Trong đợt thực tập của mình và qua nghiên cứu tình hình cho vay DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân. Em nhận thức được tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNVVN, và cũng thấy được những mặt làm được, những hạn chế của công tác cho vay tại chi nhánh đối với loại hình này.
Việc mở rộng là rất cần thiết, tuy nhiên đó là một vấn đề lớn mà các cơ quan của nhà nước, ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại phải xem xét, nghiên cứu để có những phương án hợp lý nhằm tránh được những rủi ro và thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN.
82 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(Nguồn: từ các báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân qua các năm 2004-2006)
2.2. Thực trạng cho vay DNVVN tại NHNo & PTNT Thanh Xuân
2.2.1. Thực trạng DNVVN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Trong những năm gần đây DNVVN ở nước ta phát triển khá nhanh, đội ngũ này chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Theo thống kê nước ta có 26.000 DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và gần 6.000 DNVVN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, đóng góp 25% GDP và thu hút một lượng đáng kể lao động, tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần chuyển dịch kinh tế và khai thác được các tiềm năng trong dân chúng. DNVVN đã chiếm một vị trí quan trọng.
Tuy nhiên, cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và những ảnh hưởng của nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới làm cho DNVVN ở nước ta bộc lộ những hạn chế và gặp không ít khó khăn, cụ thể là:
Việc đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất sản phẩm vật chất không bằng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ của DNVVN do ngân hàng nhận thấy việc đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất sản phẩm phức tạp và có nhiều rủi ro về sản phẩm, thời gian thu hồi vốn của các doanh nghiệp đó dài.
Đây là mặt tồn tại trong thực trạng phát triển DNVVN, hạn chế phần nào vai trò của loại hình doanh nghiệp này trong phát triển kinh tế. Điều đó còn phản ánh sự bất cập của chính sách vĩ mô, thiếu một chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Mặt khác do tình trạng hàng biên giới, hàng đã qua sử dụng, hàng nhập lậu tràn ngập thị trường với giá rẻ cũng là rào cản việc thu hút các nhà đầu tư trong nước.
Trình độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc vừa cũ, vừa lạc hậu lại không đồng bộ đã hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của các DNVVN nước ta.
Lực lượng công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề được đào tạo còn quá ít, hạn chế cả trình độ hiểu biết, lại biến động nên việc quản lý và sử dụng lao động vô cùng khó khăn, cộng với đội ngũ cán bộ thiếu kỹ năng quản lý dẫn đến hiệu quả hoạt động của DNVVN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn định.
Các chính sách vĩ mô, vi mô nhằm hỗ trợ DNVVN còn hạn chế, nặng về hình thức, thiếu hướng dẫn cụ thể như chính sách đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, chính sách vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, các hệ thống thông tin, các dịch vụ tư vấn về mặt hàng, thị trường, công nghệ, thiết bị, luật pháp, thông lệ quốc tế về kinh doanh… không đáp ứng được các nhu cầu của các DNVVN.
Những khó khăn phiền toái đối với DNVVN xung quanh thủ tục hải quan, thuế, nhà đất… vẫn còn là nỗi lo lắng, băn khoăn của các doanh nghiệp.
Cuối cùng là tình trạng thiếu vốn của các DNVVN. Đây là vấn đề đáng lo ngại nhất. Đa số các doanh nghiệp hiện không có đủ điều kiện thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng để vay vốn, tỷ trọng vốn vay ngân hàng của các DNVVN chỉ chiếm 20% nhu cầu vốn hoạt động. Nhìn chung các DNVVN đều dựa vào nguồn vốn tự có là chính hoặc huy động từ người thân, bạn bè…Việc các DNVVN không sử dụng được nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
2.2.2. Thực trạng cho vay DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Hoạt động cho vay được xem là hoạt động trọng tâm; là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của mọi ngân hàng; là hoạt động mang lại cho ngân hàng lợi nhuận để có thể tồn tại và phát triển. Qua nghiên cứu hoạt động cho vay của chi nhánh, chúng ta có thể thấy dư nợ cho vay của ngân hàng đối với các DNVVN là rất lớn, nó lớn hơn nhiều so với dư nợ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp lớn. Mặc dù điều đó có thể là do những doanh nghiệp đến vay ngân hàng đều là những DNVVN nhưng cũng không thể phủ nhận sự cố gắng của ngân hàng, quan hệ tín dụng của ngân hàng với các DNVVN là rất lớn.
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tổng dư nợ
159.769
124.347
106.865
Dư nợ DNVVN
113.952
97.747
87.658
(Nguồn : từ các báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân các năm 2004-2006)
Biểu đồ 2.1: Dư nợ DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, dư nợ các DNVVN cũng như tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là giảm. Cụ thể, năm 2004 dư nợ đối với nền kinh tế là 159.769 triệu đồng, cho vay đối với DNVVN là 113.952 triệu đồng; con số tương ứng năm 2005 là 124.347 và 97.747 triệu đồng; năm 2006 là 106.865 và 87.658 triệu đồng. Nguyên nhân của việc dư nợ của chi nhánh giảm như vậy là do năm 2004 hệ thống ngân hàng nông nghiệp có chủ trương thắt chặt tín dụng để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các khoản cho vay. Tuy nhiên với việc giảm dư nợ như vậy nhưng tỷ trọng dư nợ đối với DNVVN vẫn tăng và ở mức cao so với tổng dư nợ của nền kinh tế.
Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ theo thời gian tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh xuân
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Triệu đồng
%
Triệu đồng
%
Triệu đồng
%
Tổng dư nợ
159.769
100
124.347
100
106.865
100
- Trong đó DNVVN
113.952
71,32
97.747
78,61
87.658
82.03
Dư nợ ngắn hạn
116.495
72,91
76.217
61,29
66.344
62,08
-Trong đó DNVVN
83.084
52
59.914
48,18
54422
51
Dư nợ TDH
43.274
27,09
48.128
38,71
40.521
17,97
- Trong đó DNVVN
30.863
19,32
37.833
30,43
33.239
31,1
(Nguồn: từ các báo cáo kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân các năm 2004-2006)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, dư nợ ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế cũng như đối với DNVVN qua các năm đều giảm và dư nợ ngắn hạn luôn chiếm một tỷ trọng lớn so với tổng dư nợ của chi nhánh. Cụ thể, năm 2004 dư nợ ngắn hạn đối với DNVVN chiếm 52% so với tổng dư nợ, dư nợ trung và dài hạn đối với DNVVN chiếm 19,32% so với tổng dư nợ; năm 2005 con số tương ứng là 48,18% và 30,43%; năm 2006 là 51% và 31,1%. Nguyên nhân là do tại chi nhánh ngân hàng đối tượng chủ yếu của khách hàng là các DNVVN, DNVVN ở Việt Nam hiện nay thường có quy mô nhỏ, chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn, tốc độ quay vòng vốn nhanh vì vậy nhu cầu về các khoản vay trung và dài hạn chưa cao, các doanh nghiệp này thường đến ngân hàng vay để phục vụ những nhu cầu ngắn hạn cấp bách. Hình vẽ dưới đây chỉ rõ cho chúng ta thấy tỷ lệ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với DNVVN.
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ DNVVN theo thời gian qua các năm 2004-2006
Qua các năm từ 2004-2006 là sự tăng lên về dư nợ trung và dài hạn, không chỉ đối với toàn bộ khách hàng mà còn đối với DNVVN. Đây là tín hiệu đáng mừng cho các DNVVN cũng như đối với nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu mua sắm tài sản cố định, đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh của các DNVVN bằng vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên, dư nợ trung và dài hạn đối với DNVVN của chi nhánh vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ so với nhu cầu vốn trung và dài hạn của các DNVVN.
Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế:
Bảng 2.6: Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế tại chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân
Đơn vị : triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Triệu đồng
%
Triệu đồng
%
Triệu đồng
%
Tổng dư nợ
159.769
100
124.347
100
106.865
100
- Trong đó DNVVN
113.952
71,32
97.747
78,61
87.658
82.03
Dư nợ QD
13.504
8,45
276
0,22
5.627
5,27
-Trong đó DNVVN
9.631
6,02
217
0,17
4.616
4,31
Dư nợ NQD
113.109
71
108.332
87,12
91.771
85,86
- Trong đó DNVVN
80.669
50,49
85.160
68,48
75.280
70,44
(Nguồn: từ các báo cáo kinh doanh chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân qua các năm 2004-2006)
Nhìn vào bảng trên ta thấy cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp QD đã giảm và thay vào đó là sự tăng lên đối với các doanh nghiệp NQD điều đó đã cho thấy không còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp quốc doanh hay ngoài quốc doanh nữa, doanh nghiệp nào có đủ điều kiện thì sẽ vay được vốn tại ngân hàng. Dư nợ các DNVVN ngoài quốc doanh là tăng lên qua các năm từ năm 2004-2006. Cụ thể, năm 2004 tỷ trọng cho vay DNVVN NQD là 50,49% so với tổng dư nợ NQD; năm 2005 con số tương ứng là 68,48%; năm 2006 là 70,44%.
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu dư nợ DNVVN theo thành phần kinh tế tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Hiệu suất sử dụng vốn
Bảng 2.7: Hiệu suất sử dụng vốn
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tổng dư nợ
159.769
124.347
106.865
Tổng nguồn vốn huy động
245.017
324.838
409.382
Chênh lệch huy động và cho vay
85.248
200.491
302.517
Hiệu suất sử dụng vốn
65,2%
38,28%
26,1%
(Nguồn:từ các báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân năm 2004-2006)
Qua bảng trên ta thấy hiệu suất sử dụng vống giảm qua các năm. Nguyên nhân là do ngân hàng luôn có chính sách mở đối với mọi khách hàng, luôn tìm kiếm những khách hàng có khả năng tài chính. Tuy nhiên cho vay lại giảm do chủ trương thắt chặt tín dụng của hệ thống ngân hàng làm cho hiệu suất sử dụng vốn những năm qua giảm.
Tỷ lệ nợ quá hạn
Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ mà đã kinh doanh thì không thể tránh được rủi ro. Trong hoạt động ngân hàng thì rủi ro chủ yếu là từ hoạt động cho tín dụng do khách hàng không thể hoặc chưa có khả năng hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn dẫn đến tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc phải xử lý rủi ro.
Bảng 2. 8: Tình hình nợ quá hạn
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Tổng dư nợ
159.769
124.347
106.865
NHNo & PTNTợ quá hạn
114,69
2.736
2.084
Tỷ lệ (%)
0,07
2,2
1,95
Dư nợ DNVVN
113.952
97.747
87.658
Nợ quá hạn DNVVN
80
2.462
1.709
(Nguồn: từ các báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân qua các năm 2004-2006)
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ được coi là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng. Khi tỷ lệ này tăng đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng của ngân hàng trở nên xấu đi, và ngược lại tỷ lệ này càng thấp thì hoạt động tín dụng của ngân hàng càng có chất lượng cao.
Nhìn bảng trên ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng, nhất là năm 2005 tỷ lệ nợ quá hạn là 2.736 triệu đồng chiếm 2,2% trên tổng dư nợ. Nguyên nhân của việc tỷ lệ nợ quá hạn vào năm 2005 lại tăng cao như vậy là do từ năm 2005 chi nhánh phải áp dụng quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo QĐ 493 của ngân hàng nhà nước và QĐ 165 của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nên tổng nợ quá hạn tăng lên. Mặt khác, một số doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh nên không trả được nợ đúng hạn. Hơn nữa, trong năm 2005 do hạn chế trong việc mở rộng cho vay nên dư nợ giảm sút. Dẫn đến kết quả tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tăng.
Sang năm 2006, nợ quá hạn của chi nhánh có chiều hướng đi xuống. Điều này chứng tỏ năm 2006 chất lượng tín dụng có những chuyển biến tích cực.
Vòng quay vốn tín dụng
Bảng 2.9: Vòng quay vốn tín dụng
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Doanh số thu nợ
262.017
127.420
110.496
Dư nợ bình quân
146.906
141.578
115.126
Vòng quay vốn tín dụng
1,78
0,90
0,96
(Nguồn: từ các báo cáo kinh doanh chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân các năm 2004-2006)
Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Như vậy, với một đồng vốn nhưng vòng quay càng nhiều thì càng thu được nhiều lợi nhuận.
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy rằng vòng quay vốn tín dụng của chi nhánh là tương đối cao, đặc biệt là năm 2004 vòng quay vốn tín dụng là 1,78. Điều này chứng tỏ công tác thu nợ của chi nhánh trong năm 2004 là rất tốt. Tuy nhiên sang năm 2005 vòng quay vốn tín dụng giảm mạnh so với năm 2004, chỉ đạt 0,90. Đến năm 2006 có xu hướng tăng nhẹ và đạt 0,96.
2.3. Đánh giá thực trạng cho vay DNVVN tại NHNo & PTNT Thanh Xuân
2.3.1. Kết quả
Qua phân tích tình hình hoạt động cho vay của NHNo & PTNT Thanh Xuân đối với DNVVN qua 3 năm (2004-2006), ta có thể thấy được chi nhánh đã có được những kết quả như sau:
Thực hiện tốt chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước về công tác cho vay và theo đúng quy trình tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng đã duy trì tốt mỗi quan hệ với các doanh nghiệp truyền thống kinh doanh ổn định và có hiệu quả. Tìm thêm một số doanh nghiệp có tiềm năng mới. Chi nhánh đã mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì điều này phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước ta, cũng như xu thế phát triển hiện nay của DNVVN.
Quy mô cho vay đối với các DNVVN là khá lớn, chiếm xấp xỉ 80% tổng dư nợ. Với việc mở rộng cho vay đối với DNVVN như vậy đã góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả dự án của các DNVVN đồng thời góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Qua đó, chi nhánh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế xã hội.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.3.1 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ tuy nhiên hoạt động cho vay đối với các DNVVN còn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục:
Hoạt động cho vay DNVVN của chi nhánh còn hạn hẹp về quy mô. Dư nợ DNVVN mặc dù chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng dư nợ nhưng khối lượng cho vay như vậy vẫn là nhỏ so với tiềm năng của các DNVVN. Hiệu suất sử dụng vốn không cao và có chiều hướng giảm nhẹ qua các năm.
Hình thức cho vay của chi nhánh còn đơn điệu. Hình thức cho vay chủ chủ yếu là cho vay theo hạn mức, cho vay từng lần không đáp ứng đuợc nhu cầu vay của một số đối tượng khách hàng.
Đối tượng cho vay của ngân hàng còn hạn hẹp chủ yếu là các khách hàng truyền thống làm ăn có hiệu quả. Các đối tượng khách hàng khác chưa được chú ý một cách đúng mức.
Chất lượng và hiệu quả của những khoản tín dụng chưa được tốt gây nên nợ xấu và nợ quá hạn của chi nhánh vẫn còn cao. Cụ thể, năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn là 0,07%; năm 2005 là 2,2% và năm 2006 là 1,95%. Tuy tỷ lệ nợ quá hạn nhỏ hơn so với mức 3% nhưng cũng phần nào ảnh lượng đến chất lượng kinh doanh và thu nhập của chi nhánh.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Từ năm 2005 thực hiện chỉ đạo của NHNo & PTNT Hà Nội về nâng cao chất lượng tín dụng, nên chi nhánh đã hạn chế những khoản cho vay, tập trung thu hồi các doanh nghiệp có nợ quá hạn, gia hạn do đó từ năm 2005 dư nợ của toàn bộ chi nhánh đối với nền kinh tế nói chung và đối với các DNVVN nói riêng bị giảm sút.
Thứ hai, Ngân hàng đóng trên địa bàn còn gặp khó khăn, chưa thực sự phát triển nên nhu cầu vay vốn còn chưa cao. Mặt khác, trên địa bàn có quá nhiều các tổ chức tín dụng bao gồm NHNo & PTNT Nam Hà Nội, Tây Hà Nội, NHNo & PTNT Hoàng Mai, Hà Tây, Thanh Trì, NHCT Đống Đa, Thanh Xuân, Hà Tây, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây, NHTMCP Quân Đội, NHTMCP Phương Nam, Ngân hàng ngoại thương Thanh Xuân. Môi trường cạnh tranh gay gắt như vậy phần nào làm giảm dư nợ của chi nhánh.
Thứ ba, Chiến lược marketing của chi nhánh tới khách hàng còn hạn chế, mới chỉ dừng lại ở hoạt động phát tờ rơi, thông tin trên đài phường, hội nghị khách hàng… nên chưa được nhiều khách hàng biết đến.
Thứ tư, chi nhánh chỉ tập trung vào những đối tượng khách hàng truyền thống trong đó có các DNVVN. Chi nhánh ngân hàng nói chung và các cán bộ tín dụng nói riêng chưa mạnh dạn tìm đến những khách hàng mới do sợ rủi ro cao và tính trách nhiệm của việc mở rộng đó.
Thứ năm, Công tác thẩm định, kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau quá trình cho vay còn chưa chặt chẽ. Nhất là những khách hàng thân quen do tâm lý cả nể mà một số khâu của quá trình cho vay được các cán bộ tín dụng cho qua. Vì thế không thể nhận biết những dấu hiệu xấu trong những khoản vay và gây nên những khoản nợ quá hạn.
Thứ sáu, ngân hàng chỉ thực hiện cho vay dưới hình thức là cho vay từng lần, và theo hạn mức. Trong phương thức cho vay từng lần thì khi mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay và trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Cho vay theo hạn mức, trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Những khó khăn đó đã gây ra tâm lý lo ngại cho các thành phần kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng khi vay vốn tại chi nhánh ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nguyên nhân thuộc về khách hàng là các DNVVN.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế về nhiều mặt như nguồn vốn nhỏ bé; đội ngũ cán bộ quản lý và lao động có trình độ chưa cao; công nghệ, thiết bị sản xuất còn lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp,…đó là những lo ngại của các ngân hàng khi cho các DNVVN vay vốn. hơn nữa, các DNVVN chưa có được uy tín với ngân hàng bởi trong thời gian qua mặc dù có rất nhiều DNVVN làm ăn có hiệu quả nhưng bên cạnh đó còn tồn tại một số doanh nghiệp làm ăn phi pháp, buôn lậu, lừa đảo, trong quá trình kinh doanh thường chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng. Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả đó đã tạo ra hình ảnh không tốt về DNVVN, gây ảnh hưởng xấu đến các DNVVN có hiệu quả và uy tín. Thêm vào, bản thân hoạt động của nhiều doanh nghiệp thuộc loại này có tính mạo hiểm, rủi ro lớn làm cho ngân hàng không dám cho vay.
Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng chế độ kế toán; số liệu phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của mình. Phần lớn các báo cáo của doanh nghiệp được lập một cách thiếu chính xác, thường xuyên chỉnh sửa để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Do đó, chúng không thể phản ánh được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp dẫn đến ngân hàng không có cách nào để kiểm tra được tình hình của doanh nghiệp làm cho chất lượng các khoản vay bị giảm sút.
Đối với các món vay tiêu dùng nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn là do khách hàng ốm đau, mất việc làm…
Thứ hai, Công tác quản lý nhà nước đối với các DNVVN còn nhiều sơ hở dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan nhưng không hiệu quả của các DNVVN trong thời gian qua. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của nhà nước chưa nắm bắt được nhịp độ phát triển của các DNVVN . Nhiều DNVVN cũng đăng ký kinh doanh, và có giấy phép kinh doanh hẳn hoi nhưng cuối cùng lại không thấy đi vào hoạt động mà chỉ đi chiếm dụng vốn ngân hàng. Hơn nữa, cũng phải kể đến hệ thống thông tin mà cơ quan nhà nước cung cấp cho ngân hàng là ít.
Thứ ba, Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ. Những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng mặc dù đã được bổ sung, sửa đổi khá nhiều nhưng tính thực thi còn kém, nhiều quy định còn bị chồng chéo.
Thứ tư, môi trường kinh tế chưa thực sự ổn định, các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình sửa đổi và hoàn thiện. Những quy định cụ thể đối với DNVVN chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ mà chưa phải là văn bản hướng dẫn cụ thể. Trong môi trường như vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng không thể tránh những rủi ro và các DNVVN khó xác định được hướng đi cho mình.
Thứ năm, một nguyên nhân nữa cũng phải kể đến đó là nạn thiên tai, dịch bệnh, cúm gia cầm ở nước ta những năm gần đây đã phần nào gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu tình hình hoạt động cho vay DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân, thấy được những mặt đạt được, những hạn chế còn tồn tại. Em xin mạnh dạn đưa ra những giải pháp mở rộng cho vay DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY DNVVN TẠI
CHI NHÁNH NHNo & PTNT THANH XUÂN
3.1. Những định hướng mở rộng cho vay DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Các DNVVN với thế mạnh và tiềm năng của mình sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới, mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Do đó, Đảng và nhà nước đã và đang đặc biệt quan tâm tới phát triển DNVVN, tạo mọi điều kiện cho các DNVVN đặc biệt là trong công tác hỗ trợ vốn. Cùng với xu hướng đó của chính phủ, hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân nói riêng đã đề ra những định hướng mở rộng cho vay đối với các DNVVN trong thời gian tới.
3.1.1. Định hướng phát triển DNVVN
Vai trò của các DNVVN đã được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới và ở Việt Nam, vai trò của các DNVVN cũng ngày càng được khẳng định. Xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam và để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010: “đất nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát triển kém; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Nguồn lực về con người, năng lực khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”, Chính phủ đã đề ra những định hướng và quan điểm cơ bản phát triển các DNVVN:
Với những ưu thế vốn có của mình, DNVVN phát triển sẽ giúp giải quyết sức ép về việc làm cho xã hội, tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống của người dân. Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp này ở Việt Nam đông đảo về số lượng nhưng chất lượng hoạt động lại chưa cao. Vì vậy, sự hỗ trợ cho các DNVVN là rất cần thiết.
DNVVN được ưu tiên phát triển trong một số ngành có lợi thế, phù hợp với loại hình doanh nghiệp này như:
Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế hàng nhập khẩu và hàng sản xuất có tính cạnh tranh.
Sản xuất chế biến đầu vào cũng như tổ chức tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp lớn.
Các ngành thuộc lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, các nghề gia truyền vừa phát huy tinh hoa dân tộc vừa tạo thu nhập cho người dân ở nông thôn.
Thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nông thôn bằng việc ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn cả trong công nghiệp và dịch vụ.
Nước ta hiện nay có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, sự phát triển kinh tế giữa thành thị và nông thôn có sự chênh lệch đáng kể. Với chủ trương đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng miền trong cả nước, Đảng và Nhà nước ta đã khuyến khích phát triển các DNVVN ở nông thôn do loại hình doanh nghiệp này rất phù hợp với nông thôn. Thực tế trong thời gian qua, DNVVN đã làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi.
Phát triển các DNVVN trong mỗi liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn. Cụ thể là việc thực hiện chuyên môn hóa có hiệu quả giữa DNVVN và doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn hỗ trợ các DNVVN trong việc đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. DNVVN làm trụ cột trong các ngành phụ trợ, giúp các doanh nghiệp lớn tiết kiệm được chi phí khi giao một phần công việc cho các DNVVN.
Định hướng phát triển các DNVVN đến năm 2010 đạt một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp 28% GDP của cả nước.
Tỷ trọng lao động làm việc trong các DNVVN là 30%.
DNVVN đóng góp 34% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
3.1.2. Định hướng mở rộng cho vay DNVVN của Đảng và Nhà nước
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, Chính phủ đã thực hiện cải cách kinh tế , cải cách hành chính đặc biệt là trong lĩnh vực nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNVVN phát triển.
Môi trường chính sách có nhiều thay đổi tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DNVVN tiếp cận tín dụng. Trước đây các chính sách liên quan tới hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế tư nhân nói chung và đối với DNVVN nói riêng gây nhiều trở ngại trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đến nay, Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản pháp lý liên quan tới hoạt động cho vay các DNVVN như Nghị định 178/1999/NĐ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và đã được sửa đổi bằng nghị định số 85/NĐ-CP; Nghị định số 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch đảm bảo; Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước về cơ chế lãi suất thỏa thuận; Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ…Nội dung các văn bản tập trung vào:
Một là, giảm dần sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế DNVVN đối với khả năng tiếp cận tín dụng.
Hai là, nâng cao tính tự chủ, tính tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với hoạt động cho vay.
Ba là, các ngân hàng phải chú trọng nhiều hơn tới hiệu quả kinh tế của dự án cho vay và giảm nhẹ dần các điều kiện về tài sản thế chấp.
Bốn là, quy định rõ ràng và cởi mở hơn về các đối tượng mà các tổ chức tín dụng có thể cho vay trong đó có các DNVVN.
Năm là, các văn bản liên quan tới quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN ra đời đã tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng hơn nữa. Theo đó các DNVVN có phương án sản xuất khả thi, có khả năng hoàn trả vốn, có tổng giá trị tài sản thế chấp cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay, không có các khoản nợ đọng thuế, nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức kinh tế khác sẽ được quỹ bảo lãnh tín dụng cấp bảo lãnh tín dụng tối đa bằng 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng tại tổ chức tín dụng. Mức phí thẩm định hồ sơ bảo lãnh tín dụng chỉ có 50.000 đồng và mức phí bảo lãnh tín dụng bằng 0,85 số tiền được bảo lãnh tín dụng.
Như vậy, các văn bản này đã cải thiện đáng kể môi trường chính sách cho vay, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động cho vay các DNVVN.
Bên cạnh đó, chính sách lãi suất đã nới lỏng hơn, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng cho vay các DNVVN. Trong những năm qua, NHNN Việt Nam đã có những bước đi quan trọng nhằm tự do hóa lãi suất. Trước năm 2000, NHNN áp dụng chính sách lãi suất trần, theo đó các ngân hàng thương mại không được cho vay vượt quá mức lãi suất trần do NHNN quy định. Từ 6/2002, NHNN đã cho phép các ngân hàng tự quyết định mức lãi suất cho vay trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Quyết định này có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, giúp cho các ngân hàng tiến dần tới nguyên tắc cho vay dựa vào đánh giá phòng ngừa rủi ro. Đây là một cơ hội mở rộng hơn đối với các DNVVN trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.
Ngoài ra, chính phủ cùng ngân hàng nhà nước và các tổ chức quốc tế phối hợp với các ngân hàng thương mại trong nước đã và đang có những chương trình trợ giúp về tài chính cho các DNVVN.
3.1.3. Định hướng mở rộng cho vay đối với DNVVN của NHNo & PTNT Thanh Xuân
3.1.3.1. Kế hoạch kinh doanh năm 2007
Bảng 3.1: Kế hoạch kinh doanh của chi nhánh năm 2007
Đơn vị: Triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
TH năm 2006
KH năm 2007
1
Tổng nguồn
409.382
554.000
- NHNo & PTNTội tệ
303.784
402.000
- Ngoại tệ quy đổi VNĐ
105.598
152.000
2
Tổng dư nợ
106.865
134.278
- Cho vay ngắn hạn
66.344
85.000
- Cho vay trung dài hạn
40.521
49.278
(Nguồn: từ báo cáo kế hoạch kinh doanh của chi nhánh năm 2007)
3.1.3.2. Định hướng mở rộng cho vay đối với DNVVN của chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân
Trong những năm tới định hướng cho vay của chi nhánh đối với DNVVN là sẽ tiếp tục mở rộng cho vay hơn nữa nhưng phải đảm bảo chất lượng đồng thời kinh doanh có hiệu quả. Các biện pháp được đưa ra nhằm thực hiện mục tiêu được đặt ra như sau:
+ Tập trung phục vụ tốt những DNVVN là khách hàng truyền thống. Hỗ trợ, giúp đỡ khi họ có cơ hội phát triển, khó khăn vướng mắc về vốn, công nghệ. Đặc biệt là đối với DNVVN cần vốn lưu động để mở rộng quy mô sản xuất và công nghệ hiện đại. Đồng thời phải sàng lọc các khách hàng kinh doanh kém hiệu quả không đủ khả năng vay vốn.
+ Xây dựng lực lượng khách hàng chiến lược, tăng cường tiếp thị tìm kiếm, lựa chọn các dự án khả thi, khách hàng có tiềm lực tài chính, làm ăn có hiệu quả để mở rộng đầu tư. Chiến lược đầu tư có thể nhằm vào các định hướng là tăng cường khối lượng tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng như có thể mở rộng tín dụng trung và dài hạn nhằm góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, mở rộng đầu tư đối với các thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu đầu tư các vùng kinh tế, đa dạng hóa các hình thức cho vay. Tuy nhiên cho vay và đầu tư mới phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả, bền vững.
+ Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay, thực hiện nghiêm túc các thủ tục, quy trình cấp tín dụng theo nội dung quy định.
+ Củng cố đội ngũ cán bộ tín dụng có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm định, xét và quyết định cho vay; kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, chủ động thu hồi đầy đủ nợ gốc lãi theo từng kỳ hạn đứng khế ước hợp đồng vay vốn, phấn đấu không để phát sinh nợ quá hạn mới.
+ Tìm các biện pháp cụ thể với từng khách hàng để giải quyết thu hồi nợ quá hạn, phối hợp với cơ quan pháp luật và cơ quan thi hành án để xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
+ Giải quyết những tồn tại sau thanh tra, kiểm tra, thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo từ cấp trên.
3.2. Giải pháp mở rộng cho vay của DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
3.2.1. Giải pháp đối với các khoản nợ quá hạn
Để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng tổn thất cho ngân hàng do các khoản nợ quá hạn, nợ xấu thì cùng với việc thực hiện nghiêm túc về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của ngân hàng nhà nước, chi nhánh cần phân tích nguyên nhân, thực trạng các khoản nợ quá hạn để từ đó có những biện pháp khắc phục.
Trong trường hợp khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời chưa trả được nợ cho ngân hàng nhưng vẫn có khả năng và ý chí trả nợ thì khi đó ngân hàng nên có những chính sách nhằm hỗ trợ cho họ thông qua việc cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi quá hạn…để từ đó họ có cơ hội vượt qua khó khăn, trả được nợ cho ngân hàng. Những chính sách hỗ trợ đó của ngân hàng một mặt giúp ngân hàng tránh được tổn thất nhưng mặt khác củng cố mỗi quan hệ với khách hàng, gây nên lòng tin cho khách hàng. Đây là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Trong trường hợp khách hàng lừa đảo, chây ì cố tình không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ thì chi nhánh thực hiện việc thanh lý tài sản thế chấp, phong toả tài sản tiền gửi.
3.2.2. Tăng cường công tác thẩm định khách hàng
Tăng cường công tác thẩm định khách hàng chính là biện pháp nhằm hình thành nên những khoản vay có chất lượng tốt. Để hoàn thành công tác này chi nhánh cần thực hiện những biện pháp sau:
Thu thập thông tin một cách đầy đủ và chính xác
Khi khách hàng xin vay tại ngân hàng, nguồn thông tin đầu tiên mà các cán bộ tín dụng thu thập được là từ bộ hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp. Tuy nhiên trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay thì tính chính xác của các thông tin này không được đảm bảo. Nhất là ở những DNVVN, họ thường tự tạo ra những báo cáo kinh doanh đẹp không giống với trên thực tế để có thể được phê duyệt vay vốn. Do đó, các cán bộ tín dụng cần phải thu thập thêm thông tin qua việc gặp gỡ trực tiếp khách hàng như: phỏng vấn trực tiếp, tham quan nhà xưởng, nói chuyện với giám đốc và người lao động…
Bên cạnh những nguồn thông tin trên, cán bộ tín dụng có thể có được thông tin qua các ngân hàng khác đã có quan hệ với người vay, các doanh nghiệp có quan hệ với doanh nghiệp xin vay, các thông tin bổ sung từ báo chí. Đó là những nguồn cho những thông tin khá thực chất về tình hình của doanh nghiệp. Ngoài ra các ngân hàng còn có nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước(CIC).
Từ những nguồn thông tin như vậy cán bộ tín dụng sẽ có cái nhìn chính xác và toàn diện về đối tượng khách hàng xin vay và từ đó có những quyết định cho vay đúng đắn.
Nâng cao khả năng đánh giá, phân tích khách hàng
Công việc tiếp theo sau khi thu thập thông tin về khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ phải đánh giá và phân tích khách hàng để từ đó quyết định có nên cho vay hay không. Trong quá trình phân tích cán bộ tín dụng nên chú ý một số điểm sau:
- Năng lực pháp lý của khách hàng
Khách hàng vay vốn phải là cá nhân có năng lực dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với khách hàng là doanh nghiệp thì người đại diện cho doanh nghiệp xin vay phải được uỷ nhiệm, có thẩm quyền để tham gia thoả thuận và ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng.
- Tư cách đạo đức của khách hàng
Tư cách của khách hàng là yếu tố mà cán bộ tín dụng có thể đánh giá mức độ an toàn của khoản vay, nó được thể hiện thông qua những tiêu chuẩn như trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn, kế hoạch trả nợ khoản vay.
Năng lực quản lý, điều hành của khách hàng
Trong công tác cho vay cán bộ tín dụng cần phải biết được năng lực của khách hàng như thế nào vì khi đã cho vay để có thể sử dụng số vốn vay đó một cách có hiệu quả điều đó phụ thuộc một phần vào năng lực quản lý điều hành của người lãnh đạo.
Tình hình tài chính của khách hàng
Đây là nội dung vô cùng quan trọng trong quá trình phân tích khách hàng. Phân tích tài chính giúp cho ngân hàng nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng.
Tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo góp phần tăng độ an toàn cho ngân hàng khi cho khách hàng vay vốn khi mà năng lực tài chính khách hàng có độ tin cậy chưa cao. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng cần chú ý tới quyền sở hữu, giá thị trường của tài sản đảm bảo khi xem xét tài sản đảm bảo.
Ngoài những điểm trên cán bộ tín dụng cũng cần chú ý tới khả năng kiểm soát vốn vay của ngân hàng, các điều kiện môi trường kinh tế ảnh hưởng tới hoạt động cũng như xu hướng của doanh nghiệp xin vay.
3.2.3. Tăng cường các hoạt động marketing
Hoạt động marketing có vai trò rất lớn trong kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng. Marketing tham gia vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của hoạt động kinh doanh ngân hàng, góp phần tạo vị thế cho ngân hàng. Tuy nhiên tại chi nhánh chiến lược marketing nói chung và đối với các DNVVN nói riêng vẫn chưa được rõ ràng. Trong thời gian tới với tư cách là một chi nhánh cấp II, chi nhánh cần tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau:
Chủ động tìm kiếm khách hàng
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài đòi hỏi mỗi ngân hàng ngay từ bây giờ ngoài các khách hàng là DNVVN truyền thống hãy chủ động tím kiếm khách hàng cho riêng mình mà đặc biệt là khách hàng DNVVN vì loại hình doanh nghiệp này đang có xu hướng phát triển nhanh chóng. Để thu hút được khách hàng, chi nhánh nên có chính sách khách hàng một cách chi tiết, cụ thể hướng tới khách hàng, chủ động tìm kiếm khách hàng, đẩy mạnh công tác tiếp thị một cách thiết thực nhất.
Một ngân hàng thành công khi không chỉ thực hiện việc cho vay đối với doanh nghiệp mà còn nên đóng vai trò là một nhà tư vấn cho doanh nghiệp, giải quyết các vấn đề về tài chính cho doanh nghiệp. Để có thể làm được điều này, chi nhánh có thể liệt kê tất cả các DNVVN mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Từ đó, ngân hàng có thể xác định doanh nghiệp nào đã từng được vay, doanh nghiệp đã đề nghị vay nhưng chưa được chấp thuận, doanh nghiệp nào chưa từng vay tại ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp đã từng vay mà có uy tín thì cần có chính sách đãi ngộ dưới các hình thức khác nhau như có thể ưu đãi về lãi suất, cung cấp những dịch vụ của ngân hàng với giá ưu đãi… Hoặc đối với các doanh nghiệp đã từng đề nghị vay vốn mà chưa được ngân hàng chấp thuận thì nên tìm hiểu nguyên nhân, nếu nguyên nhân từ phía ngân hàng thì ngân hàng phải kịp thời sửa chữa, còn nếu nguyên nhân từ phía doanh nghiệp thì ngân hàng có thể giúp đỡ. Và đối với doanh nghiệp chưa từng vay vốn tại chi nhánh thì nên tìm hiểu tình hình hoạt động của doanh nghiệp đó như thế nào, doanh nghiệp đó có vay vốn ở các ngân hàng khác không, tại sao doanh nghiệp đó không vay ở chi nhánh mình…Bên cạnh đó cần rà soát tất cả các DNVVN trên địa bàn, tìm hiểu những doanh nghiệp chưa từng vay vốn tại ngân hàng mà lại đang cần vốn để có những biện pháp thu hút khách hàng, cùng khách hàng giải quyết những khó khăn về tài chính doanh nghiệp.
Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng
Các hoạt động marketing có thể áp dụng như tăng cường công tác quảng cáo trên báo chí, truyền thanh, truyền hình, internet hay phát tờ rơi, tổ chức các hội nghị khách hàng. Đây là những hình thức marketing để cho các DNVVN có cơ hội biết về ngân hàng nhằm thu hút khách hàng.
Ngày càng tạo ra nhiều dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
Nhu cầu của khách hàng ngày càng liên tục thay đổi theo trình độ phát triển nhân loại theo trình độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Chính vì vậy mà chi nhánh cần đưa ra được những sản phẩm dịch vụ kèm theo riêng của mình nhằm lôi kéo được khách hàng về mình, nâng cao tính cạnh tranh. Điều đó rất quan trọng bởi vì qua nghiên cứu ở các nước chì ra rằng tiếp cận khách hàng mà chỉ có hoạt động cho vay thì không đủ để thu hút khách hàng.
Trong các sản phẩm dịch vụ giai đoạn hiện nay, ngân hàng cần chú trọng tới hình thức thanh toán không dùng tiền mặt bởi mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt là cơ sở để các NHTM mở rộng tín dụng, phát triển cho vay, giảm lãi suất cho vay, áp dụng các công nghệ hiện đại trong thanh toán. Ngoài ra, thanh toán không dùng tiền mặt còn là một biện pháp hạn chế rủi ro trong khi cho vay, bởi khi đó khách hàng buộc phải có tài khoản thanh toán tại ngân hàng do đó ngân hàng sẽ kiểm soát được tình hình tài chính của khách hàng.
3.2.4. Mở rộng đôí tượng khách hàng phục vụ
Trong thời gian tới ngoài những khách hàng truyền thống, chi nhánh cần mở rộng thêm đối tượng khách hàng mà mình phục vụ trên cơ sở chọn lọc, nghiên cứu kỹ đối tượng đó. Việc mở rộng đối tượng khách hàng như vậy sẽ giúp cho ngân hàng giảm thiểu được rủi ro. Việc tài trợ cho nhiều đối tượng sẽ ít rủi ro hơn là cho một đối tượng do khả năng thu hồi vốn cao hơn.
Giải pháp mà chi nhánh có thể áp dụng để mở rộng đối tượng phục vụ là thực hiện tìm kiếm và cho vay với các loại hình DNVVN hoạt động trên cả ba lĩnh vực là doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đó là thị trường đầy tiềm năng và sẽ đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng.
3.2.5. Đa dạng hoá các hình thức cho vay
Nhằm tăng khả năng thích hợp của các hình thức vay với sản phẩm của các DNVVN và đa dạng hoá các hình thức cho vay. Trong thời gian tới chi nhánh nên mở rộng thêm các hình thức cho vay khác ngoài những hình thức mà chi nhánh đang thực hiện.
Ngân hàng có thể áp dụng hình thức cho vay luân chuyển đối với các DNVVN. Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng, thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay, khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Hình thức cho vay này thường áp dụng với các doanh nghiệp có chu kỳ tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay trả thường xuyên, các doanh nghiệp thương nghiệp. Vì vậy, hình thức cho vay này rất thích hợp với các DNVVN và xu hướng phát triển của các doanh nghiệp.
3.2.6. Tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng nâng cao trình độ năng lực
Cán bộ tín dụng là một nhân tố quyết định tới chất lượng của các khoản cho vay. Cán bộ tín dụng đem lại một phần thu nhập cho ngân hàng song cũng đem lại không ít những rủi ro.Vì vậy đối với cán bộ tín dụng cần phải đào tạo kiến thức cho họ một cách toàn diện trong tất cả mọi ngành kinh tế, có như vậy mới đem lại hiệu quả cho những khoản cho vay.
Chi nhánh có thể tự mở những lớp học nghiệp vụ cho cán bộ của mình. Khuyến khích cán bộ đào tạo và hoàn thiện bản thân.
Ngoài ra cần phải giáo dục tư cách đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ làm công tác tín dụng, tránh tình trạng cán bộ tín dụng bị mua chuộc làm tổn thất cho ngân hàng.
3.2.7. Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, kiểm soát khi cho vay
Kiểm tra, kiểm soát khi cho vay giúp cho việc ngăn ngừa những ý đồ vay xấu của khách hàng mà còn xác định được những khoản cho vay có vấn đề để từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời. Do vậy công tác này cần phải được thực hiện môt cách chặt chẽ. Có một số biện pháp cần thực hiện như sau:
Thường xuyên định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng thông qua sổ sách hạch toán theo dõi của khách hàng, hoá đơn chứng từ hạch toán, kiểm tra tiến độ thi công.
Cán bộ tín dụng phải dựa vào các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp tính toán phân tích tình hình tài chính của khách hàng, khả năng thực hiện kế hoạch của dự án để từ đó xác định khả năng trả nợ của khách hàng.
Thường xuyên kiểm tra các hồ sơ đảm bảo, tài sản đảm bảo tiền vay để có những phương án xử lý kịp thời. Tránh tình trạng mất mát, hư hỏng, chuyển nhượng quyền sở hữu, những biến động của thị trường… gây tổn thất cho ngân hàng.
Ngoài ra chi nhánh cũng cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện theo đúng quy trình tín dụng của các cán bộ tín dụng khi thực hiện cho vay.
3.3. Kiến nghị
Nhằm khắc phục những nguyên nhân khách quan còn tồn tại, hỗ trợ các giải pháp đã nêu. Em xin được đưa ra một số kiến nghị sau:
3.3.1. Kiến nghị với cơ quan nhà nước
Với chính phủ
Tạo môi trường kinh tế thuận lợi: Tiếp tục xây dựng cơ chế thị trường hoàn chỉnh, đồng bộ. Cải cách chính sách tiền tệ và chính sách đối ngoại; tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác với các nước trên thế giới, dần hoàn thiện môi trường đầu tư trong và ngoài nước…để phù hợp với sự phát triển hiện nay của DNVVN cũng như của nền kinh tế.
Hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện phát triển cho khu vực kinh tế D:
Môi trường pháp lý đầy đủ sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng. Như chúng ta đã biết hoạt động của ngân hàng liên quan tới nhiều thành phần trong nền kinh tế, do đó hoàn thiện môi trường pháp lý- đặc biệt là luật các tổ chức tín dụng, đang là nhiệm vụ cấp thiết, thường xuyên, liên tục và lâu dài của các cấp các ngành.
Công tác quản lý nhà nước đối với các DNVVN còn nhiều sơ hở dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan nhưng không hiệu quả của các DNVVN trong thời gian qua. Mặt khác, các DNVVN được thừa nhận là thành phần kinh tế tồn tại tất yếu và chủ yếu trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam nhưng nhà nước vẫn chưa thực sự có được môi trường pháp lý thuận lợi để các DNVVN có định hướng phát triển. Ví dụ như chính sách thuế hiện nay đang áp dụng với DNVVN còn nhiều bất cập bởi vẫn tồn tại nhiều mức thuế khác nhau với cách quản lý phức tạp, không chặt chẽ đã gây ra nhiều phiền hà cho các doanh nghiệp đồng thời dẫn đến hiện tượng trốn thuế. Chính vì vậy, nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện một cách sâu sát, triệt để hình thành những doanh nghiệp thực sự có chất lượng và như thế thì cho vay đối với các DNVVN mới có hiệu quả.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng nhà nước là cơ quan quản lý chung mọi hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều phối ban hành những văn bản quy định về các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng- tài chính tiền tệ để hướng dẫn các NHTM thực hiện theo đúng đường lối chính sách của đảng và nhà nước. Hiện nay, các DNVVN hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đang trên đà phát triển, ngân hàng nhà nước với vai trò trực tiếp phụ trách chỉ đạo hoạt động cho vay đối với DNVVN nên việc làm đầu tiên để phát triển hoạt động cho vay đối với DNVVN là cần phải ban hành một cơ chế riêng, một quy trình cho vay riêng đối với DNVVN phù hợp với đặc điểm của DNVVN.
Ngoài ra, nhà nước cần tăng cường công tác thông tin cho các ngân hàng thương mại qua trung tâm thông tin tín dụng(CIC) đảm bảo cập nhật thường xuyên, kịp thời bởi đây là kênh thông tin mà các ngân hàng thương mại tin cậy. Tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại cần có nhiều sản phẩm tín dụng mang tính chuẩn hoá cũng như có cẩm nang tín dụng, cẩm nang quản lý rủi ro.
Mặt khác, ngân hàng nhà nước cần tiếp tục thu hút nguồn vốn, tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ cho các DNVVN của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ.
3.3.2. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam
Hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam trực thuộc NHNN Việt Nam, là cơ quan lãnh đạo cao nhất, chỉ đạo hoạt động của NHNo & PTNT quận Thanh Xuân do vậy NHNo & PTNT Việt Nam bên cạnh việc thực thi và triển khai những quy định, những văn bản mà NHNN đã ban hành thì NHNo & PTNT Việt Nam cần có những quy định rõ ràng hơn hơn nữa, cụ thể là về DNVVN để làm định hướng cho NHNo & PTNT Thanh Xuân cũng như các chi nhánh khác.
Ban hành văn bản hướng dẫn quy định thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay riêng đối với các loại hình DNVVN. Thường xuyên có những hướng dẫn, định hướng cho vay DNVVN để đôn đốc các chi nhánh thực hiện cho vay các DNVVN.
Ở Việt Nam hiện nay số lượng DNVVN ngày càng gia tăng vì vậy công tác cho vay của các cán bộ tín dụng phải thực hiện càng nhiều vì vậy những sai sót xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Do đó việc kiểm tra, kiểm soát quy trình cho vay riêng đối với các DNVVN để có những chỉ đạo, điều chỉnh kịp thời.
NHNo & PTNT Viêt Nam cũng cần hỗ trợ về tài chính, thông tin, nhân lực, công nghệ cho các chi nhánh để toàn hệ thống thực hiện tốt quy trình cho vay phát triển có hiệu quả cho vay DNVVN.
Hơn nữa, NHNo & PTNT Việt Nam cần khai thác các nguồn tín dụng ưu đãi từ ngân hàng nhà nước và các tổ chức khác, có sự phân bổ hợp lý giữa các chi nhánh trong hệ thống làm cho các chi nhánh có thêm nguồn vốn để hỗ trợ các DNVVN.
3.3.3. Kiến nghị với các DNVVN
Để thực hiện tốt việc phát triển cho vay đối với các DNVVN thì ngoài sự nỗ lực của các cơ quan chức năng, ngành ngân hàng cũng như chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân rất cần thiết sự hợp tác và cố gắng từ chính bản thân của các DNVVN. Muốn vậy các DNVVN cần chú ý tới những vẫn đề sau:
Thường xuyên tiếp cận thông tin trên thị trường cũng như các ngân hàng để có thể đáp ứng yêu cầu của ngân hàng khi vay vốn tại ngân hàng với thời gian nhanh nhất và tiết kiệm được những chi phí cho doanh nghiệp.
Đào tạo nguồn nhân lực: đây là môt yêu cầu cấp thiết trong quá trình hội nhập. Bên cạnh việc chính phủ có những chương trình đào tạo, cập nhật thông tin cho các DNVVN thì bản thân các DNVVN phải chủ động đào tạo đội ngũ nhân viên, coi đầu tư vào nguồn nhân lực là một khoản đầu tư chiến lược không thể thiếu trong quá trình kinh doanh. Trong việc đào tạo thì chủ DNVVN phải là người đi đầu trong việc nâng cao năng lực quản lý đặc biệt là khả năng lập kế hoạch kinh doanh một cách khả thi cho doanh nghiệp, đó là điều kiện hàng đầu cho doanh nghiệp có thể tiêp cận được nguồn vốn của các ngân hàng.
Hệ thống sổ sách cần rõ ràng, minh bạch và đầy đủ thông tin. Hiện nay DNVVN chưa chú trọng đến việc lập báo cáo tài chính theo đúng quy định, chuẩn mực. Các báo cáo gửi lên ngân hàng nhiều khi còn sơ sài, không đủ những thông tin cần thiết. Thậm chí có những trường hợp số liệu đưa lên không đúng thực tế gây ra cho nhiều ngân hàng trong việc thẩm định hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp, điều đó dẫn đến doanh nghiệp đó không vay được vốn mặc dù doanh nghiệp có thể được vay vốn. Vì vậy, các DNVVN cần tuân thủ các quy định, chế độ tài chính kế toán.
Trên đây là một vài ý kiến kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền và các DNVVN. Để thực hiện tốt các giải pháp đề ra, tất cả các cơ quan chức năng, hệ thống NHNo & PTNT trong đó có chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân phải liên kết chặt chẽ, phối hợp một cách đồng bộ để nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng, trợ giúp cho các DNVVN về vốn sao cho thành phần kinh tế DNVVN ngày càng phát triển.
KẾT LUẬN
Trong đợt thực tập của mình và qua nghiên cứu tình hình cho vay DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân. Em nhận thức được tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNVVN, và cũng thấy được những mặt làm được, những hạn chế của công tác cho vay tại chi nhánh đối với loại hình này.
Việc mở rộng là rất cần thiết, tuy nhiên đó là một vấn đề lớn mà các cơ quan của nhà nước, ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại phải xem xét, nghiên cứu để có những phương án hợp lý nhằm tránh được những rủi ro và thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN.
Do trình độ nhận thức và lý luận còn hạn chế nên bài viết chuyên đề của em không tránh khỏi có những sai sót. Em rất mong được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phan Thị Thu Hà, 2002, giáo trình ngân hàng thương mại, NXB thống kê.
2. TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính tiền tệ, NXB Thống kê.
3. Các văn bản, nghị định: Nghị định số 49/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại; Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Quy chế tín dụng, của NHNo & PTNT Việt Nam, sổ tay tín dụng.
4. Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân các năm 2004-2006
5. Tạp chí tài chính doanh nghiệp 10,11,12/2004; thông tin tài chính 5/2004, 4/2005…
6. Feredric S Miskin, 1994, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNo & PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
DN: Doanh nghiệp
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHCT: Ngân hàng công thương
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
Bảng biểu
Bảng 1.1: Một số tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được áp dụng ở Việt Nam
Bảng 2.1: Hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Bảng 2.2: Hoạt động cho vay của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Bảng 2.3: Kết quả tài chính của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ theo thời gian tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh xuân
Bảng 2.6: Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế tại chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân
Bảng 2.7: Hiệu suất sử dụng vốn
Bảng 2. 8: Tình hình nợ quá hạn
Bảng 2.9: Vòng quay vốn tín dụng
Bảng 3.1: Kế hoạch kinh doanh của chi nhánh năm 2007
Biểu đồ 2.1: Dư nợ DNVVN tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ DNVVN theo thời gian qua các năm 2004-2006
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu dư nợ DNVVN theo thành phần kinh tế tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân
Sơ đồ
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo & PTNT quận Thanh Xuân
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31947.doc