đối với nền kinh tế nước ta, nó góp phần không nhỏ vào những thành quả tăng trưởng kinh tế liên tục của công cuộc đổi mới.Nhưng thành quả đáng kể đến là các khu công nghiệp- khu chế xuất làm được là nó góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng các ngành công nghiệp, trước đổi mới về cơ bản trình độ công nghệ của chúng ta rất lạc hậu, chủ yếu là công nghiệp nặng thiên về sản xuất sản phẩm công nghiệp, ít chú trọng đến sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống dân sinh.Chính việc thành lập các khu công nghiệp đã giúp Việt Nam tiếp cận với những công nghệ tiên tiến của nước ngoài thông qua các hình thức như chuyển giao công nghệ, các nhà đầu tư nước ngoài mang công nghệ đến Việt Nam để thực hiện việc sản xuất kinh doanh, và cũng quá trình này các nhà quản lí Việt Nam học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm quản lí quý giá vì Việt nam mới bước vào nền kinh tế thị trường nên còn nhiều định chế và quy tắc đang còn nhiều bở ngỡ và xa lạ.
Các khu công nghiệp thường nằm ở các vùng kinh tế trọng điểm Bắc-Trung-Nam nên sẽ tạo đầu tàu phát triển kinh tế lôi kéo các vùng kinh tế xung quanh phát triển, việc phát triển các cụm khu công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho chính phủ, các bộ thực hiện chức năng quản lí nhà nước của mình và hơn hết là quy hoạch phát triển kinh tế theo vùng, dễ dàng trong việc xét duyệt công nghệ lựa chọn vào khu công nghiệp. Chúng ta phải rất thận trọng trong lựa chọn công nghệ, vì để đạt được hiệu quả kinh tế và phải đối phó với vấn đề ô nhiểm môi trường vấn đề mà các nước rất quan tâm.
Một trong những đóng góp rất lớn của các khu công nghiệp, khu chế xuất là đã giải quyết tốt vấn đề việc làm, đối với nước đang phát triển như nước ta hiện nay chúng ta phải đối phó với một lực lượng đông đảo lao động không có việc làm, vì thế các khu công nghiệp đã giải quyết một phần nào sức ép đó và hơn thế nữa lao động trong khu công nghiệp đều là lao động lành nghề và có trình độ chuyên môn cao, chính đây là nhân tố tạo sự hợp tác trong quá trình phân công lao động quốc tế của Việt Nam.
Tính đến hết năm 2000, các KCN, KCX ở Việt Nam đã thu hút trên 23 vạn lao động Việt Nam làm việc trục tiếp trong các doanh nghiệp, chưa kể đến hàng vạn lao động trong lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho KCN, trong các cơ sở sản xuất ngoài KCN có quan hệ với KCN.
Theo số liệu điều tra cuối năm 1999 của Vụ quản lý KCN-KCX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho thấy tỷ lệ lao động nữ chiếm 62 % tổng số lao động Việt Nam làm việc trực tiếp ở các KCN, KCX. Nguyên nhân thu hút nhiều lao động nữ như vậy là do các dự án trong KCN, KCX tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp nhẹ như dệt, may mặc, giày dép, lắp ráp điện tử, cơ khí chính xác...là những công việc đòi hỏi sự nhẫn nại, tỷ mỉ mà lao động nữ có khả năng đáp ứng cao.
Về trình độ, ở các KCN, KCX, lao động trình độ đại học và trên đại học chiếm 4,5%, kỹ thuật viên 4,5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo 31%; lao động giản đơn 60% tổng số lao động.
Mặt khác, số liệu điều tra cũng cho thấy, KCN, KCX không những thu hút lao động địa phương mà còn thu hút lao động từ địa phương khác. Lao động trong tỉnh chiếm 63 % tổng số lao động, lao động từ tỉnh khác chiếm 37%.
Trong các vùng kinh tế trọng điểm, Vùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ thu hút được nhiều lao động nhất do vùng này có mật độ công nghiệp lớn và nhiều KCN được thành lập. Hiện nay, các KCN, KCX ở vùng này thu hút được 160 nghìn lao động; trong đó lao động nữ chiếm khoảng 73%; lao động có độ tuổi 18 - 35 chiếm gần 88%; lao động trình độ đại học và trên đại học gần 5%, kỹ thuật viên 5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo 35%, lao động giản đơn 55%; lao động địa phương 57%, lao động từ các tỉnh khác 43%.
Về doanh thu năm 2002 của các doanh nghiệp ở các khu công nghiệp đạt khoảng 4,5 tỷ USD, tăng 23% và chiếm trên 50% tổng doanh thu của toàn khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là trong đó có khoảng 2,5 tỷ USD thu được qua hoạt động xuất khẩu, chiếm gần trên 70% kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) kết quả trên thật đáng khích lệ, nếu so với năm 1998, khi giá trị sản xuất của khu công nghiệp mới chỉ đạt trên 1,5 tỷ USD và giá trị xuất khẩu mới đạt khoảng 1,05 tỷ USD.
Ngành nghề thu hút chủ yếu trong khu công nghiệp chủ yếu là công nghiệp giành để xuất khầu, chiếm trên 2/3 giá trị sản lượng. Điều này có tác động tốt đối với việc phục vụ cho chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có kết hợp với thay thế nhập khẩu ở Việt Nam. Hơn nữa, hàng hoá sản xuất trong các khu công nghiệp đã phục vụ cho yêu cầu về nâng cao về chất lượng và giá trị hàng xuất khẩu.. Các hàng hoá này khắc phục được nhược điểm của hàng hoá Việt nam, nâng cao giá trị xuất khẩu và bước đầu khẳng định chổ đứng trên thị trường nước ngoài của hang hoá Việt Nam.
III- Sự vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc trong phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất Việt Nam
1. Lựa chọn môi trường đầu tư
Nhìn nhận lại sự phát triển đặc khu kinh tế của Trung Quốc, người ta đã thừa nhận rằng chính phủ Trung Quốc đã tạo nên môi trường đầu tư rất tốt để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường đầu tư ở đây thể hiện ở các cơ sở hạ tầng cứng và cơ sở hạ tầng mềm, từ việc sang xuất trong vấn đề lựa chọn vị trí của đặc khu đến việc vận dụng sáng tạo trong các thành phố ven biển nhằm tạo động lực. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chúng ta không hy vọng một sự phát triển thần kỳ của các khu chế xuất - khu công nghiệp như các đặc khu kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của Thâm Quyến mà sức vóc của nó ngày nay được sánh vai như Thượng Hải và Hồng Kông thứ hai. Nhưng điều chúng ta có thể học hỏi được từ đây những hướng đi và những bài học thành công cũng như thất bại mà họ đã vất phải.
Việt Nam chúng ta có vị trí địa lý vô cung thuận lợi, đất nước chúng ta nằm trong khu vực Đông Nam á, có nhiều đường giao thông quốc tế đặc biệt là hàng không và hàng hải. Từ Việt Nam đi đến các nước như Nhật Bản, Nics Châu á rất gần, các nước này nổi lên với tư cách là con rồng châu á và đặc biệt chúng ta có đường biên giới chung với Trung Quốc, một nước được biết đến như là quốc gia đông dân số nhất thế giới và là một thị trường rộng lớn về tiêu thụ hàng hoá. Quốc gia này được đánh giá là nền kinh tế năng động và có vị thế bậc nhất vào thế kỷ 21. Xuất phát từ những lợi thế trên chúng ta cần phải nghiên cứu và bố trí vị trí các khu công nghiệp khu chế xuất một cách hợp lý. Về cơ bản các cụm khu công nghiệp - khu chế xuất nên được bổ trí nằm trên vùng có đường giao thông thuân tiện. ở miền Bắc các thành phô như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh sẽ là các vùng trọng điểm để bố trí. Hải Phòng và Quảng Ninh là hai thành phố có lợi thế về cảng, là con đường để vận chuyển hàng hoá quốc tế. Các khu công nghiệp nên được bố trí dọc theo trục ba thành phố này sẽ tạo nên các cụm vệ tinh và bổ trợ nhau phát triển. ở miền Trung ta sẽ xây dựng theo cụm Huế - Đà Nẵng - Quảng Ngãi. ở miền Nam chúng ta có cụm thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Biên Hoà
Chúng ta có dài chạy dọc theo đất nước với thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá. Đặc biệt là các tỉnh miền Trung, về điều kiện hoàn cảnh chúng ta sẽ thấy nó có một nét gì tương đồng với các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc giai đoạn này. Vùng này là nơi mà điều kiện sống của nhân dân còn khắc khổ, nền kinh tế miền Trung chưa thực sự tươi sắc nhưng nó là vùng có vị trí chiến lược; nằm giữa đất nước là trục giao thông quan trọng, vùng này có các cảng nước sâu rất thuận lợi cho tầu bè trọng tải lớn cập cảng, trung chuyển hàng hoá, đây là vùng có sân bay quốc tế mà chi phí vận chuyển chiến lược qua các nước được đánh giá là thấp hơn so với các sân bay khác. Vì vậy, ý tưởng xây dựng đây là vùng kinh tế năng động có thể nói gần như các đặc khu kinh tế là khả quan. Việc nhà nước ta đang tiến hành xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất là những đề án hết sức khả thi nhằm đưa kinh tế miền Trung ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình thực hiện. Biến đây thực sự là Thâm Quyến của Việt Nam.
Bên cạnh các yếu tố hạ tầng cứng chúng ta quan tâm đến cơ sở hạ tầng mềm. Xét về luật đầu tư khuyến khích nước ngoài thì Việt Nam được đánh giá là rất cởi mở và thông thoáng. Nhưng vẫn đề ở đây là song song với nó ta cần có một cơ chế hướng dẫn. Chúng ta bị đánh quá rất nhiều thủ tục hành chính mà người ta thường gọi là “hành là chính” vì thế bên cạnh đó chúng ta cần cải thiện môi trường đầu tư bằng cách thủ tục hành chính gọn nhẹ, điền khính là cơ chế “một cửa” mà các khu công nghiệp - khu chế xuất nên áp dụng. Các nhà đầu tư chỉ cần đăng ký ngành nghề kinh doanh cho ban quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất các nhà đầu tư không cần phải xách va ly đi đâu cả.
Đối với ban quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất, chúng ta cần mạnh dạn trao quyền quản lý đối với họ, mà đơn giản là chúng ta nên định rõ ràng các danh mục dự án và thẩm quyền xét duyệt. Và cho phép một số hạng mục, dự án có số vốn nhỏ tạo nên tính năng động trong quản lý, tránh phụ thuộc vào cấp trên.
2. Lựa chọn chính sách ưu tiên phát triển.
Nhằm phát triển kinh tế, đồng thời biến các khu công nghiệp, khu chế xuất thành những động lực để phát triển. Chúng ta cần xây dựng cho nó một chính sách đặc biệt, chính sách ở đây thể hiện sự quan tâm của chính phủ đối với khu công nghiệp, khu chế xuất và nó phải thể hiện những ưu tiên hơn so với những khu vực ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Những ưu tiên đầu tiên mà các nhà đầu tư thường quan tâm đầu tiên đó là ưu đãi về thuế ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Hệ thống thuế ở Việt Nam có rất nhiều ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp và khu chế xuất. Theo quy định chung đối với đầu tư nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp thường có thuế suất 25%, khuyến khích đầu tư là 20%, 15%, 10%. Còn riêng đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp: doanh nghiệp chế xuất nộp thuế lợi tức 10% lợi nhuận thu được và được miễn thuế 4 năm; doanh nghiệp khu công nghiệp nộp thuế lợi tức 15% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức 2 năm nếu xuất khẩu dưới 50% sản phẩm. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5%.
Riêng đối với khu chế xuất, hàng hoá được đưa từ nước ngoài vào khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất và ngược lại không phải thuộc diện phải nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và chỉ chịu sự giám sát của hải quan và không thuộc đối tượng chịu thuế VAT. Nguyên liệu, vật liệu, vật tư linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất.
Đối với những ưu đãi nói trên, nhìn chung rất hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước bước chân vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Song song với những ưu đãi trên, Nhà nước đã ban hành nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Những nhà đầu tư nước ngoài có thể gửi tiền vào tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài mở tại ngân hàng Việt Nam hoặc ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghiệp được mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khai thác. Về chính sách đối với người lao động, chúng ta chỉ quy định mức trả lương tối thiểu (45 USD/ tháng ở một số thành phố lớn, 40USD/tháng ở một số thành phố vừa và 35USD/tháng ở các tỉnh còn lại) quy định bằng USD theo tỷ giá chính thức. Những qui định này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp tối thiểu cho những người lao động, còn mức lương sẽ tuỳ theo mức độ công việc, kinh nghiệm, trình độ tay nghề của người công nhân mà có sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, các doanh nghiệp được phép ký kết hợp đồng lao động với người lao động thông qua một tổ chức tuyển dụng.
Vấn đề nhà đầu tư cũng luôn quan tâm đó là hệ thống cơ sở hạ tầng. Chính phủ Trung Quốc đã rất thành công trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng vào giai đoạn đầu. Với Việt Nam hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu và thiếu, chúng ta cần có nhiều đầu tư hơn nữa của Nhà nước vào sơ sở hạ tầng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Những hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất nên được xây dựng đồng bộ và chúng ta cũng nên xây dựng tốt hạ tầng của những khu xung quanh nhằm tạo ra sự liên kết trong và ngoài khu. Về hình thức thì trong giai đoạn đầu chính phủ đầu tư là chủ yếu và ta cũng có thể kết hợp kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh và cho phép họ có thể hưởng lợi ích từ việc xây dựng này. Điều này rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Mục đích cuối cùng của việc thành lập khu công nghiệp và khu chế xuất là thu hút các nhà đầu tư vào đây. Chúng ta phải làm cho họ thấy được đầu tư ở đây khác với đầu tư ở những nơi khác và điều đó chỉ thực sự được thực hiện khi chúng ta mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư bằng hệ thống các chính sách ưu tiên phát triển. Mỗi một một nước đều có chính sách ưu tiên riêng của mình, nhưng chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo và linh hoạt với tình hình thực tế.
3. Mô hình quản lí đối với các khu công nghiệp – khu chế xuất.
Hiện nay mô hình quản lí của các khu công nghiệp của nước ta có cơ cấu như sau:
Để tư vấn cho thủ tướng chính phủ, ở trung ương có ban quản lí các khu công nghiệp Việt nam. Ban này có nhiệm vụ xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, ban hành các văn bản pháp quy hướng dẩn các ngành và các địa phương tổ chức thực hiện.
Ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh, thành phố là cơ quan quản lí trực tiếp các khu công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi hành chính của mình.
Các khu công nghiệp dịch vụ chịu sự quản lí trực tiếp của các ban quản lí các khu công nghiệp cấp tỉnh.
Như chúng ta đã biết một trong những thành công của các đặc khu kinh tế Trung quốc đó là mạnh dạn trao quyền tự chủ cho chính quyền đặc khu chủ động linh hoạt, kịp thời đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu của tình hình. Chính quyền đặc khu được trao quyền rất lớn, nhiều khi còn ngang hoặc cao hơn cả quyền của chính quyền tỉnh trực thuộc, trong đó cả quyền lập pháp, hành pháp, quyền cấp giấy phép đầu tư, quyền quy hoạch và quyền sử dụng đất.
Về phân cấp quyền hạn, ban quản lí khu công nghiệp Việt nam nên đóng vai trò là người lãnh đạo, định hướng những chính sách vĩ mô, quản lí trên tầm phạm vi cả nước và để tạo ra cơ chế thông thoáng, gắn với hiệu quả của quá trình hoạt động. Chúng ta cần nên trao quyền nhiều hơn cho ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh, vì đây chính là địa chỉ nhà đầu tư tìm đến và chịu sự quản lí trực tiếp của cơ quan này. Bên cạnh đó, các Bộ ban ngành cần phối hợp với ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh trong quản lí như tạo điều kiện thực hiện các dự án và quan trọng hơn hết là việc uỷ quyền cho ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh.
Việc uỷ quyền cho ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh thực hiện một số chức năng quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là nhằm giải quyết tốt tại chổ các vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp khu chế xuất, nhất là triển khai thực hiện các dự án.
Trong thời gian qua, các ban quản lí các khu công nghiệp đã có sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả với các bộ, ngành Trung ương và các cơ quan địa phương triển khai tốt việc uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư, xét duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án, giải quyết tại chổ các vấn đề của các doanh nghiệp khu công nghiệp.
Về cơ bản, đồi với hoạt động của khu công nghiệp khu chế xuất, ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh nên thực hiện chức năng là cơ quan quản lí nhà nước, giải quyết tại chổ các vấn đề phát sinh đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp chế xuất. Chính ban quản lí này họ có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các nhà đầu tư, họ hiểu rõ vấn đề gì phát sinh, nguyện vọng của các nhà đầu tư là gì và vấn đề cần phải giải quyết.
Hiện nay chúng ta cần giải quyết rất nhiều các vấn đề phát sinh đồi với khu công nghiệp như. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp chưa cao, vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải kế hoạch tiếp thị, xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư không có gì khác bằng cách giới thiệu mình cho họ biết. Vấn đề cũng khá làm đau đầu các nhà quản lí là lao động. Chúng ta phải có trách nhiệm đào tạo lao động lành nghề đáp ứmg yêu cầu của nhà tuyển dụng. Các nhà đầu tư họ là người thu hút lao động, tạo việc làm cho người lao động. Nhưng họ cũng là người có quyến xa thải lao động, bộ luật lao động củac chúng ta chưa được chặt chẽ trong việc này, vấn đề càng trở nên càng gay gắt đối với lao động trong khu công nghiệp. Mặc dù họ được trả lương cao hơn so với lao động khu vực bên ngoài, nhưng chính họ phải chịu các điều kiện lao động căng thẳng, cường độ lao động cao và đôi khi chịu sự những đối đãi không tốt của chủ sử dụng lao động như đánh đập và xĩ vả nhân công vi phạm nghiêm trọng chế độ lao động hiện hành.
Những vấn đề nảy sinh trên cần có sự phối hợp giữa các cấp các ngành liên quan với ban quản lí khu công nghiệp. Một mình ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh khó có thể giải quyết đồng bộ và hiệu quả mọi vấn đề vì thế nên chăng ban quản lí nên phân thành các tiểu ban quản lí, mỗi tiểu ban sẽ phụ trách mỗi vấn đề liên quan. Ban quản lí các khu công nghiệp Việt nam và ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh cần phối hợp với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và các bộ nghành để tổng kết tất cả các nghị định, thông tư, quy định và văn bản dưới luật liên quan đến sự hoạt động của các khu công nghiệp.
Vấn đề khác chúng ta cần phải quan tâm là coi khu công nghiệp như là một thực thể kinh tế chứ không thể coi khu công nghiệp đơn giản chỉ là nơi các doanh nghiệp khu công nghiệp tập trung lại. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ giúp cho các khu công nghiệp phát triển tốt hơn, đóng góp cho sự phát triển của địa phương và đất nước nhiều hơn bởi vì một khi được coi như là thực thể kinh tế thì những vấn đề đi kèm như an ninh trật tự, nhà ở sẽ được coi trọng hơn và sẽ có một cơ chế điều hành phối hợp một cách có hiệu quả.
IV- Phương hướng và giải pháp phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất giai đoạn 2001- 2010.
1. Phương hướng phát triển KCN - KCX giai đoạn 2001 - 2010.
Qua hơn 10 năm xây dựng và triển khai thực hiện mô hình KCN - KCX đã từng bước phát triển về cả chất và lượng. Khu công nghiệp - khu chế xuất đã thực sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo thêm ngành nghề mới, năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng cao trình độ công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại. Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Tổng thu nhập và đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển vùng lãnh thổ.
Trong báo cáo chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001- 2010 cuả Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có nêu: "Quy hoạch phân bổ hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở"(4) Đảng cộng sản Việt Nam Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX NXB Chính trị quốc gia 2001
.
Để thực hiện tốt chủ trương về phát triển KCN, KCX giữa Đảng và Nhà nước đã đặt ra chúng ta cần phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những khó khăn. Nhìn chung phương hướng phát triển KCN- KCX trong thời gian với chủ yếu là:
Một là: Tiếp tục phát triển KCN- KCX theo hướng kết hợp hài hoà phát triển công nghiẹp với phát triển vùng lãnh thổ.
Để phát triển KCN- KCX có hiệu quả về kinh tế xã hội việc phát triển các mô hình này tại địa phương phải gắn bó với và phát triển các mô hình hạ tầng kỹ thuật.
Hệ thống giao thông bưu chính viễn thông, nhà máy cung cấp nước sạch, nhà máy sản xuất điện, giải quyết và môi trường, khu dân cư, các công trình phúc lợi công cộng, các vấn đề xã hội khác.... tạo tiền đề phát triển vùng và hình thành cac đô thị công nghiệp mới.
Những tỉnh, thành phố nào có số lượng khu công nghiệp, khu chế xuất tương đối nhiều thì chưa cần thiết thành lập nên các khu công nghiêp, khu chế xuất mới mà nhiệm vụ trước mắt là tập trung khai thác lấp đầy diện tích cac khu công nghiệp. Tỷ lệ đầy trên 70% diện tích đất công nghiệp của khu được coi là thành công còn đối với các địa phương khác dựa vào tình hình phát triển kinh tế xã hội nếu thấy nhu cầu thành lập KCN- KCX là cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của vùng, địa phương thi cho phép thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất mới thành lập phải nằm trong sự quy hoạch tổng thể của Nhà nước về số lượng KCN- KCX trên một đất nước cứ phát triển tràn lan mà theo kinh nghiệm thế giới chúng ta nên xây dựng 100 khu công nghiệp là đủ.
Phát triển KCN- KCX cần tính đến lợi thế so sánh của địa phương và yêu cầu phát triển của khu vực tạo nên thế mạnh theo cơ cấu hình thức nhà ở gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Hai là: thu hút đầu tư để lấp đầy KCN- KCX đã được thành lập. Hiện nay diện tích lấp đầy khu công nghiệp rất thầp chỉ trên 30%.Khu công nghiệp cả nước có diện tích lấp đầy 50% diện tích đất công nghiệp. Trong thời gian tới để quan tâm thu hút đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài để lấp đầy trên 50% diện tích đất công nghiệp của các khu đã thành lập. Ngoài ra các dự án cần thiết phải gần vùng nguyên liệu, quy mô sản xuất diện tích lớn, công nghệ đặc thù (sản xuất gương, chế biến thực phẩm....). Chúng ta nên khuyến khích các dự án vào hoạt động tại các khu công nghiệp đặc biệt là các dự án sản xuất của các Doanh nghiệp tư nhân và nhứng dự án có yêu cầu đặc biệt về môi trường thì chùng ta cần kiên quyết hướng các dự án đưa vào KCN- KCX.
Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài vô cùng quan trọng đối với việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Hơn nữa cuộc cạnh tranh gay gắt về thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc đang diễn ra gay gắt. Bởi vậy, công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài càng trở nên quan trọng cần phải được một ngành, một cấp quan tâm và thực hiện thường xuyên.
Ba là: thực hiện tốt công tác quy hoạch vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành, quy hoạch phát triển KCN- KCX.
Quy hoạch Phát triển KCN-KCX phải gắn với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tâng kỹ thuật và xử lý những quy hoạch định hướng mà còn việc thực hiện các quy hoạch này. Công tác quản lý cần thường xuyên quan tâm đến những vấn đề như quy hoạch các khu chức năng, quy hoạch ngành nghề đầu tư vào khu, xử lý chất lỏng, hạ tầng xã hội. Quy hoạch ngành nghề theo quy hoạch chung và lợi thế của từng khu vực, tránh trùng lặp ngành nghề dẫn đến sự phân bố không hợp lý về lao động sản xuất. Các khu công nghiệp trong từng điạ phương hoặc giữa các địa phương phải phối hợp chặt để từ việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội phối hợp trong công tác đầu tư phát triển.
Bốn là: tiếp tục hoàn thiện và triển khai tốt các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của các Doanh nghiệp và Khu công nghiêp, khu chế xuất.
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, hiện nay luật đầu tư nước ngoài nói chung và quy chế KCN-KCX, khu công nghiệp chính nói riêng được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là thông thoáng và ưu đãi nhiều hơn so với một số nước trong khu vực.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện do những nguyên nhân chủ quan và khách quan về hệ thống cơ sở này còn có những bất cập: nhất là trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài đang diễn ra gay gắt. Trước hết là việc triển khai thực thi các chính sách. Nhiều chính sách được ban hành nhưng triển khai chậm hoặc có xung đột giữa các văn bản ban hành nên hiệu quả thấp. Đồng thời cần có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ xung của các cơ quan chức năng của các tỉnh, thành cùng vùng lãnh thổ cho phù hợp với tình hình thực tế.
2. Một số giải pháp nhằm phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất trong thời gian tới.
2.1. Giải pháp và thể chế và môi trường đầu tư.
Từ thực tế phát triển khu công nghiệp trong thời gian trong 10 năm qua cho thấy thể chế là khâu quan trọng tạo khuôn khổ pháp lý để hình thành và phát triển khu công nghiệp, chính phủ đã ban hành một số chính sách khuyến khích đầu tư ra với những quy định thông thoáng hơn, quản dần sự đầu tư trong nước, tạo khuân khổ pháp lý thuận lợi cho đầu tư và phát triển đặc biệt là đầu tư vào cac khu công nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn thiếu vướng mắc đó là sự thiếu đồng bộ nhất quán của chính sách, sự cản trở của thủ tục hành chính phiền hà, năng lực tổ chức thực hiện thể chế hạn chế. Hệ thống chính sách hiện nay của chúng ta không đối với khu công nghiệp còn nhiều hạn chế nên chuưa khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào khu công nghiệp. Chúng ta còn rất nhiều bất cập về quy chế liên quan đến giải phóng mặt bằng, đền bù, xây dựng cơ sở hạ tầng, thủ tục thành lập…
Nhằm tạo điều kiện cho phát triển khu công nghiệp và khu chế suất chúng ta cần tiếp tục đổ mới các thể chế mà điều cơ bản là cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những văn bản mang tính pháp quy khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng thiếu thống nhất và không cụ thể, sớm ban hành luật khu công nghiệp. Sửa đổi bổ sung một số một số quy định của quy chế khu công nghiệp hiện hành. Bỏ chế độ quản lý có thẩm quyền của khu công nghiệp thành phố, tạo hành lang pháp lý thuận lợi bình đẳng để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào khu công nghiệp.
Một số vấn đề cũng rất được quan tâm đó là thủ tục hành chính, các nhà đầu tư thường hay phàn nàn về thủ tục của chúng ta quá rườm rà và rất chậm cho tiến trình đầu tư của họ. Cho nên giải pháp trước mắt là chúng ta cần cải cách triệt để thủ tục hành chính, khắc phục sự chậm chễ trong việc cấp giấy phép đầu tư, giải quyết ách tắc của chủ đầu tư trong quá trình thực hiện. Chúng ta không thể để những chính sách đúng bị các quan chức quan liêu, vụ lợi làm sai lệch sách nhiễu, làm chậm trễ, phiền hà các nhà đầu tư, cách tốt nhất là thực hiện dịch vụ trọn gói có thời hạn.
Xét về môi trường đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua cũng như giai đoạn tới, các nhà kinh tế cho rằng Việt nam đã đạt được môi trường đầu tư thông thoáng cụ thể là luạt đầu tư nước ngoài của Việt Nam với rất nhiều ưu đãi và Việt nam sẽ là địa chỉ cần đến của các nhà đầu tư trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên để cải thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới chúng ta cần tiến hành những biện pháp đặc biệt sau:
+ Bảo đảm tính thống nhất giữa luật và các văn bản dưới luật liên quan đến khuyến khích và đảm bảo đầu tư vào khu công nghiệp
+ Tạo lập một cơ chế khuyến khích đầu tư hấp dẫn có tính cạnh tranh cao.
+ Khuyến khích đầu tư vào khu vực dần dần
+ Chủ động tiếp cận, vận động đầu tư.
Bên cạnh cải thiện môi trường đầu tư chúng ta cần tăng cường khả năng tiếp thị đầu tư. Điều cần thiết làm cho các nhà đầu tư biết về mình, trước hết chúng ta cần ban hành các sách hướng dẫn đầu tư vào khu công nghiệp tại Việt Nam, trong đó nêu rõ chính sách thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu những thông tin kinh tế cơ bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng của thuế đất, của thuế hạ tầng, các ưu đãi…
2.2. Đầu tư phát triển hạ tầng
Đồng thời với sự ra đời khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng có chất lượng nhằm phục vụ tốt cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Việc quy hoạch khu công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển hạ tầng là một trong những nội dung quan trọng nhất bao gồm xác định diện tích khu công nghiệp, cơ sở hạ tâng kỹ thuật, hệ thống giáo thông nội bộ, các công trình kiến trúc, hệ thống truyền tài cấp điện nước, xử lý rác thải, thông tin, huy động vốn…
Về hạ tầng cơ sở Việt Mam chúng ta còn yếu và thiếu trong khi nguồn lực chúng ta còn rất hạn chế vì thế chúng ta cần đa dạng hoá nguồn vốn: Nhà nước, tín dụng, vốn của các tổ chức quốc tế, nguồn đầu tư các chủ đầu tư. Cần khuyến khích các loại hình doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp.
Song song với việc đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp chúng ta cần quan tâm đến vấn đề triển khai các công trình tiết tấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp bên cạnh đó chúng ta cần quan tâm đến điện, nước, nhà ở cho công nhân. Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng nên được quy hoạch đồng bộ ngay từ đầu khi bắt đầu thành lập khu công nghiệp.
2.3. Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng
Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng
Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng phải dựa trên cơ sở quy hoạch dài hạn về tình hình phát triển khu công nghiệp, phải có chú dẫn, có danh giới và được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường xuyên. Điều đó là một đảm bảo chắc chắn để giảm ghánh nặng cho công tác đền bù và giải phóng mặt bằng. Trong những năm qua, do công tác quy hoạch, chú dẫn, hướng dẫn làm chưa được tốt, do đó dẫn đến việc bồi thường và giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề gay cấn, vừa bức xúc vừa căng thẳng, vừa tốn kém làm cho công trình kéo dài, làm chậm quá trình phát triển khu công nghiệp, gây ra khó khăn không nhỏ cho các nhà đầu tư.
Để làm tốt công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, công tác quy hoạch phải thật sự đi trước một bước, từ tuyên truyền giáo dục cho nhân dân về đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá chủ trương phát triển cần được… sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động, giải thích, thuyết phục, các đối tượng di rời việc tính tiền đền bù phải thoả đáng theo nguyên tắc thi trường có sự quản lý của nhà nước thông qua quy định, quy chế bảo lãnh cho dân có điều kiện tài lập cơ sở mới.
Chúng ta cần cương quyết xử lý biện pháp cố tình dây dưa cản trở trong việc giải phóng mặt bằng và trong một số trường hợp có thể xử lý cưỡng chế đối với những trường hợp cần xử lý. Nhưng điều quan trọng là cần thiết phải biết truyên truyền cho dân biết rõ ích lợi và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Tránh tình trạng gây mâu thuẫn giữa người dân và chủ đầu tư.
2.4. Giải pháp về công nghệ bảo vệ môi trường
Kinh nghiệm trong nước và một số nước trong khu vực cho thấy để hình thành khu công nghiệp không khó khăn nhưng khó khăn hơn làm cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp phát triển nâng cao sức cạnh tranh đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhằm mục đích thục hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta cần phải thực hiện một số định lượng trong việc phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường sau:
+ Khuyến khích nhập khẩu trang thiết bị máy móc hiện đại, tự động hoá, xử dụng nguyên nhiên liệu sạch, ít ảnh hưởng đến môi trường.
+ Miễn thuế nhập khẩu cho những máy móc thiết bị sản phẩm trung gian liên quan đến đổi mới công nghệ nhập
+ Kết hợp các viện, trung tâm nghiên cứu trong nước thực hiện nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất
+ Xây dựng các khu công nghiệp ở ngoại vi thành phố với cơ sở hạ tầng đầy đủ để xử lý nước thải, bụi, tiếng ồn.
+ Thúc đẩy các khu công nghiệp đã có thực hiện đẩy đủ các quy định về bảo vệ môi trường.
Có những quy định cụ thể về bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư, dự án sản xuất kinh doanh sự đóng góp tài chính của các doanh nghiệp và bảo vệ môi trường.
2.5. Hoàn thiện bộ máy quản lý khu công nghiệp, nâmg cao trình động chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý
Như chúng ta đã biết, khu công nghiệp là mô hình tương đối mới mẻ ở nước ta. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý khu công nghiệp chính là các nhà kinh tế, kỹ thuật… được điều động từ nhiều môi trường công tác khác nhau. Trên thực tế, chưa có môI trường đào tạo cán bộ quản lý khu công nghiệp và do đó chúng ta cũng chưa kịp mở lớp đào tạo, bồi dưỡng một cách chính quy. Chính vì vậy, bước vào môI trường quản lý kinh tế mới, vấn đề trang bị kiến thức quản lý khu công nghiệp đối với cán bộ quản lý khu công nghiệp đã trở thành nhiệm vụ trung tâm các khu công nghiệp mục đích của công tác đào tạo là nhằm tạo ra đội ngũ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác dụng và phong cách công nghiệp, có trình độ hiểu biết về pháp luật quốc tế và trong nước, có năng lực quản lý khoa học và công nghệ hiện đại.
Kết Luận
Sau hơn mười năm hình thành và phát triển, khu công nghiêp- khu chế xuất ở Việt Nam đã đạt đựơc thành công đáng khích lệ trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của nước nhà đồng thời đưa nền công nghiệp Việt Nam phát triển. Bên cạnh những mặt thành công, chúng ta còn tồn tại một số mặt yếu kém, như tỷ lệ thu hút vốn đầu tư để lấp đây khu công nghiệp hay vấn để môi trường, lao động… Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận việc phát triển khu công nghiệp là con đường thích hợp, một hướng đi đúng đắn để tiến lên công ng hiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Sự đóng góp của khu công nghiệp thời gian qua tuy không dài nhưng đã khẳng định vai trò tất yếu của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Việc đề ra những vấn đề tồn tại, bất cập là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Để đạt được những thành công mới chúng phải vượt qua nhiều khó khăn, đòi hỏi phải nổ lực, phối hợp của các cấp, các nghành để tháo gở những cản trở vướng mắc trên con đường phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng VI, Nhà xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 1994
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng VIII, Nhà xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 1998
3. Mai Ngọc Cường: Các khu chế xuất Châu á- Thái Bình Dương và Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội, 1993
4. Nguyễn Minh Hằng: Các đặc khu kinh tế Trung Quốc, báo cáo khoa học, hội thoả các khu KTTD Trên thế giới và kinh nghiệm xây dựng các khu công nghiệp Việt Nam, Bộ xây dựng, Hà Nội, 10-1993
5. Bùi Đường Nghiên: kinh nghiệm xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 1-1999
6. Những văn bản pháp luật về KCN, KCX, Khu công nghệ cao, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
7. Thời báo kinh tế Việt nam 2001, 20002, 2003.
8. Tạp chí công nghiệp Viêt Nam 2001, 2002.
9. Báo cáo tình hình khu công nghiệp qua các năm, Vụ quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37080.doc