Chuyên đề Kỹ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai

DẪN LUẬN Nghề trồng lanh, dệt vải là hoạt động kinh tế để tạo ra sản phẩm vải nhằm phục vụ nhu cầu của đời sống cộng đồng dân tộc Mông ở Cát Cát. Đó thực sự là một hoạt động công phu đã đạt tới đỉnh cao của một loại hình thủ công truyền thống không chỉ với người Mông mà còn đối với cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Điều thú vị là chỉ bằng các công cụ hết sức thô sơ, người phụ nữ Mông đã làm ra những sản phẩm vải lanh nổi tiếng. Trong đó, đáng kể có nghệ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục. Về mặt kỹ thuật, trong quy trình tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục, người Mông nơi đây đã vận dụng nhiều kỹ năng, kỹ xảo một cách điêu luyện như triết nếp, khâu đột, khâu luồn sợi, khâu vắt; các kỹ thuật tạo hoa văn như thêu (thêu đột, thêu luồn sợi, thêu xoắn chỉ), in hoa văn bằng sáp ong (kỹ thuật ba tít), ghép vải. Công việc này được các em gái học từ những người bà, người mẹ, người chị ngay từ khi còn nhỏ theo phương pháp cầm tay chỉ việc vào những thời điểm nông nhàn hay những khi đi đường, đi chợ. Về mặt mĩ thuật, các bộ trang phục và màu sắc, hoa văn trên trang phục của người Mông ở Cát Cát, nhất là trang phục phụ nữ của rực rỡ và cố tình vượt lên sắc xanh của thiên nhiên để tôn con người trước khung cảnh của núi rừng. Phong cách trang trí và tính quy phạm của các loại hoa văn với màu sắc của nó cũng thể hiện những luật tục, những kiêng kỵ trong cộng đồng. Như vậy, có thể khẳng định, hoa văn cũng là một trong những nguồn sử liệu quý khi nghiên cứu về lịch sử văn hoá tộc người. Chuyên đề Kỹ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhằm tìm hiểu những nét độc đáo trong trang trí dân gian trên trang phục của người Mông ở đây. Chuyên đề nằm trong Đề tài Bảo tồn nghề dệt truyền thống, thuộc dự án Đầu tư bảo tồn làng truyền thống dân tộc Mông ở làng Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chuyên đề được thực hiện bằng các phương pháp dân tộc học truyền thống, lấy kết quả điền dã làm tài liệu nghiên cứu chủ yếu. MỤC LỤC Dẫn luận . 1 1. Kỹ thuật dệt, nhuộm vải và chế tác đồ trang sức . 2 1.1. Kỹ thuật dệt . 2 1.2. Kỹ thuật nhuộm . 3 1.3. Kỹ thuật chế tác đồ trang sức 7 2. Kỹ thuật trang trí trên trang phục 8 2.1. Kỹ thuật tạo dáng cho trang phục 8 2.2. Kỹ thuật tạo hoa văn trên trang phục 9 2.2.1. Kỹ thuật in hoa văn bằng sáp ong . 9 2.2.2. Kỹ thuật thêu . 10 2.2.4. Kỹ thuật ghép vải 10 2.3. Hoa văn trên trang phục 11 2.4. Nghệ thuật xử lý màu sắc trên trang phục . 14 3. Nghệ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục trong chu kỳ vòng đời người phụ nữ Mông ở Cát Cát 16 4. Một số biến đổi và giải pháp bảo tồn các mẫu hoa văn và màu sắc trên trang phục của người Mông ở Cát Cát hiện nay 18 4.1. Ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới các mẫu hoa văn và màu sắc truyền thống của người Mông ở Cát Cát 18 4.2. Những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn các mẫu hoa văn và màu sắc truyền thống của người Mông ở Cát Cát 19 4.3. Một số giải pháp bảo tồn các kỹ thuật xử lý dân gian trong việc tạo các mẫu hoa văn và màu sắc trang phục truyền thống của người Mông ở Cát Cát . 21 Kết luận

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Kỹ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m). Với những người to lớn, người ta phải dệt tới 10 (≈ khổ vải 35 – 38 cm). Khi dệt, người phụ nữ ngồi trên ghế, buộc đai nối với trục cuốn vải vào lưng để làm căng sợi dọc, chân lồng vào sợi dây nối với cần nâng sợi. Lúc này, cơ thể người phụ nữ trở thành một bộ phận không thể thiếu trong bộ khung dệt. Để thực hiện thao tác, người phụ nữ Mông phải phối hợp nhịp nhàng giữa đôi tay, bàn chân (chân giật dây nối sợi), đôi mắt và cả sống lưng. Tay phải và tay trái luôn luôn phải đổi nhau đón – đưa khung dệt hết chạy qua rồi chạy lại, hết qua trái rồi lại qua phải, thoăn thoắt, nhịp nhàng cho con thoi chạy qua giữa hai làn sợi dọc. Cứ tay này đẩy thoi thì tay kia dập go và ngược lại. Không những thế, những lúc sợi đứt, đôi tay lại phải dừng lại, buông go, buông con thoi để nối sợi. Những chỗ lộ mối nối, đôi tay lại khéo léo giấu đầu sợi nối bằng cách dùng mũi kim hay một cành que nhỏ đâm đầu sợi xuống phía dưới mặt vải (mặt trái của tấm vải). Cùng với đôi tay nhịp nhàng đưa thoi, bàn chân người phụ nữ cũng phải nhịp nhàng đẩy lên, đưa về theo từng dịp dập của go, từng nhịp đưa thoi. Bàn chân điều điều khiển dây nối sao cho thật khéo để khi kéo chân về đằng sau sẽ kéo dây dẫn đến cần nâng sợi làm cho nó giật xuống. Khi ấy, đôi cần nâng sợi sẽ nâng lên, kéo một trong hai làn sợi dọc lên cao, tách xa làn sợi kia, tạo ra một khoảng trống cần thiết để cho con thoi dễ dàng luồn qua. Việc còn lại là dùng tay dập go vào với một lực vừa phải. Nếu mạnh quá sẽ làm cho thớ vải xít, sau này sẽ rất khó trong việc đếm sợi để tính từng mũi thêu, nhưng nếu thưa quá thì sẽ tạo cho vải nhiều lỗ hổng, không dùng được. Khi thả chân, mặt sợi dọc trùng xuống, cần tách sợi trượt về phía trên, hai làn sợi sẽ đảo vị trí cho nhau. Cứ như thế, người phụ nữ thực hiện thao tác này ngày này qua ngày khác từ khi bắt đầu có sợi dệt cho đến khi đủ lượng vải mặc cho gia đình mới thôi. Vải của người Mông ở Cát Cát thường có khổ rộng không cố định, tuỳ theo kích cỡ của người sẽ được may mà dệt vải khổ rộng hoặc hẹp, nhưng kích thước phổ biến nhất vẫn là từ 20 – 40 cm. Cứ 12 sợi được tính thành một chùm, để may váy áo cho trẻ em, người ta thường dệt khoảng 5 chùm. Còn nếu để may cho người trưởng thành phải dệt khoảng 8 chùm. Với những người to lớn, người ta phải dệt tới 10 – 12 chùm mới đủ khổ vải. Để dệt một tấm vải dài 10 m, khổ rộng 40 cm thường phải mất 20 giờ liên tục. Tuy nhiên, do chỉ có thể dệt trong những lúc rảnh rỗi nên trung bình một tháng một phụ nữ dệt cũng chỉ được một mảnh vải dài khoảng 12 cm; người nào dệt giỏi cũng phải mất tới 2 tuần. Trung bình cứ mỗi mùa làm vải, một phụ nữ Mông có kỹ năng bình thường có thể dệt được khoảng 48 – 60 m vải. Vải lanh dệt thô hơn vải bông và go dệt của người Mông cũng thưa hơn go dệt của người Tày, người Giáy, người Việt và một số dân tộc khác. Độ mau thưa của vải tương đối đều nhau, đặt cơ sở cho việc thêu hoa theo lóng vải sau này. Sau khi tấm vải được dệt xong, người phụ nữ Mông lại dùng tro để tẩy vải cho trắng. Trước hết, người ta hoà tro vào chảo nước quấy cho đều. Sau đó, người ta nhúng tấm vải cho ngấm nước tro rồi đem hong khô. Khi vải đã khô lại tiếp tục ngâm nước tro, cứ thế làm liên tục trong 4 – 5 ngày, mỗi ngày nhúng 3 – 4 lần. Cuối cùng, tấm vải được đem đi giặt với tro bếp rồi phơi khô. Vải lại được đem đi lăn cho bóng, mịn, mềm. Cách lăn vải cũng tương tự như lăn sợi, trung bình một người có thể lăn được 100 m vải trong một ngày. Ngoài dệt vải, người phụ nữ Mông ở Cát Cát còn dệt cả dây. Để dệt dây buộc xà cạp, người phụ nữ Mông xếp các sợi cạnh nhau, buộc thắt một đầu và buộc vào ngón chân để làm cho sợi dọc được căng ra, sau đó dùng sợi ngang luồn qua sợi dọc để đan thành dây. 1.2. Kỹ thuật nhuộm - Nhuộm màu đen Chàm là một dạng thuốc nhuộm tự nhiên được nhiều dân tộc sử dụng trong việc nhuộm vải. Ở miền núi phía Bắc nước ta có nhiều giống chàm thuộc các họ khác nhau và mỗi dân tộc, mỗi vùng chỉ quen trồng và sử dụng một loại hợp với nhu cầu thẩm mỹ truyền thống của mình. Chàm của người Mông ở Cát Cát là loại chàm lá to hay còn gọi là chàm mèo có tên khoa học là Strobilanthes Cusia (Nees) Kuntze, thuộc họ Ô rô – Acanthaceae. Đây là loại cây nhỏ lưu niên, cao 40 – 80 cm (có khi đến 2 m), thân nhẵn, phân nhánh nhiều, phình lên ở các mấu. Lá mọc đôi, thường mềm ỉu, hình trái xoan hay bầu dục thon, dài 10 – 13 cm, gân phụ có từ 6 đến 7 cặp, mép có răng hay khía tai bèo; các lá cùng một đôi thường không bằng nhau. Hoa mọc so le hay mọc đôi, xếp thành bông ít hoa, các bông này lại xếp thành chuỳ, các lá dài nhon, tràng hoa màu lam đến tím, cuống dài 3 – 3,5 cm, phía trên loe ra. Ra hoa kết quả vào tháng 11 – 12, quả nang dài và không có lông. Cây chàm thường được dùng lá và bột chàm. Trong đó, lá chàm có tên khoa học là Folium Strobilanthis Cusiae, thường gọi là mã lam. Bột chàm: có tên khoa học là Indigo Naturalis, thường gọi là thanh dại.Thành phần hoá học của lá chàm chứa 0,4 – 1% indican. Khi thuỷ phân thì indican cho indoxyl và gluse. Khi cao chàm bị oxy hoá, indoxyl cho indigotin. Indigotin có màu xanh lam xẫm. Đó chính là chất mà chúng ta vẫn gọi là cao chàm. Cây chàm không kén đất nên nó có thể được trồng ở nhiều nơi như vườn nhà, trên các mảnh nương riêng hay xung quanh các hàng rào của mỗi gia đình. Đất trồng chàm không cân phải làm kỹ, thường chỉ cuốc vỡ một lượt là đã có thể xuống hom giống, gặp chỗ đất quá xấu mới phải bón lót hoặc bón thúc. Chàm được trồng vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 (âm lịch), đến tháng 7 hoặc tháng 8 thì thu hoạch. Trong suốt thời kỳ sinh trưởng, cây chàm cũng được làm cỏ 1 – 2 lượt. Khi thu chàm, người ta sẽ lựa ra một số cành đem giâm vào nơi đất ẩm để làm giống cho vụ sau. Ngoài giống chàm trên, trong vùng cư trú của người Mông ở Cát Cát còn có một loại chàm mọc tự nhiên, chúng tôi tạm gọi là chàm dại, hay chàm quả nhọn vì loại chàm này có quả nhọn. Người Mông thì gọi nó là xà chàm. Loại cây này có tên khoa học là Indigofera galegoid, thuộc họ đậu – fabaceae. Đây là loại cây bụi cao 1 – 3 m, cành trải ra, có góc. Lá mọc đối, hình trái xoan thuôn, chóp lá cứng, hai mặt lá rải rác có lông, cụm hoa ở nách lá cao 6 – 11 cm, cuống hướng lên rồi gập xuống. Hoa mọc sát nhau, tràng màu hồng. Quả xếp san sát, hướng lên trên, dài 4 – 7,5 cm, có lớp lông mỏng và thưa, nhiều hạt. Cây lanh dại ra hoa vào tháng 4 hàng năm. Lá cây chàm dại có tên khoa học là Folium Indigofera, có thể dùng để nhuộm. Khi ngâm, lá toát ra mùi acid cyanhdric mạnh. Dân gian dùng làm thuốc chữa nở loét chân tay và diệt chấy rận. Loại chàm này mọc hoang rất nhiều nơi trong và ngoài khu vực cư trú của thôn nhưng nhuộm không tốt nên ít được dùng, chỉ dùng khi không còn thuốc nhuộm làm từ loại chàm trồng kể trên. Quy trình chế biến chàm thành thuốc nhuộm của người Mông ở Cát Cát như sau: Đến mùa thu hoạch (tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch), cả thân và lá chàm được cắt về ngâm với nước sôi để nguội trong các thùng gỗ lớn. Cứ một ôm chàm (khoảng 3 – 5 kg) thì người ta lại ngâm trong một thùng nước. Khoảng 3 – 5 ngày sau, khi màu chàm đã tan hết trong nước mới vớt bã ra rồi cho vôi và nước lọc tro vào, quấy đề lên. Khi dung dịch chàm – vôi đã lắng đọng xuống đáy thùng, người ta chắt hết nước đi rồi dùng rá hoặc vải dầy lọc cho kiệt nước, lấy bột đem phơi khô trong bóng râm khoảng 10 ngày thì thành cao chàm (côv mêv). Ngoài cách làm trên, trước đây, người Mông ở Cát Cát còn có một cách khác (ít phổ biến hơn) để làm cao chàm. Sau khi rửa sạch, người ta đem vò nát và ngâm chàm vào thùng gỗ khoảng một tuần thì vớt cây ra, đổ nước đó đi rồi cho cây khác vào ngâm tiếp, lần này ngâm lâu hơn (từ 1 – 2 tuần), đổ thêm một ít rượu vào ngâm để kích thích quá trình lên men. Sau khi vớt bã ra, bên dưới thùng đọng lại một lớp bột chàm màu đen là được. Để pha cao chàm, người ta đun sôi nước pha với tro bếp (tốt nhất là loại tro đốt từ than gỗ loài tống quá sủ vì gỗ này nhẹ nên tro mịn, không bị sạn) rồi lọc lấy nước trong cho vào thùng, đổ cao chàm vào, cứ một thùng gỗ cao khoảng 1,2 m; đường kính khoảng 80 cm cần 4 bát tô chàm. Vào mỗi buổi sáng, người ta lấy một thanh gỗ dài đảo cao chàm và nước lên cho đến khi thấy sủi bọt. Ngày nào cũng đảo như vậy cho đến khi thấy trong thùng nước có màu sữa cao cao là có thể nhuộm được. Nếu đảo mãi mà không có màu như vậy thì lấy khoảng 4 gam gạo nếp cẩm, 3 – 4 cành cây chàm lá đỏ (gangx laz) thái nhỏ nấu cháo. Sau đó đổ cháo đó vào thùng chàm đảo đều lên cho đến khi có màu sữa ca cao là được. Trong quá trình nhuộm nếu không thấy vải có màu thì cho thêm một chén rượu vào đánh lên (cũng có thể cho thêm rượu và ngay khi nấu cháo cây chàm đỏ). Trước khi nhuộm vải, bao giờ người ta cũng nhúng qua nước lã cho vải ngấm nước đều, rồi mới nhúng vào ngâm trong thùng nước chàm khoảng 30 phút đến 1 giờ, sau đó mới vớt ra để ráo nước rồi lại nhúng tiếp, cứ như vậy đến tối thì vớt ra để qua đêm. Sáng hôm sau, người phụ nữ Mông mang vải đã nhuộm hôm trước đi giặt qua nước lã rồi đem phơi, sau đó lại cho vào ngâm tiếp. Cứ thế, 6 – 7 ngày thì vải sẽ có màu chàm đen sẫm (nếu chàm tốt) nhưng cũng có khi phải nhuộm từ 10 – 30 ngày (nếu chàm không tốt). Vì vậy, cao chàm thường chỉ để được 1 năm. Quá thời gian đó cao sẽ bị chua, khi nhuộm sẽ không ăn vào vải. - Nhuộm các màu khác Ngoài màu chàm (gồm đen và xanh lơ), vốn thuốc nhuộm cổ truyền của người Mông còn có cả mầu vàng và mầu đỏ. Màu đỏ trước đây được nhuộm từ cánh kiến hoặc một loại lá cây gọi là thuốc quả ớt (yuôx cuô txtaoz). Sở dĩ gọi như vậy là vì lá cây khi ngâm vào nước để khoảng 5 phút sau thì nước sẽ chuyển sang màu đỏ. Còn muốn tạo ra màu vàng theo truyền thống, người Mông ở Cát Cát trước đây dùng cây măng đằng - một loại cây dây leo, lá nhỏ và tròn, màu xanh bóng, không ăn được. Để nhuộm vải và sợi, người Mông dùng rễ của cây này rửa sạch, băm cho nhỏ rồi cho vào nồi đun với nước nhiều lần cho đến khi nước cây cô lại, đổ vào bát qua một tấm vải lọc, vắt ra cho hết nước. Nếu muốn màu vàng nhạt thì chỉ đun 1 – 2 lần. Nếu muốn có màu vàng sẫm hay màu da cam thì đun đi đun lại nhiều lần để cho nước bốc hơi làm giảm thành phần của nước và tăng thành phần của chất tạo màu nên càng đun, nước sẽ càng cho màu vàng sẫm. Do màu được tạo từ cây này rất bền màu nên người Mông ở Cát Cát trước đây rất thích sử dụng. Hoặc người ta cũng có thể sử dụng cây pangx châux: là một loại cây lá to, nhọn, có nhiều lông trắng, hoa mọc thành chùm mầu trắng. Loại cây này cũng dùng để tạo ra mầu vàng nhưng do mầu không bền nên ít được sử dụng. 1.3. Kỹ thuật chế tác đồ trang sức: Đồ trang sức trước đây được người Mông ở Cát Cát chế tác tại thôn hoặc đi thuê những người “thợ kim hoàn” ở thôn khác làm. Vì đây là một nghề phụ nên người “thợ kim hoàn” Mông thường đánh đồ trang sức vào lúc thu hoạch lúa gần xong hoặc những lúc thời gian rỗi rãi, thường là vào tháng 10 và tháng 11 âm lịch, gần vào đến tết của người Mông. Bộ công cụ chế tác đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát có bễ thổi (puz), lò nung (kha truz đăcl khlâuz), khuôn đúc (chzôr), nồi nấu kim loại (jak) và các loại kìm (chax), búa (châux). Những người thợ chế tác đồ trang sức đều là những người thợ rèn có tay nghề cao nên hầu hết các công cụ này đều do chính người đó tự chế tạo. Bễ thổi lò rèn của người Mông được làm bằng các loại gỗ thuộc họ khoả tử như pơ mu, thông… Các loại gỗ này nhẹ, ít bị nứt nẻ, khi đục không bị vỡ (người Mông thường gọi chúng là ntông đăngx lăng). Khi muốn làm ống bễ, người ta chọn đoạn gỗ tròn dài 1,5 m, tiết diện 25 – 30 cm. Thân bễ được khoét rỗng, thành dầy 3,5 – 5 cm. Dọc theo chiều dài đoạn ống, người ta đục một rãnh nhỏ làm đường dẫn gió vào lò nung. Hai đầu ống được bịt kín bằng 2 miếng gỗ tròn có đường kính bằng với đường kính của lòng bễ. Pít tông được làm bằng một mảnh gỗ tròn có đường kính vừa khít độ rỗng của ống bễ, dày 5 – 7 cm. Đôi khi người ta làmm bằng vải cũ có bịt lông gà; cán làm bằng gỗ hoặc tre. Hiện nay người ta làm bằng thép tròn xuyên qua một đầu nắp gỗ. Pít tông có tác dụng hút và nén gió thổi vào lò. Ống bễ được đặt ngang lò với độ cao vừa phải, sao cho người ta có thể đứng đẩy pít tông một cách dễ dàng và tiết kiệm lực nhất. Lò nung được đắp bằng đất sét, cao chừng 1 m, rộng 0,6 m; dài 0,8 m; thành lò dày 25 – 30 cm, xung quanh có ốp gỗ, đường kính miệng lò khoảng 20 cm. Nồi nấu kim loại của người Mông ở Cát Cát được làm bằng đất sét trắng trộn với cát và lông gà. Khuôn đúc làm bằng đá, có hai rãnh. Rãnh to dài dùng để đúc vòng tay, nhẫn, hoa tai. Để làm đồ trang sức, trước tiên người ta phải xếp củi, than vào lò, mồi lửa rồi kéo bễ thổi lửa. Khi than trong lò đã đượm, người thợ chính mới đặt nồi nấu trong có bạc, đồng hoặc nhôm vào đun cho nóng chảy, sau đó dùng kìm cặp nồi đổ kim loại nóng chảy vào khuôn đúc thành một thanh dẹt. Miếng kim loại này sẽ được đưa vào lò nung sau đó mới được uốn, rèn thành các loại đồ trang sức. Cuối cùng người ta dùng đục nhỏ để chạm khắc hoa văn theo ý muốn. 2. KỸ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN TRANG PHỤC 2.1. Kỹ thuật tạo dáng cho trang phục Cũng như các dân tộc khác, việc tạo dáng trang phục của người Mông ở Cát Cát vừa có mục đích làm đẹp cho con người, vừa để phù hợp với môi trường mà họ đang sinh sống, lao động sản xuất hay các hoạt động văn hoá xã hội khác. Trang phục phụ nữ là bộ trang phục phản ánh rõ nhất đặc trưng tộc người. Người phụ nữ Mông ở Cát Cát mặc áo dài rộng trùm ra ngoài váy (hoặc quần). Ở giữa thắt lại bằng thắt lưng làm tôn thêm đường cong của khuôn ngực. Áo may hai lớp, có thể thấm mồ hôi khi mùa hè, giữ ấm về mùa đông. Chiếc váy của người phụ nữ Mông được xếp nếp không chỉ tạo cho người phụ nữ có vẻ đẹp duyên dáng mà còn thuận tiện cho sinh hoạt ở môi trường núi cao như leo dốc, lên - xuống ngựa. Váy được cấu tạo bởi ba phần chính. Sau khi thêu và in sáp ong mới được ghép lại với nhau. Trong đó, kỹ thuật chiết nếp (có tới 400 – 500 nếp gấp) khiến cho váy có thể xoè rộng cộng thêm việc chất liệu tạo vải lanh đã tạo cho y phục Mông những nét rất riêng so với các dân tộc khác ở nước ta về không chỉ chất liệu mà còn cả đường nét, mầu sắc và hoa văn. Thân váy in hoa văn, gấu váy thêu và ghép nhiều hoạ tiết tạo thành các băng giải ngang rộng từ 15 – 20 cm. Phía trước và phía sau váy là hai tấm vải che thân (tạp dề) hình chữ nhật khổ 75 – 35 cm (ngày nay, tạp dề chỉ được mặc cho người chết). Hai tấm vải che thân này chính là đồ án trang trí các hoạ tiết hoa văn độc đáo và rực rỡ. Thắt lưng của phụ nữ Mông là miếng vải rộng khoảng 8 cm và dài 100 – 120 cm, đoạn giữa của thắt lưng được thêu các màu đẹp, cuốn ngang bụng, tôn thêm vẻ đẹp của phụ nữ, Xà cạp cuốn chân màu chàm nhưng dây buộc ngoài cũng thêu hoa văn nhỏ li ti. Như vậy, cả bộ trang phục phụ nữ Mông đều được điểm xuyết những dải hoa văn rực rỡ khiến cho cả bộ trang phục nổi bật lên và tạo ra đặc trưng rất riêng biệt. Cũng là mầu chàm như nhiều dân tộc khác, nhưng mầu chàm của vải lanh cứng cỏi, sắc nét hơn so với mầu chàm của vải bông hay vải sồi. Cũng là cách xếp nếp nhưng nếp váy lanh khoẻ khoắn, mạch lạc, óng ả và tươi tắn hơn. Vì vải lanh rất nặng nên mỗi khi người phụ nữ bước đi, chiếc váy chao qua, chao lại càng làm tăng thêm vẻ duyên dáng, uyển chuyển, nhịp nhàng đầy nữ tính. Sự rung rinh đều đặn của chiếc váy theo những bước chân uyển chuyển của người phụ nữ Mông kết hợp với những âm thanh phát ra từ các đồ trang sức bằng kim loại đã làm cho bộ nữ phục không chỉ giầu mầu sắc mà còn tựa hồ như những nốt nhạc nhịp nhàng, khoẻ khoắn, đều đặn như bản chất của người Mông, như tâm lý của người Mông và thị hiếu của người Mông. Khác với bộ nữ phục, bộ nam phục của người Mông giản dị, tiện lợi và phù hợp với cuộc sống sinh hoạt ở vùng núi cao, giao thông còn gặp nhiều khó khăn. Áo được may ngắn, luôn vừa vặn với người mặc, tôn thêm vóc dáng khoẻ mạnh mà gọn gàng cho người đàn ông. Chiếc quần kiểu chân què, cạp lá toạ của người đàn ông Mông với đũng rộng, ống rộng rất thích hợp với điều kiện địa hình gập gềnh, khúc khuỷu nơi đây làm cho họ có thể di chuyển dễ dàng không chỉ bằng đôi chân mà còn bằng các loại phương tiện khác. 2.2. Kỹ thuật tạo hoa văn trên trang phục Trong cách trang trí hoa văn, người Mông ở Cát Cát dùng cả ba kỹ thuật: thêu, ghép vải và in sáp ong. Quần nam không trang trí hoa văn, áo nam và nữ đều trang trí như nhau. Bộ phận được trang trí chủ yếu là ở tay áo với các kỹ thuật thêu và ghép vải. Viền cổ, nẹp áo và thắt lưng thường được trang trí bằng hoa văn thêu. Váy được trang trí bằng cả ba kỹ thuật thêu, ghép vải và in sáp ong. 2.2.1. Kỹ thuật in hoa văn bằng sáp ong Bộ công cụ để in sáp ong của người Mông ở Cát Cát hiện nay gồm có chảo đun sáp ong (jav) và các loại bút (Đar), ngòi được làm bằng đồng nên được gọi là bút ngòi đồng (Đar sưr taz) Xét về kích thước, bút có 2 loại: to và nhỏ. Xét về cấu tạo ngòi bút, bút cũng có 2 loại: loại 1 khoang bụng gọi là Đar nrơư; và loại 2 khoang bụng gọi là Đar changz zsangz. Kỹ thuật vẽ hoa văn bằng sáp ong là nhúng bút vào sáp ong (chaz mur) nấu chảy rồi vẽ lên vải mộc các hoạ tiết hoa văn. Sáp ong sẽ dính lại trên nền vải. Sau đó, người phụ nữ Mông đem tấm vải đã được vẽ sáp ong đi nhuộm chàm 15 - 18 lần cho đến khi miếng vải có được mầu như ý muốn. Những chỗ đã vẽ sáp ong thì nước chàm sẽ không thấm vào. Giặt xong, người ta cứ để thế phơi khô. Khi vải đã khô, người ta nhúng vào nước sôi làm cho sáp ong bám trên nền vải tan ra để lại những hoạ tiết trắng trên nền vải tối. Mỗi khi vẽ, người nghệ nhân tạo hình chấm bút này vào chảo sáp nóng chảy, sáp ong sẽ tràn vào buồng này. Khi nhấc bút lên, sáp người ta cầm ở tư thế cho cạnh lưỡi nằm song song với bề mặt mặt đất để sáp ong không chảy ra. Khi in, người ta nghiêng dần ngòi bút cho sáp ong chảy ra. Khi mới in, người ta nghiêng ít. Độ nghiêng cứ lớn dần tỷ lệ thuận với lượng sáp ong đã chảy ra khỏi buồng chứa cho đến khi sáp chảy hết hoặc lượng sáp không còn đủ để thể hiện hoa văn theo ý đồ người tạo hình thì người ta mới lại chấm tiếp. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, ở Cát Cát hiện nay chỉ còn 04 người còn có thể in được sáp ong. Trong đó, có 02 nghệ nhân cao tuổi là Thào Thị Sung (1960, đội III) và Sùng Thị Sao (1963, đội I). Ngoài ra, còn có 01 phụ nữ trẻ là Vàng Thị Mảo (1981, con của nghệ nhân Thào Thị Sung) và 01 thiếu nữ là Vàng Thị Me (1985, đội I). Cả 04 người này đều khẳng định từ lâu nay, người Mông ở Cát Cát đều chỉ in sáp ong trên mấy loại bút kể trên, kể cả in hoa, in chấm nhỏ, in đường xoáy, in đường kẻ, đường riềm… 2.2.2. Kỹ thuật thêu Thêu, tiếng Mông gọi là xơưs. Trang phục của người phụ nữ Mông không chỉ đẹp ở kỹ thuật cắt may mà còn rất dễ gây ấn tượng qua các mô típ trang trí và màu sắc hoa văn. Những người phụ nữ Mông ở Cát Cát thực sự là những nghệ nhân của nghệ thuật tạo hình trên vải. Họ thêu hoa văn không cần mẫu. Chỉ dùng để thêu thường là sợi tơ tằm to, vừa bền sợi, vừa bền màu. Đặc biệt, sắc màu óng luột của tơ tằm sẽ làm tăng vẻ đẹp của hoa văn, làm cho hoa văn càng thêm mượt mà. Người phụ nữ Mông ở Cát Cát có cái nhìn khái quát, giàu óc tưởng tượng, hoàn toàn dựa vào trí nhớ để thêu hoa văn. Hầu như ai cũng thuộc sẵn mẫu hoa văn mà mình thích. Họ không cần phải nhìn vào mẫu mà vẫn thêu được những hoạ tiết đẹp. Trước khi thêu, họ phải tính toán tỉ mỉ, đếm từng sợi chỉ, nhớ từng kích thước từng hoạ tiết trang trí trong toàn bộ mảng hoa văn. Vì vậy, ngay từ khâu dệt, người phụ nữ đã dệt tấm vải nền theo một kỹ thuật sao cho các sợi vải không quá xít với nhau, giành ra những khoảng cách nhỏ li ti tạo điều kiện thuận lợi cho việc đếm sợi, bố cục các hoạ tiết khi thêu. Một số khăn đội đầu của phụ nữ Mông còn được làm bằng loại vải lanh trắng dệt kẻ ô vuông bằng các sợi tím hoặc đỏ sẫm. Kỹ thuật thêu đột càng phức tạp hơn vì người ta thêu ở mặt trái của vải nhưng các hình mẫu của sản phẩm lại nổi lên ở mặt phải, đòi hỏi người phụ nữ phải thật kiên trì, cẩn thận vì nếu chỉ cần một sơ suất nhỏ, nhầm một mũi kim, tính sai một sợi vải là đã khiến cho mũi thêu bị sai lệch. 2.2.4. Kỹ thuật ghép vải Kỹ thuật ghép vải tạo hoa văn cũng được người phụ nữ Mông sử dụng để tạo thành các băng dải, các khoang vải màu khác nhau ở cổ áo, ống tay, nẹp ngực và cả khoang dài gẫu váy, vuông vải che váy (tạp dề). Kỹ thuật ghép vải không chỉ tạo ra các khoang mảng màu mà còn tạo ra các đường nét hoa văn. Trên hình chữ nhật ở cổ áo của người Mông ở Cát Cát đã xuất hiện nhiều kiểu hoa văn hình học bằng kỹ thuật ghép vải. Các đường nét hoa văn nhỏ, phức tạp ở yếm, cổ tay áo cũng đều là vải ghép. Vải ghép khá tỉ mỉ, thường là có gam màu nóng hoặc vải trắng làm riềm nhỏ bao bọc cho các hoạ tiết hoăc tự tạo thành một mô típ hoa văn riêng biệt. Người phụ nữ Mông Cát Cát sử dụng một miếng vải đỏ vàng có tiết diện nhỏ từ 0,5 – 1 cm được viền xung quanh ghép vào vải nền tạo thành các hình xếp nếp hoặc các đường viền của hoạ tiết chính. Ngoài ra, trong các kỹ thuật tạo hoa văn của người Mông ở Cát Cát còn phải kể đến biện pháp kỹ thuật ghép các hạt cườm nhựa, bạc… lên trang phục. Ở mũ áo của những đứa trẻ cầu tự, trên lưng áo của một số người già còn xuất hiện hình thức ghép gắn những đồng bạc trắng, đồng xu nhỏ, hạt cườm… tạo cho những chiếc mũ, chiếc áo này có vẻ đẹp độc đáo, rực rỡ nhưng mang đầy tính biểu tượng. Các biện pháp in sáp ong, thêu chỉ màu, ghép vải màu, ghép gắn hạt cườm nhựa, bạc… lại được khéo léo kết hợp với nhau tạo ra sự phong phú về hoa văn khiến cho mô típ tuy không nhiều nhưng được kết hợp bằng nhiều kiểu sẽ sinh ra nhiều mô típ khác. Đồng thời với các khổ vải ghép đậm, bên cạnh những đường thêu thanh mảnh tạo cảm giác hoa văn luôn biến đổi liên tục. Kết hợp với các biện pháp kỹ thuật còn góp phần tạo hiệu quả về màu sắc. Màu xanh lơ nhạt của vải in sáp ong trở thành màu trung gian, dung hoà với các màu đậm cảu vải ghép chỉ thêu. Nhờ vậy mà màu sắc, đường nét mô típ của hoa văn có sự chuyển động khá phong phú, vui mắt. 2.3. Hoa văn trên trang phục Hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát có các mô típ sau: - Hoa văn hình núi hay còn có thể gọi bằng các tên gọi khác như hoa văn hình rẻ quạt, hoa văn hình răng cưa, hoa văn hình gấp khúc song song (nar kơ) xuất hiện trên váy, áo, tạp dề. - Hoa văn hình chấm tròn to nhỏ khác nhau: xuất hiện trên thân váy. - Hoa văn những đường gạch dài song song hay cũng có thể gọi là những đường thẳng song song (cêr nđangx) xuất hiện trên áo và tạp dề và váy. - Hoa văn là những đường gạch ngắn song song thường là những đường chỉ khâu thưa mũi trên tạp dề. - Hoa văn hình dích dắc hay còn gọi là hồi văn trên váy, áo, tạp dề. - Hoa văn hình ô trám xuất hiện ở nhiều đồ án trang trí hoa văn trên áo, váy, tạp dề. - Hoa văn hình đồng tiền thủng giữa: xuất hiện trên váy, tạp dề. - Hoa văn hình chong chóng xuất hiện trên áo, váy và tạp dề. - Hoa văn hình xoắn ốc: trên áo dài tay nữ, trên thắt lưng dùng trong lễ hội và trên khăn gối đầu dành cho người chết. - Hoa văn hình người được trình bày cách điệu từng bộ phận cơ thể con người như hình tai người (sáy lảo dề) trên tạp dề, hình bàn chân trang trí trên chân váy. - Hoa văn hình gà được trang trí trên ống tay áo, tạp dề phụ nữ với các bộ phận như móng chân gà (lầu trâu kêx), cựa gà, mào gà… - Hoa văn hình chim (lâuk mơx nôngz) xuất hiện nhiều trên ống tay áo, chân váy, tạp dề. - Hoa văn hình con cua (lâuk cưx dênhk) xuất hiện khá nhiều trên áo, váy, tạp dề. Hoa văn này còn là biểu tượng cho sấm chớp. - Hoa văn hình con ốc hay còn gọi là ốc rồng (kưx zong) xuất hiện nhiều trên vải của người Mông ở Cát Cát (trên thân váy, thắt lưng, tạp dề). - Hoa văn hình hoa cúc (păngx sur nhes) xuất hiện trên chân váy, tạp dề thêu bằng chỉ màu thành từng cặp đôi. - Hoa văn hình hoa đào (păngx txi đnô) xuất hiện khá nhiều trên áo, váy, tạp dề và là mô típ hoa văn chính ở trên nhiều đồ án. - Hoa văn hình hoa bầu (păngx tâuz) xuất hiện khá nhiều trên vải, thường được trang trí làm nền cho các mảng đồ án hoa văn chính. - Hoa văn hình hoa tỏi (lâuv blaiz) xuất hiện rất nhiều và là mô típ hoa văn chủ đạo của nhiều mảng hoa văn trên vải từ váy, khăn, thắt lưng, tạp dề. - Hoa văn hình hoa dưa (pangjxđij): là những hình kỷ hà ghép lại thành hoa bốn cánh. - Hoa văn hình con bướm: gồm 2 tam giác quay đỉnh vào nhau hoặc đường nét uốn cong theo dáng hình của con bướm. - Hoa văn hình lá cây là những tam giác lồng vào nhau hay những đường vạch chằng chịt. - Hoa văn hình con tằm: thường là hình 2 vạch chéo nhau giống như hình dấu nhân. - Hoa văn hạt đậu tương (tâuv pâuz): là 3 chấm tròn nhỏ hoặc hình 3 dấu nhân. - Hoa văn hình con hến (zês): có hình lục giác, trong có 3 chấm nhỏ và thường chỉ in bằng sáp ong. - Hoa văn hình con chó nằm ngủ (đêr puv): là những đường thẳng vuông góc và những đường gấp khúc kết hợp với nhau tạo thành hình gần giống hình thoi với những ngoặc lớn hướng ra ngoài. - Hoa văn hình con hến (zês): có hình lục giác, trong có 3 chấm nhỏ. Hoa văn của người Mông ở Cát Cát được trang trí chủ yếu trên tay áo, lưng áo, cổ áo, váy, địu trẻ em và khăn gối đầu cho người chết. Hoa văn trên váy có bố cục thành các dải, ở giữa có phần chuyển tiếp mà phổ biến nhất là các đường dích dắc, chân và thân váy thường có bố cục theo chiều ngang. Trong mỗi dải hoa văn, thông thường ở giữa là hoạ tiết hoa văn thêu chủ đạo khổ lớn, ngoài rìa có các dải hoa văn thêu nhỏ hẹp bao bọc. Các hình hoa 4 cánh hoặc móc câu thường được đóng khung trong ô hình chữ nhật, hình vuông hoặc hình thoi với kiểu trang trí hoa văn chạy theo những dải ngang hoặc ô của váy, với những hoạ tiết nhỏ hơn. Đó là những hoa văn hình chôn ốc, hình con hến, con bướm, con gà, hoa dưa, hoa bí, cây dương xỉ, cây thông, hạt đậu, con sâu, khuỷu chân, bờ ruộng, dãy núi…. Ở phần thân váy sát với gấu váy là nơi tập trung nhiều mầu sắc và phương pháp trang trí hoa văn: được tạo bởi kỹ thuật thêu chéo mũi và ghép vải khiến cho người ta có thể mở rộng đề tài và bố cục mầu sắc. Hoa văn được thể hiện bằng nhiều cách thêu trên váy thường có các hình ngôi sao, đồng tiền, hạt đậu, con tằm, cái cuốc, móng chân trâu… Các phần ghép vải tạo thành những đường viền bao quanh các chi tiết hoa văn. Về mặt bố cục, các mô típ hoa văn hình học hầu như chỉ có tác dụng làm nền cho các hoa văn chính và có thể ví chúng như một cái khung cho một bức tranh khiến cho khối hoa văn chính trở lên nổi bật, rõ nét. Ở trên nền vải, người ta thường dùng hoa văn hình học để làm đường viền cho các hoa văn hình hoa cúc, hoa hướng dương, hoa đồng tiền, chữ thập... Các băng hoa văn không bị cắt khúc mà chạy liên tục theo quy luật cân đối, chạy song song tạo thành các đường diềm ở trên và dưới với từng ô vuông để miêu tả các loại hình hoa văn hay có sự kết hợp tạo thành những tổ hợp hoa văn hoa văn hình trám xen với mô típ đường thẳng song song; tổ hợp hoa văn hình chữ S xen giữa mô típ hoa văn hình răng cưa; tổ hợp hoa văn hình đồng tiền xen giữa các đường gạch dài… Những mảng trang trí thường là đường diềm thể hiện bằng các kỹ thuật in sáp ong, ghép vải mầu và thêu chỉ mầu. Những mảng hoa văn chính thường là rộng, nét đậm và dầy hay ghép vải với nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau nhưng vẫn đạt hiệu quả về màu sắc. Đặc điểm của hoa văn trên trang phục của người Mông ở Cát Cát là một đồ án bao gồm nhiều mô típ hoa văn khác nhau nhưng được phân ra chính - phụ rõ ràng. Ở nhiều trường hợp, trên đồ án hoa văn không chỉ có một mô típ chính mà có sự kết hợp giữa nhiều mô típ khác nhau, cùng nhau đóng vai trò chủ đạo. 2.4. Nghệ thuật xử lý màu sắc trên trang phục Với một bảng màu không rộng (chàm sẫm thành đen, đỏ, vàng, trắng, xanh lơ), người phụ nữ Mông ở Cát Cát đã kết hợp một cách hết sức tài tình, khéo léo và tỉ mỉ để tạo nên một tổ hợp những gam màu bắt mắt nhưng không chói. Để tạo được màu chàm sẫm, người ta phải tiến hành nhiều công đoạn, từ luộc sợi lanh với tro được đốt ra từ loài gỗ “tống quán sủ”, ngâm sợi trong nước chàm và củ nâu nhiều lần. Để làm tăng thêm độ bóng, họ miết sáp ong vào vải và mài lên đá. Màu đỏ trước đây được nhuộm từ cánh kiến hoặc một loại lá cây gọi là thuốc quả ớt (yuôx cuô txtaoz). Sở dĩ gọi như vậy là vì lá cây khi ngâm vào nước để khoảng 5 phút sau thì nước sẽ chuyển sang màu đỏ. Còn muốn tạo ra màu vàng theo truyền thống, người Mông ở Cát Cát trước đây dùng cây măng đằng - một loại cây dây leo, lá nhỏ và tròn, màu xanh bóng, không ăn được. Để nhuộm vải và sợi, người Mông dùng rễ của cây này rửa sạch, băm cho nhỏ rồi cho vào nồi đun với nước nhiều lần cho đến khi nước cây cô lại, đổ vào bát qua một tấm vải lọc, vắt ra cho hết nước. Nếu muốn màu vàng nhạt thì chỉ đun 1 – 2 lần. Nếu muốn có màu vàng sẫm hay màu da cam thì đun đi đun lại nhiều lần để cho nước bốc hơi làm giảm thành phần của nước và tăng thành phần của chất tạo màu nên càng đun, nước sẽ càng cho màu vàng sẫm. Do màu được tạo từ cây này rất bền màu nên người Mông ở Cát Cát trước đây rất thích sử dụng. Hoặc người ta cũng có thể sử dụng cây pangx châux: là một loại cây lá to, nhọn, có nhiều lông trắng, hoa mọc thành chùm mầu trắng. Loại cây này cũng dùng để tạo ra mầu vàng nhưng do mầu không bền nên ít được sử dụng. Như vậy, bảng màu của người Mông không rộng nhưng với sự khéo léo, tài tình của người phụ nữ vẫn gây cho người xem một cảm giác choáng ngợp về màu sắc. Màu chàm sẫm là màu nền và hầu như chỉ dùng làm nền cho hoa văn trang trí. Tuy nhiên đôi khi vẫn có một chút diềm mỏng màu chàm chạy song song với với diềm trắng ở dải hoa văn chính. Chỉ cần một chút như vậy thôi nhưng hiệu quả của nó thật bất ngờ bởi nó đã thể hiện được ý đồ của người nghệ nhân tạo hình dân gian trong việc tôn dải hoa văn, tô đậm thêm cho nền màu sắc rực rỡ của hoa văn. Có một điều rất dễ nhận thấy trên nền vải của người Mông ở Cát Cát là màu đỏ luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Trên chiếc váy, màu đỏ cứ rực lên ở gấu váy. Màu đỏ trên hai miếng tạp dề (mặc cho người chết) càng nổi bật ngay giữa thân váy. Màu đỏ lấp loáng ở cổ, ở hai ống tay áo. Các hoạ tiết chính cũng mang màu đỏ hoặc vàng. Ngay cả những tấm vải ghép các hoạ tiết phần lớn cũng là màu đỏ. Thông thường, việc đặt màu đỏ trên nền chàm xẫm (gần như đen) sẽ khiến cho màu đỏ bị giảm sắc độ, đỏ sẽ không tươi mà bị sẫm lại, bị chìm vào nền chàm. Nhưng lạ thay, màu đỏ ở váy, ở áo của người Mông ở Cát Cát vẫn cứ sáng bừng lên. Để đạt được hiệu quả đó, người phụ nữ Mông không chỉ dùng màu đỏ làm hoạ tiết hoa văn mà còn làm màu nền cho dải chứa các hoạ tiết. Màu đỏ trở thành một thứ nền trung gian đặt trên nền cơ bản của màu chàm. Màu đỏ trung gian này có tác dụng ngăn chặn nền chàm hút mất hoạ tiết hoa văn. Đồng thời ngay trên các dải hoa văn có nền đỏ ấy lại có diện tích lớn tạo thành các bằng dải dày và đậm, lấn át, chiếm chỗ nền chàm. Cùng với đặc điểm của bố cục tập trung các dải thành khối dày, màu đỏ cứ rực lên, loang rộng ra, thu hẹp diện tích màu chàm. Trên tấm váy, màu chàm bị lấn át dữ dội: chẹn phía trên là dải ngang có màu đỏ, vàng của thắt lưng, chẹn phía dưới là dải hoa văn đỏ của gấu váy. Ngay ở giữa lại rừng rực các dải đỏ dọc dày án ngữ. Cả phía sau váy cũng vậy. Thế là sắc chàm chỉ còn có ở hai bên váy. Chưa hết, ngay ở vị trí thu hẹp ấy, nền chàm còn bị xé nhỏ đi bởi các hoạ tiết in sáp màu xanh lơ kết thành các dải dọc chất chồng. Chất rực rõ càng tăng thêm nhờ sự phố hợp với màu vàng tạo thành những gam màu nóng được phát huy tối đa hoặc để cho màu vàng, màu trắng nổi bật trên nền đỏ trung gia, trên nền chàm đen. Chất rực rỡ còn được tăng thêm nhờ tơ tằm óng mượt, lấp loáng trên các băng giải dọc ngang. Quả là nhờ có các diểm vải trắng nhỏ ghép với hoạ tiết đỏ, bao bọc lấy hoạ tiết vàng mà màu đỏ, màu vàng được tôn lên không bị nền chàm sẫm đánh chìm. Đôi khi, các hoa văn ở gấu váy, ở ống tay, cổ áo lại loé lên trên nền đỏ trung gian hoặc nền chàm đen thẫm tạo ra cho người ta có cảm giác choáng ngợp, tạo hiệu quả vui nhộn cho thị giác. Hiệu quả xử lý bố cục hoa văn và màu sắc trên trang phục, nhất là trang phục phụ nữ của người Mông ở Cát Cát đã thấy rõ. Nó rực rỡ và cố tình vượt lên sắc xanh của thiên nhiên đẻ tôn con người trước khung cảnh của núi rừng. Làm được như vậy là do người nghệ nhân tạo hình daâ gian đã sử dụng một số biện pháp khác nhau như sau: Một là, sử dụng phối hợp nhiều biện pháp kỹ thuật tạo hoa văn gây cảm giác mạnh (cả ghép vải, in sáp ong và thêu chỉ màu). Hai là, bố cục tập trung thành dải dày nhằm tạo ra các dải dọc và dải ngang lớn chồng chất hoa văn. Ba là, màu đỏ được sử dụng làm màu chủ đạo, vừa làm màu nền trung gian vừa tạo các hoạ tiết chính. Bốn là, sử dụng phối hợp màu đỏ với màu vàng và màu trắng nhằm đối chọi với nền chàm tạo nên sắc rực rỡ của hoa văn trang phục. Nhờ các biện pháp trên mà bộ trang phục của người phụ nữ Mông ở Cát Cát không điệp vào thiên nhiên mà trái lại nổi bật khỏi sắc màu thiên nhiên. Trên tấm áo nền chàm sẫm, hoa văn rực rỡ ở cổ áo, nẹp ngực và ống tay cùng với độ sáng lấp lánh của vòng cổ tay, vòng cổ, hoa tai càng làm tôn sắc hồng sáng bừng lên những khuôn mặt thiếu nữ, làm điểm tô cho những cổ tay tròn lẳn, làm uyển chuyển cho những bước chân nhịp nhàng. 3. NGHỆ THUÂT TẠO HÌNH VÀ TRANG TRÍ DÂN GIAN TRÊN TRANG PHỤC TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƯỜI PHỤ NỮ MÔNG Ở CÁT CÁT Trang phục của người phụ nữ Mông không khoe vẻ đẹp cơ thể qua kỹ thuật cắt may làm nổi rõ đường nét thân hình mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp ở các mô típ trang trí và màu sắc hoa văn. Người phụ nữ là tác giả của nghệ thuật tạo hình trên trang phục. Cả cuộc đời gắn bó với công việc thêu, dệt vải và in hoa văn. Những em gái mới 9 – 10 tuổi đã được các bà, các mẹ, các chị dạy cho cách thêu thùa. Điều này được phản ánh qua dân ca Mông với đoạn: Lớn lên anh theo cha đi cày nương Theo anh vào rừng săn thú Lớn lên em theo mẹ tập thêu Theo chị nhuộm chàm, in hoa văn trên váy mới (Luz sêi tix thaz nav txir muôngl leix têz Thaz tix muôngl cu jiông tuô nangl nôngr Luz sêi cưr thaz nav shauv xơưk lauk Thaz muôv trâuk gangx rangx pangx sau taz yaz) Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ Mông không tiếc thời gian, làm ngày, làm đêm thêu nên bộ váy áo cưới cho mình. Tập quán pháp của người Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của người phụ nữ Mông qua khả năng thêu thùa, qua bộ trang phục mặc trong lễ cưới. Tục ngữ Mông đã đánh giá đúng vẻ đẹp của người phụ nữ: Muốn biết người tốt xem gác bếp Muốn hay người đẹp xem quần áo (Xangr pâuz nênhs jông zuôr sêiz sau ntangz Xangz jông nênhs quangl zuôr sêi yao jông) Và nghề dệt vải, tạo dáng trang phục qua kỹ thuật cắt may và trang trí hoa văn là thước đo giá trị của người phụ nữ: Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu Gái xinh không biết cầm kim là hư (Nxêik jông tri pâuz uô mangx iz lak yơưr Nxêik quangl tri pâuz chaox cungz zaos truôs) Vẻ đẹp của người vợ tương lai được quan niệm là cô gái có mái tóc xanh mượt như lông chim bồ câu, hai tay thon và mập để cầm cho được cái cuốc và đặc biệt là phải khéo léo như trôn con ốc khi thêu thùa. Người giỏi thêu thùa được cả cộng đồng đề cao, coi trọng. Những đêm trăng thanh gió mát hay bên bếp lửa hồng, từng tốp các cô gái quây quần bên nhau học thêu, truyền dạy kinh nghiệm in sáp, tạo mẫu, ghép vải mới… Các hình thức giúp đỡ truyền nghề này góp phần cho nghệ thuật thêu, ghép hoa văn phát triển. Trước khi đi làm dâu, cô gái được mẹ tặng cho bộ váy áo như của hồi môn. Khi về nhà chồng, cô gái lại phải chuẩn bị bộ váy áo đẹp tặng mẹ đẻ và mẹ chồng. Váy thêu đẹp trở thành tài sản của ngưòi phụ nữ. Người phụ nữ giàu có là người phụ nữ có nhiều váy đẹp, có nhiều đồ trang sức quý. Và khi khách quí đến ngủ ở gia đình, người khách sẽ được chủ nhà cho đắp chiếc váy có nhiều hoa văn. Khi đã thành người vợ, người mẹ, người phụ nữ Mông vẫn tiếp tục thêu, in nhiều mẫu hoa văn, lo cho chồng con mặc đẹp. Hạnh phúc của mỗi gia đình, niềm vui của mỗi cặp vợ chồng được phản ánh ngay trong bức tranh sinh hoạt: người vợ ngồi thêu, chồng thổi khèn, giúp vợ tận tình trong việc thêu thùa: Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy Đầu nhà là nơi anh thổi sáo, múa khèn Em thêu váy mới không có sáp anh ra chợ kiếm Em in hoa mới, không biết đường anh cầm que vạch giúp (Taol kangz trê zaos qơư lênhx muôl nhaoz sơưk taz Taol ntêx trêr zaos qơư lênhx tangz yur trangx, tơưk kênhx Cur lênhx muôl sơưk taz yaz tsi muôx rangx, lênhx tangz txus caz tsaor Lênhx muôl rangx pangx yaz tsi pâuz cêr, lênhx tangz khơưk pangl pangz kê) Người vợ trở thành người mẹ lại có nghĩa vụ dạy bảo con cái học thêu. Đồng thời con gái lại được mẹ chồng, đôi khi cả các chị dâu nhiệt tình dạy thêu thùa, in sáp ong. Cô học thêm được nhiều mẫu thêu, in hoa văn mới của cộng đồng Jiao mới. Vừa kế thừa nghệ thuật thêu thùa gia đình nhà mẹ đẻ, cô lại tiếp thu nghệ thuật trang trí hoa văn của gia đình, dòng họ nhà chồng. Nghệ thuật in, thêu hoa văn tiếp tục phát triển. Trở về già, người phụ nữ lại lo thêm bộ váy áo đẹp để mặc khi về với tổ tiên. Cứ như vậy, cùng với chu kỳ đời người phụ nữ, nghệ thuật trang trí hoa văn như những tín hiệu văn hoá được bảo lưu, trao truyền qua nhiều thế hệ. Bản sắc văn hoá tộc người trên trang phục qua đó mà được giữ gìn và phát triển liên tục. Dòng đời các người phụ nữ Mông cứ trôi qua nhưng dòng hoa văn thì cứ chảy mãi theo những bàn tay tài hoa của họ. Và, những tri thức của họ trong nghệ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục được trao truyền cho các thế hệ cứ còn mãi với thời gian. 4. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN CÁC MẪU HOA VĂN VÀ MÀU SẮC TRÊN TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT HIỆN NAY 4.1. Ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới các mẫu hoa văn và màu sắc truyền thống của người Mông ở Cát Cát Trong những năm gần đây, du lịch phát triển mạnh mẽ ở Sa Pa nói chung, thôn Cát Cát nói riêng kéo theo sự phát triển của các mặt hàng thủ công truyền thống phục vụ du lịch, trong đó có các sản phẩm dệt may. Điều này đã dẫn đến nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đi thu mua các sản phẩm dệt may đem về đô thị trưng bầy, bán cho khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài. Bên cạnh đó, được sự giúp đỡ của một số tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, những người thợ có tay nghề cao đã sản xuất ra các mẫu mã mới dựa trên các kỹ thuật thủ công truyền thống, hoặc mua các sản phẩm sản xuất công nghiệp dựa trên các mẫu mã truyền thống để bán cho khách du lịch. Sự phát triển này mang lại một nguồn thu quan trọng cho người phụ nữ. Theo ước tính, mỗi năm, thu nhập của những người phụ nữ tham gia hoạt động này có thể lên tới vài triệu đồng, tương đương với mức thu nhập của cả một gia đình làm nông nghiệp. Do đó, đã bắt đầu hình thành một lớp thợ chuyên sản xuất và buôn bán các mặt hàng thủ công theo tổ chức hoặc tự phát. Tuy nhiên, do hoạt động du lịch chỉ mang tính thời vụ nên nguồn thu này cũng chưa thực sự ổn định nên họ chưa chuyên tâm tập trung sản xuất các mặt hàng may mặc thủ công truyền thống mà vẫn tham gia vào các hoạt động nông nghiệp khác. Các mặt hàng này, bên cạnh việc bầy bán cho khách du lịch tại chỗ còn do các tổ chức trong và ngoài nước thu mua đem về bán tại Hà Nội hoặc xuất khẩu ra một số thị trường ở nước ngoài (đặc biệt là các thị trường Âu – Mĩ, Australia). Hơn nữa, hiện nay, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm của người Kinh ở thị trấn huyện thay vì mua các sản phẩm của thợ thủ công đã chuyển sang chỉ thuê những người thợ thủ công này thêu hoặc in sáp ong theo những mẫu mã mà khách du lịch ưa thích rồi thuê thợ may của người Kinh may nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Các sản phẩm thủ công truyền thống của người Mông ở Cát Cát trong đó có các sản phẩm may mặc chưa thực sự được trả thoả đáng với công sức lao động cũng như vốn tri thức dân gian và kỹ năng, kỹ thuật thực hiện các công đoạn làm thành sản phẩm mà đồng bào đã bỏ ra nên vẫn sảy ra tình trạng phổ biến là mua rẻ bán đắt. Nói theo cách của giới tiểu thương người Kinh ở thị trấn Sa Pa là phải khống chế giá mua vào và “chặt chém” khách vãng lai (khách du lịch). 4.2. Những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn các mẫu hoa văn và màu sắc truyền thống của người Mông ở Cát Cát Một là, do điều kiện xã hội thay đổi; xã hội hoá, toàn cầu hoá và du lịch phát triển nhanh trong những năm gần đây ở Cát Cát nói riêng, Sa Pa nói chung làm cho đời sống xã hội của người Mông ở thôn Cát Cát đã bị đảo lộn với tốc độ ngày càng tăng. Con người ngày càng được tiếp xúc nhiều với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại; công nghệ thông tin cũng đã đến và nó đã mở rộng tầm hiểu biết của đồng bào về thế giới xung quanh. Bên cạnh đó, hàng ngày, qua giao tiếp, sách báo, phim ảnh… đồng bào được biết tới nhiều phong cách ăn mặc khác nhau trong kiểu dáng và trang trí hoa văn trên vải và trên trang phục. Sự nhạy cảm với cái đẹp, với cái tiện lợi đã làm thay đổi cái nhìn, quan niệm của mỗi người trong việc lựa chọn cái mặc. Đó là tính tích cực của việc thay đổi mẫu mô típ hoa văn trên vải và kiểu cách cắt may. Tuy nhiên ở đây cũng có những biểu hiện tiêu cực. Đó là tính tự ti dân tộc. Người ta dễ dàng trối bỏ những vốn văn hoá quý giá của dân tộc mình vì e ngại mình kém cỏi hơn. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc không có nghĩa là bê nguyên si cái cũ vào hiện đại mà phải làm thế nào để đồng bào tôn trọng, tự hào với những gì thuộc về dân tộc mình. Hai là, sự xâm nhập của kinh tế hàng hoá ngày càng sâu rộng vào đời sống kinh tế - xã hội của người Mông ở Cát Cát đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt đời sống nơi đây. Đồng bào đã bắt đầu bước ra khỏi tập quán tự sản tự tiêu, nhận thức về hiệu quả kinh tế rõ ràng trong công việc đã dẫn đến việc lựa chọn những sản phẩm vải, kiểu dáng trang phục và hoa văn thích hợp. Ba là, sự thay đổi về thị hiếu thẩm mỹ trong việc cảm thụ giá trị nghệ thuật trên trang phục của người Mông nơi đây. Vì vậy, đồng bào không e ngại khi dùng vải bông hay vải công nghiệp để thay thế dần cho vải lanh sẽ giảm bớt cường độ lao động cho người phụ nữ để họ có thể chuyên tâm vào các công việc khác. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của giao thông, của du lịch và dịch vụ thương mại ngày một tăng đã tác động rất lớn vào sự biến đổi của đời sống xã hội người Mông ở Cát Cát, trong đó có hoa văn và sắc màu trang phục. Ba là, công nghệ dân gian truyền thống phần nào đã bộc lộ sự bất hợp lý về vấn đề thời gian quy ra hiệu quả kinh tế trong nền kinh tế hiện đại. Để làm được một bộ váy áo truyền thống, người phụ nữ Mông phải làm trong gần hai năm (19 – 20 tháng). Cụ thể như sau: - Trồng lanh trong 3 tháng. - Thu hoạch lanh và kéo lanh thành sợi trong 2 – 3 tháng. - Dệt vải để cắt may 1 bộ váy áo hết 1 tháng. - Trang trí hoa văn (in sáp ong, thêu chỉ mầu, ghép vải mầu, đính/ghép hạt cườm, kim loại) trong khoảng 12 tháng. - Khâu váy áo hết 1 tháng. So sánh với thu nhập bình quân đầu người ở Cát Cát hiện nay (≈ 500.000 đ/người/tháng) thì một bộ váy áo của người Mông ở Cát Cát sẽ phải có mức giá thành tương đương với 10 triệu đồng/bộ. Đó là chưa kể đến giá trị kinh tế của các mảnh/miếng bạc đính trên trang phục (nếu có). Trong khi đó, nếu mua nguyên liệu bán sẵn ở chợ về thì giá thành của một bộ trang phục như vậy giảm khoảng một nửa kinh phí từ việc tiết kiệm thời gian, công sức (300.000 đồng tiền vật liệu + 4.000.000 - 5.000.000 đồng tiền công trang trí hoa văn và may bằng máy khâu). Tóm lại, sự thay đổi của kiểu dáng trang phục, màu sắc và hệ thống hoa văn có bắt nguồn sâu xa từ các điều kiện khách quan như kinh tế phát triển, sự tác động của du lịch và kinh tế thị trường; và các điều kiện chủ quan mà chủ yếu là sự thay đổi về thị hiếu thẩm mĩ. Qua khảo sát thực tế của chúng tôi, quy trình sản xuất các sản phẩm may mặc của người Mông nơi đây hiện đang diễn ra trên cả bốn dạng thức như sau: 1/ Trồng lanh - chế biến sợi - dệt vải - nhuộm vải – trang trí hoa văn - cắt may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu. 2/ Mua sợi công nghiệp – dệt vải - nhuộm vải – trang trí hoa văn - cắt may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu. 3/ Mua vải công nghiệp màu trắng – nhuộm vải – trang trí hoa văn - cắt may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu. 4/ Mua vải công nghiệp màu đen hoặc một số màu khác - cắt may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu. Ngoài ra, qua khảo sát, chúng tôi còn thấy so với truyền thống trước đây, một số chi tiết trang trí hoa văn trên các sản phẩm may mặc cũng như kỹ thuật trang trí cũng có sự thay đổi. Kiểu dáng và loại hình trang phục của người mặc tuỳ theo giới tính, hoạt động xã hội cũng không còn được giữ nguyên như trước. 4.3. Một số giải pháp bảo tồn các kỹ thuật xử lý dân gian trong việc tạo mẫu hoa văn và màu sắc trang phục truyền thống của người Mông ở Cát Cát Bản sắc văn hoá dân tộc nói chung, trang phục nói riêng không phải “nhất thành bất biến” mà nó luôn biến đổi không ngừng theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Vấn đề ở chỗ là làm thế nào để trong quá trình biến đổi, bộ trang phục dân tộc Mông vẫn giữ được cái cốt cách ban đầu, giữ được phong thái và nét bản sắc riêng có của họ. Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và đánh giá ở mục trên, chúng tôi đưa ra một số giải pháp như sau: Một là, giáo dục tính tự hào dân tộc cho người Mông ở Cát Cát, đặc biệt là thế hệ trẻ. Điều này không có nghĩa là bắt buộc đồng bào phải mặc trang phục truyền thống một cách cứng nhắc. Cũng không nên giữ nguyên những quan niệm cũ như người phụ nữ cả đời chỉ gắn bó với thêu, ghép vải, in sáp ong… Hay lối tư duy kiểu duy tâm là nếu không mặc đúng bộ y phục của mình thì ma sẽ không nhận; lối tư duy kiểu bảo thủ như con gái khi về nhà chồng thì phải mang theo những bộ áo váy đựoc tự tay thêu, dệt, in… nếu không sẽ bị chê cười.v.v… mà cần phải có nhận thức đúng đắn, trân trọng những giá trị của cha ông để lại. Một dân tộc thực sự phát triển khi biết duy trì và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống một cách tự giác dựa trên nền tảng dân trí cao, khẳng định giá trị dân tộc mình trong cuộc sống đương đại bằng nét đẹp văn hoá truyền thống. Hai là, tạo ý thức, thói quen dùng hoa văn trên trang vải để cắt may trang phục truyền thống sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là trong các dịp lễ hội, cưới xin. Hiện nay, việc biến đổi về trang trí dân gian trên trang phục của người Mông ở Cát Cát chưa thực sự lớn. Vì vậy, không chỉ trong các dịp hội hè hay các dịp đại sự khác mà cả trong cuộc sống hàng ngày, đồng bào vẫn duy trì thói quen ăn vận trang phục của mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể lơ là việc tuyên truyền ý thức cho đồng bào bằng các kênh thông tin hiệu quả. Bởi lẽ, nếu chỉ đến khi nó đã mai một, đã biến tướng hoặc đã mất đi hoàn toàn mới lo khôi phục thì sẽ tốn kém rất nhiều tiền của, công sức mà tính hiệu quả chưa chắc đã được như mong muốn. Ba là, công nghiệp hoá trong quá trình tạo hoa văn trên vải với mục đích sản xuất ra những chi tiết hoặc bộ trang phục tương đương những bộ trang phục truyền thống về chất liệu, kiểu dáng, mẫu mã và hình thức trang trí nhưng giá thành hạ để đồng bào có thể chấp nhận được cả về nội dung và giá cả. Thực tế cho thấy kinh tế thị trường phần nào đã thúc đẩy một vài công đoạn trong quá trình này. Việc còn lại là tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện nốt những công đoạn còn chưa được sản xuất một cách hợp lý so với thực tế cuộc sống hiện nay. Và, một điều hết sức quan trọng đó là phải hết sức cẩn trọng trong việc chèo lái hướng đi của nội dung này để nó không đi lệch hướng. Nếu không sẽ tạo ra một hiệu quả trái ngược. Bốn là, kế thừa các kỹ thuật dân gian truyền thống vào định hướng giá trị trang phục hiện đại của đồng bào Mông ở Cát Cát. Giữ gìn và phát huy vốn tri thức dân gian truyền thống sẽ tạo nên phong cách mới trong cắt may và trang trí hoa văn trên trang phục phù hợp với cuộc sống đương đại. Không tiếp thu một chiều, bê nguyên si cái cũ vào trang phục hiện đại; nhưng cũng không hoàn toàn du nhập phong cách mới, lai căng, không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông. Năm là, khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Giải pháp này nói cách khác là biến di sản thành tài sản văn hoá. Biến những giá trị văn hoá dân gian thành nguồn lợi có thể khai thác để tạo ra thu nhập. Dùng thu nhập đó để nuôi sống con người và nuôi sống những giá trị văn hoá dân gian, tạo động lực cho sự kế thừa, phát huy và phát triển các giá trị văn hoá trong đời sống đương đại. KẾT LUẬN Nghề trồng lanh, dệt vải là hoạt động kinh tế tạo ra các sản phẩm may mặc nhằm phục vụ nhu cầu của cộng đồng dân tộc Mông trong nền kinh tế tự cấp tự túc. Hơn nữa, cùng với nghề rèn đúc, nghề trồng lanh dệt vải từ lâu đã vươn lên trở thành một nghề thủ công tinh sảo của người Mông. Những sản phẩm đặc sắc từ nghề này đã là niềm tự hào của người Mông ở Cát Cát trước đây và cả ngày nay, khi mà hoạt động du lịch đang ngày một phát triển mạnh mẽ ở địa bàn này. Trong cơ cấu kinh tế xã hội cổ truyền của người Mông ở Cát Cát, các nghề thủ công tuy không phải là ngành nghề chính, chỉ mang tính chất bổ trợ nhưng lại có vai trò quan trọng và không thể thiếu được. Các thành viên của cộng đồng người Mông, đặc biệt là phụ nữ vừa là những nông dân thực thụ giỏi việc nương rẫy, vừa là những thợ thủ công lành nghề. Thông qua trang phục có thể thấy được trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, nghệ thuật và những ý tưởng mà họ gửi gắm thông qua các hoạ tiết hoa văn trang trí trên trang phục. Cũng như nhiều ngành thủ công khác, các kỹ năng làm ra trang phục, cách sử dụng và nghệ thuật trang trí trang phục của họ được trao truyền qua các thế hệ. Đây chính là hình ảnh của một mô hình giáo dục cộng đồng góp phần bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống. Trong bối cảnh phải chịu sự tấn công mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, nhiều yếu tố của trang phục, nhiều công đoạn làm nên trang phục cũng như nhiều nét hoa văn truyền thống trên trang phục… của người Mông ở Cát Cát đã bị mai một, bị biến dạng và có nguy cơ thất truyền thì việc bảo tồn nó trước hết là nhằm bảo tồn những nét đẹp văn hoá trong quá trình hội nhập và sau đó là biến di sản văn hoá thành tài sản trong quá trình phát triển đang trở thành những vấn đề cấp bách. Để làm được điều này cần phải trải qua nhiều công đoạn và phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cấp, ngành có liên quan. Cần coi trọng quá trình nghiên cứu cơ bản để nhận diện và giải mã một cách chính xác, đầy đủ và toàn diện những yếu tố truyền thống. Đồng thời cũng cần coi trọng công tác nghiên cứu ứng dụng nhằm bảo tồn sống nghề trồng lanh dệt vải và sử dụng trang phục truyền thống trong cộng đồng dân cư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK7929 thu7853t t7841o hnh v trang tr dn gian trn trang ph.doc