Chuyên đề Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP. Hải Phòng

DNVVN có vai trò quan trọng và chiếm ưu thế trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay. Vì thế việc phát triển tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp này là chiến lược cho các ngân hàng thương mại nói chung và của Chi nhánh nói riêng. Thấy được điều này, Chi nhánh đã có nhiều chú ý đến các doanh nghiệp này. Tuy nhiên trong thực tế mối quan hệ của Chi nhánh với các DNVVN còn nhiều bất cập, nhiều khi chưa tìm được tiếng nói chung. Vì thế việc tìm ra các giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển các DNVVN tại Chi nhánh là một vấn đề vô cùng cần thiết. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề nêu trên chuyên đề đã hoàn thành nội dung cơ bản sau:

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP. Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn 107,360 55.76 136,605 52.91 164,991 51.39 Trung – dài hạn 85,179 44.24 121,579 47.09 156,039 48.61 2 Phân theo ngành kinh tế 192,539 100.00 258,184 100.00 321,030 100.00 Nông và lâm nghiệp 2,118 1.10 1,497 0.58 1,624 5.06 Thương mại 58,282 30.27 75,184 29.12 86,542 26.96 Công nghiệp chế biến 73,011 37.92 91,294 35.36 121,817 37.95 Khác 59,128 30.71 90,209 34.94 96,431 30.04 3 Phân theo tài sản đảm bảo 192,539 100.00 258,184 100.00 321,030 100.00 Có tài sản đảm bảo 186,436 96.83 253,743 98.28 316,998 98.74 Không có tài sản đảm bảo 6,103 3.17 4,441 1.72 4,032 1.26 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Chi nhánh Bắc Hải các năm. - Thời hạn tín dụng: Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của Chi nhánh chiếm phần lớn nhằm đảm bảo tính thanh khoản theo định hướng chung của Ngân Hàng TMCP Quân Đội . Mặt khác, trong cơ cấu nguồn huy động nguồn vốn huy động từ các tài khoản tiền gửi ngắn hạn - Nguồn được sử dụng chủ yếu cho vay ngắn hạn (cho bởi bảng 01) đã làm tăng tỷ trọng của dư nợ tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh. - Ngành nghề kinh tế: Dư nợ tín dụng của Chi nhánh phân bố đa dạng cho nhiều ngành kinh tế, tuy nhiên tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến. Do đặc thù kinh tế của địa bàn hoạt động - Hải Phòng với lợi thế về cảng biển, là nơi nhập khẩu hang hoá và phân phối tới các tỉnh phía Bắc đã tạo điều ra thế mạnh cho ngành công nghiệp đòng tàu phát triển. Dư nợ tín dụng của Chi nhánh trong ngành này luôn ở mức cao nhất và tăng trưởng mạnh qua các năm. Cụ thể,năm 2007 là73,011 Trđ, năm 2008 là 91,294 Trđ, và năm 2009 là 121,817 Trđ. - Tỷ trọng dư nợ của ngành nông – lâm nghiệp có tỷ trọng thấp nhất trong cơ cấu theo ngành kinh tế và có xu hướng giảm dần qua các năm. Năm 2008, dư nợ của chi nhánh trong ngành nông – lâm nghiệp là 1,497 Trđ chiếm 0.58%, năm 2009 là 16,240 Trđ. Dư nợ trong ngành nông lâm nghiệp của chi nhánh năm 2009 có mức tăng nhẹ so với năm 2008 nguyên nhân là do trong năm 2008 có một số khoản nợ quá hạn. - Ngoài các hoạt động tín dụng trên, Chi nhánh còn có các hoạt động tín dụng khác như: thanh toán quốc tế, phát hành bảo lãnh và kinh doanh ngoại tệ… tuy không nhiều nhưng cũng đã góp phần làm tăng doanh thu cho chi nhánh. Với tình hình hoạt động như trên, Chi nhánh Bắc Hải đã thu được kết quả kinh doanh khá tốt được thể hiển thông qua bảng báo cáo về kết quả kinh doanh dưới đây: Bảng 06: Kết quả kinh doanh của Ngân Hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Bắc Hải. Đơn vị: Triệu VNĐ STT Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Giá trị Giá trị Giá trị Thay đổi % Thay đổi 1 Tổng thu nhập 18,972 33,143 41,095 7,952 23.99 Thu lãi từ tiền gửi 15 38 56 18 47.37 Thu lãi từ tiền cho vay 18,575 32,587 40,355 7,768 23.84 Thu khác 382 518 684 166 32.05 2 Tổng chi phí 18,005 31,626 39,066 7,440 23.52 Chi trả lãi tiền gửi 12,743 24,681 31,883 7,202 29.18 Chi trả phát hành giấy tờ có giá 18 42 65 23 54.76 Chi phí khác 5,244 6,903 7,118 215 3.11 3 Lợi nhuận trước thuế 967 1,517 2,029 512 33.75 4 Nộp thuế 271 425 507 82 19.42 5 Lợi nhuận sau thuế 696 1,092 1,522 430 39.32 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Chi nhánh Bắc Hải các năm. Mặc dù mới thành lập, quy mô cơ cấu nhân sự còn nhiều hạn chế nhưng Chi nhánh Bắc Hải đã hoạt động tốt, kết quả kinh doanh hiệu quả, mức lợi nhuận tăng trưởng qua các năm. Tổng thu nhập của Chi nhánh năm 2008 là 33,143 Trđ, năm 2009 tổng thu nhập tăng thêm 7,952 Trđ tương đương 23.99% so với năm 2008 đạt 41,095 Trđ. Tổng thu nhập của Chi nhánh bao các khoản thu từ lãi tiền gửi (Tiền gửi của Ngân Hàng TMCP Quân Đội tại các Ngân Hàng khác nhằm phục vụ nhu cầu thanh toán) năm 2008 là 38 trđ, năm 2009 là 56 Trđ, lãi từ tiền cho vay: năm 2008 là 32,587 Trđ, năm 2009 là 40,355 Trđ và các khoản thu khác. Như đã phân tích ở trên, ngoài mảng tín dụng là hoạt động kinh doanh chính của Chi nhánh, các khoản thu khác bao gồm thu chênh lệch tỷ giá, thu từ hoạt động bán ngoại tệ, thu từ phí bảo lãnh… tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập, tuy nhiên các khoản thu này đã góp phần làm tăng thu nhập của Chi nhánh. Với các chính sách kinh doanh hợp lý, đặc biệt là chính sách về lãi suất-chỉ tiêu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng, Chi nhánh đã có sự cân đối giữa mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay qua đó khống chế chi phí ở mức thích hợp trong từng năm đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Tổng chi phí bao gồm: Chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí trả lãi phát hành giấy tờ có giá và các khoản chi phí khác như chi điện nước vệ sinh, chi đào tạo, chi vật liệu giấy tờ in, chi mạng viễn thông bưu chính điện thoại… Như đã biết, hoạt động chính của Ngân Hàng là tín dụng do vậy lợi nhuận của Ngân Hàng chính là phần chênh lệch giữa tiền lãi thu được từ hoạt động cho vay và tiền lãi chi trả cho vốn huy động sau khi trừ các khoản chi phí cần thiết khác phục vụ hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng. Lợi nhuận của Chi nhánh Bắc Hải ở mức cao so với các Ngân Hàng TMCP khác hoạt động trên cùng địa bàn thành phố Hải Phòng và có mức tăng trưởng đều qua các năm. Năm 2008 lợi nhuận của Chi nhánh đạt 1,092 Trđ, năm 2009 lợi nhuận của Chi nhánh tăng thêm 430 Trđ tương đương 39.32% so với năm 2008 đạt 1,522 Trđ. Qua các phân tíc trên, nhận thấy hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng Quân Đội – Chi nhánh Bắc Hải là khá tốt, đạt hiệu quả, tăng trưởng bền vững qua các năm, dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong các năm tiếp theo, đặc biệt là trong năm 2010 khi nền kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu hồi phục tích cực, bước đầu tăng trưởng trở lại, thêm vào đó là sư lới lỏng trong chính sách quản lý tín dụng của các Ngân Hàng thương mại của NHNN, cụ thể là Quyết Định số 07/2010 – QĐ/2010/NHNN sắp được ban hành, qua đó lãi suất cho vay sẽ được xác định thông qua thoả thuận giữa Ngân Hàng và doanh nghiệp có nhu cầu về vốn vay, chứng tỏ đầu ra của Ngân Hàng đã rộng mở hơn so với thời gian trước đó. 2.2. Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – MB, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng 2.2.1. Thực trạng chung Các DNVVN ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan nhà nước với nhiều chính sách hỗ trợ. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các DNVVN với các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng được hạn chế, các DNVVN có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng. Đối với Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải hoạt động trong thời gian qua cũng đã có những chính sách hướng tới đối tượng khách hàng là các DNVVN, ưu tiên phát triển và mở rộng cho vay đối các DNVVN. Chi nhánh Bắc Hải hoạt động trên địa bàn Thành phố Hải Phòng, một trong ba đỉnh của tam giác kinh tế: Hải Phòng, Hà Nội và Quảng Ninh rất có tiềm lực về kinh tế, tập trung nhiều các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn và các vùng lân cận (Hải Dương, Thái Bình, Nam Định…), đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây. Với các chính sách tín dụng cụ thể trong từng thời kỳ Chi nhánh không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm, các phương thức cho vay đối với các DNVVN, giảm nhẹ gánh nặng về thủ tục cho vay tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp các DNVVN dễ dàng hơn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Hiện nay, Chi nhánh thực hiện rất nhiều sản phẩm cho vay mà đối tượng khách hàng là các DNVVN bao gồm: + Cho vay trả góp + Cho vay bổ sung vốn kinh doanh + Cho vay tài trợ dự án + Cho vay mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng + Cho vay thanh toán tiền hàng, thanh toán L/C Với mục tiêu chiến lược nhằm phục vụ đối tượng khách hàng là DNVVN, trong những năm gần đây, đi đôi với việc tiếp tục giao dịch với những khách hàng truyền thống, tín nhiệm Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải tiếp tục mở rộng quan hệ tín dụng với một số doanh nghiệp mới. Bảng 07: Tình hình dư nợ đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải Đơn vị tính: Triệu VNĐ Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch %Chênh lệch 1. Dư nợ cho vay ngắn hạn 84,763 92,236 124,452 32,216 34.93 2. Dư nợ cho vay trung-dài hạn 41,145 46,417 57,645 11,228 24.19 3. Tổng dư nợ cho vay DNVVN 125,908 138,653 182,097 43,444 31.33 4. Tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh 192,539 258,184 321,030 62,846 24.34 Nguồn: Báo cáo tồng kết các năm của Chi nhánh Bắc Hải Từ những số liệu trên cho thấy, doanh số cho vay của Chi nhánh Bắc Hải đối với DNVVN ngày càng tăng. Cụ thể, năm 2007 dư nợ cho vay đối với DNVVN là 125,908 trđ, năm 2008 là 138,653 trđ, bước sang năm 2009 dư nợ cho vay đối với các DNVVN tăng lên đáng kể đạt 182,097 trđ tăng 31.33% so với năm 2008 tương 43,444 trđ. Chi nhánh chủ yếu cho vay đầu tư vốn ngắn hạn cho DNVVN, cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng trung bình là 67% trong ba năm gần đây. Dư nợ ngắn hạn càng ngày càng chiếm tỉ trọng nhỏ hơn trong tổng dư nợ, cho vay trung và dài hạn thì tăng lên. Điều này phản ánh đặc điểm chung của sản xuất nhỏ là chuyển vốn ngắn, vòng quay nhanh nên các doanh nghiệp cần vay vốn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu hụt trong quá trình sản xuất, đảm bảo sự luân chuyển vốn cho hoạt động kinh doanh được ổn định. Với việc tăng tỷ trọng cho vay trung-dài hạn trong cơ cấu cho vay của Chi nhánh chứng tỏ các DNVVN ngày càng được quan tâm hơn và là đối tượng khách hàng tiềm năng của Chi nhánh. Trong thời gian qua, mặc dù nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của ngân hàng còn hạn hẹp song Chi nhánh vẫn luôn cố gắng mở rộng đầu tư trung dài hạn nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mua sắm máy móc, trang thiết bị công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên tỉ lệ này còn khá nhỏ so với nhu cầu của các DNVVN. Vì vậy ngân hàng cần mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay trung và dài hạn. Chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư cho DNVVN, tạo điều kiện cho DNVVN có điều kiện phát triển theo chiều sâu, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Biểu đồ 01: Tình hình dư nợ cho vay đối với DNVVN theo thời hạn Việc đẩy mạnh công tác mở rộng cho vay đối với DNVVN của Chi nhánh có ý nghĩa rất lớn đối với các DNVVN không những giúp các doanh nghiệp duy trì sản xuất được liên tục, không bị gián đoạn, cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh mà còn giúp một số doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản. Hơn nữa đây cũng là một đối tượng có tiềm năng lớn có thể đem lại cho ngân hàng nhiều lợi nhuận. Việc quan tâm đầu tư cho đối tượng này sẽ rất phù hợp với đường lối của chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đề ra trong giai đoạn hiện nay là phát triển DNVVN nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp để hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 2.2.2. Đánh giá thực trạng cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng 2.2.2.1. Những kết quả đạt được Nhận thức được vai trò cũng như tiềm năng của khu vực DNVVN, bám sát chủ trương phát triển DNVVN của Đảng và Nhà nước, Ngân hàng TMCP Quân Đội – MB, chi nhánh Bắc Hải đã chủ động mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN một cách hợp lý góp phần tạo điều kiện cho sự phát triển DNVVN, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các vùng lân cận. Kết quả đạt được có ý nghĩa rất lớn đối với cả DNVVN và cả Chi nhánh Bắc Hải. Đối với các DNVVN Qua phần phân tích thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNVVN ta thấy doanh số cho vay và doanh số dư nợ tín dụng đối với DNVVN đều tăng trong 2 năm 2008 và 2009, số lượng các DNVVN được Chi nhánh hỗ trợ vốn tăng qua các năm và ngày càng đa dạng trong các ngành nghề khác nhau. Năm 2009, Chi nhánh đã cung ứng vốn tín dụng kịp thời cho khối lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vốn tín dụng của Chi nhánh đã đem lại những hiệu quả đầu tư quan trọng cho các DNVVN, cung cấp vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh, phần nhiều doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm được vật tư thiết bị máy móc công nghệ, nguyên nhiên vật liệu, nâng cao tay nghề của người lao động ... kết quả trên được thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất: Nguồn vốn vay ngắn hạn của Chi nhánh đã kịp thời đáp ứng những nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp nhờ có vốn này đã nhanh chóng mua được nguyên vật liệu sản xuất, kịp thời đưa ra những sản phẩm phù hợp với thời vụ tiêu thụ của sản phẩm. Nguồn vốn vay trung và dài hạn của Chi nhánh là nguồn vốn bổ sung nguồn vốn thiếu hụt cho nhu cầu vốn dài hạn của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đầu tư tài sản cố định như mua máy móc thiết bị, dây truyền sản xuất. Thứ hai: Thông qua việc đầu tư vốn dài hạn của Chi nhánh, trình độ kỹ thuật công nghệ của nhiều DNVVN được nâng cao, nhiều dây truyền sản xuất mới, hiện đại như dây chuyền sản xuất xi măng, dây truyền chế biến thực phẩm, dây chuyền sản xuất thép … để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, chất liệu hiện đại đáp ứng yêu cầu thị hiếu của khách hàng. Thứ ba: Nhìn vào bảng số liệu ta thấy doanh số cho vay, dư nợ cho vay tăng liên tục qua các năm, chứng tỏ hiệu quả của việc đầu tư vốn vay đã tăng lên. Nhờ vậy mà nhiều DNVVN đã nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh, thâm nhập vào thị trường mới, mở rộng thị phần... kết quả là lợi nhuận của các Công ty tăng lên, không những đủ trả nợ mà còn tạo ra lượng tích luỹ cho bản thân doanh nghiệp. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao uy tín ngày càng đáp ứng được điều kiện vay vốn của ngân hàng, tạo mối quan hệ với ngân hàng ngày một khăng khít hơn. Thứ tư: Thông qua dịch vụ tư vấn cho DNVVN nhiều, doanh nghiệp đã xây dựng được phương án sản xuất tối ưu, kịp thời điều chỉnh với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp được nâng cao, trình độ lập các báo cáo tài chính và trình độ lập dự án đầu tư cũng được nâng cao. Cơ cấu vốn ngày càng được xây dựng hợp lý, chặt chẽ thích ứng với quy mô của doanh nghiệp, không quá lạm dụng vốn vay. Thứ năm: Vốn vay của Chi nhánh đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho các DNVVN sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có thu nhập thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho số đông người lao động, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, hạn chế những tiêu cực xã hội. Đối với Chi nhánh Bắc Hải Tỷ trọng đầu tư hoạt động cho vay đối với các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn. Đây là đối tượng chính mà Chi nhánh lựa chọn làm khách hàng tiềm năng. Nó được thể hiện sự tăng lên cả số tương đối và tuyệt đối về dư nợ qua các năm. Việc gia tăng này tạo ra hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Cụ thể: - Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra hiệu quả kinh doanh có lãi cho Chi nhánh. Sự thành đạt của khách hàng quyết định sự thành đạt của ngân hàng. Bằng việc mở rộng quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế đã giúp ngân hàng dần khắc phục được tình trạng khó khăn, dần lấy được uy tín trong lòng khách hàng. - Thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mấy năm qua đã rèn luyện cán bộ ngân hàng và có thêm nhiều kinh nghiệm về quản lý điều hành, chống lại những tiêu cực để tự khẳng định mình, đứng vững trong cơ chế thị trường. - Tín dụng cho DNVVN phát triển là cơ sở tiền đề cho Chi nhánh mở rộng phát triển các dịch vụ kinh doanh hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh. 2.2.2.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân 2.2.2.2.1. Những tồn tại và hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải còn những tồn tại nhất định. Cụ thể: Về việc chấp hành cơ chế, quy chế: Việc chấp hành quy trình tín dụng chưa được coi trọng, nhiều khi chỉ là hình thức đối với cả khách hàng và bản thân cán bộ tín dụng. Việc đưa ra các quy định, chính sách chưa sát với thực tế, Trong quá trình thực hiện có những vấn đề phát sinh nhưng chưa được xử lý kịp, thời hiệu quả. Trong quá trình xét duyệt và phán quyết vốn cho vay cũng như quá trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay còn sao nhãng, chưa thực sự đi sâu, đi sát vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên nhiều khi có dấu hiệu rủi ro, hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải chưa được phát hiện, xử lý giúp đỡ kịp thời. Hạn mức và thời hạn cho vay còn chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Có một số doanh nghiệp vay rồi nhưng lượng vốn được giải quyết quá ít không đủ đáp ứng nhu cầu, cũng như thời hạn cho vay chưa phù hợp với thời hạn dự án kinh doanh, phương án đầu tư đã trả nợ trước hạn và đi tìm ngân hàng khác. Vì vậy trong quá trình xem xét, quyết định cho vay cần phải linh hoạt hơn. Về thủ tục cho vay còn quá cứng nhắc, chưa được linh hoạt. Thời gian xét duyệt quyết định cho vay còn kéo dài làm lỡ kế hoạch, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp đó là do tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng. Một cán bộ tín dụng cần quản lý nhiều khách hàng một lúc. Về khả năng mở rộng khách hàng: Trong thời gian qua Chi nhánh đã thực sự quan tâm đến việc phát triển tín dụng đối với DNVVN, coi đây là khách hàng tiềm năng, là mục tiêu chiến lược của ngân hàng. Nhưng ngược lại chính bản thân các doanh nghiệp lại tạo ra những khó khăn cho ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng này. Cơ cấu vốn không hợp lý, tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ tọng quá cao trong tổng nguồn vốn. Các doanh nghiệp vốn ít lại sử dụng vốn không hiệu quả, lợi nhuận thấp hoặc không có lãi, thậm chí lỗ. Bên cạnh đó chưa kể đến những khó khăn khác như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp, trình độ chuyên môn của công nhân viên. Việc nắm bắt các thông tin về thị trường bị hạn chế, không kịp thời. Phương án đưa ra thiếu tính thuyết phục. Về tài sản đảm bảo: Cho vay đối với DNVVN vẫn phát sinh nợ quá hạn và tài sản đảm bảo khó có thể trở thành nguồn thu nợ thứ hai do tài sản có tính thị trường không cao. Trong nợ quá hạn khó đòi phát sinh ở các DNVVN nếu không có tài sản đảm bảo thì không có khả năng thu hồi. Tài sản đảm bảo là bất động sản thì khó thu hồi phát mại do tính không hợp pháp về giấy tờ, hoặc không muốn xử lý tài sản thế chấp và xin trả dần mà không thực hiện. Tài sản đảm bảo là động sản thì hầu hết là dây chuyền sản xuất cũ, lạc hậu nên việc xử lý gặp nhiều khó khăn, giá trị thu hồi nhỏ. Thậm chí có những dây chuyền không bán được vì đã quá lạc hậu, còn đối với hàng hoá cầm cố chưa có chính sách quản lý chặt chẽ về mức giảm giá và khấu hao. Về năng lực phẩm chất cán bộ tín dụng: Hầu hết cán bộ tín dụng của Chi nhánh đều còn rất trẻ nên thiếu kinh nghiệm trong việc cấp tín dụng cho vay, chưa bám sát tình hình thực tế, còn có sự e ngại khi quan hệ tín dụng với DNVVN. Một số cán bộ làm việc lâu năm theo kinh nghiệm nhưng thiếu biết về kinh tế thị trường, về khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Có nhiều dự án có nội dung kinh tế kỹ thuật phức tạp, cán bộ tín dụng không đủ hiểu biết về các lĩnh vực chuyên môn đó để xác định hiệu quả kinh tế kỹ thuật của dự án. Cán bộ tín dụng tính toán các chỉ tiêu này chủ yếu dựa vào số liệu do doanh nghiệp cung cấp nên thiếu tính khoa học, tính chính xác. Mặt khác trong quá trình cho vay, nhiều cán bộ tín dụng thiếu khả năng phán đoán và có cách nhìn toàn diện về hiệu quả thực tế, toàn diện của phương án vay vốn của doanh nghiệp nêu ra, nên chỉ xoay quanh các tài sản mang tính vật chất đảm bảo trực diện. Chưa quan tâm đến công tác tư vấn cho doanh nghiệp mà chỉ lo thúc giục doanh nghiệp cung cấp các thủ tục hình thức một cách máy móc. 2.2.2.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan - Sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập ngoại, đặc biệt là hàng nhập lậu, trốn thuế. - Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước đã và đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện. Do vậy, các DNVVN chuyển hướng và điều chỉnh phương án kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế chính sách vĩ mô nên kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện để được tiếp tục vay vốn ngân hàng. - Môi trường pháp lý cho hoạt cho vay chưa đầy đủ + Các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý đối với thị trường bất động sản chưa thực hiện kịp thời cấp giấy tờ sở hữu cho các chủ đang sở hữu hoặc đang sử dụng tài sản. Do đó, việc thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng gặp nhiều khó khăn, phức tạp, nhiều khi bị ách tắc về giấy tờ không hợp lệ, hợp pháp đối với cả người vay và người cho vay. + Việc thực hiện pháp lệnh, kế toán thống kê chưa nghiêm túc đa số các số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của DNVVN chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Số liệu phản ánh chưa chính xác, trung thực tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu về giải quyết tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài sản cầm cố, thế chấp... chưa bảo vệ chính đáng quyền lợi của người cho vay. Thông thường khi điều tra, xét xử hành vi gây thất thoát vốn, các cơ quan pháp luật hay tìm cách khép tội cho cán bộ tín dụng nên cán bộ tín dụng có tâm lý e ngại, rụt rè khi quyết định cho vay. Nguyên nhân từ phía ngân hàng - Điều kiện vay vốn của Chi nhánh còn chặt chẽ , tất cả các khoản vay đều phải có tài sản đảm bảo, nhiều DNVVN không đủ tài sản cầm cố, thế chấp đã không tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. - Từ khi tiếp xúc khách hàng đến khi giải ngân phải trải qua nhiều thủ tục, điều kiện, giấy tờ phức tạp, tốn nhiều thời gian làm lỡ cơ hội kinh doanh, kế hoạch thực thi dự án của doanh nghiệp. Có những khách hàng phàn nàn về thời gian ra quyết định cho vay. Nếu không chấp nhận hoặc chấp nhận cũng cần giải quyết và trả lời thật thẳng thắn sớm để doanh nghiệp chủ động tìm nguồn khác cho kịp thời vụ cũng như tiến độ thực hiện phương án. - Chi nhánh quan tâm đến DNVVN nhưng chưa thực sự trở thành chiến lựơc. Chưa thực sự quan tâm đến chiến lược khách hàng, đến hoạt động Marketing, nên việc thu hút kế hoạch mới gặp khó khăn, còn thụ động ngồi chờ khách hàng đến vay vốn. - Trình độ năng lực cán bộ tín dụng của Chi nhánh chưa đồng đều, đa số là những người trẻ thời gian làm việc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng chưa lâu, còn thiếu kinh nghiệm chưa theo kịp với sự chuyển biến của môi trường. Tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng chưa cao, việc thẩm định lựa chọn khách hàng, kiểm tra tín dụng chưa nghiêm túc đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh chưa chuẩn xác, tạo cơ hội cho khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. - Cán bộ tín dụng chưa thực sự chủ động cùng doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả và việc lập phương án mang nặng tính chất hợp lý hoá nên nhiều khi không sát thực. Nguyên nhân từ phía DNVVN Bên cạnh những nguyên nhân phát sinh từ môi trường khách quan cũng như từ phía ngân hàng, trong quan hệ tín dụng cho vay nhiều vấn đề nảy sinh từ phía các DNVVN. Cụ thể: - Không có các dự án khả thi Đây là điều kiện tiên quyết và không thể thiếu để ngân hàng xem xét và quyết định cho vay. Nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp mà ngân hàng bỏ vốn cho vay. Thực tế, hầu hết các DNVVN không thể tự viết được các dự án đầu tư trong dài hạn, thậm chí cả kế hoạch ngắn hạn. Đứng trước tình hình đó cán bộ tín dụng phải tư vấn cho doanh nghiệp về thủ tục, cách lập kế hoạch. Nhiều khi phải giúp đỡ họ, cùng họ tính toán, lập phương án vay vốn, trả nợ ngân hàng. Nhưng đa số còn chưa đáp ứng được yêu cầu lập kế hoạch hoặc lưu chuyển tiền mặt trong năm để ngân hàng biết khối lượng tiền chu chuyển hàng tháng, cân đối thu chi hàng tháng. - Không đủ vốn tự có để tham gia vào các dự án theo quy định của Chi nhánh, còn quá phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng - Không đủ tài sản thế chấp Các DNVVN đã thiếu vốn sản xuất kinh doanh thì lại không đủ tài sản thế chấp, thậm chí có những doanh nghiệp không đủ tự tin vào phương án sản xuất kinh doanh nhưng muốn vay vốn ngân hàng mà không thế chấp tài sản để khi xảy ra rủi ro ngân hàng sẽ là người chịu. Hoặc có thế chấp thì hầu hết là các tài sản lạc hậu, khó xử lý, tính thị trường không cao. - Các DNVVN không có đầy đủ tài liệu báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện này vì sổ sách kế toán của họ rất đơn giản, không cập nhật, thiếu chính xác. Làm cho việc đánh giá, thẩm định khách hàng gặp nhiều khó khăn. - Ở một số DNVVN năng lực quản lý tài chính, trình độ kỹ thuật yếu kém, sản xuất kinh doanh chịu nhiều áp lực cạnh tranh nên sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được, sản xuất đình trệ không có khả năng trả nợ. Qua việc xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động của các DNVVN trong những năm gần đây để thấy được những khó khăn mà DNVVN đang gặp phải, đồng thời xem xét thực trạng hoạt động tín dụng của Chi nhánh đối với DNVVN, nhằm hỗ trợ vốn vay cho DNVVN phát triển và mở rộng hoạt động cho vay của Chi nhánh, cho ta thấy được những gì đã đạt được, những gì còn tồn tại, khó khăn chưa giải quyết được, đồng thời tìm ra được những nguyên nhân chủ quan khách quan tạo nên sự cản trở việc mở rộng hoạt động cho vay nhằm phát triển DNVN của Chi nhánh Bắc Hải, đưa ra các giải pháp nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận được với nguồn vốn vay của Chi nhánh phát triển một cách nhanh hơn, hiệu quả hơn, tạo được sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI, CHI NHÁNH BẮC HẢI, TP.HẢI PHÒNG 3.1. Định hướng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian tới Năm 2009 đã có những dấu hiệu hồi phục khả quan của nền kinh tế, kinh tế đã đứng dậy sau thời gian rơi vào khủng hoảng bước đầu tăng trưởng trở lại và hứa hẹn kinh tế thế giới sẽ phát triển hơn nữa trong thời gian tới năm 2010. Với bối cảnh như vậy, ban lãnh đạo của Chi nhánh gồm Giám đốc và phòng Quan Hệ Khách Hàng đã xác định và đưa ra bảng kế hoạch kinh doanh cho Chi nhánh trong năm tới – năm 2010, nhằm kịp thời thích ứng với tình hình mới, phù hợp với những biến động của nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như phù hợp với những điều kiện mới của nền kinh tế Việt Nam. - Về cơ cấu tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực: Tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, đào tạo kiến chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên để Chi nhánh có được những nhân viên vừa năng động, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức tuyển dụng thêm nhân viên mới. - Về hoạt động huy động vốn: Tăng cường huy động nguồn tiền nhàn rỗi của các cá nhân và tổ chức trong dân cư, giá trị huy động trong năm 2010 được cụ thể hoá bằng bảng sau: Bảng 08: Kế hoạch huy động vốn năm 2010 Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu Kế hoạch 2010 Trụ sở chi nhánh PGD Lê Chân Tổng Huy động vốn thời điểm 218,183 213,838 432,021 Không kỳ hạn 34,142 21,454 55,596 Có kỳ hạn 184,041 192,384 376,425 Huy động vốn bình quân 122,861 161,723 284,584 Không kỳ hạn 23,845 16,636 40,481 Có kỳ hạn 99,016 145,087 244,103 Nguồn: Theo kế hoạch kinh doanh năm 2010 của Chi nhánh Bắc Hải. - Về hoạt động sử dụng vốn (Hoạt động tín dụng): Với những tín hiệu tốt từ sự phục hồi của nền kinh tế, cùng những lới lỏng trong chính quản lý hoạt động tín dụng đối với các Ngân Hàng thương mại của NHNN, trong năm 2010 Chi nhánh sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tăng giá trị cho vay cũng như số lượng khách hang tín dụng. Giá trị cho vay trong năm 2010 được cụ thể hoá bằng bảng dưới đây: Bảng 09: Kế hoạch hoạt động cho vay năm 2010 Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu Kế hoạch 2010 Trụ sở chi nhánh PGD Lê Chân Tổng Dư nợ thời điểm 300,495 94,801 395,296 Ngắn hạn 164,142 42,223 206,365 Trung và dài hạn 136,353 52,578 188,931 Dư nợ bình quân 210,160 37,029 247,189 Ngắn hạn 115,824 36,985 152,809 Trung và dài hạn 94,336 43.759 94,380 Nguồn: Theo kế hoạch kinh doanh năm 2010 của Chi nhánh Bắc Hải. Ngoài ra, Chi nhánh Bắc Hải có kế hoạch quan tâm phát triển các dịch vụ hoạt động khác như thanh toán quốc tế, bảo lãnh… trong năm 2010 góp phần tăng thu nhập cho Chi nhánh bằng các con số cụ thể đã được đề ra. Theo kế hoạch kinh doanh năm 2010, tổng dư thanh toán quốc của Chi nhánh là 15,652 Trđ, tổng dư bảo lãnh của Chi nhánh là 12,587 Trđ. - Về công nghệ, trang thiết bị: Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hang trong việc tiếp cận với các dịch vụ của Ngân Hàng, cũng như thuận lợi cho việc giao dịch giữa khách hang và Ngân Hàng, theo kế hoạch năm 2010 Chi nhánh Bắc Hải sẽ tiến hành lắp đặt thêm 1 Máy rút tiền tự động – ATM mới nâng tổng số máy ATM của Chi nhánh lên là 5 máy. Đồng thời, ngay đầu năm 2010 Chi nhánh Bắc Hải tiến hành đưa vào hoạt động eBanking giúp khách hàng thuận tiện hơn trong việc quản lý tài khoản, đảm bảo cho việc giao dịch giữa khách hàng và Ngân Hàng được diễn ra thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn. Định hướng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đối với các DNVVN, Ngân hàng TMCP Quân Đội,Chi nhánh Bắc Hải có các mục tiêu phương hướng sau: - Tăng trưởng dư nợ lành mạnh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho DNVVN vay vốn. Tốc độ tăng dư nợ cho vay hàng năm bằng tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất + chỉ số lạm phát hàng năm, đạt tăng trưởng dư nợ từ 20 - 25%/ năm, ngân hàng cố gắng giảm nợ vay quá hạn đến mức thấp nhất nhằm thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời tiếp tục thực hiện các biện pháp tích cực để xử lý và thu hồi các món nợ còn tồn đọng nhằm lành mạnh hoá chất lượng tín dụng đối với các DNVVN. - Cơ cấu tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 75 - 85%, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn từ 25 - 30% để các DNVVN có điều kiện đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng trên thị trường, chuẩn bị cho hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. - Tiếp tục thực hiện hiện đại hoá ngân hàng, mở rộng, phát triển các dịch vụ ngân hàng: Định hướng tăng tốc độ thu dịch vụ từ 20 - 25%, đa dạng hoá dịch vụ. - Tích cực, chủ động tìm kiếm các khách hàng mới mà chủ yếu là DNVVN. Chi nhánh sẽ chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có khả năng thẩm định tốt để tìm kiếm cơ hội đầu tư, tư vấn lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho các DNVVN. Chủ trương lâu dài của Chi nhánh là tăng cường công tác tiếp thị, thực hiện tốt chiến lược khách hàng. - Thực hiện chính sách khách hàng theo tiêu chuẩn khách hàng. Các khách hàng có đủ điều kiện vay vốn, có uy tín trong quan hệ tín dụng, không có nợ quá hạn khó đòi, không có lãi treo... sẽ được Chi nhánh đáp ứng nhu cầu tín dụng nhanh chóng, kịp thời với những ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ. Nhưng khách hàng có đủ tiêu chuẩn quy định sẽ được ưu đãi về lãi suất tiền gửi, tiền vay và chi phí dịch vụ theo những quy định nhất định trong các thời kỳ. Những khách hàng có quan hệ lâu năm, đủ tín nhiệm sẽ nhận được ưu đãi tối thiểu về vốn tự có, về ký quỹ đối với các dự án vay vốn. - Nghiên cứu xem xét cho DNVVN có nợ quá hạn được tiếp tục vay vốn với dự án sản xuất kinh doanh thực sự hiệu quả nhằm mở rộng tín dụng, thu nợ cũ cũng như tạo mối quan hệ lâu dài với khách hàng. - Chủ động nắm bắt diễn biến lãi suất thị trường trong nước, xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt, lãi suất ưu đãi phù hợp đối với chính sách khách hàng trong đó chú trọng những khách hàng có số dư tiền gửi, tiền vay lớn. Như vậy, thực hiện tốt chính sách khách hàng, Chi nhánh sẽ có lực lượng khách hàng đông đảo, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tốc độ tăng trưởng phát triển nhanh là thành công của ngân hàng. Với những thuận lợi cả bên trong và bên ngoài Chi nhánh, hứa hẹn hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Bắc Hải - Hải Phòng trong năm 2010 sẽ có hiệu quả cao và đạt được các mục tiêu kế hoạch đã đề ra. 3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng 3.2.1. Đa dạng hoá các hình thức cho vay đối với các DNVVN. Ngoài phát triển các hình thức cho vay truyền thống mà trước nay Ngân hàng vẫn thực hiện đối với khách hàng của mình như : cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức … Ngân hàng cần phải quan tâm phát triển các nghiệp vụ cho vay mới như: Cho vay theo dự án đầu tư, cho vay trả góp …để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng (đặc biệt là các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế về mặt pháp lý ). 3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác kiểm định. Thẩm định là một công đoạn không thể thiếu, là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng quyết định đến quyết định cho vay hay không và xa hơn nữa là ảnh hưởng đến hiệu qủa đồng vốn mà ngân hàng bỏ ra. Chất lượng thẩm định đầu vào chính là yếu tố quyết định chất lượng tín dụng đầu ra sau này .Nếu quá trình thẩm định không được xem xét kỹ thì khả năng tiềm ẩn rủi ro tín dụng sẽ cao. Ngoài việc thẩm định theo cơ chế tín dụng quy trình nghiệp vụ của ngành như : Đánh giá kỹ càng năng lực pháp lý, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Khi cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh còn phải đặc biệt lưu ý đến những đặc điểm ghi trong điều lệ doanh nghiệp ( về người đại diện trước pháp luật, về người có quyền quyết định vay vốn ..) để giảm bớt rủi ro cho khoản tín dụng được cấp ra. Để đánh giá chính xác về năng lực tài chính, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ .. qua chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính như : khả năng thanh toán, khả năng sinh lời …kết hợp với các thông số, kết quả của các doanh nghiệp cùng ngành, của các doanh nghiệp truyền thống. Tổ chức tìm hiểu, thu nhập thông tin, phỏng vấn, tham quan doanh nghiệp …qua đó đánh giá được khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đaọ doanh nghiệp qua năng lực tổ chức, trình độ chuyên môn cũng như uy tín của người lãnh đạo đây là những tiêu chuẩn định tính nên phải có sự tinh tế của cán bộ tín dụng mới có thể nhận xét được chính xác . Cán bộ tín dụng nên tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm về các lĩnh vực khác như thẩm định về phương diện kỹ thuật, các thông số kỹ thuật máy móc chất lượng máy móc, để từ đó có thể phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn… 3.2.3. Chú trọng phát phát triển và thực hiện tốt hoạt động huy động vốn Hải Phòng là một tỉnh rộng, đông dân, là một trong các thành phố lớn của Việt Nam có tiềm năng kinh tế dồi dào nên nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn. Trong khi đó ngân hàng lại chưa thể đáp ứng hết nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó công tác huy động vốn phải càng được chú trọng hơn, đặc biệt là nguồn vốn ổn định và lâu dài. Ngoài một số biện pháp ngân hàng đã làm để nâng cao chất lượng huy động vốn hơn nữa ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp sau : * Đa dạng hoá các loại hình tiền gửi, cải tiến gọn nhẹ thủ tục gửi và rút tiền, có thái độ phục vụ tốt nhất đối với khách hàng . * Mở rộng mạng lưới huy động vốn trên toàn địa bàn tỉnh, thực hiện chủ trương “đến tận ngõ, gõ cửa từng nhà” cần mở rộng các quỹ tiết kiệm gần người dân hơn nữa. Xây dựng hoặc thuê các trụ sở khang trang, thái độ phục vụ của các nhân viên phải niềm nở nhiệt tình tạo niềm tin cho khách hàng . * Triển khai nhiều hình thức huy động vốn trọng tâm là các loại hình lãi xuất ổn định như :chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu… phục vụ đa rạng các nhu cầu rút tiền gửi như : gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi, tiền gửi rút tiền tự động. *Có mức lãi suất linh hoạt, hấp dẫn mang tính cạnh tranh, chủ động nắm bắt các diễn biến trên thị trường lãi suất để đưa ra một mức lãi suất phù hợp qua đó có thể tư vấn mọi diễn biến của lãi suất cho khách hàng nhằm tạo lập mối quan hệ tốt hơn nữa với khách hàng gửi tiền . * Có chính sách khuyến mãi hợp lý cho khách hàng có số tiền gửi lớn, thời gian gửi lâu ổn định, khuyến khích khách hàng gửi dài hạn bằng những mức lãi suất hấp dẫn. * Ngoài các hình thức tuyên truyền quảng cáo sản phẩm mới khi có đợt huy động vào những tầm cao điểm cần vốn của ngân hàng, ngân hàng có thể xắp xếp các giao dịch ngoài giờ hành chính, vào các ngày nghỉ hàng tuần để tăng cường thu hút vốn trong dân cư. * Nâng cao tốc độ và chất lượng của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để thu hút tiền gửi thanh toán của khách hàng. 3.2.4. Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ và các chuyên viên quan hệ khách hàng (Cán bộ, chuyên viên tín dụng) Nguyên nhân của những khoản nợ khó đòi chủ yếu xuất phát từ phía khách hàng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các rủi ro của ngân hàng không có lỗi của cán bộ tín dụng. Điều đó thể hiện ở chỗ năng lực thẩm định đánh giá của một số cán bộ tín dụng còn hạn chế, thiếu cập nhật … đã dẫn đến quyết định cho vay gây lãng phí vốn của ngân hàng. Vì vậy việc đầu tiên cấp thiết bây giờ là chi nhánh phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ bằng cách : * Cử các đại diện xuất sắc đi học tập, tu nghiệp chuyên môn. Có chính sách khen thưỏng cả bằng vật chất lẫn tinh thần khuyến khích cán bộ tín dụng học cao học để nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức mới nhất phục vụ công việc. * Thường xuyên hệ thống hoá lại các văn bản cũ, mới để cán bộ tín dụng nắm bắt được, tập trung đào tạo lý luận, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến từng cán bộ. * Tổ chức các cuộc hội thảo, tham quan các đơn vị tiên tiến trong nghành, các cuộc thi cán bộ giỏi để các cán bộ có thể học hỏi và rút kinh nghiệm. Các cán bộ tín dụng cần tích cực tìm tòi học hỏi tham gia vào các đợt tập huấn nghiệp vụ của ngân hàng để tự tích luỹ thêm kiến thức. Trang bị kiến thức và kỹ thuật về sử dụng máy tính cho cán bộ tín dụng để có thể áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong việc đánh giá khách hàng. Kinh nghiệm thẩm định các lĩnh vực khác ngoài xây dựng cơ bản của cán bộ tín dụng chi nhánh còn hạn chế, đặc biệt là thẩm định về phương diện kỹ thuật như các thông số kỹ thuật máy móc, chất lượng, máy móc …Bởi vậy, chi nhánh nên cử một số cán bộ tín dụng đi học và nghiên cứu chuyên sâu về phương diện này thì việc thẩm định sẽ có hiệu quả hơn. 3.2.5. Hoàn thiện và đổi mới chính sách chăm sóc khách hàng. Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, gặp gỡ, trao đổi với doanh nghiệp để hai bên cùng tháo gỡ những vướng mắc và qua đó giúp hai bên hiểu nhau hơn, doanh nghiệp vì ngân hàng và ngân hàng vì sự thành đạt của doanh nghiệp. * Yếu tố tâm lý, xã hội, trình độ văn hoá, tập quán của từng vùng cũng ảnh hưởng đến việc cho vay của ngân hàng. Vì vậy Chi nhánh phải tìm hiểu tâm lý nhu cầu của khách hàng bằng cách mở hội nghị của khách hàng. Mặt khác phải hướng cán bộ công nhân viên của ngân hàng nói chung và đội ngũ cán bộ tín dụng nói riêng thấm nhuần tư tưởng là “Mỗi cán bộ ngân hàng là một nhà Marketing ngân hàng” 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với NHNN Một là: Hoàn thiện khung pháp lý cho DNVVN Chính phủ và các ban ngành cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để khuyến khích các doanh nghiệp, doanh nghiệp yêu cầu hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật. Ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo vệ DNVVN, chính sách thuế, chính sách thương mại, đất đai... Nhà nước cần ban hành các đạo luật cơ bản, tạo môi trường pháp lý cần thiết để các DNVVN dễ dàng thực hiện các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ và các ngân hàng dễ dàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo nợ khi có rủi ro xảy ra. Đó là luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về cấp chứng thư, sở hữu tài sản; ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện xử lý, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Có như vậy mới góp phần tạo ra sự đảm bảo chắc chắn hơn cho các Ngân hàng thương mại và từ đó mà khuyến khích họ trong việc cho vay vốn đối với các DNVVN. Hai là: Tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng trung và dài hạn để tất cả người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau. Những quy định hiện hành và quy tắc điều chỉnh việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng dài hạn và trung hạn đã có sự phân biệt đối xử với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi đó ưu tiên cho DNNN. Ngân hàng phải tin vào khả năng trả nợ cho người đi vay chứ không phải là ai là người sở hữu hoặc “thân phận” của người đi vay. Điều này sẽ xác định không chỉ là liệu một doanh nghiệp có vay được vốn hay không mà còn liệu doanh nghiệp có phải thế chấp hay không. Ba là: Xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ trợ DNVVN Một trong những hạn chế của DNVVN là đội ngũ quản lý còn yếu kém, doanh nghiệp thiếu thông tin và khả năng tiếp cận thị trường. Vì vậy, việc thành lập các trung tâm tư vấn hỗ trợ DNVVN là hết sức cần thiết, đóng vai trò quan trọng nhằm trợ giúp DNVVN trong các lĩnh vực sau đây: - Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ quản lý điều hành và tay nghề người lao động: Ngoài việc tổ chức mạng lưới các cơ sở dạy nghề trong phạm vi cả nước, một việc hết sức quan trọng là tổ chức đào tạo kiến thức kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường cho đôị ngũ quản lý DNVVN. Đối với chủ DNVVN họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, thành đạt trong kinh doanh nhưng chưa có dịp tiếp xúc một cách có hệ thống các kiến thức mới về quản lý tài chính, về pháp luật vì vậy cần tổ chức các lớp đào tạo theo các chủ đề dành cho chủ doanh nghiệp, tổ chức các buổi giao lưu, toạ đàm cho các doanh nhân trẻ. - Hướng dẫn xây dựng dự án, phương án kinh doanh khả thi. Việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng cho DNVVN, giúp các doanh nghiệp biến một ý tưởng mới thành hoạt động kinh doanh thành công về phương diện tài chính. Nhưng việc tự mình lập phương án sản xuất kinh doanh để đệ trình với các cơ quan hữu quan là một điều hết sức khó khăn mà nhiều DNVVN, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh là không thể tự làm được. Vì vậy rất cần phải có hoạt động tư vấn về lĩnh vực này. Có như vậy các ngân hàng mới biết được mục đích sử dụng, khả năng sinh lời của dự án, từ đó mới có thể xem xét thẩm định trước khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin thị trường, khoa học công nghệ, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp ra nước ngoài: Để có thể tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế, điều quan trọng đối với các doanh nghiệp là tiếp cận công nghệ hiện đại nhằm tăng cường cạnh tranh. 3.3.2. Về phía Ngân hàng TMCP Quân Đội – MB, Chi nhánh Bắc Hải Có những chính sách hỗ trợ tài chính và xử lý nợ đọng, nợ khó đòi của các DNVVN. Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Tăng cường vai trò tư vấn đối với doanh nghiệp. Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, trong nước, hỗ trợ cho viêc đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý điều hành hoạt động ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định, đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ tín dụng, quán triệt tư tưởng coi doanh nghiệp đến vay vốn là sự nhờ cậy để từ đó ban phát, bố thí cho doanh nghiệp. Việc tuyển chọn cán bộ cần được tiêu chuẩn hoá và theo xu hướng trẻ hoá. Cần bố trí công việc cho cán bộ theo đúng chuyên môn đào tạo và sở trường, trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại nâng cao tính cạnh tranh. 3.3.3. Kiến nghị đối với các DNVVN Bên cạnh những giải pháp, cơ chế hỗ trợ từ phía ngân hàng cho doanh nghiệp một cách tích cực thì điều quan trọng, chủ yếu là những nỗ lực từ bản thân doanh nghiệp. Một thực tế hết sức bất cập đó là doanh nghiệp thì thiếu vốn trong khi đó ngân hàng đang thừa vốn không cho vay được, không phải là ngân hàng không muốn cho các doanh nghiệp vay mà ngân hàng e ngại doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Vì thế để khai thông rào cản gây ách tắc quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp thì các ngân hàng phải chú ý giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất: DNVVN phải có giải pháp tạo vốn tự có Hiện nay, cơ cấu vốn của nhiều doanh nghiệp chưa hợp lý, tỷ trọng nguồn vốn đi vay từ bên ngoài, từ ngân hàng trong tổng nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả Nhà nước và ngoài quốc doanh nói chung còn cao. Điều đó dẫn đến: Doanh nghiệp bị quá phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng, vay được vốn ngân hàng thì hoạt động được, không vay được vốn ngân hàng thì không hoặc khó hoạt động. Theo nguyên lý về cơ bản cơ cấu tài chính doanh nghiệp cũng như thực tế doanh nghiệp các nước có nền kinh tế thị trường đích thực, thì nguồn vốn ngân hàng trong cơ cấu nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp chỉ mang tính bổ sung nguồn vốn thiếu hụt. Thông thường chỉ chiếm 30% trong tổng nguồn vốn. Doanh nghiệp có thể huy động, tạo lập nguồn vốn khác nguồn vốn ngân hàng như vốn tự có của chủ doanh nghiệp; vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết; vốn huy động từ nội bộ, vốn tự huy động qua phát hành trái phiếu... Như vậy doanh nghiệp sẽ chủ động trong hoạt động và tự chịu trách nhiệm trước các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn tự có sẽ là cơ sở bảo lãnh cho doanh nghiệp khi vay nên khả năng tiếp cận vốn tín dụng sẽ dễ dàng hơn. Thứ hai: Các doanh nghiệp phải xây dựng được phương án kinh doanh có hiệu quả, có tính khả thi. Phương án khả thi là yếu tố quyết định đến việc cho vay vốn của ngân hàng. Vì vậy doanh nghiệp cần phải thực sự đưa được phương án có hiệu quả, có tính thuyết phục. Muốn vậy doanh nghiệp cần nâng cao khả năng lập dự án vì nhiều doanh nghiệp có cơ hội tốt, có ý tưởng nhưng không lập được dự án. Doanh nghiệp cũng cần chủ động nghiên cứu thị trường, môi trường kinh doanh, những rủi ro có thể xảy ra tạo điều kiện cho hoạt động sử dụng vốn vay ngân hàng được an toàn, hiệu quả. Thứ ba: Đổi mới thiết bị công nghệ. Do hạn chế về quy mô và nguồn tài chính nên đối với DNVVN vấn đề trước mắt chưa phải là công nghệ hiện đại mà phải chọn công nghệ phù hợp, công nghệ đa dụng xuất phát từ nhu cầu thị trường về sản phẩm để lựa chọn công nghệ. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng phải quan tâm cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực trong công nghệ hiện có. Các doanh nghiệp cần có chương trình đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong đó chú trọng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Bên cạnh việc cải tiến kỹ thuật công nghệ cần phải đào tạo, nâng cao tay nghề của người lao động để theo kịp sự hiện đại của máy móc, nâng cao hiệu quả sử dụng máy, hạn chế hiện tượng lãng phí nguồn lực. Thứ tư: Coi trọng phát triển nguồn nhân lực Phần lớn nguồn nhân lực của DNVVN kể cả lao động và chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo một cách cơ bản, chủ yếu được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau như học sinh, bộ đội xuất ngũ, cán bộ về hưu, lao động dư dôi trong các doanh nghiệp Nhà nước... Nên họ còn bị hạn chế về chuyên môn, kỹ thuật và quản lý. Về lâu dài, cần trên cơ sở chiến lược phát triển, cơ cấu ngành nghề mà xây dựng chính sách đào tạo nhân lực. Trong điều kiện nguồn ngân sách còn hạn hẹp, cần thực hiện chính sách xã hội hoá công tác dạy nghề, có công, có tư. Nhà nước thống nhất quản lý tiêu chuẩn đào tạo, các DNVVN phải bỏ chi phí đào tạo nguồn nhân lực của mình. Đồng thời doanh nghiệp cần sử dụng có hiệu quả kinh phí đào tạo do các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua các chương trình dự án. Bên cạnh đó, một vấn đề rất quan trọng và cấp bách đối với DNVVN là vấn đề hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Đó sẽ là cơ hội vừa là thách thức đối với các DNVVN. Vì vậy các DNVVN cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng để nắm bắt thông tin, nâng cao hiểu biết về luật lệ thương mại quốc tế, khai thác thị trường phù hợp. Cuối cùng là doanh nghiệp phải tự đánh giá nâng cao sức cạnh tranh của chính mình, lo cho mình trước khi nhờ sự giúp đỡ của người khác, tránh ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. KẾT LUẬN DNVVN có vai trò quan trọng và chiếm ưu thế trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay. Vì thế việc phát triển tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp này là chiến lược cho các ngân hàng thương mại nói chung và của Chi nhánh nói riêng. Thấy được điều này, Chi nhánh đã có nhiều chú ý đến các doanh nghiệp này. Tuy nhiên trong thực tế mối quan hệ của Chi nhánh với các DNVVN còn nhiều bất cập, nhiều khi chưa tìm được tiếng nói chung. Vì thế việc tìm ra các giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển các DNVVN tại Chi nhánh là một vấn đề vô cùng cần thiết. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề nêu trên chuyên đề đã hoàn thành nội dung cơ bản sau: Khái quát vấn đề, lý luận chung về hoạt động cho vay của NHTM đối với DNVVN Vai trò của hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Trình bày và phân tích thực trạng hoạt động cho vay của Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP.Hải Phòng đối với các DNVVN trong những năm gần đây từ đó nêu ra những mặt còn tồn tại cần giải quyết và nguyên nhân của tồn tại đó Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNVVN, một số kiến nghị với Chính phủ, Chi nhánh, với các doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các DNVVN dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn vay ngân hàng hơn nữa. Tuy nhiên việc phát triển và mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN là một vấn đề lớn, cần có hệ thống các giải pháp và các điều kiện thực hiện đồng bộ. Do đó trong bài viết này, em chỉ mong muốn đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp phát triển các DNVVN. Để giải pháp được thực thi và phát huy tác dụng thì cần có sự nỗ lực từ bản thân các DNVVN, có sự quan tâm phối hợp hỗ trợ của Chính phủ và các NHTM cũng như các cấp, các ngành có liên quan. Do hiểu biết bản thân và thời gian nghiên cứu có hạn bài viết không thể tránh khỏi một số khiếm khuyết, em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn, cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Thuỳ Dương, các anh chị phòng Kinh doanh&Quan hệ khách hàng thuộc ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP. Hải Phòng đã tạo mọi điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề của mình. Hải Phòng, ngày… tháng… năm 2010 Sinh viên: Phạm Nho Thắng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình “Ngân hàng thương mại”, chủ biên: PGS.TS Phan Thị Thu Hà, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội – 2007 2. “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính” – Prederic S. Mishkin, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội – 1994 3. Bài giảng “Tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ” – Lê Ngọc Quỳnh, Giám đốc ban quản lý tín dụng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV. 4. Các báo cáo thường niên, kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân Đội, Chi nhánh Bắc Hải, TP. Hải Phòng 5. Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam – 2004. 6. Các bài viết trên báo chí và mạng Internet.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31729.doc
Tài liệu liên quan