Chuyên đề Lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán

Đánh giá rủi ro là một mảng công việc quan trọng và khá phức tạp vì đòi hỏi nhiều thông tin trên các mặt khác nhau về hoạt động của Công ty khách hàng. Quá trình đánh giá rủi ro của Công ty được bắt đầu bằng việc đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng, đặc biệt đối với khách hàng năm đầu tiên. trong quá trình này kiểm toán viên tiến hành tìm hiểu về lĩnh vực hoạt động của khách hàng, tình hình tài chính, các mối quan hệ với các bên hữu quan, uy tín của khách hàng trên thương trường thông qua báo chí, kiểm toán viên khác. Thông thường việc đánh giá này được thực hiện bởi những người có kinh nghiệm, thường là trưởng phòng hoặc các nhà quản lý khác. Để đạt được hiệu quả cao trong công việc thì ngay từ việc đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng, công tác quản lý và giám sát luôn được chú trọng. Khi một khách hàng đã được chấp nhận, kiểm toán viên bắt tay vào việc đánh giá rủi ro kiểm toán. Công việc đánh giá rủi ro kiểm toán bao gồm việc đánh giá rủi ro các yếu tố cấu thành nên rủi ro kiểm toán. Công việc này thường được giao cho các kiểm toán viên lâu năm nhiều kinh nghiệm và có chuyên môn giỏi thực hiện vì việc đánh giá rủi ro kiểm toán phụ thuộc rất lớn vào khả năng xét đoán và sự nhạy cảm nghề nghiệp của kiểm toán viên. Ngoài ra, để chuẩn hoá các bước công việc của kiểm toán viên, AASC thiết kế mẫu phân tích hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với số dư tài khoản và loại nghiệp vụ theo từng cơ sở dẫn liệu trên Báo cáo tài chính. Mẫu phân tích này tổng hợp những thông tin kiểm toán viên thu thập được trong quá trình tìm hiểu hệ thống kiểm soát tác động đến số dư tài khoản và loại nghiệp vụ, làm cơ sở cho kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát cho từng số dư tài khoản và loại nghiệp vụ. Nó cho phép những người làm việc của kiểm toán viên hiểu được cơ sở xét đoán mức rủi ro kiểm soát mà kiểm toán viên đánh giá. Thiết kế này làm giảm những bất đồng của Ban Giám đốc Công ty khách hàng với kiểm toán viên. Bởi vì trong một số trường hợp, Ban Giám đốc của khách hàng có xu hướng muốn kiểm toán viên đánh giá rủi ro ở mức thấp để kiểm toán viên đặt niềm tin vào hệ thống kiểm soát nội bộ, từ đó giảm bớt các thử nghiệm kiểm toán cơ bản. Nếu việc đánh giá rủi ro kiểm soát có cơ sở rõ ràng, sự nghi nghờ của Ban Giám đốc khách hàng giảm xuống, những bất đồng với kiểm toán viên vì thế cũng ít hơn. Bên cạnh đó, kết quả đánh giá rủi ro kiểm soát và rủi rủi tiềm tàng trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên được trình bày trên những biểu mẫu rõ ràng, dễ hiểu, trong đó có nói rõ lý do tại sao kiểm toán viên lại đánh giá rủi ro ở một mức độ xác định. Việc giám sát quá trình đánh giá rủi ro kiểm toán cũng được tiến hành chặt chẽ. Thông thường trưởng nhóm kiểm toán thực hiện công việc đánh giá rủi ro kiểm toán, tuy nhiên trong trường hợp công việc này được giao cho kiểm toán viên thì trưởng nhóm kiểm toán thực hiện công việc giám sát quá trình đánh giá và có chỉ đạo kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế.

doc129 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính là số tiền trong Báo cáo tài chính bị ghi tăng lên. Cũng có trường hợp các khoản tiền bị ghi giảm xuống, nhưng điều này ít xảy ra. Đối với doanh nghiệp lớn có nhiều tài khoản ngân hàng như Công ty liên doanh J-VCanFood, thường xảy ra các rủi ro là các tài khoản tiền sẽ bị “rút khống” thông qua một vài lần chuyển giữa các tài khoản ngân hàng. Việc “rút khống” bao gồm việc ghi tăng số dư tài khoản tiền của doanh nghiệp, ghi các khoản tiền gửi ngân hàng đang chuyển vào tài khoản nhận trước thời điểm cuối năm nhưng lại rút từ tài khoản chi sau khi kết thúc năm. Điều này tạo nên việc tính hai lần các khoản chuyển tiền tại thời tại thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Bên cạnh đó, Công ty liên doanh J-VCanFood có nhiều tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ, thì một rủi ro nữa là các số dư cuối kỳ sẽ được chuyển đổi sang đồng Việt Nam một cách không đúng. 2. Rủi ro kiểm toán đối với Tài khoản các khoản đầu tư ngắn hạn (Mã số 120) Rủi ro kiểm toán chính của phần này là việc ghi tăng bằng cách ghi sổ các khoản đầu tư ngắn hạn không có trên thực tế, không được ghi giảm giá theo giá thị trường một cách chính xác. Ngoài ra, còn một số rủi ro khác là các khoản đầu tư dài hạn sẽ bị vào sổ dưới hình thức các khoản đầu tư ngắn hạn. 3. Rủi ro kiểm toán đối với Tài khoản các khoản phải thu (Mã số 130) Rủi ro kiểm toán đối với các khoản phải thu là các khoản phải thu thường bị khai tăng lên để che đậy “sự thụt két”. Việc thu tiền bán hàng có thể bị các nhân thu tiền lấy đi và biên lai thu tiền có thể không được ghi chép lại. Việc làm này không thể phát hiện ra ngay được, nhưng sẽ được phát hiện ra khi số dư các khoản phải thu trên sổ sách tồn tại quá lâu khiến cho người ta chú ý tới. Tuy nhiên, các khoản này có thể được ngụy trang bằng cách lấy khoản tiền mới thu về thế vào số dư khách hàng cũ để tránh sự chú ý. Bằng cách như vậy, các khoản phải thu được phản ánh trên sổ sách là trung thực, đúng hạn và có khả năng thanh toán, nhưng trên thực tế có một số số dư bị ghi tăng và một số khách hàng nợ là không có thực. Các khoản phải thu còn có thể bị ghi tăng bằng cách tạo ra các khoản dự phòng không thích hợp cho các khoản phải thu khó đòi. Ngoài ra, còn có một rủi ro nữa đối với các khoản phải thu đó là các khoản phải thu nội bộ không được phân loại một cách đúng đắn bằng cách cộng các khoản phải thu này vào các khoản phải thu bán hàng và các khoản phải thu khác. 3. Rủi ro đối với Tài khoản hàng tồn kho (Mã số 140) Rủi ro chủ yếu đối với hàng tồn kho là hàng tồn kho bị khai tăng lên. Điều này có thể thực hiện bằng cách tăng số hàng tồn kho thực tế của Công ty vào thời điểm lập Bảng cân đối kế toán, ghi tăng giá hàng tồn kho hoặc ghi giá phí bằng giá thực tế. Bên cạnh đó, một rủi ro khác là hàng tồn kho sẽ bị phân loại sai hoặc cách giải thích không chính xác. Cách giải thích này sẽ đưa ra phương thức được áp dụng để xác định giá trị mang sang của hàng tồn kho và phải tìm ra các hàng tồn kho đựoc dùng để thế chấp hoặc không sẵn có để đem bán. 4. Rủi ro đối với Tài khoản tài sản cố định (Mã số 210) Rủi ro đối với tài sản cố định tại mỗi Công ty là tài sản cố định thể hiện trong Bảng cân đối thường bị khai tăng. Điều này được thực hiện bằng cách ghi các tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp hoặc không ghi rõ tên và chất lượng của từng tài sản cố định. 5. Rủi ro đối với Tài khoản nợ ngắn hạn (Mã số 310) Rủi ro đối với các khoản nợ ngắn hạn trên Bảng cân đối là các khoản nợ ngắn hạn bị ghi giảm xuống để che đậy sự hụt két. Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá đã nhận nhưng các khoản nợ không được vào sổ. Nói một cách khác, tiền dự định trả cho nhà cung cấp có thể bị biển thủ và được hạch toán theo một cách thức kiến mọi người tin rằng nó đã được thanh toán nhà cung cấp. Còn một rủi ro khác là nợ dài hạn đến hạn trả sẽ không được tính toán và trình bày riêng, điều này tạo nên tỷ suất thanh toán của doanh nghiệp cao hơn thực tế vốn có của nó. 6.2 Đánh giá rủi ro đối với khoản mục trên Báo cáo tài chính. 6.2.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên số dư của các khoản mục. Để đánh giá khả năng tồn tại các sai sót trọng yếu trên số dư của các khoản mục, kiểm toán viên xem xét một số yếu tố sau đây: - Bản chất, quy mô của của các khoản mục. - Mức độ trọng yếu của số dư từng tài khoản. - Các yếu tố rủi ro được xác định trong quá trình kiểm toán viên tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của khách hàng. - Các rủi ro được kiểm toán viên phán đoán qua việc thực hiện các thủ tục phân tích cho bước lập kế hoạch. - Rủi ro kiểm toán, chẳng hạn các vấn đề kỳ kiểm toán trước gặp phải hoặc khách hàng có môi trường kiểm soát yếu kém. Theo dõi quy trình đánh giá rủi ro tiềm tàng trong số dư các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán của Công ty liên doanh J-VCanFood để hiểu thêm về bước công việc này của kiểm toán viên. Bản chất, quy mô của các khoản mục: Số dư của các tài khoản chứa dựng những rủi ro bị khai tăng hoặc khai giảm so với thực tế, phụ thuộc vào bản chất của từng tài khoản. Chẳng hạn đối với tài khoản tiền, rủi ro kiểm toán chính là số tiền trong Bảng cân đối bị ghi tăng lên. Các khoản mục có số dư bằng tiền lớn thường được đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn so với các tài khoản có số dư bằng tiền nhỏ hơn. Mức độ trọng yếu của các tài khoản: Do thời gian và chi phí của kiểm toán là có giới hạn và được xác định trong hợp đồng kiểm toán nên kiểm toán viên cần phân bổ thời gian và chi phí một cách hợp lý giữa các tài khoản trọng yếu và không trọng yếu để đảm bảo hoàn thành cuộc kiểm toán có hiệu quả và đúng thời hạn. Một khoản mục được đánh giá là trọng yếu nếu số dư tài khoản này có sự biến động bất thường so với năm trước và so với các tài khoản khác. Và còn phụ thuộc và sự hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh doanh của khách hàng và khả năng xét đoán. Thông qua việc phân tích tổng quát Bảng cấn đối kế toán của Công ty liên doanh J-VCanFood, kiểm toán viên nhận thấy rằng tài khoản dự phòng cho chi phí phát sinh năm 2000 giảm 665 triệu đồng. Thông qua việc phỏng vấn, kiểm tra, đối chiếu kiểm toán viên nhận thấy rằng đối với tài khoản dự phòng cho chi phí phát sinh năm 2000 thì tuy đã kiểm tra và phỏng vấn trực tiếp phó phòng kế toán và được biết năm tài chính này thì số nợ phải thu đã được Ban Giám đốc quyết định xử lý, nhưng theo kiểm toán viên vì đây là tài khoản quan trọng nên kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ các quyết định của Ban Giám đốc. Đối với tài sản cố định hữu hình, kiểm toán viên nhận thấy năm 2002 có sự tăng lớn, qua tìm hiểu thì được biết: trong năm 2002 Công ty đã đầu tư mua sắm thêm các thiết bị máy móc hiện đại nhằm nâng công suất sản xuất sản phẩm, đưa cơ giới hoá, tự động hoá vào quá trình sản xuất sản phẩm, bao gồm: - Hệ thống thanh trùng tự động. - Máy ghép tự động an toàn sản phẩm. - Thiết bị xay nghiền, sấy luộc sản phẩm phù hợp với công nghệ mới - Hệ thống rửa và băng tải từ cho dây chuyền sản xuất đồ hộp. Tài khoản xây dựng cơ bản tăng 2,5 tỷ đồng là một số biến động rất lớn và có ảnh hưởng lớn tới tài khoản khấu hao. Thông qua phân tích khái quát đã điều tra được nguyên nhân của sự tăng này là do có một công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng Công ty chưa tạm ghi tăng nguyên giá đó nên ảnh hưởng tới giá trị khấu hao của công trình này vì vậy kiểm toán viên cần ước tính khấu hao tạm tính cho công trình để đề nghị kế toán điều chỉnh. Các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng: Dựa trên cơ sở những thông tin thu thập được về hoạt động kinh doanh của khách hàng, kiểm toán viên rút ra các nhận xét về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng như sau: - Sản xuất chế biến thuỷ sản xuất khẩu là một lĩnh vực mà sản phẩm cần phải đạt yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm cao, mặt hàng đa dạng phong phú. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu cung cấp cho sản xuất ngày càng khan hiếm do sự đánh bắt bừa bãi làm cạn kiệt. Nguồn nguyên liệu sạch ít, do tình hình sử dụng sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi không theo quy định làm tăng dư lượng thuốc kháng sinh.Việc sử dụng bừâ bãi thuốc bảo vệ thực vật cũng làm ảnh hưởng đến sự an toàn vệ sinh thực phẩm đối với nguồn nguyên liệu. - Đây là công việc mang tính mùa vụ, thời điểm. Có những vụ, đợt nguyên liệu về dồn dập nên lực lượng lao động của Công ty bao gồm cả lao động dài hạn và lao động thời vụ . - Tỷ giá ngoại tệ tăng, giảm làm ảnh hưởng đến giá thành của những sản phẩm cần tới vật tư nguyên liệu phải nhập ngoại ( bao bì, hộp sắt, hoá chất …) 6.2.2. Đánh giá rủi ro kiểm soát đối với các khoản mục trên Báo cáo tài chính Để có thể đưa ra một kết luận ban đầu về mức rủi ro kiểm soát đối với các khoản mục trên Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải dựa vào những hiểu biết đã có được về hệ thống kiểm soát nội bộ và những thay đổi trong hệ thống này so với năm trước. Từ đó, tiến hành phân tích tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trên hai mặt là thiết kế và hoạt động. Mẫu phân tích hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ cho khoản mục tiền mặt của Công ty liên doanh J-VCanFood được kiểm toán viên trình bày như sau: Bảng số 9: Phân tích hệ thống kiểm soát nội bộ Khách hàng: Công ty liên doanh J-VCanFood Kỳ kế toán : 31/12/2002 Người chuẩn bị Người kiểm tra : Tố Lan (4/1/2002) : Ngô Đạt Vinh (15/1/2002) Mẫu phân tích kiểm soát nội bộ (áp dụng đối với: Các khoản phải thu tiền mặt) Mục tiêu Kiểm soát của khách hàng Người thựchiện Đánh giá ban đầu Tham chiếu trong CTKT 1. Tất cả các nghiệp vụ cần ghi chép đã được ghichép Các khoản thu tiền không được ghi chép trong sổ cái hoặc sổ quỹ. - Hàng tháng, kiểm kê quỹ tiền mặt tại quỹ và đối chiếu với sổ quỹ tiền mặt do thủ quỹ lưu giữ. - So sánh báo cáo của ngân hàng với sổ sách của ngân hàng. Thủ quỹ: bà Phạm Thị Thắm Kế toán tiền mặt: Bà Trần Thị Hà. Kế toán tiền mặt: Bà Trần Thị Hà. Không hiệu lực (rủi ro kiểm soát) Có hiệu lực. B4 7/5 2. Các nghiệp vụ ghi chép là có thật a. Các khoản phải thu tiền mặt được kết chuyển nhiều hơn một lần sang sổ quỹ và sổ cái. - Hàng tháng kiểm kê quỹ và đối chiếu với sổ quỹ của thủ quỹ. - So sánh báo cáo của ngân hàng với sổ sách ngân hàng. Thủ quỹ: bà Phạm Thị Thắm. Kế toán tiền mặt: bà Trần Thị Hà. Có hiệu lực Có hiệu lực B4 9/5 b. Các khoản thu tiền mặt được ghi chép trong sổ quỹ không thực sự nhận được. - Hàng tháng kiểm kê quỹ và đối chiếu với sổ quỹ được giữ bởi thủ quỹ. - So sánh báo cáo của ngân hàng với sổ sách ngân hàng. Thủ quỹ Kế toán tiền mặt Có hiệu lực Có hiệu lực B4 10/5 3. Các nghiệp vụ được ghi chép đều được tính toán đúng giá trị các khoản phát sinh Bảng số 10: Bảng tóm tắt đánh giá kết quả rủi ro kiểm soát Khách hàng Khoản mục áp dụng : Công ty liên doanh J-VCanFood : Các khoản phải thu tiền mặt Ngày thựchiện: 25/1/2002 Bảng tóm tắt đánh giá kết quả rủi ro kiểm soát Những tài khoản có liên quan Mục tiêu kiểm soát Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát (Độ lớn của các thử nghiệm kiểm toán cơ bản đối với số dư đầu năm các tài khoản có liên quan) Hiệu quả - đáng tin cậy Rủi ro thấp nhất (0 - Thấp nhất) Hiệu quả - Không đáng tin cậy Rủi ro thấp (1 - Có thể phát hiện) Không hiệu quả Rủi ro trung bình (2 - Mở rộng) Không hiệu quả Rủi ro cao (3 - Ước tính) - Tạm ứng - Vốn pháp định - Đã ghi chép - Có thật - Tính chính xác cơ học - Chính xác về thời gian - Phân loại - Tổng hợp - Kết chuyển v v v v v v v Các thông tin bổ sung phục vụ cho việc đánh giá rủi ro kiểm soát. Nếu dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những thử nghiệm đã được lập kế hoạch của những thủ tục kiểm soát chủ yếu. Trừ khi được giải thích trong một phần khác, cần phải xác minh bằng tài liệu cơ sở cho việc đánh giá rủi ro ở mức trung bình nếu kiểm soát không đạt hiệu quả. Đánh giá của chúng tôi về kiểm soát của Công ty đối với hai khoản mục trên là hiệu quả và rủi ro ở mức “thấp”, sự phân tách trách nhiệm giữa thủ quỹ và kế toán tiền mặt. Tham chiếu trong chương trình kiểm toán BA2 Uỷ quyền, bảo vệ tài sản, trách nhiệm đối với tài sản của Công ty. Không có bất cứ yếu kém nào ảnh hưởng mạnh tới công việc kiểm toán hai tài khoản này. Rủi ro kiểm soát đối với các tài khoản khác được đánh giá tương tự. Việc đánh giá rủi ro kiểm soát đối với các tài khoản dựa chủ yếu vào các thủ tục đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đang tiến hành kiểm toán và những thay đổi lớn trong hệ thống này so với năm trước (nếu có). Đối với Công ty liên doanh J-VCanFood, ngoài rủi ro kiểm soát đối với các khoản chi tiền mặt được đánh giá ở mức “thấp”, khoản mục hàng tồn kho được đánh giá ở mức “trung bình” vì không có sự phân tách trách nhiệm giữa thủ kho và kế toán hàng tồn kho nhưng giá trị các nghiệp vụ xảy ra đối với hàng tồn kho là lớn, các rủi ro kiểm soát đối với các khoản mục khác cũng đều được đánh giá ở mức “thấp”. 6.2.3 Kết luận về rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện đối với các khoản mục Từ việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nêu trên, rủi ro kiểm toán đối với các khoản mục được đánh giá ở mức thấp chấp nhận được. Vì thế, các thử nghiệm kiểm toán được thiết kế theo hướng tập trung vào những khoản mục có rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ở mức trung bình. Vì rủi ro kiểm toán mong muốn là thấp ở mức chấp nhận được nên rủi ro phát hiện trong trường hợp này được kết luận ở mức thấp, do đó kiểm toán viên phải tiến hành thử nghiệm kiểm toán cơ bản đối với số dư các khoản mục ở mức sâu hơn, kỹ hơn. III. Lập kế hoạch kiểm toán cụ thể Trên cơ sở các thông tin đã thu thập được thông qua việc thực hiện các công việc trước kiểm toán và lập kế hoạch kiểm toán tổng quát, bước tiếp theo là nhóm kiểm toán của AASC tiến hành lập kế hoạch kiểm toán cụ thể cho cuộc kiểm toán theo trình tự công việc dưới đây: - Tổng hợp các rủi ro liên quan đến số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng. - Xác định phương pháp kiểm toán. - Xác định các thủ tục kiểm tra chi tiết - Tổng hợp kế hoạch và phổ biến kế hoạch kiểm toán. 1. Tổng hợp các rủi ro liên quan đên số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng Trên cơ đánh giá tính trọng yếu của các tài khoản, tìm hiểu hệ thống kkiểm soát nội bộ của khách hàng, đánh giá rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên sẽ phán đoán rủi ro chi tiết có khả năng xảy ra, cũng như các tài khoản và sai sót tiềm tàng của tài khoản có thể bị ảnh hưởng bởi rủi ro chi tiết này, phục vụ cho việc thực hiện các bước tiếp theo của giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Rủi ro chi tiết hay rủi ro chi tiết phát hiện là loại rủi ro về sai phạm có liên quan đến số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng của tài khoản đó, và được sử dụng để phục vụ cho việc thiết kế các thủ tục kiểm toán nhằm xác định xem rủi ro đó có thực sự tồn tại hay không. Sai sót tiềm tàng ở đây là sai sót có thể xảy ra đối với mỗi số phát sinh nợ hoặc có của một tài khoản. Có các loại sai sót tiềm tàng như sau: - Sai sót về tính đầy đủ: các nghiệp vụ bị ghi chép thiếu. - Sai sót về tính có thật: các nghiệp vụ được ghi chép không chính xác. - Sai sót về tính đúng kỳ: các nghiệp vụ được ghi chép không đúng kỳ. - Sai sót về đánh giá: Tài sản hoặc công nợ bị đánh giá sai. - Sai sót về việc trình bày: các số dư tài khoản được công bố trên Báo cáo tài chính không tuân thủ các Chuẩn mực kế toán, các quy định kế toán, như việc phân loại hoặc định khoản sai Đối với mỗi tài khoản, có thể xảy ra một trong hai hướng sai phạm: số dư tài khoản bị khai báo vượt số thực tế hoặc số dư tài khoản bị khai báo thấp hơn số thực tế. Kiểm toán viên cần kiểm tra mỗi tài khoản về cả hai hướng này. Tuy nhiên, theo nguyên tắc ghi sổ kép của kế toán, nếu một sai sót tiềm tàng xảy ra thì sẽ làm cho ít nhất 2 tài khoản bị ghi chép sai. Vì vậy, nếu kiểm toán viên thực hiện kiểm tra trực tiếp một sai sót tiềm tàng trong số phát sinh của một tài khoản thì điều này sẽ tự động tạo ra sự kiểm tra gián tiếp đối với sai sót tiềm tàng trong số phát sinh của một hoặc nhiều tài khoản đối ứng với tài khoản trên. Do đó, nếu kiểm toán viên quan tâm đến toàn bộ các sai sót tiềm tàng của cả số phát sinh nợ và phát sinh có của một tài khoản và thực hiện thủ tục kiểm toán cho toàn bộ các sai sót tiềm tàng này thì sẽ tạo ra sự trùng lắp trong kiểm toán. Để khắc phục sự trùng lắp này, kiểm toán viên AASC chỉ thực hiện kiểm tra trực tiếp việc khai báo vượt số thực tế của tài khoản tài sản và chi phí, kiểm tra trực tiếp việc khai báo dưới số thực tế của tài khoản công nợ và doanh thu. Qua đó, kiểm toán viên có thể kiểm tra toàn bộ các số dư của tài khoản trên Báo cáo tài chính một cách trực tiếp hoặc gián tiếp theo cả hai hướng của sai phạm, nâng cao hiệu suất kiểm toán. Các sai sót tiềm tàng có khả năng gây ra việc khai báo vượt số thực tế của các tài khoản tài sản và chi phí, và việc khai báo dưới số thực tế của các tài khoản công nợ và doanh thu là: - Sai sót về tính có thật của các số phát sinh Nợ: các số phát sinh Nợ được ghi sổ là không có thật. - Sai sót về việc ghi chép vượt số thực tế của số phát sinh Nợ: số phát sinh Nợ bị ghi chép cao hơn số thực tế. - Sai sót về việc ghi chép sau kỳ của số phát sinh Nợ: Số phát sinh Nợ của kỳ sau nhưng lại được ghi chép vào kỳ này. - Sai sót về tính đầy đủ của số phát sinh có: số phát sinh Có bị ghi chép thiếu. - Sai sót về việc ghi chép dưới số thực tế của số phát sinh Có: số phát sinh Có bị ghi chép thấp hơn số thực tế. - Sai sót về việc ghi chép trước kỳ của số phát sinh Có: số phát sinh Có của kỳ này nhưng bị ghi chép vào kỳ sau. Với văn phòng Công ty liên doanh J-VCanFood, kiểm toán viên đã phát hiện các rủi ro chi tiết như sau: Rủi ro về các khoản phải thu của khách hàng vượt số thực tế do khách hàng không dự phòng thích hợp cho các khoản phải thu khó đòi. Thông qua việc xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, kiểm toán viên nhận thấy Công ty không có thủ tục để phân loại nợ theo kỳ hạn thanh toán, do vậy hệ thống kế toán của Công ty khách hàng không có khả năng phát hiện được các khoản phải thu khó đòi cần lập dự phòng. Các khoản phải thu là tài sản nên kiểm toán viên sẽ quan tâm đến việc khai báo vượt số thực tế của tài khoản này. Và vì vậy, kiểm toán viên phán đoán có thể xảy ra rủi ro về ghi tăng các tài khoản phải thu do không trích lập dự phòng thích hợp cho các khỏan nợ khó đòi. Sai sót tiềm tàng mà có thể gây ra việc khai báo vượt số thực tế của tài khoản phải thu theo phán đoán của kiểm toán viên trong trường hợp này là sai sót về việc đánh giá. Rủi ro về tài sản cố định ghi tăng so với thực tế. Khi xem xét danh mục chi tiết về tài sản cố định tăng giảm trong kỳ do khách hàng cung cấp, kiểm toán viên nhận thấy trong năm 2002 Công ty có một tài sản cố định thuê tài chính. Việc tăng tài sản này sẽ tăng chi phí khấu hao do đó kiểm toán viên cần phải kiểm tra tính hiện hữu của việc đi thuê tài chính này. Sai sót tiềm tàng mà có thể gây ra việc khai báo tăng tài khoản tài sản cố định là sai sót về tính hiện hữu, tính định giá và sự trình bày. Rủi ro về việc chi phí khấu hao của công trình xây dựng cơ bản giảm có thể do phân loại sai. Qua việc xem xét danh mục về các công trình xây dựng cơ bản dở dang tăng giảm trong kỳ, kiểm toán viên nhận thấy tài khoản xây dựng cơ bản tăng lên nhiều so với đàu kỳ là do có một công trình (nhà xưởng sản xuất) đã hoàn thành và đưa vào sử dụng nhưng Công ty chưa rạm ghi tăng nguyên giá để tính khấu hao cho công trình trên. Chính vì cách làm này nên kiểm toán viên đã dự đoán có thể khấu hao tài sản cố định đã bị phản ánh giảm so với thực tế. Rủi ro chi tiết trong trường hợp này có thể là do chi phí bị khai báo sót. Sai sót tiềm tàng mà có thể gây ra việc khai báo giảm của tài sản chi phí trong trường hợp này là sai sót về việc trình bày và sai sót về tính đánh giá. Rủi ro về tài khoản tiền gửi ngân hàng bị ghi tăng so với thực tế. Qua việc phân tích Bảng cân đối kế toán, kiểm toán viên nhận thấy tiền gửi ngân hàng của Công ty tăng lớn 2,3 tỷ, trong khi đó Công ty có nhiều tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ. Do đó, kiểm toán viên phán đoán có khả năng xảy ra rủi ro là tiền gửi ngân hàng có thể bị ghi tăng do số dư cuối kỳ của tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ được chuyển đổi sang đồng Việt Nam không chính xác. Sai sót tiềm tàng có thể gây ra việc ghi tăng của tài khoản tiền gửi ngân hàng là sai sót về tính hiện hữu tính đánh giá. Trên đây là những rủi ro liên chi tiết mà kiểm toán viên phán đoán có khả năng xảy ra dựa trên những hiểu biết của kiểm toán viên về khách hàng, một số phân tích sơ bộ và đánh giá rủi ro đã thực hiện. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên lập bảng tóm tắt sau: Bảng số: Bảng tóm tắt kết quả đánh giá rủi ro liên quan đến số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng của Công ty liên doanh J-VCanFood Stt Rủi ro chi tiết Tài khoản bị ảnh hưởng Sai sót tiềm tàng 1 Các khoản phải thu có thể bị ghi tăng. Các khoản phải thu Tính đánh giá Tính hiện hữu Tính đúng kỳ 2 Tài sản cố định bị ghi tăng so với thực tế. Tài sản cố định Tính hiện hữu Tính đánh giá 3 Chi phí khấu hao công trình xây dựng cơ bản (nhà xưởng sản xuất) ghi giảm so với thực tế. Chi phí sản xuất Tính hiện hữu 4 Tiền gửi ngân hàng ghi tăng so với thực tế. Tiền gửi ngân hàng Tính hiện hữu Tính đánh giá 2. Xác định phương pháp kiểm toán Sau khi đã xác định được rủi ro chi tiết có khả năng xảy ra, kiểm toán viên tiến hành bước tiếp theo đó là xác định phương pháp kiểm toán cho từng các sót iềm tàng của từng số dư tài khoản nhằm đạt được độ tin cậy hợp lý là các số liệu trên Báo cáo tài chính đang được kiểm toán sẽ không bị sai phạm trọng yếu và ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng thông tin trên Báo cáo tài chính. Để xác định được phương pháp kiểm toán, kiểm toán viên phải cân nhắc xem có tin tưởng và dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để kiểm toán hay không, tiếp đó sẽ lựa chọn cách thức kiểm tra và đưa ra mức độ kiểm tra chi tiết thích hợp sẽ phải tiến hành đối với mỗi sai sót tiềm tàng đang được xem xét. Rủi ro chi tiết phát hiện được Rủi ro chi tiết không được phát hiện Tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ. Không tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ. Tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ. Không tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ. Phương pháp kiểm toán Kiểm tra các bước kiểm soát nhằm giảm bớt rủi ro chi tiết phát hiện được, kiểm tra chi tiết ở mức độ cỏ bản. Kiểm tra chi tiết ở mức độ tập trung. Kiểm tra các bước kiểm soát nhằm xác định các sai sót tiềm tàng tương ứng, kiểm tra chi tiết ở mức độ đại diện. Kiểm tra chi tiết ở mức độ trung bình. Tại AASC, kiểm toán viên thường sử dụng hai phương pháp kiểm toán chủ yếu là: - Thực hiện kiểm tra các bước kiểm soát nhằm giảm bớt rủi ro chi tiết, thực hiện kiểm tra chi tiết ở mức độ cơ bản. - Thực hiện kiểm tra chi tiết toàn bộ. Việc thực hiện kiểm tra các bước kiểm soát của khách hàng được kiểm toán viên thực hiện thông qua các thủ tục là kiểm tra, quan sát, phỏng vấn và làm lại. Tuy nhíên, trên thực tế nhóm kiểm toán thường không lập kế hoạch kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ mà thay vào đó kiểm toán viên lựa chọn phương pháp kiểm toán không dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Bảng số: Phương pháp kiểm toán cho các sai sót tiềm tàng có rủi ro chi tiết phát hiện được tại Công ty liên doanh J-VCanFood Stt Rủi ro chi tiết Tài khoản bị ảnh hưởng Sai sót tiềm tàng Phương pháp kiểm toán 1 Các khoản phải thu có thể bị ghi tăng. Các khoản phải thu Tính đánh giá Tính hiện hữu Tính đúng kỳ Kiểm tra chi tiết ở mức độ tập trung 2 Tài sản cố định bị ghi tăng so với thực tế. Tài sản cố định Tính hiện hữu Tính đánh giá Kiểm tra chi tiết ở mức độ tập trung 3 Chi phí khấu hao công trình xây dựng cơ bản (nhà xưởng sản xuất) ghi giảm so với thực tế. Chi phí sản xuất Tính hiện hữu Kiểm tra chi tiết ở mức độ tập trung 4 Tiền gửi ngân hàng ghi tăng so với thực tế. Tiền gửi ngân hàng Tính hiện hữu Tính đánh giá Kiểm tra chi tiết ở mức độ tập trung 3. Xác định các thủ tục kiểm tra chi tiết Bước tiếp theo trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán cụ thể, nhóm kiểm toán tiến hành lập kế hoạch kiểm tra chi tiết cho từng số dư tài khoản cụ thể và sai sót tiềm tàng liên quan đến tài khoản đó. ở bước này, kiểm toán viên sẽ thiết lập các thủ tục phân tích cơ bản hoặc các bước kiểm tra chi tiết hoặc kết hợp cả hai hình thức này để đưa ra sự đảm bảo hợp lý cho từng số dư tài khoản và từng sai sót tiềm tàng đối với mỗi số dư tài khoản có liên quan. Kiểm toán viên có thể lập kế hoạch kiểm tra chi tiết theo một trong bốn mức độ, tuỳ thuộc vào các rủi ro chi tiết được phát hiện và mức độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá. Bốn mức độ kiểm tra chi tiết đó là: - Kiểm tra chi tiết ở mức độ tập trung: công việc này sẽ được tiến hành nếu kiểm toán viên xác định được rủi ro chi tiết liên quan đến số dư tài khoản và sai sót tiềm tàng mà không dựa vào các bước kiểm soát nhằm giảm bớt rủi ro của khách hàng. - Kiểm tra chi tiết ở mức độ trung bình: mức độ này được tiến hành nếu kiểm toán viên không xác định được các rủi ro chi tiết liên quan đến số dư tài khoản cũng như không xác định được các sai sót tiềm tàng và kiểm toán viên không tin cậy vào hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. - Kiểm tra chi tiết ở mức độ cơ bản: kiểm toán viên sẽ tiến hành công việc này khi kiểm toán viên dựa vào các quy định kiểm soát nhằm giảm bớt rủi ro chi tiết phát hiện được. - Kiểm tra chi tiết ở mức độ đại diện: được áp dụng khi kiểm toán viên không xác định được các rủi ro chi tiết liên quan đến số dư tài khoản và các sai sót tiềm tàng trong năm hiện hành, kiểm toán viên kết luận là quy trình kiểm soát của khách hàng không có hiệu quả. Để hỗ trợ cho kiểm toán viên trong việc lập kế hoạch kiểm toán chi tiết, đối với mỗi tài khoản trên Báo cáo tài chính, AASC đều có một chương trình kiểm toán mẫu trong đó bao gồm các thủ tục kiểm tra chi tiết cơ bản nhất thường được sử dụng để kiểm tra các sai sót tiềm tàng của tài khoản đó. Kiểm toán viên sẽ cân nhắc lựa chọn các thủ tục đã có sẵn trong chương trình kiểm toán mẫu đồng thời sửa đổi các thủ tục kiểm toán đã có hoặc tự thiết kế bổ sung thêm các thủ tục kiểm toán, nếu theo đánh giá của kiểm toán viên các thủ tục kiểm toán trong chương trình kiểm toán mẫu chưa bao quát hết các sai sót tiềm tàngcó liên qua hoặc chưa đủ các hướng dẫn cần thiết để phục vụ cho việc kiểm tra tính trọng yếu của tài khoản này. Công việc này không chỉ đòi hỏi kiến thức, kinh nghiệm mà cả sự năng động sáng tạo của từng kiểm toán viên trước sự đa dạng, muôn nàu muôn vẻ của mỗi cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán chi tiết tại Công ty liên doanh J-VCanFood, đối với các sai sót tiềm tàng có rủi ro chi tiết phát hiện được, nhóm kiểm toán đã cân nhắc và lựa chọn các thủ tục kiểm toán. Dưới đây là chương trình kiểm toán chi tiết được áp dụng đối với khoản mục Phải thu của khách hàng: Khách hàng Kỳ kiểm toán : Công ty liên doanh J-VCanFood : 31/12/2002 Người chuẩn bị: Tố Lan Ngày: Chương trình kiểm toán áp dụng đối với khoản mục phải thu của khách hàng Số dư khoản mục phải thu phải thu của khách hàng: Năm 2001 Năm 2002 3.950.693.482 VND 4.573.084.921 VND Các thủ tục kiểm toán cơ bản áp dụng đối cới kiểm toán khoản mục phải thu như sau: Chi tiết các rủi ro Phương pháp tiếp cận kiểm toán Các thủ tục kiểm toán cơ bản Người thực hiện Kết luận Các khoản phải thu được đánh giá tăng do việc lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi chưa phù hợp. Tiến hành tập trung vào các thử nghiệm kiểm toán cơ bản. Đánh giá các chính sách được áp dụng, kiểm tra chi tiết. Tố Lan Phạm vi các thử nghiệm kiểm soát (nếu có) và các thử nghiệm kiểm toán cơ bản đủ để đáp ứng các rủi ro đã xác định. Các khoản phải thu được trình bày sai do việc phân chia niên độ kế toán không chính xác. Tiến hành tập trung vào các thử nghiệm kiểm toán cơ bản. Kiểm tra chi tiết việc chia cắt niên độ kế toán Tố Lan Phạm vi các thử nghiệm kiểm soát (nếu có) và các thử nghiệm kiểm toán cơ bản đủ để đáp ứng các rủi ro đã xác định. Chi tiết các bước công việc trong từng thủ tục kiểm toán cơ bản áp dụng đối với kiểm toán khoản mục phải thu khách hàng: Tóm tắt các thủ tục kiểm toán áp dụng Các bước công việc Người thực hiện Các ý kiến đề xuất 1. Kiểm tra tính đúng đắn của các chính sách và thủ tục ghi nhận doanh thu tương ứng với các khoản phải thu. A. Khẳng định rằng các chính sách và các phương pháp kế toán đối với việc ghi nhận doanh thu là đáng đắn và được áp dụng nhất quán. B. Nếu doanh thu bao gồm tất cả bất cứ khoản nào sau đây khẳng định rằng chúng được tính toán một cách hợp lý trong quan hệ với các chủ thể kinh tế trong các nghiệp vụ: việc bán hàng nội bộ, việc bán hàng cho các bên liên quan, việc gửi bán, việc bán hàng nhưng chưa chuyển đi, các khoản doanh thu giảm trừ. C. Trong quá trình tiến hành các thủ tục trong chương trình kiểm toán này, cần xem xét các bằng chứng mà kiểm toán viên đã kiểm tra để bổ sung hiểu biết của kiểm toán viên về các chính sách và biện pháp ghi nhận doanh thu và tính đúng đắn của chúng. 2. Xác nhận các khoản phải thu. B. Chọn các số dư trên tài khoản khách hàng hoặc các hoá đơn mở để đảm bảo rằng tổng số khớp đúng với Bảng cân đối thử và tiến hành các bước công việc sau: 1. Chuẩn bị các Bảng yêu cầu xác nhận đối với các số dư hoặc các hoá đơn đã được chọn. Gửi các yêu cầu này tuân theo các thủ tục kiểm soát đối với xác nhận của kiểm toán viên. 2. Gửi yêu cầu xác nhận lần thứ hai tới những thư xác nhận không trả lời. 3. So sánh các câu trả lời với yêu cầu xác nhận. Chuẩn bị các bảng đối chiếu đối với trường hợp ngoại lệ.Tra ngược các khoản mục cần đối chiếu với các hoá đơn, chứng rừ gốc có liên quan. C. Hỏi các số dư bị tranh chấp. Điều tra chúng nếu cần thiết. D. Đánh giá kết quả các thử nghiệm. 3. Kiểm tra việc lập dự phòng cho các khoản phải thu khó đòi. A. Thu thập kế hoạch về việc lập dự phòng các tài khoản bị nghi nghờ đối với số dư đầu năm, số dư cuối năm, việc xoá sổ các khoản nợ khó đòi, chi phí cho nợ khó đòi. Tra ngược số dư đầu năm và các khoản chi phí cho nợ phải thu khó đòi để khẳng định rằng các khoản xoá sổ đã được phê chuẩn. B. Chọn mẫu các khoản phải thu đã bị xoá sổ trên sổ cái tổng hợp.Xem lại chứng từ và các hoá đơn có liên quan minh chứng cho các khoản nợ không có khả năng thu hồi để khẳng định rằng các khoản xoá sổ đã được phê chuẩn. D. Nếu các phương pháp và các giả thuyết của các nhà quản lý là hợp lý thì kiểm tra dữ liệu tương ứng với việc ước tính, tính toán lại các ước tính E. Nếu các phương pháp và các giả thuyết của các nhà quản lý là không hợp lý thì cần ước tính một cách độc lập và xác định xem liệu các ước tính của nhà quản lý có khớp đúng với các ước tính của kiểm toán viên hay không? Xem xét các yếu tố sau đây trong việc áp dụng vào việc thiết lập các ước tính hợp lý: tính chính xác của các khoản mục cộng dồn trên bảng cân đối thử (cần thực hiện kết hợp với thủ tục kiểm toán số 02), khả năng có thể thu hồi các khoản phải thu quá hạn có giá trị lớn, xu hướng lập dự phòng như một khoản phần trăm của các khoản bán hàng và các khoản phải thu, xu hướng của các khoản chi phí nợ khó đòi tính theo các khoản bán hàng, các khoản phải thu được thu hồi, xoá sổ sau ngày kết thúc niên độ, quá trình thanh toán các khoản nghi ngờ của khách hàng. F. Đánh giá kết quả các thử nghịêm. 4. Kiểm tra việc trình bày các khoản phải thu. A. Khẳng định rằng các số dư sau đây, nếu có, được phân loại một cách hợp lý: các khoản phải thu khách hàng, các khoản phải thu từ tạm ứng và các khoản phải thu khác, các khoản phải thu dài hạn. B. Khẳng định rằng các số dư sau đây, nếu có, đã được ghi sổ, phân loại một cách chính xác và được công bố một cách hợp lý: khoản hoa hồng đại lý; các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ phải thu hồi; các khoản phải thu từ các bên liên quan; các khoản nhớ thu hộ phải thu... 5. Kiểm tra việc chia cắt niên độ đối với các khoản bán hàng. A. Chọn mẫu các hoá đơn vận chuyển hàng hoá xảy ra sau ngày kết thúc niên độ. Đối chiếu ngược các hoá đơn vận chuyển này với các hoá đơn bán hàng có liên quan. Khẳng định rằng các khoản phải thu được ghi sổ đúng kỳ. Đánh giá kết quả của các thử nghiệm. 6. Kiểm tra các khoản phải thu cho tới khi kết thúc niên độ. A. Thu thập bảng cân đối thử các khoản phải thu. Kiểm tra tổng số và đối chiếu tổng số này với sổ cái tổng hợp. Tra ngược các khoản phải thu so sánh với chứng từ gốc nếu cần. B. Lựa chọn các số dư tài khoản phải thu khách hàng và các hoá đơn từ bảng cân đối thử các khoản phải thu, đối chiếu chứng từ với sổ thu tiền mặt sau ngày kết thúc niên độ. Đối chiếu các khoản chưa trả đã chọn với hoá đơn bán hàng và vận đơn, và các khách hàng có liên quan nếu có. C. Xen xét việc gửi thư xác nhận tới một số khách hàng được lựa chọn. D. Đánh giá kết quả của các thử nghiệm. 7. Kiểm tra việc phê chuẩn các khoản hàng bán bị trả lại và chiết khấu. A. Khẳng định rằng các chính sách và thủ tục kế toán áp dụng cho việc ước tính và ghi sổ các khoản hàng bán bị trả lại và chiết khấu là hợp lý và được áp dụng nhất quán. Thu thập những hiểu biết về các điều khoản quy định hàng bán bị trả lại và chiết khấu, cũng như các phương pháp và các giả thuyết được sử dụng để tính toán các khoản nói trên. B. Kiểm tra việc tính toán các khoản sự phòng. Đánh giá, và nếu cần thiết, kiểm tra tính chính xác của các dữ liệu có liên quan. Tiến hành lại các ước tính. C. Tiến hành các thủ tục phân tích để kiểm tra các khoản dự phòng cuối năm. 1. Dự đoán các khoản bán hàng bị trả lại và các khoản chiết khấu dự phòng dựa vào số dư năm trước và các thông tin của các năm trước như: khoản hàng bán bị trả lại, chiết khấu mang sang sau mỗi năm, thời gian trả lại hàng và chiết khấu (và các thay đổi nếu có), các khoản dự phòng trong mối quan hệ với tổng các khoản phải thu và bán hàng. 2. Xác định các khoản chênh lệch lớn giữa số ước tính và các khoản dự phòng đã được ghi sổ. 3. So sánh các khoản ước tính với số dư trên sổ của các khoản dự phòng. Nếu khoản chênh lệch lớn hơn mức độ có thể chấp nhận, cần tìm cách lý giải cho các khoản chênh lệch đó (chẳng hạn, thông qua việc kiểm tra hoá đơn, chứng từ đi kèm) D. Đánh giá kết quả của các thử nghiệm. Phần III Bài học kinh nghiệm và phương hướng hoàn thiện bước lập kế hoạch kiểm toán tại công ty dịch vị tư vấn tài chính kế Toán và kiểm toán I. Nhận xét chung Kiểm toán là một quá trình do một kiểm toán viên có đầy đủ năng lực và độc lập tiến hành nhằm thu thập bằng chứng về những thông tin có thể định lượng của một tổ chức, và đánh giá chúng nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay do kiểm toán độc lập đối với các nhà quản lý cũng như các chủ doanh nghiệp của Việt Nam là một khái niệm còn quá mới mẻ, có thể nói là xa lạ trong nhận thức của họ, sự nhầm lẫn giữa công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng Nhà nước với dịch vụ kiểm toán độc lập đã gây tâm lý ngán ngại khi họ tiếp cận với kiểm toán. Các quy định hành lang pháp lý đối với kiểm toán độc lập còn quá ít, đến nay sự hiểu biết và nhu cầu đối với kết quả của kiểm toán độc lập trong xã hội còn chưa rõ nét, kiểm toán chưa trở thành nhu cầu tự bản thân của các doanh nghiệp mà chủ yếu là thực hiện theo quy định của Nhà nước, nên một số doanh nghiệp chỉ cần có chữ ký của kiểm toán để nộp cho cơ quan chức năng Nhà nước mà không cần quan tâm đến chất lượng kiểm toán, mặt khác cũng chưa có cơ sở để đánh giá chất lượng kiểm toán. Hiện tượng cạnh tranh ở một số Công ty kiểm toán bằng cách hạ giá phí thông qua việc rút ngắn thời gian kiểm toán, nhằm tiết kiệm chi phí thực hiện cuộc kiểm toán, dẫn đến việc tiến hành cuộc kiểm toán một cách qua loa, không đảm bảo tuân theo các Chuẩn mực Kiểm toán hiện hành. Trong bối cảnh đó, AASC, Công ty kiểm toán hàng đầu của Việt Nam, với những nỗ lực không mệt mỏi đã đạt được những thành công, xác định được vị trí trong cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp kiểm toán nước nhà. Đạt được tất cả những điều này là do Công ty đã phát huy được những điểm mạnh sau: Cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý và một đội ngũ nhân viên lành nghề đầy nhiệt huyết. Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức gọn nhẹ, hợp lý, phù hợp với xu thế chung. Với việc mở rộng phạm vi hoạt động của mình, AASC đang từng bước sắp xếp lại cơ cấu quản lý, tổ chức chỉ đạo trên phạm vi toàn quốc. Nhân tố giúp AASC thành công phải nói tới yếu tố con người. Đó là Ban lãnh đạo giàu kinh nghiệm trong nghề nghiệp và trong quản lý, không chỉ tạo được uy tín cao với khách hàng, mở rộng quan hệ hợp tác trong và ngoài nước mà còn rất hào hợp với nhân viên trong Công ty. Qua đó, động viên khuyến khích mọi người đúng lúc cũng như xắp xếp nhân viên theo đúng năng lực và trình độ tạo hiệu quả cao trong công việc. Một điều bạn dễ nhận thấy khi đến AASC là tập thể lãnh đạo và nhân viên rất trẻ, năng động, sáng tạo và hăng say trong công việc. Mỗi người đều có ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, đều coi AASC là ngôi nhà chung. Điều này đã góp phần quan trọng tới chất lượng của cuộc kiểm toán đạt sự tin cậy cao và được khách hàng tin tưởng. Phương pháp kiểm toán có chất lượng hiệu quả và có chất lượng cao Đây chính là điểm mạnh của Công ty. Công ty đã xây dựng cho mình một phương pháp kiểm toán tuân thủ chặt chẽ phù hợp với các Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế, Chuẩn mực Kiểm toan Việt Nam và các quy tắc hiện hành tại Việt Nam. Nguyên tắc cơ bản được toàn thể AASC thực hiện nghiêm túc Nguyên tắc cơ bản của AASC để thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính là sử dụng đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp, được trang bị kiến thức sâu rộng về quy chế tài chính và tư vấn nghề nghiệp. Hơn nữa, họ còn thường xuyên cập nhật những thông tin, quy định và được đào tạo kỹ thuật mới, tiên tiến. Trong qua trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên của AASC luôn tuân theo phương châm cung cấp cho khách hàng dịch vụ với chất lượng tốt nhất, giữ vững sự độc lập và bí mật thông tin của khách hàng. Thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính với các phần hành cụ thể như TSCĐ, vốn tiền, doanh thu... cũng như các dịch vụ kiểm toán độc lập của mình, AASC đều dựa vào: Những Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam. Tài liệu hướng dẫn về kế toán, kiểm toán cho lĩnh vực kiểm toán. Quy chế Kiểm toán độc lập hiện hành ở Việt Nam (NĐ 07/CP ngày 29/1/1994). Những tài liệu luật pháp kèm theo lĩnh vực kiểm toán được AASC cập nhật làm căn cứ kiểm toán và các kiểm toán viên cũng luôn tuân thủ chặt chẽ Quy trình kiểm toán mà Công ty xây dựng. II. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính tại AASC 1. Quy định về lập kế hoạch kiểm toán Nhận thức được tầm quan trọng của lập kế hoạch kiểm toán, Ban lãnh đạo AASC đã có quy định thành văn về việc lập kế hoạch kiểm toán trong tất cả các cuộc kiểm toán như sau: “Nhằm tuân thủ đúng các Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán và tăng cường sức cạnh tranh, Ban Giám đốc Công ty yêu cầu các phòng trước khi thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành, kiểm toán dự án phải lập kế hoạch kiểm toán và gửi về phòng kiểm soát chất lượng để lấy ý kiến tham gia và chuẩn bị công việc kiểm soát chất lượng”. ( Văn bản nội bộ - Quy định của AASC về lập kế hoạch kiểm toán) Để kế hoạch kiểm toán thực sự giữ đúng vị trí là kim chỉ nam xuyên suốt toàn bộ cuộc kiểm toán, quá trình lập kế hoạch kiểm toán của AASC được thực hiện theo trình tự: Gửi thư mời kiểm toán và hình thành một hợp đồng kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể: - Chuẩn bị các điều kiện cho lập kế hoạch kiểm toán: Thu thập thông tin về khách hàng: cơ cấu tổ chức, đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh, thông tin về nghĩa vụ pháp lý... - Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán: hệ thống kế toán, quy trình hạch toán đang áp dụng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. - Thực hiện các bước phân tích sơ bộ trên Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán và một sô tỷ suất quan trọng. - Xác định mức độ trọng yếu: xác định những khu vực trọng yếu. - Đánh giá rủi ro kiểm toán Thiết kế chương trình kiểm toán (kế hoạch kiểm toán cụ thể): xác định phương pháp kiểm toán và chương trình kiểm toán chi tiết đến từng bộ phận Ban giám đốc soát xét kế hoạch kiểm toán để tránh những sai sót dù là nhỏ nhất, nhằm nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán. Sau khi lập xong kế hoạch kiểm toán, trước khi tiến hành kiểm toán đoàn kiểm toán tiến hành tiếp xúc gặp gỡ với đơn vị được kiểm toán để trao đổi thống nhất về nội dung, phạm vi, nguyên tắc, thời gian... tiến hành kiểm toán, tạo không khí hiểu biết và hợp tác giữa Công ty và đơn vị được kiểm toán. Nhờ tuân thủ các quy định bắt buộc về việc lập kế hoạch kiểm toán trên, Công ty đã tính toán được mức chi phí hợp lý để giữ được khách hàng và cạnh tranh được với các Công ty kiểm toán khác. Mặt khác, việc lập kế hoạch kiểm toán giúp Công ty hạn chế những bất đồng trong tương lai giữa kiểm toán viên và khách hàng, cũng như tạo điều kiện tiến hành cuộc kiểm toán có hiệu quả, cho phép kiểm toán thu thập được những bằng chứng đầy đủ và thích hợp, nhờ đó hạn chế được tối đa trách nhiệm pháp lý và giữ được uy tín nghề nghiệp. 2. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ Do đặc điểm là phần lớn những doanh nghiệp tại Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, chi phí tổ chức một hệ thống kiểm soát nội bộ có thể nằm ngoài khả năng của doanh nghiệp, hoặc chưa nhận thấy được hết tầm quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Do đó, chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, được tổ chức đầy đủ, còn phần lớn chỉ đơn thuần kiểm soát ở khía cạnh kiểm toán. Kết quả là hệ thống kiểm soát nội bộ có độ tin cậy thấp và rủi ro kiểm soát cao là điều khó tránh khỏi. Chính vì vậy mà trong hầu hết các cuộc kiểm toán, AASC đều tiến hành xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ với đầy đủ các bước: tìm hiểu môi trường kiểm soát, tìm hiểu chu trình kế toán mà khách hàng đang áp dụng, tìm hiểu các hoạt động kiểm soát của khách hàng. Qua việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng kiểm toán viên có thể giảm bớt khối lượng công việc kiểm toán và có thể lựa chọn phương pháp kiểm toán thích hợp. Trên thực tế, việc mô tả các thông tin từ tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng lên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên được các Công ty kiểm toán tiến hành theo 3 hướng: mô tả bằng bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ, bảng tường thuật, lưu đồ. Tại AASC, việc mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên được tiến hành theo phương pháp lập bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ. Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ được Công ty thiết kế chung cho mọi cuộc kiểm toán, bao gồm hai phần chính: - Các câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán. - Các câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ và phương pháp kế toán áp dụng đối với từng khoản mục trên Bảng cân đối kế toán. Các câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ được Công ty lập căn cứ vào thực tế kiểm soát tại các doanh nghiệp Việt Nam, theo chế độ kế toán của Việt Nam. Các câu hỏi này được xây dựng theo hướng “mở”, nghĩa là kiểm toán viên có thể thêm vào những câu hỏi mà thực tế để đánh giá chính xác hơn hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán. Các câu trả lời bao gồm 3 loại: có, không và không áp dụng. Căn cứ vào các câu trả lời này và tầm quan trọng của vấn đề nêu trong câu hỏi, kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát nội bộ. 3. Đánh giá rủi ro Đánh giá rủi ro là một mảng công việc quan trọng và khá phức tạp vì đòi hỏi nhiều thông tin trên các mặt khác nhau về hoạt động của Công ty khách hàng. Quá trình đánh giá rủi ro của Công ty được bắt đầu bằng việc đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng, đặc biệt đối với khách hàng năm đầu tiên. trong quá trình này kiểm toán viên tiến hành tìm hiểu về lĩnh vực hoạt động của khách hàng, tình hình tài chính, các mối quan hệ với các bên hữu quan, uy tín của khách hàng trên thương trường thông qua báo chí, kiểm toán viên khác... Thông thường việc đánh giá này được thực hiện bởi những người có kinh nghiệm, thường là trưởng phòng hoặc các nhà quản lý khác. Để đạt được hiệu quả cao trong công việc thì ngay từ việc đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng, công tác quản lý và giám sát luôn được chú trọng. Khi một khách hàng đã được chấp nhận, kiểm toán viên bắt tay vào việc đánh giá rủi ro kiểm toán. Công việc đánh giá rủi ro kiểm toán bao gồm việc đánh giá rủi ro các yếu tố cấu thành nên rủi ro kiểm toán. Công việc này thường được giao cho các kiểm toán viên lâu năm nhiều kinh nghiệm và có chuyên môn giỏi thực hiện vì việc đánh giá rủi ro kiểm toán phụ thuộc rất lớn vào khả năng xét đoán và sự nhạy cảm nghề nghiệp của kiểm toán viên. Ngoài ra, để chuẩn hoá các bước công việc của kiểm toán viên, AASC thiết kế mẫu phân tích hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với số dư tài khoản và loại nghiệp vụ theo từng cơ sở dẫn liệu trên Báo cáo tài chính. Mẫu phân tích này tổng hợp những thông tin kiểm toán viên thu thập được trong quá trình tìm hiểu hệ thống kiểm soát tác động đến số dư tài khoản và loại nghiệp vụ, làm cơ sở cho kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát cho từng số dư tài khoản và loại nghiệp vụ. Nó cho phép những người làm việc của kiểm toán viên hiểu được cơ sở xét đoán mức rủi ro kiểm soát mà kiểm toán viên đánh giá. Thiết kế này làm giảm những bất đồng của Ban Giám đốc Công ty khách hàng với kiểm toán viên. Bởi vì trong một số trường hợp, Ban Giám đốc của khách hàng có xu hướng muốn kiểm toán viên đánh giá rủi ro ở mức thấp để kiểm toán viên đặt niềm tin vào hệ thống kiểm soát nội bộ, từ đó giảm bớt các thử nghiệm kiểm toán cơ bản. Nếu việc đánh giá rủi ro kiểm soát có cơ sở rõ ràng, sự nghi nghờ của Ban Giám đốc khách hàng giảm xuống, những bất đồng với kiểm toán viên vì thế cũng ít hơn. Bên cạnh đó, kết quả đánh giá rủi ro kiểm soát và rủi rủi tiềm tàng trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên được trình bày trên những biểu mẫu rõ ràng, dễ hiểu, trong đó có nói rõ lý do tại sao kiểm toán viên lại đánh giá rủi ro ở một mức độ xác định. Việc giám sát quá trình đánh giá rủi ro kiểm toán cũng được tiến hành chặt chẽ. Thông thường trưởng nhóm kiểm toán thực hiện công việc đánh giá rủi ro kiểm toán, tuy nhiên trong trường hợp công việc này được giao cho kiểm toán viên thì trưởng nhóm kiểm toán thực hiện công việc giám sát quá trình đánh giá và có chỉ đạo kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Như vậy, việc điều hành công tác đánh giá rủi ro kiểm toán kết hợp với việc thiết kế các hướng dẫn chi tiết phục vụ cho công tác đánh giá rủi ro giúp cho công tác này tiến hành theo hướng chuẩn hoá và dễ hiểu đối với người sử dụng tài liệu của kiểm toán viên. III. Một số ý kiến đề xuất đối với việc lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty dịch vụ Tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập dịch vụ kiểm toán độc lập của Việt Nam với quốc tế. Lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính tại Công ty Dịch vụ Tài chính Kế toán và Kiểm toán là công việc rất quan trọng và được các nhà quản lý của AASC rất quan tâm hoàn thiện. Công ty đã rất nỗ lực trong việc đưa ra những hướng dẫn để kiểm toán viên thực hiện và có những phần đã được xây dựng khá chi tiết, nhưng để lập kế hoạch kiểm toán trở thành một quy trình chuẩn và thực sự giữ đúng vị trí là kim chỉ nam xuyên suốt toàn bộ cuộc kiểm toán, theo ý kiến của cá nhân, em cho rằng cần bổ sung một số thông tin sau: 1. Vấn đề sử dụng sử dụng số liệu cho việc phân tích tổng quát trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp được kiểm toán. Thực hiện tốt phân tích tổng quát Báo cáo tài chính không những giúp kiểm toán viên hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh của khách hàng, phán đoán khả năng xảy ra rủi ro trên Báo cáo tài chính mà còn cho phép kiểm toán viên nhận diện được những điểm yếu kém trong hoạt động của đơn vị. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, phương pháp phân tích được kiểm toán viên sử dụng tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, các tỷ suất được sử dụng còn ít. Do đó, những tỷ suất còn hạn chế không thể giúp kiểm toán viên hiểu biết một cách rõ ràng những biến động của tình hình tài chính trong doanh nghiệp. Vì vậy, để phân tích thực sự trở thành công cụ hiệu quả hỗ trợ đắc lực cho kiểm toán viên trong việc đánh giá ban đầu về rủi ro và trọng yếu, kiểm toán viên cần tăng cường sử dụng các tỷ suất như: tỷ suất thanh toán nhanh, tỷ suất thanh toán hiện hành, cơ cấu các loại nguồn vốn (nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn phải trả)... Ngoài ra, các thông tin mà kiểm toán viên sử dụng để phân tích thường là các thông tin trên Báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán, chưa mở rộng ra các thông tin tài chính và phi tài chính trong ngành có liên quan. Mà thực tế cho thấy, các thông tin trong ngành liên quan đến khách hàng có độ tin cậy và độ chính xác cao. Vì vậy, trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán kiểm toán, kiểm toán viên cần phải tích cực mở rộng thủ tục phân tích đối với các thông tin tài chính và phi tài chính đặc trưng liên quan đến lĩnh vực mà khách hàng đang hoạt động. Kết luận Trong xu hướng hội nhập và phát triển hiện nay hoạt động kiểm toán ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân, góp phần lành mạnh hoá môi trường tài chính. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng hoạt động kiểm toán còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam. Và do đó, sự hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước như Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán có vai trò hết sức quan trọng, mở đường khai phá cho lĩnh vực này. Do đề tài lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính đề tài tương đối khó do tính chất phức tạp của nghiệp vụ, thời gian tìm hiểu ngắn, lượng kiến thức lại có hạn song với sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo Trần Mạnh Dũng và sự giúp đỡ về mọi mặt của Ban Giám đốc, của các anh chị thuộc phòng Tư vấn và Đào tạo công với sự nỗ lực của bản thân em đã hoàn thành bài chuyên đề này. Tuy nhiên, do những hạn chế về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vậy em kính mong được sự chỉ bảo ân cần của thầy cô và của các anh chị để em có những bước tiến xa hơn trong học tập và nghiên cứu. Em xin trân trọng cảm ơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29671.doc
Tài liệu liên quan