Trong những năm qua, công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã khẳng định được vai trò to lớn trong quá trình thanh toán giữa các đơn vị kinh tế nói riêng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động ngân hàng gắn kết và đem lại lợi ích thiết thực cho hoạt động kinh tế – xã hội và là một ngành cần được ưu tiên phát triển. Công tác TTKDTM là một trong những nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại với những đặc điểm an toàn, tiện lợi và nhanh chóng đã làm tăng nhanh quá trình chu chuyển vốn, giảm thời gian ứ đọng vốn của các doanh nghiệp, đồng thời giúp Ngân hàng tăng khả năng kiểm soát của mình đối với quá trình lưu thông tiền tệ.
Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, trong nhiều năm qua đã nỗ lực trong hoạt động TTKDTM. Với sự gia tăng về doanh số thanh toán, cho thấy hoạt động của Chi nhánh thật có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều vướng mắc mà Chi nhánh cần khắc phục.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và các lý thuyết trong quá trình học tập, em đã đi sâu nghiên cứu công tác TTKDTM tại Chi nhánh. Nhờ đó em có cơ hội tìm hiểu những hạn chế của hoạt động trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp để mở rộng hoạt động TTKDTM tại Chi nhánh.
Mong rằng những giải pháp trên sẽ đóng góp vào quá trình phát triển TTKDTM tại Chi nhánh, tuy vậy đây là vấn đề liên quan đến nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội, cùng với kiến thức còn hạn chế nên em mong muốn được các thầy cô tiếp tục chỉ bảo và đóng góp.
85 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn: Số liệu bảng 09)
Nhìn chung Uỷ nhiệm thu phát triển chậm và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh số TTKDTM, chỉ chiếm khoảng 0,9% trong tổng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Cụ thể, năm 2002 là 101,260 tỷ đồng, năm 2003 là 152,789 tỷ đồng, năm 2004 là 161,137 tỷ đồng.
Cũng giống như hình thức Uỷ nhiệm chi, nếu xét sự tăng giảm tương đối thì giai đoạn 2003 - 2004 Uỷ nhiệm thu tăng 10% ít hơn so với con số 50% ở giai đoạn 2002 - 2003.
*Ta có thể đưa ra bảng so sánh về doanh thu giữa hình thức Uỷ nhiệm chi và Uỷ nhiệm thu:
Biểu đồ 05: So sánh doanh thu giữa hình thức Uỷ nhiệm chi và Uỷ nhiệm thu
(Nguồn: Số liệu từ bảng 06)
Qua biểu đồ, ta nhận thấy doanh số Uỷ nhiệm thu và Uỷ nhiệm chi tăng trưởng khá ổn định. Nhưng rõ ràng là có sự mất cân đối giữa hai hình thức này. Sở dĩ như vậy vì Uỷ nhiệm thu chỉ dùng trong các dịch vụ thu hộ giữa đối tượng cung cấp hàng hoá, dịch vụ đối với đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó (và được phản ánh trên hợp đồng thoả thuận trước giữa người cung cấp và người tiêu dùng). Thể thức này hết sức phức tạp, và rườm rà, không phù hợp với hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, chỉ phù hợp với kho bạc Nhà nước hoặc là thủ tục áp dụng trong việc mua bán với nước ngoài.
2.4.L/C:
Hiện nay, hình thức thanh toán L/C tại Chi nhánh ít được sử dụng để thanh toán trong nước và do phòng Thanh toán Quốc tế quản lý. Sở dĩ như vậy là vì thủ tục mở và thanh toán hết sức phức tạp. Hơn nữa, mức tối thiểu để mở thư tín dụng là 10 triệu đồng và do khách hàng lưu ký vào một tài khoản riêng và không được hưởng lãi. Mặt khác, mỗi L/C chi trả dùng để chi trả cho một người thụ hưởng và như vậy nếu muốn thanh toán với nhiều bạn hàng phải mở nhiều thư tín dụng khác nhau. Như vậy người mua bị mất quá nhiều thời gian cho thủ tục, do đó khi thanh toán trong nước khách hàng không ưa thích dùng thức thanh toán này.
2.5.Thẻ
Bảng 09: Tình hình thanh toán thẻ
Đơn vị: Triệu VNĐ
Năm
2002
2003
2004
So sánh tăng giảm
2003/2002
2004/2003
Tuyệt đối
%
Tuyệt đối
%
Thẻ
74.645
80.629
90.164
5.984
8
9.535
12
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp)
Biểu đồ 05: Doanh số thanh toán bằng thẻ
(Nguồn: Số liệu bảng 06)
Như vậy, ta thấy hình thức thẻ có xu hướng phát triển mạnh và nhanh cả về doanh số lẫn tốc độ phát triển. Điều đó cho thấy hình thức hiện đại này đã ngày càng được các tầng lớp dân cư quan tâm và ưa dùng. Cụ thể năm 2002 là 74.645 tỷ đồng, năm 2003 là 80.629 tỷ đồng, năm 2004 là 90.164 tỷ đồng. Ta nhận thấy không giống như các hình thức thanh toán trên, năm 2004 doanh số thanh toán thẻ tăng nếu xét tăng giảm tương đối: 8% giai đoạn 2002 - 2003 lên đến 12% giai đoạn 2003 - 2004. Để đạt được điều này, trong năm 2004 Chi nhánh đã chú trọng, phát triển các dịch vụ khách hàng: tăng lượng máy rút tiền tự động từ 12 lên 17 máy ATM, triển khai thành công các dự án về Hiện đại hoá thanh toán và kế toán khách hàng IPCAS giai đoạn I, triển khai các dịch vụ đại lý như dịch vụ chi trả Western Union, dịch vụ ứng tiền mặt ACB…
Đây là hình thức mới được Chi nhánh triển khai từ năm 2002. Hiện Chi nhánh đã là thành viên của Master Card. Số máy ATM hiện nay Chi nhánh quản lý là 17 máy, con số này tiến tới còn tăng.
Tuy vậy, vấn đề hiện nay để tăng doanh số và phát triển loại hình thẻ thì công tác mở tài khoản cá nhân phải được Chi nhánh chú trọng. Đó cũng là nội dung của Công văn 3691/NHNo – TCKT ngày 07/11/2003 của Tổng giám đốc.
Để thu hút các cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng, Chi nhánh Thăng Long đã liên hệ với các công ty, doanh nghiệp, liên doanh… chuyển trả lương cho cán bộ vào tài khoản tại Ngân hàng và miễn phí mở tài khoản. Cùng với sự đổi mới về công tác thanh toán của NHNo & PTNT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long không ngừng đổi mới, hiện đại hoá hệ thống thanh toán, đáp ứng nhu cầu chuyển tiền nhanh của các cá nhân, phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại đa năng như thanh toán thẻ, từ đó tạo lập thói quen thanh toán qua Ngân hàng đối với các cá nhân. Vì vậy việc mở tài khoản của cá nhân qua ngân hàng đã tăng lên rõ rệt.
Tuy số lượng mở tài khoản và doanh số thanh toán của các cá nhân tăng lên không ngừng qua các năm, nhưng so với thực tế thì lượng khách hàng tiềm năng vẫn còn rất lớn chưa biết đến hoạt động thanh toán qua Ngân hàng. Thực tế cho thấy là do những nguyên nhân như: Trình độ dân trí chưa đồng đều, mức thu nhập bình quân chưa cao, thói quen thanh toán bằng tiền mặt quá phổ biến, một phần do sợ bị đánh thuế thu nhập khi mở tài khoản tại Ngân hàng. Về phía Ngân hàng chủ yếu là do công nghệ chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thanh toán của dân cư (gửi một nơi rút nhiều nơi, các điểm giao dịch thuận tiện…).
Việc mở tài khoản cá nhân sẽ được phát triển nhanh hơn khi áp dụng công nghệ hiện đại trong hệ thống thanh toán (thanh toán thẻ là công cụ tích cực nhất), đồng thời phải có chế tài về thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng (ví dụ: Quy định của liên ngành về thu tiền cung ứng lao vụ như điện, nước, điện thoại…nhất thiết phải thu bằng tiền mặt, không thu bằng tiền mặt…).
III.Đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long
1.Những thành tựu đạt được trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
ý thức được tầm quan trọng của việc mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, bằng những chủ trương đúng đắn và có sự đầu tư thích hợp, Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc phát triển các dịch vụ liên quan đến công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Các hình thức đều tăng về doanh số và chất lượng.
1.1.Tăng về doanh số thanh toán không dùng tiền mặt
Doanh số thanh toán của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đều tăng cụ thể năm 2002 là 11.251,053 tỷ đồng, năm 2003 là 15.751,474 tỷ đồng, năm 2004 là 17.326,622 tỷ đồng. Trong đó đóng góp lớn vào tổng doanh số trên là hình thức Uỷ nhiệm chi (chiếm đến gần 90%) bằng những ưu điểm trong thanh toán.
Một thành tích nữa đáng ghi nhận là hình thức thanh toán bằng thẻ đã có những bước phát triển lớn về doanh số. Để được như vậy phải kể đến việc mở tài khoản cá nhân gia tăng qua mỗi năm, cho thấy Chi nhánh đã có sự quan tâm đúng mức tới hình thức này.
Bảng 10: Số tài khoản cá nhân tại Chi nhánh Thăng Long qua các năm:
Năm
2001
2002
2003
2004
Tổng số TK cá nhân
2.921
4.355
5.823
6.552
(Nguồn: Báo cáo triển khai công tác thanh toán không dùng TM và mở TK cá nhân năm 2005)
1.2.Ngày càng nâng cao chất lượng TTKDTM
Để đáp ứng được những mục đích và yêu cầu khác nhau của các chủ thể tham gia thanh toán, hệ thống thanh toán của Chi nhánh đã không ngừng nâng cao chất lượng. Với hệ thống thanh toán điện tử liên hàng, các chứng từ giấy được thay thế bằng các chứng từ điện tử, do vậy giảm thời gian thanh toán, giảm chi phí thanh toán đồng thời đảm bảo quá trình thanh toán chính xác, an toàn, ổn định, bớt rủi ro.
1.3.Mở rộng mạng lưới thanh toán
Cùng với sự phát triển của cả hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, chi nhánh Thăng Long nhắm đến khách hàng đại chúng, ngoài các đại biểu quốc hội, vận động viên trong nước tham dự Seagames 22 năm 2003…thì chi nhánh đang triển khai mạnh đến giới trẻ, như sinh viên các trường đại học. Đồng thời triển khai trong đối tượng hưu trí có mức lương khá, các công ty liên doanh có đông công nhân và thu nhập ổn định ở mức khá…
NHNo & PTNT Việt Nam là thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế, như Visa, Mastercard…đồng thời là thành viên sáng lập và chủ trì của công ty cổ phần chuyển mạch quốc gia, với sự tham gia của khoảng 15 NHTM khác, cho phép kết nối mạng sử dụng chung máy ATM và thẻ ATM. Do đó Chi nhánh Thăng Long cũng có cơ hội mở rộng phạm vi khách hàng.
2. Hạn chế trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, chất lượng TTKDTM tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long vẫn chưa cao và còn bộc lộ một số vấn đề cần được nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với thực tế và đảm bảo xu hướng phát triển của Ngân hàng nói chung và của Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long nói riêng:
- Danh mục thanh toán của Chi nhánh chưa phong phú, còn bó hẹp trong một số hình thức. Như Uỷ nhiệm chi chiếm tỷ trọng đến 90%, trong khi các hình thức khác chưa được khai thác hết công dụng và tính năng vốn có (Séc một công cụ thanh toán truyền thống lại không được ưa chuộng vì tính phức tạp trong ghi sổ, sử dụng…). Đây là hạn chế không chỉ có ở Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long mà ở hầu hết các NHTM hiện nay.
- Phạm vi tham gia thanh toán không dùng tiền mặt còn bó hẹp ở một số đối tượng nhất định:
+ Cán bộ, công nhân viên chức trong việc sử dụng hình thức chuyển tiền lương qua tài khoản cá nhân cũng chỉ được vài ngày lại rút ra hết, từ đó nội dung kinh tế của tài khoản chưa được thể hiện và phát huy tác dụng. Điều đó có thể giải thích phần nào do thu nhập của họ chưa cao và việc tiêu dùng ngoài xã hội vẫn chưa thể “tách ra” khỏi tiền mặt.
+ Một số đối tượng tham gia buôn bán lớn, những người có thu nhập cao lại chưa tham gia. Do việc tế nhị trong bí mật tài chính, kinh doanh, sợ đánh thuế và thuế thu nhập. Vì vậy đây chính là đối tượng vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng.
+ Bộ phận lớn dân cư chưa thấy nhu cầu cần thiết, chưa thấy được lợi ích của chính họ và xã hội khi mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng.
- Tốc độ thanh toán chưa nhanh, vẫn còn nhiều thiếu sót.
- Việc tổ chức hạch toán kế toán còn vẫn còn sai sót. Quy trình làm việc đôi khi còn bị bỏ qua, các yếu tố trên chứng từ còn chưa đầy đủ rõ ràng dẫn đến chất lượng thanh toán không cao và mất nhiều thời gian.
- Văn minh giao tiếp khách hàng còn bị hạn chế, chưa chu đáo và lịch sự trong việc hướng dẫn khách hàng sử dụng các hình thức thanh toán nói riêng và các hình thức dịch vụ của ngân hàng nói chung.
* Nguyên nhân:
Những hạn chế trên bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
2.1.Nguyên nhân chủ quan
- Vận dụng Marketing ngân hàng vào thực tế còn hạn chế và chưa có sự đầu tư thoả đáng.
Một thực tế hiện nay cho thấy việc nghiên cứu và ứng dụng Marketing ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mỗi NHTM là một quá trình khó khăn, phức tạp và tốn kém. Không phải ngân hàng nào cũng có thể thực hiện được cũng bởi do những giới hạn về vốn và con người.
Tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, hoạt động Marketing vẫn chưa được chú trọng như một chiến lược trong việc thu hút khách hàng và nghiên cứu thị trường. Có thể đưa ra nhận xét đối với hoạt động này ở Chi nhánh là thụ động. Sau khi Hiệp định Việt Mỹ về lĩnh vực ngân hàng và tài chính có hiệu lực hoàn toàn thì liệu có thể bảo đảm rằng Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long sẽ vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng 23% mỗi năm?
- Cơ sở vật chất và công nghệ còn đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn tất.
Khu giao dịch, hệ thống trang thiết bị máy móc là một trong những nhân tố quan trọng để nâng cao hình ảnh của ngân hàng. Với vị trí đẹp và tiện lợi như của Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long thì đó quả là một lợi thế. Tuy vậy, do Chi nhánh còn đang sửa sang trong 2 năm gần đây, nên Chi nhánh chưa phát huy được hết lợi thế trên của ngân hàng. Các phòng ban còn chưa tập trung về một mối. Khu tiếp dân chưa được bố chí theo đúng quy định. Mặc dù được trang bị hệ thống máy tính hiện đại và đồng bộ, nhưng chưa được nối mạng và cập nhật phần mềm tin học thường xuyên, do đó cũng ảnh hưởng phần nào đến tốc độ trong việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán.
Thêm vào đó việc triển khai dự án IPCAS giai đoạn I (dự án hiện đại hoá thanh toán và kế toán khách hàng của NHNo & PTNT Việt Nam) mặc dù đã thành công, nhưng vẫn còn tồn tại hệ thống Giao dịch trực tiếp, điều đó làm ảnh hưởng đến việc triển khai các dịch vụ mới.
- Trình độ của đội ngũ cán bộ là công tác TTKDTM chưa thật đồng đều.
Đây là vấn đề rất nhạy cảm và không dễ thay đổi chỉ trong một thời gian ngắn. Nếu tính cả toàn Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long thì mới có 02 Cán bộ trình độ trên đại học(1,4%), 83 Cán bộ có trình độ Đại học (61,5%), còn Cán bộ trình độ Cao đẳng và Trung, Sơ cấp chiếm tới 37,1%. Trong đó số cán bộ làm công tác thanh toán là 26.
Trong xu hướng hội nhập, một ngân hàng hiện đại và lớn không chỉ thể hiện ở số cán bộ làm việc tại ngân hàng mà còn ở trình độ và kiến thức đủ để tự tin, sáng tạo, thái độ nghiêm túc trong nghiệp vụ. Đối với cán bộ liên quan tới nghiệp vụ thanh toán nếu không chủ động và chịu khó tiếp cận và tìm hiểu các hình thức thanh toán hiện đại thì sẽ là một trong những trở ngại cho ngân hàng nghiên cứu và triển khai các dịch vụ mới.
2.2.Nguyên nhân khách quan
Đây cũng chính là những nguyên nhân gây lên khó khăn mà không chỉ Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long gặp phải trong hoạt động TTKDTM.
- Thói quen dùng tiền mặt trong dân cư và nhận thức về hoạt động TTKDTM:
Thanh toán và chi tiêu bằng tiền mặt trở nên quá ăn sâu vào thói quen trong dân cư không chỉ đối với những người có thu nhập thấp mà còn với cả những người có thu nhập cao. Đa số dân chúng chưa thực sự có hiểu biết về hoạt động TTKDTM. Họ chưa cảm nhận được lợi ích khi sử dụng dịch vụ này cũng như chưa hiểu khi nào có thể sử dụng séc, thẻ…Sự thiếu hiểu biết này cộng với chính sách thuế chưa khuyến khích hoặc tạo điều kiện cho cá nhân tự giác nộp thuế làm cho tâm lý ngại giao dịch với ngân hàng để sử dụng dịch vụ chậm được giải toả.
Tâm lý của mọi người nhất là các hộ kinh doanh, các tiểu thương, cán bộ nhân viên chức còn ngần ngại không muốn dùng séc, thậm chí họ ngại tới ngân hàng. Bởi những chi tiêu của cán bộ, công nhân viên chức thường nhỏ vài chục ngàn đồng một ngày, ở các nơi chợ nhỏ còn buôn thúng bán bưng thì khó có thể thực hiện thanh toán bằng séc.
Thói quen trên gây ra một sự lãng phí lớn: chậm quay vòng đồng vốn cho nền kinh tế, tốn chi phí bảo quản tiền mặt trong dân chúng, chi phí in ấn tiền mặt…
- Các khách hàng là doanh nghiệp chưa tích cực thanh toán qua Ngân hàng:
Đối với các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh chưa chấp hành nghiêm chế độ TTKDTM qua Ngân hàng. Nguyên nhân do việc phải minh bạch tài chính và thuế thu nhập. Đây cũng là thực trạng chung của các doanh nghiệp hiện nay. Thậm chí cả các doanh nghiệp cũng chỉ sử dụng một hoặc hai công cụ thanh toán nào đó chỉ theo thói quen mà chưa có sự lựa chọn cho phù hợp với đặc điểm quan hệ kinh tế cụ thể.
Lòng tin và sự tín nhiệm trong TTKDTM giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh còn thấp do tình trạng TTKDTM trong nhiều năm trước đây giữa các đơn vị không tốt đã chiếm dụng, nợ nần dây dưa không chịu thanh toán dẫn tới chiếm đoạt tài sản của nhau, mặt khác khi có tình trạng trên xảy ra, các đơn vị thưa kiện tới các cơ quan có thẩm quyền, tòa án nhưng chẳng cải thiện được là bao.
- Cạnh tranh trên thị trường thẻ hiện nay:
Bên cạnh các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt khác, thẻ thanh toán là một công cụ hiện đại và “mới nổi” có nhiều tiềm năng phát triển trên thị trường Việt Nam và đang được các Ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm. Mặc dù là một Chi nhánh Ngân hàng thương mại Nhà nước, Chi nhánh Thăng Long cũng không thể không đứng trước một sự cạnh tranh – mà như nhiều người nói là “bùng nổ thị trường thẻ” hiện nay.
Do vậy, xác định tham gia vào một thị trường dịch vụ có nhiều tiềm năng và mang tính cạnh tranh cao như vậy, Chi nhánh cần có một chủ trương đúng đắn để mở rộng loại hình dịch vụ này.
- Nguyên nhân từ phía nhà nước:
Nhà nước chưa có quy định bắt buộc công dân phải mở tài khoản và thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Các ngành như điện nước, viễn thông, thuế…có liên quan tới dịch vụ thanh toán chưa mặn mà với chủ trương này, chưa ủng hộ tích cực, chưa tạo điều kiện cần thiết cho các dịch vụ thanh toán cá nhân qua tài khoản mở tại ngân hàng.
Môi trường pháp lý chưa đảm bảo: hệ thống pháp lý hiện hành đã tạo ra một số cơ sở cho hệ thống thanh toán nhưng không đầy đủ. Việc xây dựng luật và quy chế, kể cả mức độ chắc chắn trong việc xác định và xác lập các quyền cần thiết để giảm tối thiểu tranh chấp cũng như các quyền khi tranh chấp xẩy ra còn nhiều hạn chế. Thực tế, cho thấy thiếu hụt đáng kể về môi trường pháp lý chung: chưa có Luật séc, Luật phá sản không được hỗ trợ bằng các quy chế, quyền bồi thường bị hạn chế. Một số qui định cho các công cụ TTKDTM còn chưa phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như thông lệ quốc tế quy định.
Chương III: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long
I.Mục tiêu và Phương hướng mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian tới tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt là hoạt động không thể thiếu đối với các NHTM hiện đại, nhận thức được tầm quan trọng đó, Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long luôn đề ra mục tiêu và phương hướng cụ thể cho năm sau trên cơ sở những kết quả đã đạt được.
Mục tiêu trong năm 2005:
- Phát triển đồng bộ các công cụ thanh toán, tăng cả về doanh số và số món thanh toán, nhất là tăng doanh số thanh toán bằng thẻ > 100 tỷ.
- Tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong thanh toán chung là trên 95%.
- Tăng con số tài khoản cá nhân lên 7000 tài khoản.
Các phương hướng cụ thể:
Thứ nhất: Xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ ngân hàng đủ lớn và đảm bảo yêu cầu của hệ thống thanh toán tiêu chuẩn.
Chi nhánh cần phải xây dựng một quy mô cung cấp các dịch vụ ngân hàng đủ lớn, tạo ra tính đa dạng và thuận tiện khi giao dịch cho công chúng. Muốn vậy phải tiến tới hợp tác trong việc phát triển và liên kết mạng lưới để tăng các điểm cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Đồng thời đa dạng các dịch vụ để mỗi lần đến ngân hàng khách hàng có thể thực hiện nhiều dịch vụ , cải tiến và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để họ cảm thấy thực sự là “Thượng đế” khi giao dịch với ngân hàng.
Để thoả mãn tối đa lợi ích của khách hàng, trước tiên hệ thống thanh toán của ngân hàng phải đảm bảo thực hiện được yêu cầu cơ bản thanh toán nhanh, ổn định để các chủ thể tham gia có thể quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình. Trong giao dịch tài chính, các chủ thể phải tính toán chi phí và lợi ích thu được khi tham gia thanh toán để lựa chọn dịch vụ và phương tiện thanh toán có lợi nhất với chi phí thấp nhất. Do vậy, Chi nhánh cần đặc biệt quan tâm việc giảm chi phí thanh toán. Đồng thời phải đảm bảo quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định, giảm thiểu được rủi ro trong thanh toán và phải là một hệ thống mở.
Thứ hai: Xúc tiến khách hàng.
Với thói quen sử dụng tiền mặt phổ biến trong dân cư, có thể nói dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ít được người dân biết đến và sử dụng, nhất là việc mở tài khoản cá nhân để giao dịch với ngân hàng. Đối với khách hàng sử dụng sản phẩm thanh toán, điều cốt yếu là họ thấy được lợi ích thiết thân khi sử dụng các sản phẩm đó. Chi nhánh phải tích cực tuyên truyền tiếp thị với các đối tượng khách hàng với các sản phẩm cụ thể phù hợp với họ. Do vậy, thực tế đòi hỏi Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long phải đẩy mạnh công tác xúc tiến khách hàng hơn nữa, ngoài việc xây dựng các chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, Chi nhánh phải tăng cường bồi dưỡng cán bộ Marketing tiến tới thành lập bộ phận thông tin khách hàng của toàn Chi nhánh.
Thứ ba: Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Đổi mới phương thức giao dịch dựa trên công nghệ hiện đại không chỉ là thuần tuý về kỹ thuật mà còn là vấn đề văn hoá giao tiếp trong ngân hàng.Để phát triển nghiệp vụ giao dịch, thanh toán hiện đại Chi nhánh cần xây dựng được một cơ sở vật chất hoàn hảo, có đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm với kiến thức khoa học đầy đủ, thái độ tận tình, cởi mở, phục vụ khác hàng chu đáo dựa trên hệ thống quy trình nghiệp vụ được tiêu chuẩn hoá.
Đồng thời cùng với cả hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam phải kết hợp với các NHTM khác để tạo ra một mạng lưới thanh toán đồng bộ qua ngân hàng tạo sự thuận tiện cho khách hàng.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán giúp Chi nhánh xử lý khối lượng công việc liên quan đến dịch vụ thanh toán một cách nhanh chóng và chính xác, cũng như tạo cơ sở cho việc áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại.
II.Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long
1.Marketing ngân hàng
Để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của mình nói chung và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng, Chi nhánh phải nhận thấy được tầm quan trọng của Marketing Ngân hàng. Hiện nay, hầu hết các Ngân hàng thương mại đều tích cực cạnh tranh đưa ra các sản phẩm tiện ích cao và hấp dẫn. Khách hàng giờ đây đã trở thành những “thượng đế” của ngân hàng. Do vậy nếu không có sự đầu tư vào Marketing thì Chi nhánh khó có thể thu hút được khách hàng sử dụng các công cụ thanh toán hiện đại và mới mẻ của mình. Muốn khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện thanh toán qua ngân hàng cần có giải pháp tuyên truyền, khuyến mãi thích hợp. Ví dụ như người có tài khoản thanh toán qua ngân hàng thanh toán thường xuyên các dịch vụ như điện, nước, trả cước phí bưu điện, điện thoại…trong thời gian 6 tháng trở lên được tham gia quay xổ số dự thưởng; hoặc những khách hàng thanh toán qua ngân hàng với những khoản thanh toán lớn và đều đặn sẽ được nhận những món quà có giá trị; hoặc được miễn phí thanh toán trong thời hạn một tháng.
Chi nhánh phải đề ra được chiến lược phát triển màng lưới, mở rộng khách hàng, thành lập bộ phận tiếp thị ngân hàng nhằm tiếp cận thị trường. Qua đó thu thập và phân tích đầy đủ thông tin thị trường nhằm phân loại đối tượng khách hàng, tìm hiểu và nắm được các nhu cầu của khách hàng để tạo thêm các sản phẩm dịch vụ đáp ứng cho khách hàng.
* Hiện tại Chi nhánh cần tập trung vào việc mở tài khoản cá nhân bởi dây là cơ sở để ứng dụng các công cụ TTKDTM qua ngân hàng.
Với một tài khoản cá nhân tại Ngân hàng, hiện nay khách hàng có thể sẽ được hưởng rất nhiều lợi ích: thực hiện thanh toán qua Ngân hàng rất dễ dàng, gửi tiền cho người thân ở xa, vừa có nơi cất giữ tiền an toàn và sinh lãi, vừa có điều kiện sử dụng các dịch vụ liên quan đến tài khoản Ngân hàng…Ngoài lợi ích mang lại cho khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể sẽ thu hút được lượng tiền đáng kể trong dân cư, tăng thêm thu nhập về phí dịch vụ, đa dạng hoá các sản phẩm của mình.
Để đạt được điều này, công tác Marketing của Chi nhánh hiện nay và trước mắt là tập trung vào giá cả dịch vụ (ở đây là phí mở tài khoản) và xúc tiến khách hàng (quảng cáo và khuếch trương sản phẩm đến khách hàng):
- Có thể bước đầu miễn phí dịch vụ mở tài khoản và thẻ để khuyến khích các giao dịch bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt qua Chi nhánh. Như một số Ngân hàng Thương mại hiện nay: mở thẻ ATM không cần có số dư trong tài khoản; trả lãi tiền gửi thanh toán để được sử dụng vào nhu cầu thanh toán thường nhật. Việc thu hút khách hàng để gia tăng khối lượng tài khoản cá nhân là tiền đề phát triển khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân.
Mục tiêu lợi nhuận của Chi nhánh trong giai đoạn đầu cần đặt sau mục tiêu khách hàng để phát triển số lượng khách hàng. Những chi phí Chi nhánh bỏ ra trong giai đoạn đầu của chiến lược mở rộng thị trường có thể bù đắp bằng lợi nhuận thu được từ sử dụng một tỷ lệ nhất định tiền gửi thanh toán đã phát triển ổn định.
Sau một thời gian khi các dịch vụ Ngân hàng được khách hàng ưa chuộng, trở thành tiện nghi sinh hoạt trong đời sống của đại bộ phận dân cư, đó chính là thời kỳ để Chi nhánh chuyển sang thu phí dịch vụ về mở tài khoản, xử lý thông tin và tư vấn khách hàng. Trong giai đoạn này thực hiện thu phí dịch vụ, mục tiêu lợi nhuận của Chi nhánh và lợi ích khách hàng được chú trọng ngang nhau và có nhiều cơ hội để cải thiện, nâng cao.
- Tham gia tài trợ các chương trình lớn và có nhiều khách hàng tham gia, đến từng nơi tập trung nhiều đối tượng khách hàng tiềm năng để khuếch trương sản phẩm. Chi nhánh cần chủ động làm tốt công tác tiếp thị tới các trường đại học, cao đẳng bao gồm cả nhà trường và nhu cầu của cán bộ, sinh viên…đầu tư máy móc, thiết bị, bố trí cán bộ, mở quầy giao dịch riêng cho các trường; thậm chí có thể mở chi nhánh cấp II, hoặc phòng giao dịch, lắp đặt máy ATM ngay trong các trường. Ngoài ra Chi nhánh đẩy mạnh truyền thông quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại các trường thông qua các áp phích, buổi hội thảo…đồng thời có thể miễn giảm phí dịch vụ chuyển tiền cho sinh viên, đặc biệt là nộp tiền học phí.
- Phát triển mạnh dịch vụ hỗ trợ khách hàng như phát sách hướng dẫn và tư vấn khách hàng miễn phí, thường xuyên cung cấp cho khách hàng tiềm năng giá cả của các loại hình dịch vụ và sự ưu đãi của ngân hàng. Cần có chính sách rõ ràng, ưu tiên các khách hàng có hoạt động thường xuyên, có số dư tài khoản thanh toán ổn định. Chi nhánh nên đưa ra các chương trình bốc thăm trúng thưởng trên các số hiệu tài khoản của khách hàng nhằm tạo động lực vật chất để thu hút khách hàng.
2.Cải tiến và hoàn thiện các hình thức thanh toán
Chi nhánh cần xây dựng chế độ thanh toán sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Chọn lựa phương thức thanh toán cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng là một vấn đề khó cần phải nghiên cứu tìm hiểu sâu khả năng sử dụng các loại chứng từ của từng tầng lớp dân cư. Thậm chí phải thay đổi, thêm bớt một số chi tiết sao cho để thực hiện và đảm bảo an toàn cho khách hàng và ngân hàng. Ví dụ như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi phù hợp với các doanh nghiệp mà không phù hợp với cá nhân; thanh toán thẻ, séc phù hợp với giới có học vấn nhưng không phù hợp với nông dân, công nhân…
*Về Séc:
Séc là một hình thức thanh toán được Chính phủ và Ngân hàng nhà nước quan tâm thúc đẩy việc sử dụng trong TTKDTM. Nhìn chung thì những thay đổi về nội dung, hình thức và các quy định ban hành theo Nghị định 159/CP đã có nhiều cải tiến góp phần tạo thuận lợi cho người sử dụng. Tuy vậy, so với tiêu chuẩn quốc tế và yêu cầu của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay thì hình thức thanh toán séc vẫn còn rất chậm tiến bộ. Do vậy với quy chế về séc, cần thay đổi để có thể thật sự phát huy tác dụng.
- Khi chủ tài khoản dùng séc để rút tiền mặt thì nên cho phép chỉ cần trả cho “chính mình”, không cần ghi đầy đủ các yếu tố như khi phát hành cho người khác, tạo sự thoải mái và tiện ích cho chủ tài khoản.
- Mặc dù thời hạn hiệu lực thanh toán của séc theo Nghị định 159/CP là 30 ngày, đã thay đổi so với thời hạn 15 ngày theo Nghị định 30/CP, tuy vậy so với thời hạn thanh toán của séc theo Công ước Geneva 1931 thì quan niệm về thời hạn thanh toán của ta vẫn chưa rõ ràng. Do vậy cần quy định tờ séc có hiệu lực lâu hơn kể từ ngày ký séc đến ngày nộp séc vào tổ chức thanh toán.
- Quy định cho phép tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán séc được quyền xác định mức độ thấu chi (mức độ chi vượt quá số dư trên tài khoản của khách hàng) đối với chủ tài khoản phát hành séc trên cơ sở mức độ tín nhiệm dựa trên khả năng thu nhập thực tế của chủ tài khoản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba.
- Cần tạo lập cụ thể hơn nữa một môi trường pháp lý rõ ràng, bình đẳng giữa ngân hàng và các bên phát hành, chuyển nhượng, thụ hưởng séc, chấm dứt sự can thiệp phân xử của ngân hàng trong xử lý tranh chấp vi phạm.
- Séc Chuyển khoản:
Tuy thủ tục đơn giản nhưng người mua cũng rất dè dặt khi sử dụng loại séc này, bởi lẽ khi phát hành séc quá số dư người phát hành sẽ bị phạt. Đối với séc phát hành quá số dư do cố ý thi bị phạt là xứng đáng, nhưng đối với tờ séc tại thời điểm phát hành vẫn đủ số dư nhưng do khoản chi tiêu đột xuất hay do tiền về chậm dẫn đến lúc thanh toán thiếu tiền thì việc bị phạt gây nên thiệt hại lớn. Hơn nữa, số tiền vượt quá số dư có thể rất nhỏ so với tổng số tiền thanh toán nên việc chậm trễ do phải chờ đủ tiền trên tài khoản của người thanh toán sẽ gây thiệt hại cho người thụ hưởng. Để khắc phục nhược điểm này, Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long nên cho phép khách hàng có thể dư nợ hay phát hành séc quá số dư theo lãi suất nợ ngắn hạn, thời điểm tính lãi kể từ khi Chi nhánh thực hiện thanh toán số tiền quá số dư cho bên thụ hưởng.
Đây thực chất là một loại cho vay chỉ áp dụng đối với khách hàng có khả năng tài chính tốt, nguồn thu ổn định và có uy tín trong quan hệ thanh toán. Khách hàng muốn sử dụng nghiệp vụ này, làm đơn gửi tới Chi nhánh đề nghị Chi nhánh cho vay thanh toán trường hợp đột xuất thiếu số dư. Chi nhánh sẽ kiểm tra, thẩm định kỹ lưỡng về khả năng và điều kiện của khách hàng, từ đó Chi nhánh quyết định có cho vay hay không.
Trong thời gian gần đây, nghiệp vụ này đã được áp dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới, nhưng ở nước ta nghiệp vụ này hầu như chưa được áp dụng. Khi áp dụng cho vay thanh toán séc chuyển khoản được sử dụng tốt sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt phát triển và mở rộng. Hơn nữa, áp dụng nghiệp vụ này sẽ làm tăng uy tín cho bên mua hàng thanh toán tiền hàng hoá thuận lợi kịp thời. Khi khách hàng phát hành séc quá số dư, họ phải trả lãi suất cao nhưng còn dễ chịu hơn nhiều so với việc phát hành quá số dư và phạt chậm trả.
*Về Uỷ nhiệm thu:
Người thụ hưởng có thể lập Uỷ nhiệm thu định kỳ nhờ Chi nhánh thu hộ những khoản thu có tính chất định kỳ thường xuyên mà bên trả tiền chưa áp dụng hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi định kỳ.
Hình thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu chỉ có lợi cho người cung ứng dịch vụ với điều kiện mọi người dân đều có mở tài khoản tại Ngân hàng. Xây dựng quy trình chuyển thu nhập của khách hàng vào tài khoản một cách tiện lợi cho khách hàng, để khách hàng hàng kỳ lĩnh lương không phải đến Ngân hàng làm thủ tục nộp tiền vào rất mất thời giờ. Chi nhánh nên liên hệ với các cơ quan chi trả thu nhập của khách hàng thương lượng để thực hiện hợp đồng thu hộ. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần thương lượng với các khách hàng thụ hưởng như Bưu điện, cơ sở thu thuế, cấp nước thực hiện các hợp đồng thu hộ. Nếu Ngân hàng làm được những việc này thì khách hàng thanh toán qua Ngân hàng sẽ thấy tiện ích rất lớn.
Một điều cần thiết khác đó là thủ tục thanh toán Uỷ nhiệm thu cần được đơn giản hoá, dễ hiểu và sử dụng.
*Về Uỷ nhiệm chi:
Uỷ nhiệm chi ở Chi nhánh là hình thức được sử dụng nhiều nhất về doanh số, tuy nhiên, khách hàng luôn ưa thích thanh toán Uỷ nhiệm chi với các món có doanh số lớn và xa. Chi nhánh nên áp dụng hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi để thanh toán các khoản mang tính chất ổn định thường xuyên như: nộp thuế, bảo hiểm, tiền điện…Định kỳ các đơn vị thay vì phải đến tận doanh nghiệp, tổ chức để thanh toán tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại…thì họ gửi hoá đơn trực tiếp tới Chi nhánh mở tài khoản nhờ thanh toán hộ. Chi nhánh sau khi kiểm tra sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán. Định kỳ Chi nhánh phải gửi giấy báo thanh toán cho khách hàng, thông báo về số tiền đã thanh toán và số còn dư trên tài khoản.
Với một quy trình thanh toán qua Ngân hàng được thực hiện khép kín, thu nhập của khách hàng được chuyển thẳng vào tài khoản của khách hàng, sau đó Ngân hàng nhận các hoá đơn của các cơ quan tổ chức thụ hưởng thì trích từ tài khoản của khách hàng chuyển trả vào tài khoản người thụ hưởng. Sau đó Ngân hàng theo cam kết gửi các hoá đơn đã thanh toán cho khách phải chi trả và báo cáo cho khách hàng thụ hưởng. Đến đây quy trình thanh toán kết thúc.
* Về thanh toán thẻ:
Nghiệp vụ thẻ là một trong những nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ mới mẻ, phát triển với tốc độ lớn, quy mô rộng. Hầu hết các Ngân hàng thương mại hiện nay đều xây dựng một chiến lược cụ thể để phát triển loại hình dịch vụ này. Nhận thức được xu thế trên, Chi nhánh phải có một chủ trương đúng đắn để có thể triển khai tham gia vào thị trường vốn rất cạnh tranh này.
- Chi nhánh cần tăng cường hệ thống máy ATM và các điểm chấp nhận thẻ.
Việc nâng hệ thống máy ATM và các điểm thanh toán thẻ sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sử dụng thuận tiện cho chủ thẻ. Chi nhánh cần tăng cường sự liên kết hợp tác với các ngân hàng khác để phát triển thị trường thẻ nói chung của Việt Nam.
- Hiện đại hoá công nghệ thẻ:
Các loại thẻ thanh toán tại Chi nhánh chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ thẻ từ, công nghệ này có ưu điểm là sản xuất đơn giản, giá hành rẻ nhưng dễ bị xâm nhập, không đảm bảo an toàn cho chủ thẻ. Vì vậy Ngân hàng nên chuyển sang sử dụng thẻ điện tử . Dòng thẻ này sẽ chống được các sao chép thông tin vì thế sẽ đảm bảo an toàn cho chủ thẻ và cho cả ngân hàng phát hành thẻ.
- Cần có sự phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông trong hoạt động thanh toán thẻ.
Chi nhánh Thăng Long nói riêng và hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam nói chung cần phải tích cực chủ động phối hợp với ngành Bưu chính viễn thông để phát triển công nghệ thanh toán thẻ, tích hợp những dịch vụ mới đem lại cho khách hàng sử dụng thẻ những tiện ích thiết thực. Trước mắt là đảm bảo không bị gián đoạn nghẽn mạch đường truyền của hệ thống ATM vào thời gian cao điểm.
- Cần tăng cường tuyên truyền lợi ích của việc sử dụng thẻ ngân hàng.
Dịch vụ kinh doanh thẻ ngân hàng là một sản phẩm tương đối mới. Vì vậy cần được xem như một thứ hàng hoá để tuyên truyền quảng cáo. Chính vậy Chi nhánh cần mở website để quảng cáo về sản phẩm thẻ cùng với việc quảng cáo trên truyền hình.
- Việc phát hành thẻ phải đa dạng, nhiều chủng loại.
Trong cơ chế thị trường nhà sản xuất không thể bán cái mình có mà phải bán cái người mua cần. Thẻ ngân hàng cũng vậy, các ngân hàng phát hành phải quan tâm đến nhiều đối tượng khách hàng để có thể phát hành đa dạng nhiều chủng loại thẻ. Các loại thẻ phải có các mệnh giá khác nhau, có loại thẻ ghi danh, có loại thẻ vô danh. Với một tấm thẻ vô danh có thể trở thành một món quà rất văn hoá, rất có ý nghĩa để tặng bạn bè, người thân .Thẻ phải có thiết kế trang trí màu sắc bắt mắt để phục vụ giói trẻ nhưng cũng cần có những loại sang trọng, lịch sự để phục vụ các khách hàng VIP. Thẻ nên có ảnh của chủ thẻ để trong một số trường hợp có thể thay thế giấy tờ tuỳ thân cho chủ thẻ.
Chi nhánh có thể đưa ra các sản phẩm đặc biệt, mới lạ để đa dạng hoá danh mục thẻ hiện có của Chi nhánh:
+ Sản phẩm thẻ ghi nợ kết hợp với các dịch vụ khác như: bảo hiểm (sản phẩm mà Vietcombank đã rất thành công).
+Thêm một số tính năng mới vào sản phẩm thẻ: rút tiền mặt, chuyển tiền, xem số dư…tại mạng lưới ATM.
+ Phân loại thẻ theo các mức: Vàng, Chuẩn và Đặc biệt.
* Phát triển các dịch vụ mới:
- Online - Banking: Ngân hàng trực tuyến. Theo đó, khách hàng khi đăng ký tham gia sử dụng sẽ được ngân hàng cấp cho một “ Usename”- tên sử dụng và “Password”- mật mã.Khách hàng trước tiên nối mạng vào trang Web của ngân hàng rồi sử dụng các tiện ích theo hướng dẫn.
- Phone – Banking: Ngân hàng tự động qua điện thoại. Chi nhánh có một số điện thoại riêng để khách hàng của mình gọi tới, cung cấp thông tin qua điện thoại về lãi suất, tỷ giá, số dư tài khoản…cho khách hàng mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng.
- Home – Banking: Ngân hàng giao dịch tại nhà. Theo đó, máy tính của khách hàng kết nối mạng Internet, từ đó kết nối mạng với ngân hàng phục vụ mình, khách hàng được cung cấp một Password, chữ ký điện tử, có thể ngồi tại nhà, tại công ty, thực hiện giao dịch chuyển tiền, thanh toán.
- Mobile – Banking: Thanh toán bằng dịch vụ điện thoại di động. Theo đó, những người có điện thoại di động mở tài khoản tại Chi nhánh được cấp mã số truy cập và mật khẩu có thể thực hiện thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ ở bất kỳ nơi nào có điện thoại di động phủ sóng.
3.Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và công nghệ xử lý thanh toán
Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và công nghệ xử lý thanh toán có vai trò quan trọng trong tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại. Với giải pháp nâng cao trình độ công nghệ của ngân hàng, sẽ từng bước hiện đại hoá công nghệ thanh toán giúp cho ngân hàng thực hiện được những khối lượng thanh toán lớn và áp dụng hìnn thức thanh toán hiện đại.
3.1.Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng Ngân hàng
Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng là một trong những chủ trương ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin theo chỉ thị số 58/CT-TW ngày 17/10/2000 : “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long nói riêng và hệ thống NHNo & PTNT nói chung đã xác định rõ đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển và đổi mới hoạt động ngân hàng, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những thành tích đạt được sau gần bốn năm triển khai, Chi nhánh còn những khó khăn và tồn tại cần phải khắc phục. Có thể đưa ra một số giải pháp chính sau:
- Hoàn thiện nâng cấp hệ thống mạng cục bộ tại Chi nhánh theo hướng ứng dụng các kỹ thuật mới và hiện đại.
- Tập trung nghiên cứu thiết kế và xây dựng các chiến lược triển khai công nghệ viễn thông hiện đại.
- Thiết kế, triển khai Website của chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long nhằm phục vụ tốt hơn công tác quảng bá, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, phát triển các dịch vụ mới qua mạng Internet.
- Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới hoàn thiện kỹ thuật, công nghệ ngân hàng nhằm phục vụ mục tiêu tự động hoá dịch vụ ngân hàng.
- Mở rộng mạng lưới đặt máy ATM và các cơ sở chấp nhận thẻ gắn việc thanh toán qua ngân hàng 24/24 với mọi sinh hoạt tiêu dùng của người dân.
3.2.áp dụng những công nghệ xử lý thanh toán hiện đại
áp dụng những công nghệ xử lý thanh toán hiện đại giúp ngân hàng thực hiện công tác xử lý các hình thức thanh toán được nhanh chóng, an toàn và chính xác với khối lượng lớn. Từ đó nâng cấp và triển khai có hiệu quả các dịch vụ liên quan đến các công cụ thanh toán. Cụ thể:
- Chi nhánh có thể nghiên cứu và xây dựng đề án trung tâm bù trừ séc với trung tâm điều hành NHNo & PTNT Thăng Long.
- Triển khai và mở rộng việc vận hành hệ thống thanh toán giá trị cao và thấp , xây dựng kho dữ liệu tập trung và hệ thống thanh toán dự phòng để kịp xử lý sự cố giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong thanh toán.
- Hình thành và xây dựng kết nối các mạng, hệ thống thanh toán thích ứng với các ngân hàng khác.
- Tập trung nguồn vốn cần thiết để xây dựng mở rộng cơ sở hạ tầng công nghệ thanh toán.
4.Đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt
Chi nhánh cần đề ra những chính sách hợp lý về đào tạo nguồn nhân lực để tạo ra nội lực phát triển cho Chi nhánh nói chung, và cho sự phát triển của hoạt động thanh toán nói riêng. Đối với thanh toán viên phải có đủ năng lực trình độ, chuyên môn vững chắc. Ngoài việc hiểu biết các nghiệp vụ của ngân hàng, thanh toán viên cần phải nắm vững các thể lệ thanh toán, các quy trình của từng hình thức thanh toán và sử dụng thành thạo vi tính và ngoại ngữ.
- Cử cán bộ tham gia lớp học về “Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán” do NHNo & PTNT Việt Nam tổ chức. Đồng thời, Chi nhánh cũng tự tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn để đào tạo sâu hơn về chuyên môn thanh toán không dùng tiền mặt, mời các chuyên gia giỏi về giảng dạy để các thanh toán viên có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ và kinh nghiệm. Chi nhánh nên trích khoảng 4% lợi nhuận cho công tác đào tạo cán bộ.
- Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về thanh toán trong nước cũng như ngoài nước để tiếp cận với kiến thức hiện đại. Tổ chức các đợt tham quan các ngân hàng trong nước cũng như ngoài nước để học tập điểm mạnh của họ.
- Bố trí các cán bộ vào các công việc thích hợp với khả năng của từng người nhằm phát huy thế mạnh của họ. Muốn như vậy phải thường xuyên theo dõi sát sao để nhận định đánh giá được khả năng của từng người. Phát huy vài trò chủ động sáng tạo của cán bộ, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích nêu ra các sáng kiến mới.
- Ngoài ra, một vấn đề cũng hết sức quan trọng là không ngừng nâng cao tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên ngân hàng. Muốn vậy, phải có chế độ thưởng phạt phân minh, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm quy định gây tổn hại tới tài sản và uy tín của ngân hàng. Đồng thời khen thưởng, khuyến khích những cán bộ hoàn thành tốt công việc, có sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm.
- Khi có kế hoạch tuyển thêm cán bộ, Chi nhánh cũng cần tổ chức các kỳ thi mang tính nghiêm túc, chất lượng đánh giá đúng đắn năng lực để có thể tuyển được những cán bộ trình độ.
Ngoài ra, như ta biết hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt phải dựa trên nền tảng kỹ thuật tin học. Do đó muốn phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, chi nhánh phải tập trung đào tạo sử dụng và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin:
- Kiểm tra đánh giá lại việc sử dụng lực lượng cán bộ tin học tại các đơn vị trong toàn ngành, có kế hoạch tuyển dụng và sử dụng một cách hợp lý.
- Cần đầu tư nguồn kinh phí khi phải thuê giáo viên ngoài ngành để đào tạo nâng cao kiến thức cho đội ngũ kỹ sư tin học.
III.Một số kiến nghị với các ban, ngành có liên quan
Để phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trước yêu cầu ngày càng khắt khe của nền kinh tế, không chỉ mình Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long có thể làm được mà cần có sự phối hợp từ nhiều phía, từ NHNo & PTNT Việt Nam, NHNN, Chính phủ đến các ban ngành có liên quan. Chỉ có sự phối hợp như vậy, mới có thể phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của ngành Ngân hàng Việt Nam nói chung và của Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long nói riêng. Dưới đây là một vài kiến nghị với cơ quan quản lý vĩ mô liên quan tới vấn đề này:
1.Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long là Chi nhánh cấp I trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam, nên để đảm bảo cho sự phát triển của các Chi nhánh nói chung và Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long nói riêng, NHNo & PTNT Việt Nam cần có sự chỉ đạo cũng như sự hỗ trợ kịp thời về các mặt ngoài khả năng của Chi nhánh:
- Triển khai tiếp tục giai đoạn II của chương trình “Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán”.
- Đối với dự án lớn về phát triển dịch vụ mới như phát hành thẻ tín dụng, hoàn thiện hệ thống ATM…NHNo & PTNT Việt Nam nên hỗ trợ một phần kinh phí để đảm bảo khả năng tài chính cho các dự án đó.
- Để hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt được thuận lợi, NHNo & PTNT Việt Nam tạo điều kiện cho Chi nhánh được quyền chủ động hơn nữa trong quá trình hoạt động như: cho phép Chi nhánh thành lập các phòng giao dịch tại các khu công nghiệp, khu chế xuất…Trong quá trình thanh toán séc, Chi nhánh có thể cho vay thấu chi đối với các khách hàng không phải là các Tổng công ty 90, 91 nhưng hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
- Hỗ trợ Chi nhánh trong công tác đào tạo cán bộ (ngắn hạn, dài hạn, trong nước, nước ngoài) nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
2.Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN vừa là người đề ra các quy định, vừa là người theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện các quy định đó. Đồng thời, với vị trí là đầu mối của các NHTM, NHNN cũng thực hiện vai trò trung gian thanh toán cho các NHTM, các TCTD cũng như lập ra các trung tâm thanh toán bù trừ. Để thúc đẩy vai trò đó của mình, NHNN cần giải quyết một số vấn đề:
2.1.Từng bước hoàn thiện hệ thống thanh toán
Ngân hàng nhà nước cần mở rộng thực hiện dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Theo mô hình mới, sau hơn hai năm thực hiện, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng mới được thực hiện ở các thành phố lớn là Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, triển khai tại Hội sở chính và một số chi nhánh, số còn lại vẫn phải thực hiện trên hệ thống cũ (Thời kỳ mô hình Ngân hàng 2 cấp thanh toán qua truyền file trên máy tính qua đường điện thoại). Do đó hiệu quả chưa cao, cần nhanh chóng triển khai giai đoạn II của dự án hiện đại hoá nhằm “phủ sóng” toàn bộ trong hệ thống mỗi ngân hàng, khắc phục tình trạng vận hành hai hệ thống cũ và mới.
2.2.Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý
Hoàn thiện môi trường pháp lý là yêu cầu bức xúc đối với hoạt động ngân hàng và thanh toán điện tử trước yêu cầu hội nhập AFTA và tiến trình chuẩn bị gia nhập WTO của Việt Nam, đặc biệt trước thách thức và nhu cầu phát triển thương mại điện tử. Cụ thể:
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý, lưu trữ chứng từ điện tử, chữ ký điện tử trong các hoạt động thanh toán của các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế và cá nhân.
- Sửa đổi và sớm ban hành quy chế, quy trình xử lý nghiệp vụ kế toán và các văn bản có liên quan đến công tác thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp với công nghệ mới, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại triển khai dự án của WB – Hiện đại hoá Ngân hàng và các hệ thống thanh toán, quản lý khách hàng tập trung, giao dịch một cửa...
- Xác định các hình thức thanh toán, thủ tục mở tài khoản và thanh toán của dân cư với phương châm nhanh chóng, đơn giản, an toàn, chi phí thấp.
- Cần tiến tới xây dựng Luật Giao dịch điện tử, chứng từ điện tử, chữ ký điện tử…nhằm đảm bảo cho sự ra đời và ứng dụng trong thực tế của các dịch vụ của Ngân hàng điện tử như: Thẻ thanh toán, Internet Banking, E- Banking…
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần trao quyền tự chủ tài chính lớn hơn theo nguyên tắc thị trường cho các NHTM, để các ngân hàng có chính sách thu hút nhân tài cho lĩnh vực CNTT.
3.Kiến nghị với Chính phủ và các ngành có liên quan
Chính phủ và các ngành hữu quan nên đầu tư cho hệ thống viễn thông quốc gia đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm cung cấp dịch vụ viễn thông với giá cước đa dạng và hợp lý. Từ đó thúc đẩy việc các NHTM ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống thanh toán.
- Cần suy nghĩ và thực hiện một cách nghiêm túc, xác đáng hơn nữa về chế độ tiền lương, về thu nhập của người lao động ở nước ta, để có thể có đủ mức thu nhập cần thiết phù hợp với chi tiêu tối thiểu như chi cho ăn uống, học phí cho con cái, tiền điện, nước, chi cho sức khỏe...thì việc mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng của họ khi đó mới có ý nghĩa thiết thực. Tiền lương và thu nhập người dân quyết định mức sống của họ. Do vậy, để dân cư có điều kiện sử dụng dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng, vấn đề đặt ra là Chính phủ cần đưa ra chính sách tiền lương phù hợp với thực tế khi mà giá cả các mặt hàng không ngừng tăng.
- Đối với các đối tượng như doanh nghiệp và các thương nhân. Hiện nay các đối tượng này phần lớn đã mở tài khoản tại ngân hàng, nhưng do nhiều lý do khác nhau vẫn thường xuyên thanh toán bằng tiền mặt. Vì vậy Chính phủ có thể quy định các khoản thanh toán từ một mức nào đó trở lên bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng.
- Các khoản nộp thuế và các khoản khác nộp vào Kho bạc Nhà nước cũng có thể áp dụng quy định bắt buộc thanh toán qua ngân hàng. Đối với các khoản này có thể quy định ngân hàng thu phí. Phí này có thể sẽ bù đắp bằng tiền lương tiết kiệm được của một số lượng lớn các nhân viên thu tiền tại các Chi cục thuế và Kho bạc Nhà nước có thể tinh giảm nhờ áp dụng quy định này.
- Các khoản học phí, tiền điện, nước, điện thoại, các khoản phải nộp có tính chất định kỳ đối với các hộ, các tổ chức kinh tế, xã hội ở các thành phố, thị xã phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Các vùng thị tứ khác cũng có thể áp dụng trong phạm vi hẹp hơn.
Tuy vậy các kiến nghị trên chỉ mang ý nghĩa mở rộng việc thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội. Bởi vì việc thanh toán bằng tiền mặt là không thể bị hạn chế trong thanh toán, ngoài ra theo luật pháp của Nhà nước ta cũng quy định, đồng tiền Việt Nam là đồng tiền pháp định, không một tổ chức, cá nhân nào được từ chối nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam. Do vậy, điều khiến mọi tổ chức, cá nhân hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán chỉ xuất hiện khi họ nhận thức được rằng, thanh toán không dùng tiền mặt tiện lợi, an toàn hơn, chứ không phải là biện pháp hành chính, ra lệnh.
Kết luận
Trong những năm qua, công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã khẳng định được vai trò to lớn trong quá trình thanh toán giữa các đơn vị kinh tế nói riêng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động ngân hàng gắn kết và đem lại lợi ích thiết thực cho hoạt động kinh tế – xã hội và là một ngành cần được ưu tiên phát triển. Công tác TTKDTM là một trong những nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại với những đặc điểm an toàn, tiện lợi và nhanh chóng đã làm tăng nhanh quá trình chu chuyển vốn, giảm thời gian ứ đọng vốn của các doanh nghiệp, đồng thời giúp Ngân hàng tăng khả năng kiểm soát của mình đối với quá trình lưu thông tiền tệ.
Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, trong nhiều năm qua đã nỗ lực trong hoạt động TTKDTM. Với sự gia tăng về doanh số thanh toán, cho thấy hoạt động của Chi nhánh thật có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có nhiều vướng mắc mà Chi nhánh cần khắc phục.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và các lý thuyết trong quá trình học tập, em đã đi sâu nghiên cứu công tác TTKDTM tại Chi nhánh. Nhờ đó em có cơ hội tìm hiểu những hạn chế của hoạt động trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp để mở rộng hoạt động TTKDTM tại Chi nhánh.
Mong rằng những giải pháp trên sẽ đóng góp vào quá trình phát triển TTKDTM tại Chi nhánh, tuy vậy đây là vấn đề liên quan đến nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội, cùng với kiến thức còn hạn chế nên em mong muốn được các thầy cô tiếp tục chỉ bảo và đóng góp.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “ Lý thuyết tài chính - tiền tệ ” chủ biên TS. Nguyễn Hữu Tài của Trường ĐHKTQD ( Năm 2002).
2. “ Tiền và hoạt động Ngân hàng ” Lê Vinh Danh ( năm 1996 ).
3. “ Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính ” Frederic S.Mishkin ( Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật – 2001 ).
4. Chuyên đề “ Thực trạng và giải pháp mở rộng dịch vụ tài khoản cá nhân ở nước ta hiện nay” số chuyên đề năm 2003 của Tạp chí Ngân hàng.
5. Tạp chí “ Thị trường tài chính tiền tệ ” số 16, 17 năm 2003; số 5, 12 năm 2004.
6. Một số thông tin từ website: www.vneconomy.com các ngày 07/05/2003, 25/06/2003, 05/02/2004, 11/02/2004, 24/06/2004, 29/04/2005.
7. Báo cáo thường niên 1997 đến 2004 của Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long.
8. Nghị định số 159/CP năm 2003 của Chính phủ về ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc.
9. Quyết định số 22/QĐ - NH1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày21/02/1994 về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt.
10. “ Những công cụ Ngân hàng thông dụng trong kinh tế thị trường ” của GS.TS. Lê Văn Tề.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0531.doc