LỜI MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6
1.1. Tổng quan về NHTM 6
1.1.1. Khái niệm NHTM 6
1.1.2. Các hoạt động của NHTM 6
1.1.2.1. Huy động vốn 6
1.1.2.2. Sử dụng vốn 7
1.1.2.3. Hoạt động trung gian 8
1.2. Hoạt động cho vay của NHTM 8
1.2.1. Khái niệm cho vay 8
1.2.2. Nguyên tắc cho vay 9
1.2.2.1. Khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích 9
1.2.2.2. Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn và lãi đúng thời hạn 9
1.2.3. Qui trình cho vay 9
1.2.4. Các loại hình cho vay 10
1.2.4.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay 10
1.2.4.2. Căn cứ vào hình thức đảm bảo 10
1.2.4.3. Căn cứ vào cách thức cho vay 11
1.2.4.4. Căn cứ vào phương thức cho vay 12
1.2.4.5. Các hình thức phân loại khác 14
1.3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM 14
1.3.1. Sự cần thiết mở rộng cho vay 14
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay của NHTM 15
1.3.2.1. Các chỉ tiêu của ngân hàng 15
1.3.2.2. Các chỉ tiêu của khách hàng 20
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay của NHTM 21
1.3.3.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng 21
1.3.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng 25
1.3.3.3. Các nhân tố khác 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO BAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG YÊN VIÊN 29
2.1. Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên 29
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 29
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 30
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây 30
2.2. Thực trạng mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên 32
2.2.1. Giới thiệu chung về làng nghề Ninh Hiệp 32
2.2.2. Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Ninh Hiệp 34
2.2.2.1. Về thị trường 36
2.2.2.2. Về tổ chức sản xuất 38
2.2.2.3. Về lao động và giải quyết việc làm 39
2.2.2.4. Về trang bị máy móc thiết bị 40
2.2.3. Nhu cầu vốn của làng nghề Ninh Hiệp 40
2.2.4. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 44
2.2.3.1. Qui trình , điều kiện cho vay của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 44
2.2.2.2. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp 46
2.2.3. Đánh giá hoạt động mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 51
2.2.3.1. Những kết quả đạt được 51
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 51
2.2.3.2.1. Hạn chế 51
2.2.3.2.2. Nguyên nhân 52
CHƯƠNG 3: GIAI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP TẠI CHỊ NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG YÊN VIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI 55
3.1. Mục tiêu mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên 55
3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên 55
3.2.1. Cải tiến qui trình, điều kiện, thủ tục cho vay 55
3.2.1.1. Cải tiến qui trình cho vay 55
3.2.1.2. Cải tiến các điều kiện vay vốn 56
3.2.1.3. Cải tiến thủ tục cho vay 58
3.2.2. Áp dụng lãi suất cho vay linh hoạt và phù hợp 59
3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức cho vay 60
3.2.3.1. Cho vay theo hạn mức 60
3.2.3.2. Cho vay gián tiếp qua các tổ chức trung gian 61
3.2.3.3. Cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay 61
3.2.3.4. Cho vay bằng nguồn vốn ủy thác 62
3.2.4. Mở rộng thông tin, tuyên truyền nhằm tiếp cận làng nghề 63
3.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng 64
3.2.6. Tăng cường và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ 66
3.3. Kiến nghị 67
3.3.1. Kiến nghị đối với các cấp chính quyền 67
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam 68
KẾT LUẬN 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh tại đây, họ đều ngại thủ tục đăng ký thành lập công ty phiền hà, phải hạch toán sổ sách nhiều. Cả xã chỉ có vài chục hộ hạch toán bằng sổ sách kế toán theo yêu cầu của phòng thuế vì doanh thu của họ quá lớn. Còn lại các hộ vẫn làm theo kiểu “sổ chợ”, đây chính là lý do mà khi chợ Đồng Xuân cháy nhiều thương nhân Ninh Hiệp đã bị vỡ nợ, sổ nợ cháy theo hàng.
Ngoài các hình thức tổ chức như trên ở Ninh Hiệp còn có HTX dịch vụ tổng hợp hoạt động khá hiệu quả cơ bản đáp ứng được các nhu cầu về cung ứng dịch vụ của toàn xã, thu nhập bình quân của mỗi xã viên từ 320.000 đến 550.000/tháng và có tích lũy tái đầu tư.
2.2.2.3. Về lao động và giải quyết việc làm
Riêng hoạt động của chợ vải thu hút lao động của 90% hộ gia đình trong xã. Chủ thể kinh doanh tại chợ không chỉ là người tiểu nông, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ mà thương nhân, chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh, nhóm kinh doanh ngày càng nhiều.
Nghề may cắt gia công có khoảng hơn 200 hộ, mỗi hộ thuê khoảng 60 lao động trong xã và các xã xung quanh may gia công.
Với nhiều dự án của Chính phủ, của thành phố Hà Nội như: xây dựng trung tâm thương mại, dịch vụ, bến ôtô Bắc Nam, quốc lộ 1B, khu công nghiệp, khu chế xuất vừa và nhỏ, khu chung cư, đường vành đai 3... diện tích đất canh tác của Ninh Hiệp bị giảm mạnh lao động thuần nông dư thừa. Dự án xây dựng chợ dược liệu, trung tâm chế biến dược liệu đã được phê duyệt. Khi những công trình này đi vào xây dựng và hoạt động sẽ thu hút không chỉ người dân Ninh Hiệp mà cả lao động ở nơi khác đến làm việc. Đây là biện pháp chuyển dịch kinh tế nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
2.2.2.4. Về trang bị máy móc thiết bị
Đối với nghề thuốc, chế biến vẫn mang tính chất thủ công, không có lò sấy chuyên dùng mà chỉ là lò do các hộ tự dựng lên.
Nghề may cắt gia công đã được cơ khí hóa hầu hết các công đoạn chính. Hơn 200 hộ làm nghề may cắt gia công ở Ninh Hiệp đã sử dụng 4000 đầu máy may chạy điện. Có 20 hộ sử dụng máy cắt công nghiệp, cắt từ 200-300 sản phẩm/ngày bằng dao chuyên dụng.
Với các hộ buôn bán vải thì khi giao dịch với chủ hàng ở Hồng Kông, Trung Quốc đã dùng những phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, fax, internet. Tiền hàng được thanh toán qua bưu điện, hàng chuyển theo đường hàng không hay đường sắt.
Ở Ninh Hiệp cũng bắt đầu có một số gia đình cho con cái ra Hà Nôi học vi tính để dùng vi tính thay cho sổ sách, nhưng chưa nhiều.
Tóm lại, hoạt động sản xuất kinh doanh ở làng nghề Ninh Hiệp vô cùng sôi động, không chỉ có hoạt động trong nước mà cả hoạt động xuất nhập khẩu với khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn. Trên đà phát triển này cùng với những dự án xây dựng của thành phố và địa phương, hoạt động sản xuất kinh doanh ở đây sẽ ngày càng được mở rộng.
2.2.3. Nhu cầu vốn của làng nghề Ninh Hiệp
Cũng như mọi lĩnh vực khác vốn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ làng nghề diễn ra ổn định và có thể mở rộng. Với nhịp độ phát triển sôi động như hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh ở Ninh Hiệp ngày càng được mở rộng, nhu cầu vốn của người Ninh Hiệp ngày càng lớn. Thực tế ở Ninh Hiệp cho thấy chu kỳ sản xuất kinh doanh của các hộ, cơ sở sản xuất là ngắn, thường chỉ kéo dài 3 tháng, 6 tháng đến 12 tháng vì mặt hàng là vải, nông sản, dược liệu... nên có tính mùa vụ rất cao. Ví dụ, riêng đối với mặt hàng vải, do yêu cầu của thị trường tiêu thụ thì mỗi mùa đều phải có những loại vải khác nhau phù hợp với nhu cầu may mặc từng mùa, ngoài ra phải thường xuyên cập nhật nhiều loại vải mới, thay đổi mẫu mã liên tục đáp ứng nhu cầu thời trang may mặc. Do đó nhu cầu vốn của Ninh Hiệp chủ yếu là ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động, quay vòng vốn để nhập hàng mới cho mùa sau. Tuy nhiên đối với các hộ chế biến dược liệu hay hộ gia công may mặc, nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị mới cũng rất lớn.
*Đối với nghề buôn bán vải:
Theo thống kê của xã, để bắt đầu bán hàng vải trong chợ một thương nhân cần ít nhất 400-500 triệu đồng để thuê kiốt, lấy hàng từ các đại lý buôn bán vải lớn trong xã. Đối với người Ninh Hiệp, do nghề buôn bán vải đã có từ lâu đời và thường truyền cho con cháu trong nhà, mức độ tích lũy vốn để tái đầu tư tương đối cao nên với số vốn 400-500 triệu để mở kiốt bán vải thường là bố mẹ bỏ ra ban đầu cho con, anh chị trong nhà cho em. Vì vậy đối tượng thương nhân bán vải nhỏ lẻ trong chợ tuy rất đông (khoảng hơn 1000 người) nhưng họ hầu như không có nhu cầu vay vốn ngân hàng.
Những hộ kinh doanh lớn, đại lý cung cấp vải ở Ninh Hiệp mới là đối tượng có nhu cầu vốn lớn mà ngân hàng và các tổ chức cho vay khác cần hướng tới. Ở Ninh Hiệp có khoảng hơn 100 hộ buôn lớn như vậy. Những đại lý này thường xuyên sang Trung Quốc, Hồng Kông lấy hàng, cứ khoảng hai lần một tháng là có đợt nhập hàng mới, vốn lưu động vì vậy quay vòng rất nhanh, nhu cầu vốn lưu động rất lớn, ước tính khoảng 650 tỷ đồng/năm.
*Đối với nghề may cắt quần áo gia công, chế biến dược liệu, nông sản
Hiện nay mới có 20/400 hộ có nghề may cắt gia công tại Ninh Hiệp sử dụng máy cắt công nghiệp, còn lại là máy may chạy điện. Do đó sản phẩm do Ninh Hiệp làm ra có chất lượng không cao, chỉ có thể bán được với giá thấp, không mở rộng được thị trường tiêu thụ. Để nâng cao năng suất, làm ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn ước tính những hộ này cần vốn khoảng 250 tỷ đồng để mua sắm máy cắt công nghiệp, máy may công nghiệp, thay thế máy cũ đã hết giá trị sử dụng.
Các hộ làm nghề chế biến dược liệu, nông sản thì đều chưa có máy sấy chuyên dùng nên có nhu cầu vốn để cải thiện công nghệ, xây dựng qui trình chế biến hiện đại. Vì thị trường tiêu dùng ngày càng đòi hỏi các sản phẩm, nhất là các sản phẩm thuốc, nông sản phải sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không gây độc hại cho người sử dụng. Việc người Ninh Hiệp sử dụng diêm sinh để sấy cũng đã gây lo lắng cho người tiêu dùng gây ảnh hưởng đến sản lượng tiêu thụ. Mặt khác đối với những hộ kinh doanh, làm đại lý cung cấp dược liệu thì nhu cầu vốn lưu động cũng rất lớn. Các hộ này thường mỗi tuần một lần phải sang Trung Quốc nhập hàng, mỗi đợt hàng khoảng 4, 5 tấn. Để hoạt động được như vậy các hộ phải có vốn mua xe, vốn để trả trước một phần tiền hàng cho chủ hàng Trung Quốc. Ở Ninh Hiệp có khoảng vài trăm hộ kinh doanh nghề thuốc như vậy nên số vốn lưu động ước tính phải cần đến 200 tỷ đồng/năm, vốn để mua sắm tài sản cố định (xe tải, máy sấy...) xấp xỉ 300 tỷ đồng.
Như vậy theo ước tính nhu cầu vốn lưu động của Ninh Hiệp khoảng 850 tỷ đồng/năm; nhu cầu vốn trung, dài hạn để mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ, di chuyển sản xuất vào khu công nghiệp... là khoảng 550 tỷ đồng.
Do đặc điểm sản xuất kinh doanh từ lâu đời, quan hệ với bạn hàng Trung Quốc đã nhiều năm nên khi nhập hàng mới chỉ phải trả trước một phần tiền hàng, phần còn lại sau khi bán hàng thu được tiền mới phải trả phần còn lại. Trên 60% vốn lưu động để kinh doanh là vốn tự có (khoảng trên 510 tỷ đồng) còn lại là vốn vay, trong đó vay ngân hàng chỉ chiếm khoảng 10% (khoảng 85 tỷ đồng), vay của người cho vay nặng lãi, vay của bạn bè... chiếm khoảng 30% còn lại, chủ yếu là vay nặng lãi.
Về vốn trung, dài hạn, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bằng vốn tự có, phần còn lại là nhu cầu rất lớn của Ninh Hiệp đang đợi các ngân hàng khai thác.
Người dân làng nghề ít vay vốn ngân hàng mặc dù có nhu cầu lớn là do hai nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu cần vốn nhanh chóng thậm chí cần ngay lập tức của thương nhân Ninh Hiệp. Thứ hai là do người có nhu cầu vay không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng về chứng minh khả năng tài chính, lập phương án sử dụng vốn vay, các yêu cầu về tài sản đảm bảo... Chính vì vậy họ chọn lựa giải pháp vay nặng lãi mặc dù chịu lãi suất cao, nhưng ngay lập tức có vốn. Với thời gian vay cực ngắn thì đây là giải pháp hiệu quả hơn đi vay ngân hàng.
Tuy nhiên những con số trên mới chỉ là ước tính trong thời điểm hiện tại. Theo định hướng phát triển, Ninh Hiệp trở thành trung tâm cung cấp vải và phụ kiện ngành may cho toàn miền Bắc, hoạt động kinh doanh vải ngày càng mở rộng, hoạt động buôn bán, xuất nhập khẩu với nước ngoài sẽ ngày càng phát triển. Hoạt động kinh doanh trong thời kỳ mới có thể vượt quá khả năng vốn tự có của các thương nhân ở đây. Khi đó nhu cầu vay vốn lưu động của ngân hàng chắc chắn sẽ tăng cao hơn. Và khi khu công nghiệp Ninh Hiệp được xây dựng xong, theo chủ trương của các cấp lãnh đạo các hộ may cắt gia công cần được tập trung lại thành xưởng may, công ty may mặc, các hộ chế biến dược liệu tập trung thành các xưởng chế biến, công ty chế biến dược liệu, nông sản. Khi đó các hộ cần phải tiến hành xây dựng nhà xưởng mới, mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải mới, trả tiền thuê đất,...nhu cầu vốn trung, dài hạn vì vậy cũng ngày càng cao. Trong tương lai nhu cầu vốn của Ninh Hiệp chắc chắn sẽ còn tăng lên nữa.
2.2.4. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên
2.2.3.1. Qui trình , điều kiện cho vay của Ngân hàng Công Thương Yên Viên
Trong toàn hệ thống Ngân hàng Công Thương áp dụng điều kiện vay vốn và qui trình cho vay thống nhất cho mọi đối tượng khách hàng.
Khách hàng muốn vay vốn ngân hàng phải đáp ứng đủ những điều kiện sau:
- Có năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đối với khách hàng doanh nghiệp phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào phương án/ dự án phục vụ sản xuất kinh doanh hay phục vụ đời sống. Trường hợp vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tham gia vào phương án/ dự án vay vốn thấp hơn mức quy định, ngân hàng sẽ xem xét và quyết định cho vay căn cứ vào tính hiệu quả, khả năng đảm bảo trả nợ của phương án/ dự án. Có tình hình tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có lãi., nếu bị lỗ thì phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận cấp bù lỗ.
- Phương án/ dự án đầu tư hoặc dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống phải khả thi, có hiệu quả kèm theo phương án trả nợ khả thi. - Thực hiện các biện pháp tài sản đảm bảo tiền vay.
- Phải mua bảo hiểm tài sản nếu tài sản là đối tượng vay vốn mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm.
- Đối với khách hàng là cá nhân phải có hộ khẩu thường trú hoặc có xác nhận cư trú thường xuyên tại cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi các chi nhánh của NHCTVN đóng trụ sở.
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp phải Có trụ sở làm việc cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi các chi nhánh của NHCTVN đóng trụ sở.
Mặt khác, hiện nay chi nhánh Yên Viên đã ứng dụng hệ thống hiện đại hóa ngân hàng (INCAS) nên ngoài qui trình xử lý trên giấy thông thường còn có qui trình xử lý cho vay trên hệ thống máy tính theo chương trình INCAS. Đây là một hệ thống quản lý dữ liệu tập trung. Các chi nhánh khi vận hành hệ thống này sẽ trở thành một thể thống nhất, chỉ có một cơ sở dữ liệu chung.
Mô hình quan hệ vay vốn giữa khách hàng với ngân hàng:
BỘ PHẬN
CHO VAY
KHÁCH HÀNG
BỘ PHẬN
GIAO DỊCH
HOST
(TRỤ SỞ CHÍNH)
Đồng ý cho vay
Đề nghị vay
Giải ngân
thu nợ
Hoạt động giao dịch
Hạch toán giao dịch
Thông tin về khoản vay
Cập nhật dữ liệu giao dịch
Thông tin mặc định về các loại sản phẩm cho vay
Trình khoản vay vượt mức phán quyết
Bước 1: Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng về điều kiện vay vốn và lập hồ sơ vay vốn bao gồm: giấy đề nghị vay vốn, phương án sử dụng vốn, các báo cáo tài chính.
Bước 2: Điều tra, tổng hợp, thu thập thông tin về khách hàng và phương án vay vốn. Các biện pháp thu thập thông tin: phỏng vấn khách hàng, tổng hợp thông tin từ những tổ chức có quan hệ với khách hàng, thông tin từ thị trường và tại nơi hợt động sản xuất kinh doanh của khách hàng
Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Đánh giá năng lực kinh doanh, năng lực tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố.
Bước 4: Ra quyết định vay vốn
Bước 5: Cán bộ tín dụng hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn và chuyển hồ sơ sang bộ phận kế toán để tiến hành giải ngân cho khách hàng.
Bước 6: Sau khi phát tiền vay cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải kiểm tra, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng vốn vay. Tiến hành thu hồi nợ khi đến hạn và có các biện pháp xử lý rủi ro nếu có.
Các bước phải thực hiện trên máy tính theo chương trình INCAS:
- Khai báo thông tin về khách hàng vay vốn
- Khai báo và quản lý hạn mức tín dụng cho khách hàng
- Tạo và quản lý Facility (được sử dụng để quản lý hạn mức hoặc quản lý hợp đồng)
- Nhập và quản lý các thông tin về tài sản đảm bảo
- Tạo tài khoản và xử lý các vấn đề phát sinh của khoản vay
- Thu nợ, kết thúc khoản vay
2.2.2.2. Kết quả mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp
Hoạt động cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên thời gian qua đã đạt được những kết quả sau:
*Về số lượng khách hàng:
Đơn vị tính: người
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Tổng số khách hàng
143
170
- Khách hàng vay trên 100 triệu
76
109
- Khách hàng vay dưới 100 triệu
67
61
- Khách hàng là cá nhân
143
170
- Khách hàng là tổ chức kinh tế
0
0
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu do Phòng khách hàng cá nhân, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên cung cấp)
Tổng số khách hàng tại Ninh Hiệp vay vốn của ngân hàng năm 2005 là 170 khách hàng tăng 27 khách hàng so với năm 2004 (tăng 18,88%). Trong đó số lượng khách vay trên 100 triệu tăng 33 khách hàng (tăng 43,42%), còn khách hàng vay dưới 100 triệu lại giảm 6 người (giảm 8,96%). Tất cả các khách hàng đến vay vốn đều là cá nhân (các thương nhân bán hàng trong chợ vải, chủ hộ sản xuất, cơ sở kinh doanh, các đại lý cung cấp vải, thuốc Nam, Bắc), chưa có khách hàng nào là tổ chức kinh tế. Điều này cho thấy, xét về số lượng khách hàng, hoạt động cho vay của chi nhánh đã có sự mở rộng nhất định, số lượng khách hàng tăng lên, khách vay số tiền lớn ngày càng nhiều chứng tỏ nhu cầu vốn tại khu vực này ngày một lớn và ngân hàng cũng đã đáp ứng. Nhưng số lượng khách hàng trung bình qua 2 năm 2004, 2005 chỉ trên 150 người, không có khách hàng là tổ chức, điều này là không tương xứng với tình hình thực tế ở Ninh Hiệp. Toàn xã hiện nay có khoảng 50 hộ sản xuất kinh doanh đã thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH. Ngân hàng chưa khai thác được đối tượng khách hàng này.
*Về dư nợ cho vay:
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Tổng dư nợ của Ninh Hiệp
27,9
34
- Khách hàng vay trên 100 triệu
18,2
25,2
- Khách hàng vay dưới 100 triệu
9,7
8,8
Nợ quá hạn
0,42
0,54
(Nguồn: Phòng khách hàng cá nhân, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên)
Tổng dư nợ cho vay đối với khách hàng thuộc xã Ninh Hiệp năm 2005 là 34 tỷ, tăng 6,1 tỷ so với năm 2004 (tăng 21,86%). Dư nợ đối với những món vay trên 100 triệu năm 2005 là 25,2 tỷ đồng tăng 7 tỷ so với năm 2004 (tăng 38,46%). Dư nợ đối với những món vay dưới 100 triệu năm 2005 là 8,8 tỷ đồng giảm 0,9 tỷ so với 2004 (giảm 9,28%). Năm 2005 trung bình mỗi khách hàng vay 200 triệu đồng cao hơn so với năm 2004 trung bình mỗi khách hàng là 194,4 triệu đồng.
Mặt khác nếu tính tỷ trọng dư nợ cho vay của khu vực Ninh Hiệp trong tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh Yên Viên ta được kết quả sau: Năm 2004 tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh là 600 tỷ đồng, dư nợ cho vay đối với Ninh Hiệp là 27,9 tỷ đồng đạt tỷ trọng 4,65% trên tổng dư nợ. Năm 2005 tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh là 513 tỷ đồng, dư nợ cho vay đối với Ninh Hiệp là 34 tỷ đồng đạt tỷ trọng 6,63% trên tổng dư nợ. Như vậy là tỷ trọng dư nợ của Ninh Hiệp có tăng lên theo thời gian, năm 2005 trong khi dư nợ cho vay của toàn chi nhánh giảm nhưng dư nợ đối với Ninh Hiệp vẫn duy trì tăng, điều này chứng tỏ sự quan tâm của ngân hàng đến cho vay đối với khách hàng ở khu vực này.
Hoạt động cho vay của ngân hàng tại Ninh Hiệp trong hai năm vừa qua vẫn có nợ quá hạn nhưng tỷ lệ nợ quá hạn thấp. Năm 2004 nợ quá hạn của Ninh Hiệp là 420 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 1,505% so với tổng dư nợ cho vay. Năm 2005 các con số tương ứng là 540 triệu đồng và 1,588%. Nợ quá hạn là điều khó tránh khỏi của hoạt động cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn như trên là khá thấp và ổn định qua 2 năm. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh tại Ninh Hiệp đang rất thuận lợi, có khả năng tăng trưởng cao, vốn ngân hàng được sử dụng có hiệu quả, khách hàng đa số đều trả nợ ngân hàng đúng hạn, số khách hàng không trả nợ đúng hạn rất ít. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp là tốt đối với ngân hàng nhưng tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên tỷ lệ này lại cho thấy một thực tế: Do thủ tục và điều kiện vay vốn ngân hàng đặt ra quá cao đối với các hộ sản xuất làng nghề nên số lượng khách hàng được vay vốn không nhiều, và những khách hàng đã được vay thì đều đã được thẩm định, đánh giá kỹ lưỡng nên khả năng trả nợ cao là điều tất nhiên. Qua đó thấy được chất lượng cho vay cao nhưng nguyên nhân chính lại là do khách hàng không đáp ứng đủ điều kiện để vay vốn của ngân hàng.
*Cơ cấu dư nợ theo thời hạn cho vay:
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Vay ngắn hạn
- Dư nợ
- Tỷ trọng
27,9 tỷ đồng
100%
34 tỷ đồng
100%
Vay trung, dài hạn
- Dư nợ
- Tỷ trọng
0 đồng
0%
0 đồng
0%
(Nguồn: Phòng khách hàng cá nhân, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên)
Như vậy hiện nay 100% vốn vay ngân hàng của các khách hàng thuộc làng nghề Ninh Hiệp là vốn vay ngắn hạn, không có khoản vay trung, dài hạn nào. Vì vậy có thể nói với cơ cấu dư nợ mất cân đối như vậy hoạt động cho vay của ngân hàng đối với Ninh Hiệp là chưa thực sự được mở rộng. Ngân hàng chưa khai thác, thúc đẩy được nhu cầu vốn trung dài hạn, trong thời gian tới ngân hàng cần xem xét và có những ưu đãi để những khách hàng có nhu cầu có thể vay loại vốn này.
Thị phần cho vay của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên đối với Ninh Hiệp thấp so với Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Viên. Đây là một ngân hàng có truyền thống trong lĩnh vực cho vay ở nông thôn, họ cũng đã thành lập Phòng giao dịch Khu công nghiệp Ninh Hiệp, hoạt động cho vay của họ có các điều kiện, thủ tục đơn giản hơn nhiều so với các ngân hàng khác. Ví dụ: đối với những hộ vay vốn nhưng chưa có chứng nhận quyền sử dụng đất, ngân hàng Nông nghiệp chấp nhận giấy xác nhận của UBND xã, huyện về đất không có tranh chấp. Hay theo yêu cầu của Ngân hàng Công Thương thì các hộ sản xuất kinh doanh muốn vay vốn yêu cầu bắt buộc phải có đăng ký kinh doanh, nhưng đối với ngân hàng Nông nghiệp họ có thể xem xét chấp nhân cho vay cả những hộ chưa có đăng ký kinh doanh. Ở Ninh Hiệp nhiều lò nhuộm, rèn, hoặc cả những người buôn vải chưa được cấp giấy phép kinh doanh nhưng đã được ngân hàng Nông nghiệp cho vay vốn. Vậy: nếu so sánh về thị phần cho vay trên địa bàn thì hoạt động cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên đã có mở rộng nhưng không bằng ngân hàng khác, cụ thể là ngân hàng NN&PTNT Yên Viên.
2.2.3. Đánh giá hoạt động mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên
2.2.3.1. Những kết quả đạt được
Đến tháng 4 năm 2005 Ngân hàng Công Thương Yên Viên đã thành lập Quỹ tiết kiệm 59 tại xã Ninh Hiệp và sau một thời gian đã quyết định thành lập Phòng giao dịch Ninh Hiệp, điều này chứng tỏ sự quan tâm của ngân hàng đến khu vực này.
Qua hai năm 2004, 2005 hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khu vực Ninh Hiệp đã thu được một số kết quả, dư nợ cho vay tăng năm 2005 là 34 tỷ đồng, tăng 6,1 tỷ đồng so với năm 2004 (tăng 21,86%), số lượng khách hàng tăng, chất lượng cho vay tốt, nợ quá hạn thấp. Nhưng do chỉ phân tích số liệu trong thời gian ngắn (2 năm) nên chưa thể đánh giá được nhiều. Nhưng có thể thấy sự mở rộng của nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của ngân hàng đang ngày càng tăng lên. Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng được cải thiện. Trong thời gian tới cùng với sự phát triển kinh tế của địa phương chắc chắn hoạt động cho vay tại Ninh Hiệp sẽ được mở rộng hơn nữa.
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.3.2.1. Hạn chế
Dư nợ cho vay đối với khu vực Ninh Hiệp tăng trưởng khá mạnh nhưng vẫn chưa phù hợp với nhu cầu vốn, tốc độ tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương. Mới chỉ có khoảng 5% tổng số hộ, cơ sở, doanh nghiệp, thương nhân đang hoạt động tại Ninh Hiệp đến vay vốn ngân hàng, trong đó lại 100% là hộ cá thể.
Dư nợ mất cân đối, 100% là vay ngắn hạn, chưa có vay trung và dài hạn.
Thị phần cho vay thấp hơn so với Ngân hàng NN&PTNT Yên Viên
2.2.3.2.2. Nguyên nhân
*Từ bản thân Ngân hàng Công Thương Yên Viên
Lãi suất cho vay không cạnh tranh, thiếu linh hoạt, ngân hàng áp dụng một mức lãi suất chung cho mọi đối tượng khách hàng. Lãi suất cho vay của Ngân hàng Công Thương hiện nay đối với những món vay ngắn hạn là 1%/tháng, trung dài hạn là 1,2%/tháng. Đây cũng là mức lãi suất khá cao so với các ngân hàng khác nên chưa có cạnh tranh về lãi suất.
Nhằm thực hiện đúng qui trình, thủ tục cho vay của ngân hàng nên thời gian xét duyệt cho vay kéo dài nhanh nhất cũng khoảng 3, 4 ngày, điều này không phù hợp với nhu cầu vốn phải được cung cấp nhanh chóng của khách hàng làng nghề Ninh Hiệp.
Ngân hàng chưa có biện pháp tiếp cận làng nghề Ninh Hiệp một cách cụ thể. Hoạt động marketing đã được triển khai đến các doanh nghiệp có trụ sở tại thị trấn Yên Viên nhưng tại Ninh Hiệp thì lại chưa được chú trọng. Chưa phân công cán bộ tín dụng phụ trách khu vực làng nghề để hướng dẫn và phổ biến cho người dân ở đây về hoạt động ngân hàng.
Đã có Phòng giao dịch Ninh Hiệp nhưng chưa thực hiện cho vay ngay tại đây, khách hàng muốn vay ngân hàng vẫn phải đến trụ sở của Chi nhánh tại thị trấn Yên Viên, tuy không khoảng cách không xa nhưng cũng gây tâm lý ngại đi lại cho người dân.
Phương thức cho vay áp dụng đối với các khách hàng ở làng nghề hoàn toàn là cho vay trực tiếp từng lần. Các hình thức khác không được áp dụng như cho vay theo hạn mức, cho vay gián tiếp qua tổ chức trung gian,... Hình thức cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay có được áp dụng nhưng do không hướng dẫn cụ thể cho người dân nên không thu hút được nhiều khách hàng sử dụng.
*Từ bản thân làng nghề Ninh Hiệp
Nhu cầu vốn của các hộ ở Ninh Hiệp chủ yếu là vay ngắn hạn, thời gian vay rất ngắn, có thể chỉ mấy ngày hay 1 đến 3 tháng, nhưng cần vốn ngay nên họ thường tìm đến những người cho vay nặng lãi hơn là tìm đến ngân hàng mặc dù lãi suất cao hơn rất nhiều. Do thời gian xét duyệt của ngân hàng lâu, có thể mất thời cơ kinh doanh của họ.
Ở Ninh Hiệp tuy mức sống cao, người dân tuy rất giàu, nhiều hộ có trong tay vài trăm triệu đồng đến cả tỷ đồng nhưng họ lại mải kiếm tiền buôn bán, không chú ý đến trình độ giáo dục đào tạo. Hầu hết thanh niên trong làng học hết cấp III, thậm chí chỉ học xong cấp II là đã theo mẹ đi bán hàng. Có gia đình cho con đi học đại học về cũng lại chỉ ra chợ bán vải. Có người ở Ninh Hiệp đã nói “không gì giàu nhanh bằng buôn bán vải”. Vì thế trình độ dân trí ở Ninh Hiệp rất thấp. Có những cơ sở sản xuất gia công may mặc tuy đã được cơ khí hóa hầu hết các khâu sản xuất chính nhưng chủ cơ sở lại chưa hề qua một lớp đào tạo nào về kỹ thuật. Các hộ kinh doanh thậm chí các chủ doanh nghiệp thì làm ăn theo kinh nghiệm chứ cũng chưa hề được qua lớp học về quản lý kinh doanh nào. Chính vì vậy họ gặp khó khăn khi ngân hàng yêu cầu lập các báo cáo tài chính, hay phương án sử dụng vốn có hiệu quả. Đây cũng là một nguyên nhân mà việc cho vay trung, dài hạn còn hạn chế.
Yêu cầu về tài sản đảm bảo của ngân hàng: nếu là đất thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà số hộ được cấp chưa nhiều nên cũng hạn chế các hộ có nhu cầu đến vay vốn ngân hàng.
Mặt khác do ngân hàng tiếp cận khu vực này chưa lâu nên người dân chưa quen với các hoạt động của ngân hàng. Có những người đến vay vốn phải đi lại nhiều lần để hoàn chính hồ sơ nên gây tâm lý e ngại quan hệ với ngân hàng cho họ. Chính vì ngại thủ tục giấy tờ phiền hà rắc rối mà có những khi cần vốn gấp người dân sẵn sàng chấp nhận vay ở thị trường phi chính thức, ở những người cho vay nặng lãi.
*Các nguyên nhân khác
Nhà nước hiện nay chỉ mới khẳng định chủ trương phát triển làng nghề nhưng thực tế lại chưa có qui định cụ thể nào hướng dẫn các ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay ưu đãi với những khách hàng thuộc khu vực này. Các chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước hay các tổ chức tài chính khác không nhiều.
Qui hoạch làng nghề, triển khai xây dựng khu công nghiệp, khu trung tâm thương mại còn chậm chạp, đất đã giải tỏa nhưng chưa thi công được.
Cạnh tranh với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, đặc biệt là ngân hàng NN&PTNT Yên Viên, Quỹ tín dụng nhân dân, người cho vay nặng lãi...
CHƯƠNG 3
GIAI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ NINH HIỆP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG YÊN VIÊN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Mục tiêu mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp của Ngân hàng Công Thương Yên Viên
Mở rộng cho vay trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, một mặt phải đảm bảo tăng lợi nhuận cho ngân hàng, mặt khác làng nghề Ninh Hiệp cũng được đáp ứng các nhu cầu về vốn và các dịch vụ ngân hàng cần thiết để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mở rộng cho vay phải đi đôi với nâng cao chất lượng cho vay, đảm bảo an toàn khoản vay.
Mở rộng cho vay của ngân hàng phải góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của làng nghề.
3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp tại Ngân hàng Công Thương Yên Viên
3.2.1. Cải tiến qui trình, điều kiện, thủ tục cho vay
3.2.1.1. Cải tiến qui trình cho vay
Thực hiện đầy đủ qui trình cho vay là nhằm đảm bảo an toàn cho các món vay, đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động ngân hàng. Nhưng qui trình cho vay hiện nay đang áp dụng ở ngân hàng là chung cho mọi đối khách hàng nên nếu xét cho đối tượng là các hộ sản xuất, cơ sở kinh doanh ở làng nghề thì còn những điểm phức tạp gây khó khăn cho những khách hàng này khi vay vốn. Những hộ sản xuất, cơ sở kinh doanh hay cả những doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn thuộc làng nghề hầu như đều chưa được tiếp xúc nhiều với các hoạt động của ngân hàng, có nhiều hộ là đến vay lần đầu nên khi thấy qui trình vay phức tạp, bao gồm nhiều bước phải thực hiện thứ tự, trong đó có quá trình thẩm định sẽ có tâm lý sợ lâu, hay e ngại quan hệ với ngân hàng.
Mặt khác hoạt động sản xuất kinh doanh tại làng nghề có những đặc trưng khác biệt hẳn với các doanh nghiệp thông thường khác nên khi tiến hành cho vay đối với làng nghề bên cạnh việc căn cứ vào qui trinh chung, cán bộ ngân hàng cần vận dụng linh hoạt các bước trong qui trình sao cho phù hợp và giải quyết nhu cầu vốn của khách hàng một cách nhanh chóng nhất. Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng ngoài việc đánh giá năng lực của khách hàng, khả năng khả thi của dự án, còn cần đánh giá tổng hợp về đặc điểm của nghề, thị trường đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm để có thể đưa ra quyết định cho vay đúng đắn.
3.2.1.2. Cải tiến các điều kiện vay vốn
Theo qui định của ngân hàng, người vay bắt buộc phải mua bảo hiểm cho các tài sản thế chấp, bảo lãnh hoặc tài sản hình thành từ vốn vay. Điều này là nhằm giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng nhờ vào số tiền bồi thường bảo hiểm. Từ đó một giải pháp đặt ra là ngân hàng có thể phối hợp với công ty bảo hiểm làm đại lý để người vay mua luôn bảo hiểm tại ngân hàng khi đến xin vay. Thực hiện được việc này vừa tiết kiệm thời gian cho khách hàng vừa giúp ngân hàng kiểm soát được mọi khách hàng vay vốn đều mua bảo hiểm tài sản theo qui định.
Đối với các khách hàng ở làng nghề, vấn đề tài sản đảm bảo luôn là một khó khăn khi muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Có những hộ có nhu cầu vay vốn, làm ăn có hiệu quả nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu về tài sản đảm bảo nên không được ngân hàng chấp nhận cho vay. Vì vậy ngân hàng không nên quá đặt nặng vấn đề tài sản đảm bảo mà cần chú trọng xem xét đến tính khả thi của dự án sử dụng vốn vay, coi tính khả thi của dự án là cơ sở quan trọng nhất để cho vay.Trước đây có qui định mức cho vay tối đa không cần tài sản đảm bảo là 30 triệu đồng đối với một số đối tượng đặc biệt theo QĐ 67/Ttg của Thủ tướng Chính phủ, công văn 320 của Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các tổ chức tín dụng được phép tự quyết định mức cho vay này. Đây là một thuận lợi cho ngân hàng, để mở rộng cho vay đáp ứng nhu cầu của các hộ sản xuất tại làng nghề Ngân hàng Công Thương Yên Viên có thể xem xét tăng mức cho vay không cần tài sản thế chấp đối với một số khách hàng đáng tin cậy. Hoặc với những cơ sở làm ăn tốt đã từng có quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đây, có tình hình sản xuất kinh doanh khả quan minh bạch, ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo mà thông qua bảo lãnh của bên thứ ba (có thể là UBND huyện Gia Lâm, UBND xã Ninh Hiệp, HTX dịch vụ tổng hợp, Hiệp hội làng nghề,...)
Với tài sản đảm bảo là đất, hiện nay ngân hàng vẫn yêu cầu khách hàng phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều này gây khó khăn cho người vay vì đa số các hộ có qui mô sản xuất không lớn, nhà xưởng chính là nhà ở, đất ở lại là đất thổ cư lâu đời nên không đủ giấy tờ hợp lệ để làm thủ tục cấp sổ đỏ. Các hộ lại có tâm lý ngại tốn kém, ngại mất thời gian, hoặc nghĩ không làm sổ đỏ cũng không sao nên số hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không nhiều. Vì vậy ngân hàng có thể linh hoạt với một số trường hợp chưa có đăng ký sử dụng đất thì có thể thế chấp bằng giấy giao đất có chứng nhận của UBND huyện/xã về đất không có tranh chấp. Ngân hàng cũng nên kết hợp với chính quyền địa phương hướng dẫn các hộ làm thủ tục cấp sổ đỏ nhanh chóng, thuận tiện.
Các biện pháp sử dụng để đánh giá giá trị của tài sản thế chấp cần phù hợp, tính giá đất phải theo đúng khung giá đất mà thành phố Hà Nội đã công bố, đảm bảo sát với giá thị trường nhất để đảm bảo quyền lợi cho người đi vay.
Ngoài ra với các khách hàng không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng về việc lập các Báo cáo tài chính: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, yêu cầu về những hợp đồng đã ký kết, các chứng từ, hóa đơn mua hàng...các cán bộ ngân hàng cũng có thể xem xét chỉ yêu cầu khách hàng cung cấp một số chỉ tiêu tài chính quan trọng mà không cần một báo cao chi tiết. Nhưng việc này chỉ có thể áp dụng với những khách hàng có phương án khả thi, có kết quả làm ăn hiệu quả trong thời gian dài vì làm vậy ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn của khoản vay.
3.2.1.3. Cải tiến thủ tục cho vay
Việc làm này phải được thực hiện theo hướng giảm bớt giấy tờ nhằm vừa tạo thuận lợi cho công tác quản lý hồ sơ vay vốn cho ngân hàng vừa gọn nhẹ, giảm bớt được các giấy tờ, thủ tục chồng chéo, trùng lắp cho khách hàng.
Hiện nay có rất nhiều thương nhân, chủ doanh nghiệp ở Ninh Hiệp có nhu cầu về vốn nhưng do thủ tục ngân hàng chậm trễ không đáp ứng được nhu cầu tức thời của họ, nên họ chấp nhận vay vốn từ những nguồn không chính thức mặc dù với mức lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngân hàng nhiều lần. Trước tình hình đó ngân hàng cần áp dụng một số biện pháp để thu hút được lượng khách hàng này đến với mình:
Giảm bớt số lượng giấy tờ cần công chứng hoặc kết hợp với cơ quan công chứng tạo điều kiện cho khách hàng hoàn thành các giấy tờ một cách nhanh chóng. Vì thực chất thủ tục công chứng cũng chỉ mang tính hình thức, lại mất nhiều thời gian một cách không cần thiết.
Sử dụng sổ vay đối với các hộ sản xuất, cơ sở kinh doanh ở làng nghề. Với cách này khách hàng có thể vay trả thường xuyên mà một số loại giấy tờ khách hàng chỉ cần làm khi đến vay lần đầu như hợp đồng thế chấp, giấy ủy quyền, những lần vay sau chỉ cần làm đơn xin vay và khế ước nhận nợ. Cách làm này cũng rất thuận lợi cho ngân hàng trong việc lưu trữ, bảo quản thông tin của khách hàng.
Khi khách hàng đến ngân hàng xin vay lần đầu, cán bộ tín dụng cần giải thích cặn kẽ về các thủ tục mà khách hàng phải thực hiện, các loại giấy tờ mà khách hàng phải nộp, hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ một cách chi tiết, viết các loại giấy tờ theo đúng mẫu qui định tránh cho khách hàng việc phải đi lại nhiều lần.
3.2.2. Áp dụng lãi suất cho vay linh hoạt và phù hợp
Lãi suất cho vay là do Ngân hàng Công Thương TW quyết định thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống nên Ngân hàng Công Thương Yên Viên chưa thể chủ động trong việc quyết định lãi suất cho vay đối với khách hàng ở Ninh Hiệp nói riêng cũng như mọi khách hàng khác.
Để mở rộng cho vay ở Ninh Hiệp nói riêng và mở rộng cho vay nói chung thì việc Ngân hàng Công Thương Yên Viên được phép quyết định lãi suất cho vay riêng đối với làng nghề là cần thiết. Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người đi vay vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của họ. Với các hộ sản xuất, cơ sở tại Ninh Hiệp thì khi đến vay ngân hàng, họ không quan tâm nhiều đến các dịch vụ tiện ích của ngân hàng mà quan tâm hơn về lãi suất cho vay. Vì vậy lãi suất ngân hàng đưa ra phải phù hợp. Ngoài các chỉ tiêu như lãi suất nguồn, rủi ro, chi phí, tỷ lệ lợi nhuận tối thiểu, ngân hàng cần phải quan tâm đến lãi suất của các ngân hàng khác đang áp dụng trên cùng địa bàn. Hiện nay ngoài Ngân hàng Công Thương Yên Viên còn một số ngân hàng khác cũng quan tâm đến thị trường Ninh Hiệp nhất là sau khi khu công nghiệp, khu chợ dược liệu, khu trung tâm thương mại dịch vụ Ninh Hiệp đi vào hoạt động. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Viên cũng đã mở phòng giao dịch Khu công nghiệp Ninh Hiệp. Đây là một ngân hàng có truyền thống cho vay phát triển nông thôn nên Ngân hàng Công Thương cần chú ý có một chính sách lãi suất cạnh tranh thích hợp được vận dụng linh hoạt và mềm dẻo, coi lãi suất như một công cụ để thu hút khách hàng, thực hiện giảm dần lãi suất cho vay nhưng vẫn duy trì được lợi nhuận cho ngân hàng. Cơ chế lãi suất thỏa thuận cho phép các cán bộ tín dụng đưa ra được mức lãi suất phù hợp với từng hồ sơ vay vốn. Ngoài ra ngân hàng cũng có thể giảm lãi suất cho vay thông qua giảm chi phí quản lý và điều hành khoản vay, giảm chi phí không cần thiết trong quá trình thẩm định phê duyệt dự án.
3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức cho vay
3.2.3.1. Cho vay theo hạn mức
Hiện nay Ngân hàng Công Thương Yên Viên mới chỉ áp dụng hình thức cho vay trực tiếp từng lần đối với những khách hàng thuộc làng nghề Ninh Hiệp. Đây là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng áp dụng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và ổn đinh. Ưu điểm của hình thức này là đơn giản, dễ thực hiện nhưng nhược điểm là mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay gây mất thời gian và chi phí cho cả hai bên.
Trong thời gian tới cùng với mục tiêu phát triển làng nghề cùng những hỗ trợ và đầu tư của thành phố và địa phương nhu cầu vay vốn của làng nghề Ninh Hiệp sẽ tăng lên. Hiện nay đã có những hộ sản xuất kinh doanh có số vốn lớn hàng trăm triệu đến hàng tỷ đồng, qui mô sản xuất cũng mở rộng, hàng hóa xuất khẩu nhiều hơn do đó sẽ có nhu cầu vay thường xuyên. Để mở rộng cho vay đối với những khách hàng này ngân hàng có thể áp dụng hình thức cho vay theo hạn mức.Theo phương thức này mỗi lần vay khách hàng chỉ cần làm khế ước nhận nợ, vừa đỡ mất thời gian, không mất thêm chi phí mà ngân hàng thường xuyên theo dõi việc sử dụng tiền vay của khách hàng nhằm đảm bảo thực hiện các điều khoản đã ghi trong hợp đồng tín dụng.
3.2.3.2. Cho vay gián tiếp qua các tổ chức trung gian
Thực tế hiện nay tuy đã thành lập Phòng giao dịch Ninh Hiệp nhưng tâm lý ngại đến ngân hàng của người dân làng nghề vẫn còn khá cao, do đó ngân hàng cũng có thể thông qua các tổ chức khác để cho vay đối với các hộ, cơ sở ở làng nghề như Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân, Hiệp hội làng nghề... Đây là những tổ chức có quan hệ gần gũi với người dân ở nông thôn. Mặt khác những tổ chức này thường rất quan tâm đến những hoạt động nhằm phát triển kinh tế nông thôn, xóa đói giảm nghèo... nên rất được các hộ trong xã tin tưởng. Thông qua hình thức này ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức này (VD: thu nợ, phát tiền vay...). Ngoài ra các tổ chức này cũng có thể đứng ra đảm bảo cho các thành viên trong tổ chức vay vốn, hoặc một số thành viên đứng ra bảo lãnh cho một thành viên khác vay. Điều này rất thuận tiện khi người có nhu cầu vay không có hay không đủ điều kiện về tài sản thế chấp.
3.2.3.3. Cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Đây là một hình thức nên được mạnh dạn áp dụng vì rất phù hợp với đặc điểm nhu cầu của người dân làng nghề. Các hộ, các cơ sở chế biến dược liệu, xưởng chế biến chè hay những cơ sở sản xuất gia công mặt hàng quần áo may sẵn đều có nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị nhằm cơ khí hóa sản xuất, tăng năng suất sản phẩm, hoặc thay thế máy móc thiết bị cũ nhưng họ lại thiếu tài sản thế chấp để vay vốn. Vì vậy nếu ngân hàng áp dụng hình thức này các hộ sẽ không còn phải lo về tài sản đảm bảo, vay được vốn để mua máy móc còn ngân hàng thì kiểm soát được quá trình sử dụng vốn hình thành nên tài sản cố định.
3.2.3.4. Cho vay bằng nguồn vốn ủy thác
Thực chất là ngân hàng làm dịch vụ ủy thác cho vay hộ ngân hàng, tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ hay các cá nhân khác. Khoản này mặc dù cũng là cho vay nhưng thường không mang lại thu nhập từ lãi cho ngân hàng do đó không được xếp vào khoản mục tín dụng của ngân hàng. Nhưng đối với hoạt động của làng nghề đây là nguồn cho vay khá quan trọng. Nguồn vốn để cho vay là của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Phát triển các làng nghề truyền thống là một mục tiêu quan trọng của Nhà nước, đã được thành phố Hà Nội quan tâm lập những dự án đầu tư lớn. Ngoài ra phát triển các làng nghề ở nông thôn ngoài ý nghĩa nâng cao đời sống kinh tế nông thôn còn ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội như giải quyết việc làm, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của người dân làng nghề... Vì vậy các dự án phát triển làng nghề thu hút được nhiều sự quan tâm của các tổ chức. Ngân hàng cần làm tốt công việc đã được ủy thác, cho vay đúng đối tượng được ủy thác. Lãi suất nguồn ủy thác thường thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng nhưng nếu trong trường hợp cao hơn, ngân hàng có thể đề nghị tổ chức có vốn cho vay có thể giảm lãi suất cho những trường hợp cụ thể.
3.2.4. Mở rộng thông tin, tuyên truyền nhằm tiếp cận làng nghề
Hiện nay Ngân hàng Công Thương Yên Viên đã có Phòng giao dịch Ninh Hiệp và Quỹ tiết kiệm (Quỹ Tiết kiệm 59) tại xã Ninh Hiệp, điều này chứng tỏ sự quan tâm đầu tư của ngân hàng đối với khu vực này và cũng là điều kiện tốt để ngân hàng đi sâu, đi sát với công việc làm ăn của các hộ, các cơ sở, doanh nghiệp thuộc làng nghề, hiểu được những khó khăn thuận lợi trong phát triển kinh tế của địa phương. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của Phòng giao dịch Ninh Hiệp, tăng cường tìm hiểu tìm đến với khách hàng.
Tình hình hiện nay cho thấy người dân Ninh Hiệp vẫn thiếu thông tin về hoạt động ngân hàng, ngân hàng cần có chiến dịch tuyên truyền cung cấp thông tin về các hoạt động ngân hàng một cách đầy đủ cho khách hàng. Cần kết hợp với chính quyền xã tổ chức những buổi gặp gỡ, nói chuyện tập trung, trong đó cán bộ tín dụng sẽ phổ biến về chính sách khuyến khích khách hàng làng nghề vay vốn của ngân hàng, phổ biến các điều kiện để vay vốn, thủ tục vay, ưu điểm của vốn vay ngân hàng so với các nguồn vay khác...đồng thời cán bộ ngân hàng sẽ trực tiếp giải đáp những thắc mắc của người dân. Cách trình bày của người cán bộ phải chính xác, chi tiết, mạch lạc, dễ hiểu, nhưng phải hấp dẫn, lôi cuốn được sự quan tâm của người dân. Bên cạnh đó cần thiết phải thu thập ý kiến phản hồi của người dân làng nghề, tạo điều kiện cho họ đưa ra những mong muốn, đề xuất của mình về qui trình, thủ tục, điều kiện cho vay...cũng như các ý kiến khác. Đây là nguồn thông tin quan trọng giúp ngân hàng đưa ra được những điều kiện, sản phẩm cho vay phù hợp với mong muốn, nhu cầu của khách hàng làng nghề. Các buổi nói chuyện tiếp xúc này cần được tổ chức thường xuyên định kỳ, không nên chỉ một hai lần là thôi vì trong những lần đầu có thể chưa có nhiều người đến tham dự, nếu nhận thấy thực sự hay, bổ ích người dân sẽ đến nhiều hơn. Thời gian tổ chức cũng cần được xem xét kỹ vì người Ninh Hiệp nổi tiếng làm việc không nghỉ, thường rất khó để bảo họ nghỉ một buổi chợ để tham dự nói chuyện như vậy.
Ngoài ra đối với một số hộ, cơ sở, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cao, doanh thu lớn trong xã, ngân hàng cần chủ động cử cán bộ đến tận nơi để quảng cáo, giới thiệu về hoạt động ngân hàng, các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp (thu, chi hộ, mở tài khoản, quản lý tài khoản, thanh toán, bảo lãnh...)
Với biện pháp chủ động tìm đến với khách hàng như vậy, ngân hàng sẽ tránh được tình trạng thụ động chờ khách hàng tìm đến với mình, chờ giải quyết những nhu cầu mà khách hàng mang tới. Qua hoạt động tuyên truyền tích cực ngân hàng sẽ có được sự quan tâm, chú ý của người dân làng nghề, số người đến vay ngân hàng nhiều hơn, ngân hàng còn có ảnh hưởng tạo nhu cầu cho khách hàng. Chất lượng món vay cũng được nâng cao hơn vì cán bộ ngân hàng có hiểu biết thực tế và cụ thể về tình hình sản xuất của khách hàng. Thực tế rất nhiều NHTM cổ phần trên địa bàn cũng đã áp dụng phương pháp này có hiệu quả, họ cho người đến từng nhà, từng cơ quan giới thiệu về ngân hàng mình. Trong tình hình hoạt động cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM quốc doanh và NHTM cổ phần như hiện nay để có được thị phần cho vay cao bắt buộc Ngân hàng Công Thương Yên Viên phải thực sự coi công tác tuyên truyền là một hoạt động cần thiết, cần được đầu tư cẩn thận.
3.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng
Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp làm việc với khách hàng, trực tiếp thẩm định hồ sơ vay vốn, là người ảnh hưởng lớn đến việc khách hàng có được vay vốn hay không. Vì thế có thể nói để mở rông cho vay vai trò của đội ngũ cán bộ ngân hàng mang tính chất quyết định.
Cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên sâu về nghiệp vụ tín dụng, nắm rõ bản chất của từng phương thức cho vay, lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định cho vay, từ đó để có được những quyết định về hình thức cho vay và lãi suất khoản vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Công tác đào tạo cán bộ là rất quan trọng, có rất nhiều phơng pháp đào tạo khác nhau có thể được áp dụng như cử đi học tại những trường đại học chuyên ngành, các trung tâm đào tạo ngân hàng tài chính, mở các lớp đào tạo tịa chỗ, cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tham dự các buổi hội thảo, chuyên đề, giao lưu... Ngoài ra những kiến thức về các vấn đề như hoạt động xuất nhập khẩu, các qui định của pháp luật... đều cần chú ý bổ sung, rất tốt cho thực hiện công việc.
Do đặc thù là một chi nhánh được tách ra từ Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương nên đội ngũ cán bộ của Ngân hàng Công Thương Yên Viên có rất nhiều cán bộ đã làm ở Chương Dương trước đây chuyển về. Trong thời gian qua Chi nhánh cũng đã tuyển dụng thêm một số cán bộ tốt nghiệp đại học chuyên ngành, nhưng số lượng cán bộ sống tại địa bàn Yên Viên và lân cận không nhiều. Đây là đặc điểm khó khăn khi tiến hành mở rộng cho vay đối với làng nghề Ninh Hiệp do thiếu cán bộ hiểu rõ đặc điểm kinh tế xã hội địa phương. Vì vậy muốn mở rộng cho vay đối với khu vưc này có hiệu quả, ngoài công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nói chung cần tạo điều kiện để các cán bộ tín dụng phụ trách khu vực Ninh Hiệp tìm hiểu về tình hình thực tế của làng nghề, các ngành nghề truyền thống, khả năng phát triển nghề, tình hình sản xuất kinh doanh thực tế người dân thuộc làng nghề... Đặc biệt cần thiết cử một cán bộ chuyên sâu phụ trách khu vực Ninh Hiệp. Điều này làm giảm được thời gian thẩm định dự án và những quyết định cho vay đảm bảo chất lượng và hiệu quả hơn. Có cán bộ chuyên phụ trách thì mối quan hệ giữa các khách hàng vay vốn và ngân hàng được duy trì chặt chẽ hơn, thuận lợi trong việc tiếp xúc, thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng.
3.2.6. Tăng cường và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ
Bên cạnh việc làm tốt các hoạt động truyền thống nhận tiền gửi, cho vay,... của ngân hàng, việc tăng cường hoạt động dịch vụ là rất quan trọng, góp phần thúc đẩy các hoạt động truyền thống phát triển tốt và hiệu quả. Chất lượng hoạt động dịch vụ còn là yếu tố tạo nên hình ảnh của một ngân hàng. Ngoài các hoạt động dịch vụ phổ biến như thanh toán, chuyển tiền, mở tài khoản, bảo lãnh...đối với các hộ, cơ sở kinh doanh, doanh nghiệp thuộc làng nghề hoạt động tư vấn là cần thiết phải mở rộng và nâng cao chất lượng hơn cả.
Khách hàng đến vay vốn còn thiếu một số loại giấy tờ như chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép đăng ký kinh doanh, đăng ký chất lượng sản phẩm... Trong trường hợp này ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng phải làm gì, đến cơ quan nào để được giải quyết.
Các khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không biết cần lập đơn, lập dự án, lập báo cáo tài chính như thế nào, ngân hàng có thể tư vấn giúp đỡ họ, cho họ mượn những bộ hồ sơ mẫu, những dự án khả thi đã được lập để tham khảo. Hiện tại tỷ lệ cơ sơ kinh doanh hạch toán bằng sổ sách còn thấp, ngân hàng có thể mở rộng sự tư vấn bằng cách hướng dẫn, giới thiệu nhân viên kế toán với khách hàng.
Với những khách hàng là hộ sản xuất, cơ sở kinh doanh có vốn tự có lớn, làm ăn phát đạt, có nhu cầu mở rộng sản xuất, ngân hàng có thể tư vấn cho họ về thuế, các qui định pháp luật về xuất nhập khẩu, nguồn nguyên liệu, thị hiếu của người tiêu dùng... Tư vấn về thủ tục thành lập doanh nghiệp, các lợi ích của việc hoạt động với tư cách một doanh nghiệp so với hộ kinh doanh. Nếu hộ nào có nhu cầu ngân hàng có thể giúp đỡ hoàn thành thủ tục xin cấp phép thành lập doanh nghiệp một cách nhanh chóng. Với những khách hàng này ngân hàng cũng có thể tư vấn cho họ cách để có thể vay ngân hàng với mức vay lớn hơn hoặc cách để tiếp cận nguồn vốn trung, dài hạn của ngân hàng. Trong quá trình tư vấn cho khách hàng đòi hỏi người cán bộ tư vấn phải thực sự nhiệt tình, giải thích cặn kẽ, chi tiết mọi thắc mắc của khách hàng. Điều này sẽ tạo một ấn tượng tốt đẹp về ngân hàng cho khách hàng, họ không còn e ngại khi nghĩ đến ngân hàng nữa, khuyến khích họ lần sau quay trở lại với ngân hàng và giới thiệu về ngân hàng cho nhiều người khác nữa.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với các cấp chính quyền
Thành phố Hà Nội cần đưa ra khung giá đất phù hợp đối với làng nghề sao cho sát với giá thị trường nhất tạo điều kiện cho người vay có thể vay được nhiều vốn hơn. Đồng thời phải thường xuyên xem xét điều chỉnh khung giá đất theo kịp những thay đổi của thị trường.
Chính quyền huyện Gia Lâm cần kết hợp với chính quyền xã Ninh Hiệp phổ biến sự cần thiết phải làm giấy chứng nhận quyền sở hữu đất cho người dân. Đồng thời hướng dẫn chi tiết những qui định, thủ tục cần thiết cho những hộ chưa làm, sớm cấp sổ đỏ cho những hộ đã hoàn thành hồ sơ.
Các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng có liên quan UBND thành phố, huyện, xã, cơ quan công chứng... nên tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề trong việc ra quyết định thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, hợp tác xã; cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề cho các hộ, giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính để người vay có đủ các giấy tờ cần thiết khi đến vay vốn ngân hàng.
Đẩy nhanh tốc độ xây dựng các dự án khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dự án khu chợ dược liệu
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Để mở rộng cho vay thì lãi suất là yếu tố ảnh hưởng lớn, mà mỗi địa bàn hoạt động của từng chi nhánh đều có đặc trưng riêng, mỗi khách hàng vay vốn cũng có đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau. Vì vậy Ngân hàng Công Thương Việt Nam nên ra qui định cho phép các chi nhánh có thể thay đổi lãi suất cho vay trong một biên độ nào đó.
Tạo điều kiện cho các chi nhánh mở rộng mạng lưới hoạt động. Ngân hàng cần đặt ra chính sách cụ thể khuyến khích cán bộ tín dụng xuống tiếp cận làng nghề.
KẾT LUẬN
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển các nghành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới là một trong những nội dung quan trọng của CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn”. Điều này khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển làng nghề ở nông thôn, đây là biện pháp nhằm giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động dư thừa, nâng cao mức sống của người dân làng nghề, là điều kiện thuận lợi để thực hiện chương trình “xóa đói giảm nghèo”, giảm dần cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Chủ trương này đã được chứng minh tại Ninh Hiệp_một “đô thị nhỏ” của các xã khu vực bắc sông Đuống, cửa ngõ vào thủ đô Hà Nội.
Tuy đã nhận thấy tiềm năng phát triển của hoạt động cho vay đối với Ninh Hiệp và cũng đã có những chủ trương nhằm mở rộng cho vay đối với thị trường này và đã đạt được một số kết quả nhưng hoạt động cho vay của Ngân hàng Công Thương Yên Viên đối với khu vực này vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
Trong phạm vi chuyên đề em đã đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với Ninh Hiệp nhưng những giải pháp đó vẫn chỉ là trên lý thuyết, để đánh giá mức độ ứng dụng của những giải pháp này thì điều cần thiết là chúng phải được ngân hàng lên kế hoạch, triển khai chi tiết các việc cần làm, hay áp dụng thử để đánh giá kết quả. Điều quan trọng nhất là ngân hàng phải được phép gỡ bỏ một số qui tắc cứng nhắc, chủ động áp dụng linh hoạt những qui định chung của Ngân hàng Công Thương Việt Nam sao cho phù hợp hơn với khu vực kinh tế đặc biệt này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo hoạt động kinh tế xã hội của xã Ninh Hiệp năm 2005.
Báo cáo hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Yên Viên các năm 2003, 2004, 2005.
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (www.dangcongsan.gov.vn)
Báo điện tử Hà Nội mới (www.hanoimoi.com.vn)
Báo điện tử Thời báo kinh tế (www.vneconomy.com.vn)
Dương Bá Phượng, Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2001.
Luận văn tốt nghiệp khóa 42, 43, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính
TS. Phan Thị Thu Hà (chủ biên), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản thống kê, 2004.
Tô Duy Hợp (chủ biên), Lương Hồng Quang, Nguyễn Văn Tuấn, Hoàng Thơ, Ninh Hiệp truyền thống và phát triển, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1997.
Trang web Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (www.sbv.gov.vn)
Trang web Ngân hàng Công Thương Việt Nam (www.icb.com.vn)
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 132.doc